Chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự trước
yêu cầu cải cách tư pháp
Với chức năng xét xử thì Tòa án là đại diện cho quyền lực pháp, trên
sở này, bài viết nghiên cu chức năng xét xử của Tòa án trong ttụng hình
s nhằm hoàn thin chức năng này trước yêu cầu cải cách tư pháp và xây
dựng Nhà nước pháp quyền.
Giải quyết vụ án công khai, n chủ, không để lọt tội phạm, không m oan người
ti, đảm bảo công lý, công bằng là trách nhiệm không chỉ thuộc về c quan
tiến hành ttụng, người tiến hành ttụng mà còn quyn của người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác, đồng thời cũng đòi hi của xã hội ta trong
điều kiện xây dựng Nc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Muốn vậy,
cần phải tổ chức phân định rạch ròi nhiệm vụ của các quan tiến hành ttụng
dựa trên những tiêu chí vchức ng của tố tụng hình strong Nhà ớc pháp
quyền, đó là: Chức năng buộc tội, chức năng gỡ ti và chức năng xét xử.
nước ta, bên cnh những mặt được thì công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều
hạn chế”, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, chế hoạt động của các cơ
quan tư pháp còn bất hợp lý”, không rõ ràng nh hưởng đến hiệu quả hoạt động
của c quan tiến hành ttụng, tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam, giữ,
truy tố, xét xử còn xy ra, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vẫn còn bm
phm. Vì vậy, Nghị quyết 49/NQ ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải
cách pháp đến m 2020 (viết tắt là Nghquyết số 49/NQ) đã chra c định
chc năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hn thiện tổ chức, bộ máy các quan tư
pháp. Trng m là xây dựng, hoàn thin tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân” một trong những nhiệm vcủa chiến lược cải cách pp. i viết này
tập trung, làm chức năng của Tòa án trong ttụng hình sgóp phần thực hiện
Nghị quyết 49/NQ ca Bộ chính trị đã nêu.
1. S ra đời của Tòa án gn liền với hoạt động xét xử và xét x tr
thành đặc điểm quan trọng nhất khi nói đến tòa án.
Ngay tkhi Nnước xuất hiện đã t xvà Tòa án. Theo GS.TS
Nguyễn Đăng Dung thì Tư pháp tức là pháp đình, là Tòa án, y theo pháp luật mà
xét định c việc trong phạm vi pháp luật do vậy, hệ thống cơ quan pháp có
chức năng xét xử các hành vi vi phạm các qui định của pháp luật nhà nước” [1].
Tuy nhiên, ngay tđầu không phải Tòa án đã một hệ thống độc lập như ngày
nay người ta thường đồng nhất Tòa án với c quan hành pháp t trung
ương đến địa phương. Trong nhà nước quân chủ tuyệt đối Nhà vua ban hành pháp
luật, thực hiện pháp luật đồng thời lại là người xét xử các hành vi vi phạm pháp
luật nên không có hthống tòa án chuyên thực hiện chức ng xét xử chức
năng này được giao cho h thống quan hành pháp từ trung ương đến địa
phương. Xã hội phát triển, nhằm hn chế quyn lực hạn của nhà vua, các nhà
tưởng tư sản đã y dựng hình nhà nước phân quyền, mà đó các quyền lực
nhà nước được giao cho các quan chuyên trách thực hiện. John Locke và
Montesquieu là nhng người đại diện cho học thuyết này các Ông đã pn chia
ho ạt động nhà nước thành ba nhánh quyền lực: quyền lập pháp, hành pháp tư
pháp. Trên cơ sở những học thuyết tiến bnày, nhà nước tư sản ra đời đã đấu tranh
và khng định cho sự độc lập của quyền tư pháp với chức năng của các quan lập
pháp hành pháp. Sđộc lập pháp mt trong những đảm bảo quan trọng
trong việc bảo đảm quyn bình đẳng, quyền tự nhiên của con người, nhất là trong
việc chống lại tình trng tham nhũng, lợi dụng quyền lực của những người cầm
quyền do đam mê quyền lực và v lợi họ đã xâm phm đến các quyền của con
người trong xã hi. Vi sự ra đời của nhà nước sản thì quyền tài phán của Tòa
án một nhánh quyền lực nhà nước, là hot động của nhà nước xét xử các tranh
chấp trong xã hi giữa các nhân với nhau và phán quyết hành vi của công n
vi phạm pháp luật nhà nước hay không. Theo sự phát triển của xu thế dân chủ,
đối tượng hoạt động xét xcủa Tòa án cũng ngày ng được mở rộng. Lúc mới ra
đời hoạt đng xét xử chỉ được áp dụng cho các “thần dân” có hành vi chống li nhà
nước, các vi phạm giữa các cá nhân được giải quyết chủ yếu bằng con đường tự
xử”. Càng vsau, các quyền tự do n sự, chính trcủa ng n dần dần được
pháp lut thừa nhận, svi phạm các quyn đó được nhìn nhận như là xâm phm tới
li ích, trật tự chung do đó chúng là đối tượng của hoạt động xét xử ca Tòa án.
Ngoài các vn đề hình sự, dân sự, hoạt động xét xử còn mrộng đến c vấn đề
thương mi, đất đai, lao động, đặc bit ngày nay Tòa án xnhững hành vi vi phm
pháp luật của các quan chức hành pháp trong việc ban hành các quyết định của
mình. Ngoài việc xử dân, xử quan, Tòa án đã hình thành hệ thống xét xử cả hành vi
của c quan lập pháp, hành pháp nếu nh vi đó vi phạm pháp luật và hiến
pháp với sự ra đời của Tòa nh chính và Tòa án hiến pháp. Với chức năng t xử
thì Tòa án đại diện cho quyền lực tư pháp - một trong ba nhánh quyền lực nhà
nước được t chức theo nguyên tắc phân quyền, kng những thẩm quyền xét
x những tranh chấp, vi phm thông thường mà n thm quyền pn xử cả
những vi phạm hiến pháp. Trong nhà nước pháp quyền, Tòa án vai trò quan
trọng, i biểu hiện tập trung của quyền lực tư pháp đng thời nơi thể hiện
nền ng lý, sđối xử bình đẳng, công bằng trong tất cả các mối quan hệ và cũng
là nơi thhin chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp. Trong thế gii
hiên đại, các quốc gia đều khẳng định xét xử là mt chức năng của nhà nước, pháp
luật không để cho ai tự xử, ngoại trừ những những chế định phi nhà nước được
pháp luật cho phép như hòa giải hoặc trọng tài. , ngay ctrong những trường
hợp này c phán quyết của trọng tài, thòa gii, nếu các đương skhông đồng ý
vẫn có thể đưa ra Tòa án gii quyết.
Để đảm bảo cho việc xét xử được bình đẳng, n chủ, khách quan thì
nguyên tắc Thm phán độc lp và chtuân theo pháp luật là tin đề nền tảng của
pháp trong nhà nước pháp quyền. Sự độc lập xét xử xuất phát bản chất của hoạt
động tư pháp mà Tòa án thc hiện Đã nhân danh công dựa vào công thì
thì Tòa án phi xét xử như là mt người đứng giữa, trung lập kng phụ thuộc vào
bên nào. Tuy nhiên, xét xtính đặc thù, đó hoạt động duy của thẩm phán
trong việc áp dụng pháp luật bnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như: sức ép
của các thế lực nhà nước, dư luận xã hội nhất là của báo chí, sức ép của các đảng
phái, n giáo, s ng thẳng, hung hãn của các đương sự… Do vậy, để bảo vệ
công thm phán phải vượt lên tất cả các sức ép ngoại cảnh để những phán
quyết khách quan, nên hoạt động xét xử tthân đã phát sinh nhu cu phi độc
lập. Chỉ t xử độc lập Tòa án mới tồn tại đúng với bản chất của mình cơ quan
bảo vệ ng lý” [2]. Theo J.Clfford Wallace - Thẩm phán Tòa án ti cao Hoa K
thì: Độc lập pháp đảm bảo rằng các quan chức cũng phải tuân theo pháp luật;
với việc xét xđộc lập không có ai phía trên hay bên dưới luật [3]. độc lập
tư pháp cần được nhận thức rộng rãi như việc bảo đảm nhân quyền “Mọi người đều
có quyn tham gia phiên tòa một cách công khai và được các thm pháp xét xử một
cách độc lập. độc lập pháp cần được nhận thức rộng rãi như việc bảo đảm
nhân quyn Mọi người đều quyn tham gia phiên toà một cách công khai và
được các Thẩm phán xét xử một cách độc lập và vô tư, khách quan” [3].
Như vậy, sự thừa nhận về mặt pháp lý đối với độc lp pháp phải bao gồm
ba yếu tố: 1/ Tòa án phải được trao thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề mang tính
chất pháp; 2/ Tòa án phải cơ quan duy nhất quyền quyết định vụ việc đang
yêu cu giải quyết thuộc thẩm quyền t xử của mình hay kng; 3/ Quyết định
cuối cùng của Tòa án không phải chịu bất kỳ sự xét duyệt của bất k cơ quan
quyền lực nào [4]. Thc hin nguyên tắc độc lập xét xử, các quốc gia tập trung vào