Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình s
Theo quy định tại Điều 45 B luật Hình s năm 1999 (đã được sửa đổi,
bsung mt sđiều năm 2009- BLHS), thì các tình tiết giảm nhtrách nhiệm
hình s(TNHS) là một trong những n cứ đTòa án quyết định hình phạt.
Tuy nhiên, BLHS lại không đưa ra khái niệm mà chliệt kê các tình tiết giảm
nhTNHS trong Khoản 1 quy định Tòa án có thcoi các tình tiết khác là
tình tiết giảm nhtrong Khoản 2 Điều 46. Điều đó dẫn đến việc áp dụng pháp
luật có những bất cập nht định.
1. Khái niệm và đặc điểm ca tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình s
BLHS không đưa ra khái nim tình tiết giảm nhẹ TNHS. Trong khoa học
pháp lý nước ta, quan nim về vấn đề này cũng chưa thng nhất. Nhìn chung, đa s
ý kiến cho rằng, tình tiết giảm nhẹ TNHS là tình tiết được quy định trong BLHS
với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết được ghi nhận trong n
bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hay do Tòa án txem xét, cân nhắc và ghi rõ
trong bn án, đồng thời là mt trong những n cđể Tòa án cá thhóa TNHS và
hình phạt đối với người phm tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong phm vi một
khung hình phạt1. Quan nim trên chưa cho thấy hết được bản cht, nội dung của
tình tiết gim nhẹ TNHS mà mi chỉ nêu đặc trưng pháp lý của chúng.
Chúng tôi cho rằng, về bản chất, tình tiết giảm nhẹ TNHS là những biểu hiện
vcác điều kiện, hoàn cnh, tình huống ảnh ởng đến việc thực hiện tội phạm,
qua đó phản ánh mức độ nguy hiểm ít hơn của hành vi phm tội và là cơ sở để người
phạm tội có thchịu TNHS mức thấp hơn. Tình tiết gim nhẹ TNHS được quy
định trong BLHS, trong các văn bản ớng dẫn áp dụng pháp luật hoặc do Toà án
cân nhắc, xem xét quyết định trong quá trình xét xử các vụ án cụ thể, phản ảnh chính
sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.
Tình tiết gim nhẹ TNHS có đặc điểm:
Thnhất, tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định cthtrong BLHS (bao
gm 18 tình tiết được quy định tại Khoản 1 Điều 46). Ngoài ra, n được ghi
nhận trong Nghị quyết s01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 ca Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân ti cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về Phần chung
của BLHS năm 1999). Thậm chí, trong quá trình xét xử, Tòa án thtự mình
xem xét, cân nhắc coi những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS và ghi
do trong bn án. Đặc đim này hai vn đề cần c ý: trước hết, nhng tình tiết
gim nhẹ TNHS nào được BLHS quy định với tính cách yếu tđịnh tội hoặc là
yếu tố định khung hình phạt đối với một tội phm được nêu ti phần c tội phạm
cththì trong qtrình xét xử, Tòa án không được xem xét như tình tiết
gim nhẹ chung được quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS. Nghĩa là một tình tiết
gim nhẹ cho dù biu hiện dưới hình thức nào thì cũng không thể được áp dụng hai
ln cho một trường hợp phm tội c thể. Tiếp đó, việc cho phép Toà án thcoi
các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS trong từng vụ án đối với từng b cáo
cthnhm mở rộng tính linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động xét xử ca Toà án,
bảo đảm cho hoạt động xét xử được ng bằng, chính xác, khách quan. giúp
Tòa án tính toán được sự tương xứng giữa mức độ nguy him ca hành vi phm tội
với chế tài hình sự. Quy định phải ghi rõ trong bn án” là nhằm tránh sự tuỳ tin
trong hoạt động xét xử. Pháp luật dù hoàn thin đến đâu cũng không th tiên liu
hết mọi tình huống ca cuộc sống nên việc cho phép Toà án xem xét các tình tiết
khác tình tiết giảm nhẹ trong hoạt động xét x là hợp và cn thiết. Tuy nhiên,
vấn đề này cũng có tính hai mặt ca nó. Trên thực tiễn, không ít trường hợp Toà án
đưa ra những tình tiết giảm nhẹ TNHS không thật sthuyết phục, dụ: theo Báo
cáo tổng kết của Tòa án nhân n tối cao năm 2004, đã trường hợp Toà án cho
hưởng tình tiết giảm nhẹ trong một vụ án hiếp m vì do sau khi thực hiện tội
phm, b o đã xin li nạn nhân và hứa ới nạn nhân làm vợ. Vì vậy, u hi đặt
ra là m thế nào để hạn chế sự tuỳ tiện của hội đồng xét xử. Điu đó chỉ thtrả
li bằng đạo đức, ơng m, năng lực, trình độ chuyên môn ca những người làm
công tác xét x; vai trò của Toà án cấp trên; sgm sát của quan dân cử và của
các thiết chế xã hội khác…
Thhai, tình tiết gim nhTNHS căn cứ để Tòa án cân nhắc, xem t
việc áp dụng hình phạt theo hướng nhẹ hơn đối với người phm tội, phn ánh
các diễn biến bên ngoài ca mặt khách quan cũng như diễn biến m bên trong
của mặt chủ quan trong cấu thành ti phạm hoặc phn ánh yếu tố nhân thân ngưi
phm tội, góp phn mô tả tội phm, giúp chúng ta hình dung được mức độ nguy
him ít hơn của hành vi phm tội nếu đặt trong sự so sánh với trường hợp phạm
tội tương tự mà không có tình tiết giảm nh TNHS.
Thứ ba, tình tiết giảm nh TNHS ảnh hưởng như thế nào đến việc quyết định
hình phạt là do Toà án cân nhắc, xem t. Sự hiện diện của tình tiết gim nhẹ
TNHS căn cứ để Tòa án đánh giá, xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội, coi đó là một trong những n cđể quyết định hình phạt. Pháp
luật không quy định cthể shiện diện ca tình tiết giảm nhẹ sẽ nh hưởng như
thế o đến việc quyết định hình pht, shiện hữu ca tình tiết nào tđược giảm
TNHS đến đâu, điều đó phụ thuộc vào sxem xét và cân nhắc của Tòa án.
Th, các tình tiết giảm nhẹ TNHS rất phong phú, không xác định về mặt
slượng. Chúng ta th xác định được các tình tiết được quy định trong Khoản 1
Điều 46 BLHS và c tình tiết được quy định tại đim c, mục 5 Nghị quyết số
01/2000/NQ- HĐTP. Ngoài các tình tiết nói trên t trong quá trình xét xtừng vụ
án c thể, Tòa án còn có th coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ.
Thnăm, ảnh hưởng của từng tình tiết đến mức độ nguy hiểm ca hành vi
phm tội không giống nhau. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS khá phong pvmặt
slượng và ảnh ng của chúng đối vi tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phm tội khác nhau do đó, mức độ nh hưởng của chúng đến việc quyết định
hình phạt là không ging nhau. Chúng i đồng tình vi quan điểm cho rằng, các
tình tiết giảm nhẹ TNHS ý nghĩa pháp lý, xã hội, chính trị không đồng đều
nhau. tình tiết thì nh hưởng rất lớn đến việc quyết định hình phạt đối với
mọi trưng hợp phm tội, nhưng tình tiết thì nh hưởng ít n. Có tình tiết chỉ
ý nghĩa đáng kể với một stội phạm, còn đối với những tội phm khác thì ch
có ý nghĩa rất hn chế2. Mặt khác, Điều 47 BLHS quy định: “Khiít nhất hai tình
tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án thquyết
định một hình pht dưới mức thấp nhất của khung hình phạt điều luật đã quy
định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường
hợp điều luật chỉ mt khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình
phạt nhẹ nhất ca điều luật, thì Tòa án thquyết định một hình phạt dưới mức
thấp nhất ca khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Theo đó, khả năng “th quyết định một hình phạt dưới mc thấp nhất của khung
hình phạt mà điều luật đã quy định” chỉ có thể thực hiện “khi ít nhất hai tình tiết
gim nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 46”. Logic y cho phép suy đoán rằng, theo
quan đim ca nhà làm luật, các tình tiết được quy định tại Khoản 1 Điều 46 có vị
trí cao hơn, ảnh hưởng nhiều hơn đến mức độ ít nguy him của hành vi phm tội so
với các tình tiết được hướng dẫn trong đim c mục 5 Nghị quyết s01/2000/NQ-
HĐTP và các tình tiết khác mà Tòa án xem xét, cân nhắc quyết định cho b cáo
được hưởng trong quá trình xét x.
2. Áp dụng pháp lut về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình s
Nghiên cu luận và thực tin về tình tiết giảm nhẹ TNHS, chúng i thấy
một svn đề cần được làm rõ thêm:
Th nhất, một trong các tình tiết giảm nhẹ được ớng dẫn tại điểm c mục
5 Ngh quyết s01/2000/NQ- TP là trường hợp vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh,
chị, em ruột bo người có ng với nước hoặc có thành tích xut sắc được