CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁM CẬN
LÂM SÀNG ỐNG TIÊU HOÁ – Phần 2
2. CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM DÒ NGUYÊN NHÂN.
Các phương pháp giải phẫu bệnh học nói trên cũng là một phương pháp thăm dò
nguyên nhân vì có th phát hiện được tổn thương lành tình hay ác tính (ung thư).
Trong phần này, chúng tôi muốn nói đến các xét nghiệm vi khuẩn, sinh vật,
những tác nhân thông thường gây bệnh tiêu hoá, nhất là bệnh đường ruột nước
ta.
Chủ yếu việc xét nghiệm vi khuẩn và ký sinh vật phân.
2.1. Xét nghim vi khuẩn.
Cần phải cấy phân mới có giá trị chính xác.
Để nắm được chắc n tình trạng nhiểm khuẩn đoạn nào của ruột, gần đây
người ta phát minh ra những ống thông đặc biệt để có thể lấy các chất từng
đoạn ruột đem ra ngoài không bpha lẫn với các chất các đoạn ruột khác
hoặc ở tá tràng hay dạ dày ống thông phi đi qua.
2.2. Xét nghiệm ký sinh vật.
Để thật chính xác, cần phải:
- Sử dụng phương pháp “ phong nhã”.
- Đếm trứng sinh vật: để đánh gmức độ nặng nhẹ của snhiễm sinh vật
và theo dõi được chính xác tác dụng của điều trị tẩy ký sinh vật.
- Riêng đối với Amip, cần phải lấy phân soi tươi ngay sau khi người bệnh ỉa ra
hoặc quết chất nhầy ngay tại ổ loét nhìn thấy khi soi trực tràng và đem soi ngay.
3. CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM DÒ CHỨC NĂNG.
Toàn b ống tiêu hoá cùng với các tuyến phthuộc tuyến nước bọt (răng, tuỵ,
gan…) đều trách nhiệm cộng đồng trong việc tiêu hoá các thức ăn để đi đến
kết quả cuối cùng là biến các thức ăn đó thành:
- Các chất có thể hấp thụ được để ruột đưa vào cơ thể.
- Các chất cặn bã không tiêu hoá hp thụ được sđược thải ra ngoài dưới
hình thức phân.
Cho nên để thăm dò chức năng của ống tiêu hoá nói chung việc nhn xét phân
về đại thể cũng như về hoá học có th cung cp những yếu tố để đánh giá chức
năng đó một cách đại cương gợi ý chđiểm rối loạn đó thuộc phần nào ống
tiêu hoá.
Nhưng muốn đánh giá chính xác rối loạn đó thuộc phần nào của ống tiêu hoá,
cần tiến hành những phương pháp thăm dò chức năng đặc biệt cho từng phần.
Cho nên trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày:
- Nhận xét phân.
- Thăm dò chức năng dạ dày.
- Thăm dò chức năng ruột.
Chúng tôi không đề cập đến thăm dò chức năng thực quản thực quản chlà
một ống nhim v chính là đưa thức ăn từ thực quản xuống dạ dày ch
không có chức năng tiêu hoá. Thăm dò chức năng các tuyến phthuộc gan, tuỵ) sẽ
trình bày trong bài sau.
3.1. Nhận xét phân.
Chúng tôi không nói đến nhân xét thô đại vì đã trình bày trên trong bài khám
lâm sàng bộ máy tiêu hoá” mà chỉ nói đến các xét nghiệm hoá học.
- Xét nghiệm đính tính: Phát hiện sự có mặt của một số thành phần phân như:
· Amidon, bằng lugol (bình thường không có).
· Mỡ, bằng Sudan III (bình thường chỉ có rất ít).
· Thờ ơ, soi kính hiển vi (bình thường chỉ có rất ít).
Scó mặt của các thành phần đó phân đều chứng tỏ tình trạng bệnh của b
máy tiêu hoá, nhất là của tuỵ tạng.
- Xét nghiệm định lượng. Nhưng muốn chính xác hơn người ta m blăng tiêu
hoá’ nghĩa cho người bệnh ăn một số lượng nhất định vprotit hoặc lipit, sau
đó định lượng các chất ấy đã thải ra phân; bình thường slượng lipit được thải
ra không quá 5% slượng ăn vào.
Gần đây, các phương pháp hiện đại đã áp dng đồng vị phóng x trong bilăng:
dùng triolein axit oleic đánh dấu với I 123, hoặc abumin và polyvinyl-
pyrolidon đánh dấu với I 123 cho người bệnh ăn rối định lượng số phóng xạ
được thải ra ở phân.
3.2. Thăm dò chức năng dạ dày.
Chức năng của dạ dày trong sinh học tiêu hoá chyếu nh ở:
· Chất pepsin.
· Độ toan của dịch dạ dày.
· Sự co bóp nhào trộn làm nhuyển thức ăn trước khi đưa xuống ruột.
- Đánh giá khả năng co bóp của dạ dày: bằng một máy ghi trên biểu đồ cường độ
co bóp của dạ dày.
Phương pháp này hiện nay ta được sdụng trong m sàng, ngay ccác chuyên
khoa tiêu hoá.
- Đánh giá khả năng tiết pepsin: pepsin do tế bào chính của niêm mạc dạ dày tết
ra dưới dạng không hoạt động (pepsinnogen) được chuyển thành pepsin dưới tác
dụng của C1H, Pepsin thấm một ít (1%) vào máu thải tiết ra nước tiểu dưới
dạng uropepsin, cho nên người ta có thể đánh giá khả năng tiết pepsin bằng:
· Định lượng pepsin ở dịch vị.
· Định lượng pepsin ở máu: bình thường 150-450 đơn vị.
· Định lượng urêpepsin nước tiểu.
Các phương pháp này ít được áp dụng trong lâm sàng, thường thì áp dụng định
lượng urepepsin nước tiểu. Để phân biệt nguyên nhân chảy máu tiêu hoá do
loét ddày tràng hay gan: nếu do loét dạ dày tràng, urepepsin stăng
nhiều trái lại do xơ gan.