
Kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLTTHS 2003
về người bị tình nghi

1.1. Các quy định gián tiếp về quyền im lặng và nghĩa vụ khai báo của người bị
tình nghi
Người bào chữa có mặt khi lấy lời khai của bị can thể hiện sự tiến bộ của về
mặt lập pháp để chứng tỏ rằng, quyền bào chữa có từ khi một người bị tạm giữ -
Ảnh: S.T
Thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, Điều 10 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 (BLTTHS 2003) quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc
phải chứng minh là mình vô tội”. Đây là nguyên tắc rất quan trọng, thể hiện thái
độ của Nhà nước đối với quyền của công dân. Dù với tư cách là bị can, bị cáo
nhưng họ cũng cần phải được đối xử một cách công bằng, nhân đạo như một con
người, trong đó, nghĩa vụ chứng minh một người có tội hay không thuộc về Nhà
nước. Điều luật quy định về “quyền” chứng minh vô tội cho bị can, bị cáo mà
không là nghĩa vụ đã thể hiện sự tôn trọng quyền con người và đây là biểu hiện
của quyền im lặng tồn tại trong chuẩn mực pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) quốc
tế (BLTTHS 2003 chưa quy định chính thức quyền im lặng của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo). Tuy nhiên, nguyên tắc tại Điều 10 lại không đặt ra đối với người bị
tình nghi (thường được coi là người bị bắt và bị tạm giữ). Sau khi bắt và tạm giữ
người, cơ quan điều tra củng cố tài liệu, chứng cứ buộc tội bằng quyết định khởi
tố bị can và trình Viện kiểm sát phê chuẩn.
Điều 209 BLTTHS 2003 nêu rõ, nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng
xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự tiếp
tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu liên quan đến vụ án. Quy

phạm này gián tiếp quy định quyền im lặng của người bị buộc tội tại phiên tòa, và
nó có logic với quy định không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm
chứng cứ duy nhất để kết tội (Điều 72) và việc xem xét, giải thích mọi vấn đề phải
có lợi cho người bị buộc tội (nguyên tắc suy đoán vô tội).
So với luật cũ, BLTTHS 2003 bổ sung “Người bị bắt” tại Điều 71 là,
“Người bị bắt, bị tạm giữ trình bày về những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi
thực hiện tội phạm”, với quy định này, thuật ngữ “bị nghi thực hiện tội phạm”
được xác lập. Đây là một dấu hiệu mới, gián tiếp quy định về nghĩa vụ khai báo
hành vi phạm pháp của người bị tình nghi.
Như vậy, nguyên tắc xác định sự thật vụ án tại Điều 10 và tinh thần Điều
209 nêu trên chỉ gián tiếp quy định quyền im lặng của bị can, bị cáo mà không đặt
ra đối với người bị bắt, bị tạm giữ (có thể được coi là người bị tình nghi); cũng
như chưa có quy định chính thức nào về quyền im lặng của người bị buộc tội
trong BLTTHS 2003. Có thể coi đây là một hạn chế lớn của pháp luật về bảo đảm
quyền con người. Cần phải đề cập thêm rằng, trong thực tiễn, một người bị tình
nghi thực hiện tội phạm nào đó bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam nếu họ khai báo thành
khẩn hành vi phạm tội của mình thì được coi là tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên nếu
họ im lặng từ đầu, không khai báo vì họ cho rằng họ không phạm tội, bị oan hoặc
kể cả họ vì muốn che giấu một đồng phạm nào đó, sợ bị liên lụy đến người thân
thích, hoặc chính họ cho rằng cơ quan thực thi pháp luật sẽ không biết và họ hy
vọng sẽ không bị xử lý hoặc chỉ bị xử lý nhẹ... thì bị cơ quan bảo vệ pháp luật cáo
buộc họ ngoan cố, chống đối pháp luật, đề nghị xử lý với chế tài nghiêm khắc hơn
các trường hợp thông thường khác, trong khi pháp luật TTHS, pháp luật hình sự
không quy định hành vi “ngoan cố” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Và
cũng từ thái độ không khai báo mà nhiều vụ án bị bế tắc, cũng là một trong nhiều

nguyên nhân của hành vi dùng nhục hình xâm phạm nghiêm trọng đến quyền tự
do, thân thể, sức khỏe của người bị tình nghi.
Chúng tôi cho rằng, tình tiết được coi là “ngoan cố” không được coi là tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là sự tiến bộ, phù hợp với các quy định khác về
quyền của con người trong hoạt động tư pháp hình sự. Chúng tôi không đồng tình
với một số ý kiến cho rằng, cần quy định thái độ “ngoan cố” như đã nêu là tình tiết
tăng nặng đối với người bị buộc tội. Bởi nếu người bị tình nghi không khai báo thì
pháp luật TTHS đã có những cơ sở pháp lý sắc bén, bằng nhiều quy phạm pháp
luật tổng hợp Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát áp dụng, vận dụng để thu thập,
đánh giá chứng cứ vẫn tiến hành buộc tội một cách xác đáng.
1.2. Các hoạt động tố tụng liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người bị
tình nghi trong BLTTHS 2003
1.2.1. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp (khoản 1 Điều 81).
“a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm
rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt
trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn
chặn ngay việc người đó trốn;
c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị
nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc
tiêu hủy chứng cứ”.

- So với các trường hợp bắt quả tang, tạm giam và truy nã thì bắt khẩn cấp
thể hiện rõ hơn những “dấu hiệu nghi ngờ” tội phạm hay nói cách khác, chứng cứ
để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội còn mờ nhạt. Việc nghi ngờ
này vẫn mang dấu ấn chủ quan của Cơ quan công an (ví dụ như xuất phát từ giả
thiết điều tra và phán đoán, hoạt động khoanh vùng đối tượng). Do đó, bắt khẩn
cấp dễ xảy ra oan sai. Mặt khác, điểm a, khoản 1 Điều 81 còn nêu: “Khi có căn cứ
để cho rằng...” đó là căn cứ gì? Rõ ràng quy phạm mập mờ này làm cho việc áp
dụng pháp luật không đảm bảo tính khả thi.
- Với dấu hiệu “xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn” quy định
tại điểm b và c, khoản 1 Điều 81 là khe hở cho tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp,
xâm hại đến các quyền của người bị bắt, bị tạm giữ. Căn cứ nào để xác định việc
bỏ trốn? Thực tế trường hợp nào Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cũng có thể
cho là ngăn chặn người đó bỏ trốn làm căn cứ để bắt khẩn cấp (cũng như bắt tạm
giam). Rất nhiều tội phạm được thực hiện rõ về hậu quả, chứng cứ, bị hại, nơi cư
trú tại địa phương nhưng bị bắt khẩn cấp mà đáng lý họ được tại ngoại để điều tra
hoặc chỉ là bắt bình thường. Trong khi hậu quả của việc lạm dụng bắt khẩn cấp là
rất lớn, vì bất cứ lúc nào người có hành vi có dấu hiệu phạm tội cũng có thể bị bắt,
họ không kịp ăn mặc, chuẩn bị tinh thần v.v..; khoản 3 Điều 81 quy định “không
được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp quy định tại Điều 81...”.
Về hậu quả tố tụng thì việc bắt khẩn cấp buộc Viện kiểm sát phải gấp rút xem xét
phê chuẩn trong thời hạn 12 giờ, việc này khó mà đúng thời hạn tố tụng và không
hoàn toàn chắc chắn là có căn cứ, hợp pháp.
- Cần phải lưu ý thêm đến việc áp dụng thời hạn tạm giữ. Đó là hết 3 ngày,
Cơ quan điều tra không gia hạn tạm giữ lần 1 và hết 6 ngày Cơ quan điều tra
không gia hạn tạm giữ lần thứ 2 hoặc hết thời hạn 9 ngày của thời hạn gia hạn tạm
giữ lần thứ 2, Cơ quan điều tra không ra lệnh tạm giam để đề nghị Viện kiểm sát