Các loại hình tố tụng hình shướng áp dụng ở Việt Nam
Theo Nghị quyết số 31/2009/NQ-QH 12 ngày 17/6/2009 về Chương trình xây
dựng lut, pháp lệnh năm 2010 bổ sung chương trình xây dng luật, pháp
lnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011) thì Bộ luật Tố tụng hình s
(BLTTHS) sđược sửa đổi. Như vậy, hiện nay, việc sửa đổi, b sung BLTTHS
đã được đặt ra. Vì vậy, việc nghiên cu các loại hình tố tụng hình s(TTHS)
để hoàn thin pháp luật về TTHS là mt công việc cần thiết.
1. Các loại hình tố tụng hình s
Loại hình TTHS cách thức thể hiệnL, biểu hin cũng như cách thức tiến
hành các hoạt động tố tụng. Trong lịch sử và hiện tại đã đang tồn tại bốn loại
hình TTHS cơ bản sau:
1.1. Tố tụng tố cáo
Đây là loại hình ttụng được hình thành tthời k chiếm hữu lệ, nhưng
tồn tại và phát triển cực thịnh trong thời kỳ đầu của xã hội phong kiến. Nét đặc
trưng của tố tụng tố cáo là sự công nhận vị trí đặc biệt ca người buộc tội - thường
là người b tội phạm m hại hay còn gọi người bhại. Việc khởi tố hay không
khởi tố vụ án hình scũng như tiến hành hay chấm dứt c hoạt đng tố tụng phụ
thuộc vào ý ccủa người buộc tội nên gọi tư tố. Sau này, thực tiễn cho thấy
hành vi phm tội không chỉ m hại đến lợi ích nhân người bhại, mà n gây
thit hi cho cả xã hội và nhà vua. Mặt khác, để hạn chế tình trạng lợi dụng quyền
tcáo gây thiệt hại đến tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sn của người khác,
loi hình ttụng tcáo đòi hỏi khi tố cáo tội phạm với nhà chức trách, người tố
cáo phải tuyên thệ; nếu người b tố cáo không phm tội, người tố cáo thể bị xử
phạt. Điu y đã làm cho việc tố cáo của người b hại gim dần. Dần dần, trong
loi hình ttụng tcáo, chủ thể buộc tội cá nhân (người bhại) được chuyển
giao cho người đại din lợi ích ca nhà vua nên tư tố chuyển sang công tố.
Chthể thực hiện chức ng bào chữa chính người bị buộc tội. Hơn nữa,
mọi người đều thể tham gia nhm bảo vệ quyền và lợi ích của người b buộc tội
nên thi k y đã xuất hiện một số người được gọi là hiệp s điều kiện và kh
năng tnguyện đứng ra bảo vệ cho người bị buộc tội. Đó chính là nhng ngưi
thân, bn bè của người bị buộc tội. Bào chữa đây thực chất chỉ là việc thể hiện tài
năng, không vụ li và mang ý nghĩa cao cả nhm bảo vngười b buộc tội.
Chủ thể thực hiện chức năng xét xử không sự thống nhất, c thời điểm
khác nhau t cơ quan xét xử cũng được quy định khác nhau. Các Tổng đốc, Đại
công, Tri châu, Quan i phán, Quan toà, Quan thu thuế kiêm cnh t cũng đóng
vai trò người xét xử. Hệ thống chứng cđược quy định đơn giản, mang nặng
tính chất tín, n giáo, định kiến áp đặt. Sự nhận tội của người bị buộc tội
được coi là chứng cquan trọng nhất, là chứng cứ vua. Trường hợp không có s
nhận tội của người bbuộc tội thì thsử dụng các nguồn khác để chứng minh
như lời thề hoặc phán xét theo ý trời hoặc các thử thách khác. Như vy, với một hệ
thống chứng cứ được quy định, tòa án không cần biết sự việc đã xảy ra như thế nào
chquan m đến khng chịu đựng thử thách của người bbuộc tội hay họ
cần phải thề như thế nào. Đây loại hình ttụng cổ xưa nhất được hầu hết các
nước sử dụng trong những thi điểm khác nhau.
1.2. Tố tụng xét hỏi
Đây loại hình ttụng cũng xuất hiện vào thi kchiếm hữu lệ§, trong
các tòa án tôn giáo dn dần thâm nhập vào tòa án thường. Loại hình ttụng này
phát triển phổ biến vào thi k chế độ quân chủ, phát trin mạnh nhất thời k
trung cổ. Tố tụng xét hỏi ra đời tnhững nguyên nhân sau: thnhất, từ yêu cu
tăng cường quyền lực công; thứ hai, do tình hình ti phạm ng; thứ ba, do thái độ
thờ ơ, vô trách nhim của quyền lực công đối với các quyn của con ngưi.
Đặc điểm của tố tụng xét hỏi là hoạt động tố tụng được tiến hành bí mật và
bằng văn bản. Trong tố tụng xét hỏi, các quan thẩm quyền dùng nghiệp vụ
điều tra để xác định hành vi phạm tội của ngưi bbuộc tội, nên không thng
khai rộng rãi, nhất là đối với người bị buộc tội. Tuy nhiên, để sở làm chứng
cứ chứng minh thì cơ quan tiến hành tố tụng phải lập thành văn bản. Các hoạt động
ttụng không được phân biệt rõ ng được thể hiện ở những mức độ khác nhau.
Đặc biệt, các quan, tổ chức thực hiện chức năng tố tụng không được xác định c
thmà hu như tập trung vào toà án. Người bị hại không chức năng buộc tội mà
thay vào đó người thuộc các quan, tổ chức thực hin chức ng tố tụng.
Người bbuộc tội bị hạn chế quyền bào chữa, họ không phải là một chủ thể trong
quan htố tụng mà chlà khách thcủa quan hệ tố tụng. Thẩm phán không chỉ
thực hiện chức năng xét xử mà n thực hiện cả chức ng điều tra, chức năng
buộc tội và có c một phần của chức năng bào cha.
Nguyên tắc bản của loại hình ttụng này là suy đoán có tội đối với người
b buộc tội. Nguyên tắc bí mật và bng văn bản được áp dụng trong suốt quá trình
giải quyết vụ án, hạn chế đến mức tối đa việc khiếu ni các bản án. Nguyên tc s
dụng việc thừa nhận lỗi của người bị buộc tội là chứng cứ quyết định của vụ án.
Hthng chứng cđặc trưng của loại hình ttụng này tính hợp lệ ca
chứng cứ nhưng những quy định về chứng cứ li hết sức trừu tượng. Ví dụ, lời khai
của người đàn ông đáng tin cậy hơn lời khai của người đàn ; li khai của ngưi
giàu đáng tin cậy hơn lời khai của người nghèo; lời khai của giới học giả bao giờ
cũng giá trị cao n lời khai ca người n. Những tình tiết của vụ án chỉ được
coi chứng ckhi những tình tiết đó được hai người trở lên biết. Pháp luật cho
phép dùng nhục hình để thu thập chứng cứ. Trên thực tế, nhục hình được coi là
cách thu thập chứng cứ có hiệu quả, quan trọng nhất.
Ngày nay, loại hình txét hỏi kng còn duy trì tra tn để thu thập chứng
cứ. Một người làm chứng chỉ nghĩa là na chng cứ; vì chưa thực sự khách
quan, chính xác nên không bảo đảm được thực chất nội dung của vụ án và
người ta gọi đó là hthống chứng chình thức. Cùng với sự phát triển của lịch sử,
loi hình ttụng xét hỏi cũng có những thay đổi. Ví dụ: hủy bviệc tra tấn, nhục
hình, nhưng vẫn duy trì hthống các chứng cứ hình thức; áp dụng điều tra sơ bộ,
quy định c thể, chặt chẽ thủ tục điu tra và xét xử; thừa nhận một squyền
nhân, suy đoán tội b bác bỏ nhưng chưa áp dụng suy đoán tội; trách nhim
chứng minh tội thuộc về bên buộc tội. Mặc dù nhng thay đổi nhất định,
nhưng tố tụng xét hỏi vẫn không phân chia các chức năng tố tụng theo thực chất,
cho dù đã thành lập quan điều tra sơ bộ, thừa nhận tính độc lập của tòa án. áp
dụng nguyên tắc mật điu tra - xét xvà ttụng bằng n bản, thẩm phán vẫn
givai trò quan trọng, là trung m của hoạt động tố tụng.
Đặc trưng bản ca hoạt động tố tụng này là: đưa công tố của nhà vua
thành một chủ thể bắt buộc của bất cứ vụ án hình snào, điu này thừa nhận sự
quan m của Nnước đối với vụ án và tình hình ti phạm; quy định hai thẩm
phán trong suốt qtrình điu tra, truy tố và xét xử. Phiên tòa xét xtrong loại
hình y không phi là stranh lun giữa hai n đối trọng mà là tiếp tục điu tra.
Các n phải cung cấp tất ccác chứng cứ cho tòa án, sthật được đánh giá và kết
luận trong quá trình xét hi.
1.3 Tố tụng tranh tụng
Đây loại hình ttụng được hình thành phát triển từ loại hình ttụng tố
cáo phát triển mnh mẽ, rộng rãi các nước theo hệ thng án lệ, phổ biến nhất
là khoảng từ thế kỷ X đến thế k XIII. Theo loại hình ttụng này, sthật sẽ được
mở ra qua sự tranh luận giữa những người dữ liu chính xác. Tố tụng tranh tụng
dựa trên tưởng tố tụng là cuộc tranh tụng tại tòa án giữa một n người buộc
tội và một bên người bị buộc tội. Đã cuộc tranh tụng thì hai n đều được sử
dụng các quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau trong việc thu thập, kiểm tra và đánh
giá chứng cứ, phân tích đưa ra các kết luận đối với những sviệc c thể. Về