VĂN MẪU LỚP 11
BÌNH GIẢNG BỐN CÂU KẾT TRONG TRÀNG GIANG CỦA HUY
CẬN
BÀI MẪU SỐ 1:
Lửa thiêng (1940) của Huy Cận một tập thơ sáng giá trong Thơ mới Việt Nam.
Phong cảnh trong Lửa thiêng, nhất trong các bài thơ Vạn tình, Tràng giang, Đẹp
xưa… đều đưm một nỗi buồn man mác: Tới ngã ba sông nước bốn bề Nửa chiều lạ
gáy trên đêĐó con sông Thâm bên núi Mồng thuộc Hương Sơn (Hà Tĩnh), quê
hương thân yêu của nhà thơ.
Trong Tràng giang, một nỗi buồn như dồn nén thấm sâu vào cảnh vật lan xa
muôn vàn con sóng, nhất bốn câu kết của bài thơ: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim
nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa, Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn
cũng nhớ nhà. Bao trùm cả bài thơ một không gian nghệ thuật bao la, thật đẹp cũng
thật buồn. sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp. thơ cồn nhỏ gió đìu hiu.
lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng… trước mắt nhà thơ một khung cảnh bao la, vắng vẻ:
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Khổ thơ cuối nói đến hoàng hôn trên tràng giang. Một cái
nhìn xa vời vợi.
Trước mắt nhà thơ những núi mây nhô lên, đùn lên lớp lớp màu trắng bạc. Cảnh
sắc thiên nhiên rất tráng lệ. Bầu trời chắc là xanh thẳm, hoặc tím thẫm trong khoảnh khắc
hoàng hôn nên màu mây cuối chân trời mới ánh lên màu bạc ấy. Giữa cái bao la mênh
mông bỗng xuất hiện một cánh chim nhỏ nhoi. Cánh chim đang chở nặng bóng chiều,
bay vội vã. Trên cái nền m sẫm, nhạt nhòa của bóng chiều hôm, hiện lên những núi bạc
mây cao một con chim lạc đàn nghiêng cánh nhỏ. Hai nét vẽ ấy tượng trưng cho
những cảnh chiều hôm trong tâm tưởng người lữ thứ: Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi…
(Bà Huyện Thanh Quan), Chim hôm thoi thót về rừng… (Nguyễn Du).
Nghệ thuật tương phản giữa cánh chim nghiêng nhỏ mờ xa dần với núi mây
bạc hùng vĩ, với trời đất bao la đà làm cho cảnh đất trời vàtràng giang thêm mênh mông
hơn, xa vắng hơn, và cũng buồn hơn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bốn câu kết mang ý vị cổ điển rất đậm đà. Ý vị ấy, màu sắc ấy được thể hiện ở hình
ảnh nhà thơ một mình đứng lẻ loi giữa trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái cùng của
không gian, thời gian đối với kiếp người hữu hạn. Một cánh chim, một núi mây bạc
cũng dẫn hồn ta đi về mọi nẻo, đến đi mọi phía chân trời: Lững trời sóng rợn lòng
sống thẳm Mặt đất mây đùn cửa ải xa (Đỗ Phủ). Ý vị cổ điển ấy lại được đậm bằng
một tứ thơ Đường: Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng n cũng nhớ
nhà. Hơn ời hai thế kỉ trước, trong bài Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu đã viết: Quê hương
khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. (Tản Đà dịch) Huy Cận
nhìn cao rồi nhìn xa theo tràng giang vời con nước. trên nhà thơ đã phủ định: Mênh
mông không một chuyến đò ngang – Không cầu gợi chút niềm thân mật… thì đây, ông
lại nói: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Nỗi buồn đơn nỗi nhớ quê tràn ngập tâm hồn khách tha hương trong buổi
hoàng hôn, bên dòng sông đang mải miết trôi về tận phương nào xa xôi. Thơ Huy Cận
hàm súc, cổ điển thấm đẫm màu sắc triết suy tưởng. Một hồn thơ vơ, sầu não ấy
luôn hướng tới sự giao hòa giữa con người tạo vật trên một không gian mênh mông,
vắng lặng. Cảnh sắc trong Tràng giang đẹp buồn. Tình quê, lòng quê trong bốn câu
kết thật vô ng sâu sắc, thắm thiết. Đó những vần thơ mãi măi vương vấn lòng người
trong mọi thời gian và không gian.
Thơ thất ngôn trong Tràng giang mang vẻ đẹp cổ kính, trang trọng. Mỗi khổ thơ nếu
đứng tách riêng ra sẽ trở thành một bài tứ tuyệt thể hiện sâu sắc cảm hứng tác giả đã
viết trong lời đề từ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Nỗi buồn bâng khuâng nỗi
nhớ ấy là của một tấm lòng đang hoài vọng quê hương. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng như
muôn ngàn sóng gợn buồn điệp điệp trong ng người đọc bấy lâu nay. Cảnh sắc hoàng
hôn lòng quê được nói đến trong đoạn thơ mãi mãi khơi gợi trong ta hình bóng q
hương yêu dấu. Tràng giang đã và đang mang theo bao vạn lí tình trong hồn ta.
BÀI MẪU SỐ 2:
A - MỞ BÀI
Nền thơ 1930 - 1945 đã đóng góp cho thi đàn văn học Việt Nam nhiều phong cách
độc đáo. Nếu ta theo Thế Lữ vào giấc tiên, vào cuộc đời bất tận theo cách sôi nổi
cuống quýt của Xuân Diệu “muốn cắn trải xuân hồng” thì ta cũng có thể đi theo Huy Cận
đi vào bể sầu nhân thế. Chẳng cần đi tới tập thơ Lửa thiêng chỉ riêng bài Tràng giang
cũng để m nên hồn thơ “ảo não” Huy Cận. đây khổ thơ sâu lắng thê thiết nhất
trong trường buồn Tràng giang của ông.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc... nhớ nhà
B - THÂN BÀI
Nếu như trong ba khổ thơ đầu chúng ta thấym trạng buồn của một “nỗi buồn” thế
hệ, một nỗi buồn không m ra lối thoát như kéo dài triền miên, như dàn trải theo
mênh mông vô địch của sông nước, thì tới khổ thơ cuối tâm trạng ấy được nâng lên chiều
cao, lan tỏa trong khói hoàng hôn của buổi chiều tàn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cảnh nhỏ bóng chiều sa
dòng thơ này ta thấy đôi mắt của nhà thơ dường như đang nhìn thấy rất xa nơi
cuối chân trời “Tràng giang”. Thật vậy không vui bằng lúc rạo rực bình minh, nhưng
cũng không buồn bằng cái buổi ngày tàn “bóng chiều sa”. Nhưng chính lúc ấy trong
thơ Huy Cận với “Tràng giang” lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây
hợp thành “núi mây” khổng lồ, được vạt nắng chiếu rọi thành “núi bạc”. Những đám mây
trắng xốp ấy cứ to dần lên như hình quả núi đằng sau hình quả núi ấy một mặt trời
chói lọi sắp tắt khiến cho núi mây trở thành núi bạc, một cảnh rực rỡ hiếm khi hoàng
hôn đang lụi dần, không gian dường như có một sự vận động lặng lẽ: mây cứ đùn lên mãi
chiếm lĩnh cả bầu trời cao, khiến cho ở đấy mây cũng đầy nỗi buồn rợn ngợp.
Tác giả đã dùng cái có của thiên nhiên để nói về cái không của tình người trong cái
bể trời bao la ấy. Câu thơ gợi nhớ nỗi buồn của Đỗ Phủ khi ông không chốn nương thân
da diết nhớ quê hương:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Ta thấy trong suốt hành trình Tràng giang hình ảnh thi nhân đơn trong từng cảnh
vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ trôi nổi mông lung lạc loài định”, một cành
cui khô bập bềnh trôi trên sóng (củi một cành khô lạc mấy dòng), một đám bèo xanh trôi
nổi trên sông (bèo dạt về đầu hàng nối hàng). Với khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi
buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một hình ảnh đơn lạc loài. Đó một
cánh chim, chim nhỏ nhoi đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cảnh nhcố bay về chân
trời xa vắng.
Cánh chim bay lượn tuy gợi lên một chút ấm cúng cho
cảnh vật nhưng mông lung quá, nỗi buồn đây càng thêm da diết trong nhớ thương.
không đóng khung cảnh sông nước trước mặt mở ra đến chân trời của miền quê xa.
Nếu như câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh
mây trời thì câu thơ tiếp theo lại trĩu xuống theo hình ảnh “bóng chiều sa”. lẽ bóng
chiều ấy đang chở nặng một m tình buồn nhớ của thi nhân nên mới chữ “sa” ch
không phải xa”. Phải chăng cái nỗi buồn đơn cùng nỗi buồn “sầu nhân thế” đó
càng gợi lên trong nỗi buồn của thi nhân. thể hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân
một mình đứng lẻ loi giữa vụ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái tận của
không gian đối lập với kiếp người.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Chuyển sang câu thơ thứ ba dột ngột xuất hiện hai tiếng “lòng quê” không phải
ánh mắt nhìn vào mình, nhìn theo đến hun hút vào “tràng giangchính cõi lòng
nhìn vào mình rồi nhìn xa về phía chân trời.
“Lòng quê”đó nỗi lòng nhớ quê hương. cũng nghĩa diễn m na là: của
người trí thức tây học này vốn đã bị thị thành hóa giờđây đang trở lại thành tấm lòng
của người cố hương giàu tình làng nghĩa m. Hai nghĩa trên sẽ định ra cho sgiải
thoát cô đơn. Phải thành cái mình thứ hai nữa mới trở về chính quê hương mình.
Hai tiếng “dợn dợn” gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước, sóng lòng diễn tả sự rợn
ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mông trong khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền
với tình quê cố hương:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Dòng thơ cuối cùng gợi ngay đến 2 câu thơ của Thôi Hiệu thời Đường cũng tấm
tình quê của Huy Cận. Với Huy Cận lòng quê đã nhớ quê sẵn. Đó nhớ nhà, nhớ những
người ruột thịt, những gốc chuối bờ tre... Vì thế không có một sự gợi ý ngoại cảnh thì tấm
lòng ấy vẫn đăm đắm hướng về quê nhà để hi vọng kiếm một chút niềm thân mật làng
quê sông nước, nơi chôn nhau cắt rốn...
C - KẾT BÀI
Mới đọc bài thơ Tràng giang ta cảm tưởng tất cả bài tthiên nhiên. rất
hoang vắng, độc thoại với chính nó. Thế nhưng bốn dòng thơ cuối bộc lộ chân thực
nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. hoàn cảnh đất nước bị đô hộ
càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu thì thi nhân càng “ảo não” bấy nhiêu.
Phải chăng ai đó đã nâng đỡ lòng người, khơi gợi những đẹp đẽ nhất, tiềm ẩn
nhất với đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng giang đã khơi dậy tâm hồn bạn
đọc một tình yêu thiêng liêng cao cả, mở đường cho tình yêu Tổ quốc, nh yêu giang
san.