CHƯƠNG 3.1: CÁC VẤN ĐỀ CỦA NGÀNH – KINH DOANH NÔNG NGHIỆP VÀ AN TOÀN THỰC PHẨM
3.1 KINH DOANH NÔNG NGHIỆP VÀ AN TOÀN THỰC PHẨM
3.1.1 Tổng quan Do tác động của khí hậu nhiệt đới và các điều kiện tự nhiên, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào nông nghiệp và thủy sản. Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực bao gồm: lúa gạo, cà phê, cao su, chè, tiêu, đậu nành, hạt điều, mía đường, lạc (đậu phộng), các loại trái cây như chuối, thanh long, xoài, gia cầm, thủy hải sản. Tuy nhiên, những sản phẩm này chủ yếu xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô, không phải hàng thành phẩm, và thường không đăng ký thương hiệu nông sản.1 Ngành nông nghiệp có tác động lớn đến nền kinh tế, mặc dù xuất khẩu một số mặt hàng nông sản gặp khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu.2 Nông nghiệp3 đóng góp lớn cho nền kinh tế, năm 2012 tỷ trọng đóng góp là 21,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP)4, 20,8% kim ngạch xuất khẩu và khoảng 47,5% dân số làm việc trong ngành nông nghiệp.5 Tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp trong GDP của Việt Nam giảm từ 46,3% năm 19886 xuống còn 22% năm 2012.7 Tỷ lệ dân số làm việc trong ngành nông nghiệp giảm từ 67% năm 19978 xuống còn 47,5% năm 2011.9 Tuy nhiên, ngành này đang phải đối mặt với một số thách thức. Nông nghiệp đang và sẽ bị ảnh hưởng bởi tình hình khí tượng và mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu.10 Rủi ro đang hiện hữu, đồng thời, nguồn tài nguyên thiên nhiên đang cạn kiệt nhanh chóng, nguồn nước bị sử dụng quá mức, và lượng phát thải khí nhà kính quá cao. Sản lượng có thể không đáp ứng được nhu cầu thực phẩm (trong nước) cũng như không đạt được mục tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu do Chính phủ đề ra. Hiện nay, thường xảy ra tình trạng hàng xuất khẩu bị từ chối do sử dụng loại thuốc trừ sâu không được phép, dư lượng thuốc trừ sâu vượt quá mức cho phép, chất gây ô nhiễm quá giới hạn được phép và do yếu kém trong công tác giám sát sử dụng thuốc kháng sinh.11 Cạnh tranh từ các nước khác trong khu vực châu Á cũng là một thách thức. Một vấn đề khác nữa là sự phụ thuộc nặng nề vào quy mô canh tác nhỏ lẻ và thiếu kiến thức về tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt. Điều này khiến năng suất lao động thấp và cản trở sự phát triển và tăng trưởng của ngành. Chúng tôi cho rằng cần tăng cường các biện pháp giám sát chặt chẽ và hiệu quả để đảm bảo việc sử dụng đúng quy định các hóa chất trong nông nghiệp. Hơn nữa, cần sáng tạo để đổi mới ngành nông nghiệp và cải thiện toàn bộ chuỗi giá trị. Ngành khoa học cây trồng có thể thúc đẩy sự sang tạo trong một số lĩnh vực. Tuy nhiên, sự sáng tạo bị hạn chế bởi những yếu kém trong công tác bảo hộ Quyền Sở hữu Trí tuệ, làm tổn hại trực tiếp và gián tiếp tới cả nông dân và người tiêu dùng.12 Mặc dù đóng góp vào GDP giảm trong những năm qua, kinh doanh nông nghiệp và thủy sản vẫn là một ngành rất quan trọng. Điều này được thể hiện qua kết luận của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) rằng nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thế giới ngày càng tăng trong những năm tới.13 Chúng tôi cho rằng, các nhận định của FAO trong báo cáo “Nông nghiệp Thế giới: hướng tới 2015/2030, Dự báo của FAO” là rất quan trọng và vẫn còn giá trị, dù dự báo được đưa ra vào năm
US/Default.aspx
12 Xem: http://oryza.com/content/thailand-vietnam-rice-farmers-use-harmful-chemicals-claims-croplife-official 13 Xem: www.fao.org/fileadmin/user_upload/esag/docs/y4252e.pdf, trang 14. Năm 2004, FAO cho biết cầu (3,6%) sẽ tăng hơn cung (2.8%)
(www.un-csam.org/publication/F-fruits.PDF).
1 Xem: www.economics.com.vn/2012/08/trademarks-for-agricultural-products.html 2 Xem: english.vietnamnet.vn/fms/business/77544/business-in-brief-27-6.html 3 Bao gồm cả thủy sản và lâm sản. 4 Xem: www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html. 5 Xem: www.gso.gov.vn/default_en.aspx?tabid=501&thangtk=12/2012 6 Xem: www.indexmundi.com/facts/vietnam/agriculture 7 Xem: https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html. 8 Xem: www.indexmundi.com/en/facts/2000/vietnam/labor_force_by_occupation.html 9 Xem ghi chú 7. 10 Xem: blogs.worldbank.org/climatechange/lessons-hanoi-imperative-implementing-climate-smart-agriculture 11 Xem : www.fao.org/docrep/007/y5488e/y5488e09.htm và http://pops.org.vn/UserPages/News/detail/tabid/138/newsid/833/language/en-
SÁCH TRẮNG 2014: CÁC VẤN ĐỀ THƯƠNG MẠI/ĐẦU TƯ VÀ KIẾN NGHỊ 1
english.vietnamnet.vn/fms/society/80894/ministry-
CHƯƠNG 3.1: CÁC VẤN ĐỀ CỦA NGÀNH – KINH DOANH NÔNG NGHIỆP VÀ AN TOÀN THỰC PHẨM
21 Food safety still major problem, Vietnam News, http://vietnamnews.vn/society/243231/food-safety-still-major-problem.html, ngày 9 tháng 8 năm
2013.
22 CropLife cáo buộc nông dân trồng lúa ở Thái Lan và Việt Nam sử dụng chất hóa học độc hại, http://oryza.com/content/thailand-vietnam-rice-
farmers-use-harmful-chemicals-claims-croplife-official, ngày 18 tháng 4 năm 2013
23 Thông qua quyết định này, Thủ tướng phê duyệt tổng thể phát triển sản xuất ngành nông nghiệp đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030. Xem:
www.isgmard.org.vn/Information%20Service/Legal%20docs/Agriculture/124-QD-TTg[EN].doc.
2003.14 FAO viết rằng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là công cụ chính được các tập đoàn đa quốc gia (MNC) dùng để mở rộng tầm ảnh hưởng của mình trên toàn cầu.Theo cách đó, MNC có thể tác động đến khối lượng và cơ cấu sản xuất, công nghệ, thị trường lao động và các chuẩn mực. MNC còn có thể đóng vai trò lưu thông vốn, chuyển giao kỹ năng, công nghệ, tiếp cận kênh tiếp thị nội địa và xuất khẩu, tạo ra sự gắn kết với kinh tế nông thôn, ví dụ như thông qua hình thức sản xuất nông sản theo hợp đồng. Điều này được củng cổ thêm bởi những thảo luận trong phiên họp toàn thể của Nhóm Tài trợ Quốc tế của Ngân hàng Thế giới, về những khó khăn và thách thức như vốn đầu tư cho nông nghiệp, phát triển nông nghiệp bền vững, tăng cường năng lực cạnh tranh và sự tham gia của khối tư nhân vào phát triển nông nghiệp.15 Chúng tôi chia sẻ và đồng tình với những nhận định trên vì chúng tôi cho rằng cần tạo ra một thị trường bình đẳng cho các doanh nghiệp nhỏ, lớn, trong nước và quốc tế không phân biệt thực thể pháp lý, quy mô hay quốc tịch, trên cơ sở lợi ích chung; và cần tạo ra và mang đến càng nhiều càng tốt: sự bình đẳng trong tiếp cận nguồn tín dụng trong hoặc ngoài Việt Nam, sự bình đẳng trong tiếp cận nguồn nguyên liệu thô trong hoặc ngoài Việt Nam, sự đối xử bình đẳng trong quá trình xin cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh tại Việt Nam, và sự đối xử bình đẳng về các quy định khác liên quan đến ngành nông nghiệp. Điều này sẽ giúp thu hút thêm FDI và thực sự cần thiết đối với nông nghiệp, vì cho đến giờ mới chỉ có 1,5% tổng số FDI đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.16 An toàn thực phẩm trong chuỗi cung ứng là vấn đề trọng yếu đối với ngành nông nghiệp, đặc biệt khi xét đến tác động tiềm tàng tới nền kinh tế và sức khỏe của cộng đồng.17.18 Chúng tôi hoan nghênh thiện chí giải quyết các vấn đề trên của Chính phủ trong chiến lược quốc gia về dinh dưỡng năm 2011.19 Dù vậy, vẫn còn rất nhiều việc cần làm, đặc biệt là xem xét lại các văn bản pháp lý khác nhau về an toàn thực phẩm và các quy định thực thi.20 Chất lượng thực phẩm và các vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn còn là một vấn đề lớn.21 Do vậy, theo các doanh nghiệp thành viên EuroCham, cần thành lập một Cơ quan An toàn Thực phẩm chuyên trách giải quyết các vấn đề trên. Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng cần khuyến khích áp dụng các quy tắc thực hành sản xuất tốt và các biện pháp giám sát hiệu quả để đảm bảo quy trình sản xuất có thể đáp ứng các quy chuẩn liên quan. Hơn nữa, cần có sự đổi mới, thông qua ngành khoa học thực vật, để khôi phục lại ngành nông nghiệp và tạo điều kiện cải tiến toàn bộ chuỗi giá trị. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện tại, sự đổi mới đang bị cản trở bởi sự yếu kém trong công tác bảo hộ Quyền Sở hữu Trí tuệ.22 Trên cơ sở phân tích trường hợp tích cực trên, chúng tôi cho rằng, các nguy cơ và thách thức nêu trên là khởi điểm thuận lợi để phát triển một ngành nông nghiệp vững mạnh hơn, bền vững hơn, cạnh tranh hơn, có công nghệ cao hơn mà không gây ảnh hưởng xấu đến người dân, đất nước và môi trường. Chúng tôi cho rằng các hiệp định thương mại hiện đang trong tiến trình đám phán là cơ hội tốt giúp thực hiện các kiến nghị được nêu ra sau đây. Điều này sẽ giúp tăng tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp trong GDP của Việt Nam và có tác động tích cực đến an toàn và an ninh thực phẩm. Chúng tôi cho rằng, ý kiến này cũng phù hợp với mục đích của Chính phủ về phát triển ngành nông nghiệp, như được đưa ra trong Quyết định số 124/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ.23 Các ý kiến dưới đây thể hiện quan điểm của hai tiểu ban ngành nghề của EuroCham: Tiểu ban Thực phẩm, Nông nghiệp và Nuôi trồng Thủy sản (FAASC) và Tiểu ban CropLife Việt Nam. Do có chung 14 Xem: www.fao.org/fileadmin/user_upload/esag/docs/y4252e.pdf, FAO, trang 273. 15 Xem: www.isgmard.org.vn/News.asp?Status=1&InfoID=756. 16 Xem: http://vietnamnews.vn/economy/240730/agricultural-sector-fdi-still-lagging.html 17 Thực trạng an toàn thực phẩm tại Việt Nam, FOODSEG Symposium www.foodseg.net/symposium/vietnam.pdf, tháng 6 năm 2012 18 Xem: www.foodseg.net/symposium/vietnam.pdf. 19 Xem: extranet.who.int/nutrition/gina/en/node/11519. 20 Xem:www.fao.org/asiapacific/vietnam/home/news-room/detail/en/?news_uid=150215,và typo3.fao.org/fileadmin/user_upload/faovn/docs/DPO%20FoodSafety%20CLEARED.doc, unveils-several-violations-in-food-safety-and-hygiene.html.
SÁCH TRẮNG 2014: CÁC VẤN ĐỀ THƯƠNG MẠI/ĐẦU TƯ VÀ KIẾN NGHỊ 2
CHƯƠNG 3.1: CÁC VẤN ĐỀ CỦA NGÀNH – KINH DOANH NÔNG NGHIỆP VÀ AN TOÀN THỰC PHẨM
các chủ đề quan tâm, hai Tiểu ban đã hợp tác cùng đưa ra quan điểm thống nhất về ngành nông nghiệp. 3.1.2 Cơ quan An toàn Thực phẩm Bộ ngành liên quan: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ Mô tả vấn đề: Như đã đề cập ở trên, thực phẩm không an toàn hiện đang là vấn đề nghiêm trọng ở Việt Nam. Vấn đề này gây nhức nhối cho người dân do tác động đến sức khỏe, đặc biệt là khi không dễ để có được thông tin về an toàn thực phẩm. Theo báo cáo gần đây của Nielsen, 94% người tiêu dùng được khảo sát cho rằng thực phẩm tốt cho sức khỏe trước tiên phải an toàn và hợp vệ sinh.24 Mặc dù Cục An toàn Thực phẩm là cơ quan trực thuộc Bộ Y tế, các vấn đề về an toàn thực phẩm lại được giải quyết bởi nhiều cơ quan khác nhau thuộc nhiều bộ khác nhau. Bên cạnh đó, các vấn đề còn được xử lý khác nhau ở cấp địa phương. Điều này dẫn tới việc các thanh tra từ ba cơ quan khác nhau có thể đến kiểm tra vấn đề về an toàn thực phẩm vào ba thời điểm khác nhau và các kết quả kiểm tra mỗi lần cũng khác nhau, do họ diễn giải các quy tắc và quy định theo cách khác nhau. Cơ cấu tổ chức hiện tại gây khó khăn cho việc xử lý hiệu quả và nhanh chóng trong trường hợp xảy ra vấn đề an toàn thực phẩm đe dọa sức khỏe người dân. Quan điểm của chúng tôi được xác nhận bởi nhận định của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) rằng công tác kiểm soát an toàn thực phẩm bị kém hiệu quả bởi sự tồn tại của nhiều văn bản luật riêng lẻ, thẩm quyền chồng chéo, và sự yếu kém trong hoạt động kiểm tra, giám sát và thi hành luật.25 Thiếu cơ chế hữu hiệu kiểm soát an toàn thực phẩm cũng hạn chế khả năng xuất khẩu sản phẩm của nhà sản xuất trong nước do các nước nhập khẩu thường áp dụng các tiêu chuẩn cao hơn trong lĩnh vực này.26 Chúng tôi ghi nhận các sáng kiến hiện hành, tuy nhiên, dường như vẫn chưa đủ hoặc chưa hiệu quả.27 Có lẽ còn quá sớm để kết luận, tuy nhiên, cho đến giờ, chúng tôi chưa thấy có bất kỳ tác động tích cực nào từ dự án do FAO và Chính phủ, được trình bày vào tháng 7 năm 2012.28 Chúng tôi cho rằng cần sửa đổi Luật An toàn Thực phẩm theo hướng thành lập một Cơ quan An toàn thực phẩm trực thuộc một bộ duy nhất, và chỉ có một bộ chuyên trách về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Bộ này có thể là Bộ Y tế hoặc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Dù là bộ nào thì điều quan trọng là cơ cấu tổ chức cấp trung ương và địa phương như hiện tại cần được liên kết vào cơ quan mới. Hơn nữa, cần có sự phối kết hợp hài hòa ở các cấp cơ sở. Cơ quan An toàn Thực phẩm phải là một cơ quan quyền lực có khả năng phản ứng nhanh, tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội, cung cấp thông tin khi cần. Trong phần kiến nghị là đề xuất của chúng tôi về trách nhiệm và thẩm quyền dự kiến của Cơ quan An toàn Thực phẩm. Chúng tôi rất mong có cơ hội thảo luận chi tiết về vấn đề này với Chính phủ. Các lợi ích/quan ngại tiềm tàng đối với Việt Nam: Một cơ quan An toàn Thực phẩm quyền lực trực thuộc một bộ chuyên trách sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các thị trường mới nhờ các sản phẩm đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Vì vậy, nguy cơ sản phẩm bị từ chối hoặc trả lại do không đạt tiêu chuẩn quy định sẽ giảm. Các vấn đề về an toàn thực phẩm được giải quyết hiệu quả sẽ làm giảm chi phí y tế, do ít người bị bệnh hơn (trước mắt và lâu dài).29 Cục An toàn Thực phẩm công bố trong 5 năm gần đây tính đến 2012, toàn quốc ghi nhận 927 vụ ngộ độc thực phẩm, số người liên quan là 30.733 người, trong đó có 229 người tử vong.30 Do đó, làm tốt công tác quản lý vệ sinh an
english.vietnamnet.vn/fms/society/78736/food-safety-probe-uncovers-violations.html.
28 Xem: báo cáo dự án UNJP/VIE/042/UNJ về Xây dựng năng lực cho hệ thống thanh tra thực phẩm tại Việt Nam. 29 Xem: http://www.asianews.it/news-en/Vietnamese-markets-flooded-with-cancer-causing-food-from-China-25678.html. 30 Nearly 50 die from food poisoning each year in Vietnam, Thanh Nien News, http://www.thanhniennews.com/index/pages/20120813-46-die-
from-food-poisoning-each-year.aspx, ngày 13 tháng 8 năm 2012
24 Diễn đàn Sức khỏe và Dinh dưỡng, Nielsen, http://www.nielsen.com/intl/vn/news-insights/press/english/2013/health-and-nutrition-forum.html 25 Xem: www.wpro.who.int/foodsafety/documents/docs/English_Guidelines_Food_control.pdf, trang 1. 26 Xem www.fao.org/docrep/007/y5488e/y5488e09.htm 27 Xem: english.vietnamnet.vn/fms/society/80894/ministry-unveils-several-violations-in-food-safety-and-hygiene.html và
SÁCH TRẮNG 2014: CÁC VẤN ĐỀ THƯƠNG MẠI/ĐẦU TƯ VÀ KIẾN NGHỊ 3
CHƯƠNG 3.1: CÁC VẤN ĐỀ CỦA NGÀNH – KINH DOANH NÔNG NGHIỆP VÀ AN TOÀN THỰC PHẨM
toàn thực phẩm sẽ giảm bớt gánh nặng lên dịch vụ y tế cộng đồng. Sau cùng, chúng tôi cho rằng cơ quan An toàn Thực phẩm sẽ xử lý các vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm nghiêm khắc và minh bạch hơn. Kiến nghị: Sửa đổi luật và thành lập Cơ quan An toàn Thực phẩm trực thuộc một bộ duy nhất vào năm
2015.
Áp dụng khung cơ cấu tổ chức hiện tại để tận dụng kiến thức và kinh nghiệm sẵn có. Hợp tác với các nước láng giềng trong công tác xử lý vi phạm về an toàn thực phẩm. Cơ quan An toàn Thực phẩm có thẩm quyền xử lý các vấn đề sau:
a. Các quy định nhập khẩu, xuất khẩu và chuyển tải thực phẩm liên quan tới giám định, chứng
nhận và kiểm dịch;
b. Kiểm nghiệm thực phẩm và cấp giấy chứng nhận; c. Quy định về ghi nhãn thực phẩm và quảng cáo; d. Báo cáo về cảnh báo nguy cơ thực phẩm mất an toàn trong chuỗi cung ứng bao gồm thuốc trừ
sâu, phân bón, giống, v.v
e. Cấp phép và đăng ký thương nhân và doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm, doanh nghiệp chế
biến thực phẩm và kho bảo quản thực phẩm;
f. Giáo dục và đào tạo về an toàn thực phẩm và nâng cao nhận thức về vệ sinh an toàn thực
phẩm;
g. Hỗ trợ xây dựng quy tắc thực hành về an toàn thực phẩm h. Tổ chức giám định và hỗ trợ công tác điều tra tội phạm về thức ăn chăn nuôi và vệ sinh an
toàn thực phẩm.
3.1.3 Quy phạm thực hành sản xuất tốt và Sử dụng an toàn và hiệu quả Bộ ngành liên quan: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ Mô tả vấn đề: Mọi người đều biết rằng xử lý sau thu hoạch, bảo quản và phân phối không thích hợp sẽ ảnh hưởng tới khả năng thành công của các nước sản xuất và tác động đến an toàn thực phẩm.31 Một số quy phạm thực hành sản xuất tốt và quy định cấp giấy chứng nhận nhằm giải quyết vấn đề trên đã được thực hiện trên thế giới và ở Việt Nam. Các nhà nuôi trồng thủy hải sản đã rất thành công và đang xuất khẩu sản phẩm. Tuy nhiên, nhìn chung, cơ hội được chứng nhận đáp ứng tiêu chuẩn để xuất khẩu thường rất khó khăn, và có lẽ là không thể do quy mô nhỏ bé và chi phí cao. Cũng có những sáng kiến nhằm xây dựng các quy phạm thực hành sản xuất tốt tập trung vào chuỗi giá trị cả từ phía Chính phủ và các nhà bán lẻ/bán buôn.32 Chúng tôi cho rằng tiếp cận theo chuỗi giá trị là phương pháp tốt nhất, vì nó giúp nhà bán lẻ/bán buôn cùng tham gia vào quá trình sản sản xuất và phản hồi lại những gì khách hàng của họ mong muốn. Nhà bán lẻ/bán buôn có thể muốn áp dụng phương pháp tiếp cận này nếu thấy được lợi ích của nó. Điều này phần nào có thể đạt được nhờ vào việc thành lập Cơ quan An toàn Thực phẩm trực thuộc một bộ chuyên trách, với nhiệm vụ hài hòa hóa và điều phối các quy định pháp lý. Cơ quan này sẽ giúp giảm bớt thủ tục hành chính và nâng cao công tác quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên liên quan tham gia.
Biểu đồ 6: Phương pháp tiếp cận Chuỗi giá trị
Nông dân
Nhà bán lẻ
Nhà sản xuất
Nhà chế biến
Khách hàng
Nguồn: Sustainable Food Lab
31 Xem: Chiến lược Xuất khẩu Rau Quả, Dự án VIE/61/94, tháng 5 năm 2009, trang 17 và www.fao.org/ag/agn/CDfruits_en/launch.html. 32 Xem: www.fao.org/ag/agn/CDfruits_en/launch.html và vietnamnews.vn/society/244563/seminar-promotes-safer-agri-food-chain.html.
SÁCH TRẮNG 2014: CÁC VẤN ĐỀ THƯƠNG MẠI/ĐẦU TƯ VÀ KIẾN NGHỊ 4
CHƯƠNG 3.1: CÁC VẤN ĐỀ CỦA NGÀNH – KINH DOANH NÔNG NGHIỆP VÀ AN TOÀN THỰC PHẨM
Cách tiếp cận này có thể thực hiện từng bước, ví dụ, bắt đầu bằng việc tập huấn nông dân mà không nhất thiết phải đạt chứng nhận; nhưng rồi họ sẽ làm việc theo cách được tập huấn. Chính phủ có thể hỗ trợ các địa phương và khuyến khích nông dân tham gia. Cũng có thể khuyến khích nông dân thành lập tổ nhóm. Theo một báo cáo dự án của Ngân hàng Phát triển châu Á, các tổ nhóm tương tự như vậy đã rất thành công khi trở thành nhà cung cấp thường xuyên cho các siêu thị và dễ dàng nhận được sự hỗ trợ của Chính phủ về tập huấn kỹ thuật và xây dựng chất lượng hơn các hộ nông dân riêng lẻ.33 Đồng thời, chúng tôi cho rằng việc sử dụng an toàn và hiệu quả (Stewardship) giữ vai trò chủ đạo trong việc đẩy mạnh ứng dụng thực hành nông nghiệp tốt, và đảm bảo việc sử dụng có trách nhiệm thuốc bảo vệ thực vật, quản lý chất thải và bảo đảm quy trình cất giữ. Ảnh hưởng tích cực của các hoạt động trên có thể thấy qua sự tiến bộ của ngành thủy sản. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho biết các nhà nhập khẩu từ EU, Hoa Kỳ, và Nhật Bản hài lòng với việc chất lượng thủy sản xuất khẩu được nâng cao, nhờ hơn 50% nhà máy chế biến thủy sản đã đạt tiêu chuẩn chất lượng của các tổ chức như Global Gap và Hội đồng Quản lý Nuôi trồng thủy sản (ASC).34 Các doanh nghiệp thành viên EuroCham đang phối hợp với Chính phủ nhằm thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả và có trách nhiệm các loại thuốc bảo vệ thực vật. Hướng tới mục tiêu trên, CropLife Việt Nam đã phối hợp với các Chi cục Bảo vệ Thực vật, trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tổ chức các sự kiện như "Ngày sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn và hiệu quả" (Stewardship Day). Sáng kiến này nhằm nâng cao nhận thức và kiến thức của nông dân về việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, và đã nhận được sự quan tâm lớn (trong năm 2012, đã thu hút 2.000 người trên 9 tỉnh thành tham gia). Chúng tôi rất mong có cơ hội hợp tác với Chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu chung, vì lợi ích kinh của doanh nghiệp và xã hội nói chung. Các lợi ích/quan ngại tiềm tàng đối với Việt Nam: Sự phối hợp trực tiếp giữa nhà bán lẻ/bán buôn và nhà sản xuất có nghĩa rằng nhà sản xuất sẽ bán hàng với giá tốt hơn do bỏ qua được bên trung gian. Điều đó cũng có nghĩa các nút thắt trong chuỗi giá trị sẽ ít hơn, chất lượng sản phẩm sẽ tốt hơn do giảm bớt các bước xử lý, và mức độ an toàn thực phẩm cũng được tăng lên. Ngành nông nghiệp sẽ trở nên cạnh tranh hơn và người tiêu dùng sẽ là người hưởng lợi nhiều nhất trong việc phát triển phương pháp tiếp cận chuỗi giá trị. Hơn nữa, việc áp dụng các quy phạm thực hành sản xuất tốt và sử dụng an toàn và hiệu quả sẽ giúp nông dân làm quen với các tiêu chuẩn và hướng dẫn sản xuất để cải tiến quy trình sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động cũng như tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Xét về tổng thể, điều này sẽ làm giảm các tác động tiêu cực tới môi trường do hạn chế sử dụng các chất hóa học quá mức hoặc không hợp lý. Kiến nghị: Khuyến khích và ủng hộ phương pháp tiếp cận chuỗi giá trị. Khen thưởng cho các đối tác trong tiếp cận chuỗi giá trị Thành lập diễn đàn, tạo điều kiện cho các đối tác công và tư trao đổi thông tin, hỗ trợ kỹ thuật,
cung cấp các thông tin về nguồn tài trợ.
Hỗ trợ và đào tạo nông dân về tiêu chuẩn Thực hành Nông nghiệp tốt (GAP) bao gồm 5 Ngyên
tác Vàng và Sử dụng có Trách nhiệm.
Áp dụng các biện pháp đảm bảo tiêu hủy chai lọ rỗng để bảo vệ môi trường. Áp dụng Bộ Quy tắc Ứng xử Quốc tế đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc quản lý thuốc trừ sâu.
appreciated-vasep/#.UkvA6BDPWkY, tháng 5 năm 2013
33 Xem: http://mpra.ub.uni-muenchen.de/42591/1/MPRA_paper_42591.pdf, trang 11. 34 Vietnam’s seafood quality appreciated: VASEP, Vietnam Breaking News, http://vietnambreakingnews.com/2013/05/vietnams-seafood-quality-
SÁCH TRẮNG 2014: CÁC VẤN ĐỀ THƯƠNG MẠI/ĐẦU TƯ VÀ KIẾN NGHỊ 5
CHƯƠNG 3.1: CÁC VẤN ĐỀ CỦA NGÀNH – KINH DOANH NÔNG NGHIỆP VÀ AN TOÀN THỰC PHẨM
X.4 Khung Pháp lý và Thi hành Luật Bộ ngành liên quan: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ Mô tả vấn đề: Trong sổ tay hướng dẫn về kiểm soát chất lượng thực phẩm đã nêu ở trên, WHO và FAO cho rằng tại nhiều nước, công tác kiểm soát an toàn thực phẩm còn kém hiệu quả bởi sự tồn tại của nhiều văn bản luật riêng lẻ, thẩm quyền chồng chéo, và sự yếu kém trong hoạt động kiểm tra, giám sát và thi hành luật.35 Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ quan điểm này vì chúng tôi nhận thấy khung pháp lý hiện hành là một trong những nguyên nhân chính khiến công tác kiểm soát an toàn thực phẩm và thi hành luật gặp khó khăn. Hiện tại, nhiều bộ ngành và cơ quan nhà nước cùng tham gia quản lý dư lượng hóa chất và thuốc kháng sinh cũng như công tác vệ sinh và an toàn thực phẩm.36 37 Điều này gây khó khăn cho việc đảm bảo tính thống nhất trong quá trình soạn thảo, thực thi và áp dụng các quy định pháp lý. Tình hình càng trở nên phức tạp hơn khi ở các cấp cơ sở, các quy định đôi khi được diễn giải theo các cách khác nhau hoặc áp dụng các biện pháp khác nhau trong xử lý một vấn đề, ví dụ như lấy mẫu. Như chúng tôi đã nêu trên, có thể xảy ra tình trạng các thanh tra đến kiểm tra ba lần, thậm chí là bốn lần, và họ kiểm tra sản phẩm cùng loại, hoặc các sản phẩm khác, đôi khi có đưa ra ý kiến chuyên môn trái ngược. Điều này có nghĩa là cả doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước đều bị hao tổn về tài chính và mất thời gian. Vì vậy, có thể khiến giá tiêu dùng cao hơn, nhưng không đảm bảo thực phẩm an toàn hơn. Tuy nhiên, như WHO đã viết trong bản tin năm 2011 rằng các quy định pháp lý về quản lý thuốc trừ sâu vẫn chưa được xây dựng và thực hiện do một số nguyên nhân, bao gồm thiếu nguồn lực quản lý và thi hành luật, thiếu kiến thức xây dựng luật, thiếu động cơ thúc đẩy thi hành luật, các tiêu chuẩn môi trường giới hạn, không có sự hợp tác, điều phối và thống nhất trong thực thi các quy định pháp lý giữa các cơ quan hữu quan. Do vậy, chúng tôi rất hoan nghênh Nghị định số 08/2013/NĐ-CP về xử phạt hành chính đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Chúng tôi cho rằng nên chỉ có một bộ duy nhất chỉ đạo soạn thảo luật về an toàn thực phẩm. Dĩ nhiên, các bộ ngành khác có thể hỗ trợ tư vấn đối với các vấn đề mà mình có chuyên môn và kiến thức. Cũng nên quan sát các nước khác ở khu vực Đông Nam Á, các nước phương tây trong công tác quản lý an toàn thực phẩm, và học hỏi kinh nghiệm của họ, đặc biệt trong bối cảnh đang đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do giữa EU và Việt Nam. Liên quan đến vấn đề này, chúng tôi rất vui mừng trước sáng kiến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trong việc áp dụng cơ chế hải quan một cửa, nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính về hoạt động xuất nhập khẩu và thực hiện khai báo hải quan điện tử.38 Chúng tôi hiểu rằng luật an toàn thực phẩm mới đang được soạn thảo và chúng tôi muốn có cơ hội được chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm với các ban soạn thảo.39 Tuy nhiên, báo cáo của FAO cũng nêu rõ rằng các quy định pháp lý và chính sách về an toàn thực phẩm dù hoàn chỉnh cũng là vô nghĩa, trừ khi chúng được thực thi hiệu quả thông qua hoạt động giám sát và thanh tra.40 Về nguyên tắc, dù khung pháp lý hiện tại có quy định các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm cao hơn, chúng tôi cho rằng vấn đề chính yếu nằm ở năng lực thực thi pháp luật. Theo chúng tôi, năng lực thực thi pháp luật yếu kém và mức phạt quá thấp vô tình làm giảm hiệu quả của công tác quản lý an toàn thực phẩm. Những người vi phạm tính toán chi phí bị phạt nếu không tuân thủ theo luật và so sánh với chi phí nếu tuân thủ theo luật. Sổ tay hướng dẫn xây dựng bởi WHO và FAO đưa ra khuyến nghị chiến lược đối với các cơ quan nhà nước nhằm kiện toàn hệ thống quản lý an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, ngăn chặn lừa đảo và gian lận, tránh thực phẩm bị giả mạo và thúc đẩy thương mại.41 Cũng có thể coi đây là xuất phát điểm để nâng cao năng lực thực thi pháp luật ở Việt Nam.
Chất lượng Nông Lâm Sản và Thủy sản và Cục An toàn Thực phẩm.
37 Xem: cip.cornell.edu/DPubS/Repository/1.0/Disseminate?view=body&id=pdf_1&handle=dns.gfs/1265385755. 38 Xem: vietnambreakingnews.com/2013/09/single-window-customs-mechanism-in-agriculture-piloted/#.UiyOm9KnBGk. 39 Xem: Ghi chú 28 40 Như trên, trang 9. 41 Xem: Ghi chú 25.
35 Xem: Ghi chú 25 36 Bộ Y tế, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Cục Quản lý
SÁCH TRẮNG 2014: CÁC VẤN ĐỀ THƯƠNG MẠI/ĐẦU TƯ VÀ KIẾN NGHỊ 6
CHƯƠNG 3.1: CÁC VẤN ĐỀ CỦA NGÀNH – KINH DOANH NÔNG NGHIỆP VÀ AN TOÀN THỰC PHẨM
Các lợi ích/quan ngại tiềm tàng đối với Việt Nam: Thủ tục hành chính đơn giản và công tác điều phối tốt hơn, minh bạch hơn sẽ góp phần giảm chi phí. Điều này sẽ nâng cao tính cạnh tranh của ngành nông nghiệp và mang lại giá rẻ hơn cho người tiêu dùng mà không giảm chất lượng an toàn thực phẩm. Các doanh nghiệp sẽ ít vi phạm quy định pháp luật hơn vì không thấy có lợi ích chi phí nào. Nhờ đó, chất lượng an toàn thực phẩm được nâng cao. Xuất khẩu sẽ thuận lợi hơn, vì ngày càng ít nguy cơ về an toàn thực phẩm khiến hàng bị trả lại. Kiến nghị: Phân công một bộ duy nhất chịu trách nhiệm về các vấn đề an toàn thực phẩm. Điều phối và hài hòa hóa quá trình soạn thảo, thực thi và áp dụng các quy định pháp luật (luật,
nghị định, thông tư).
Thống nhất thực thi khung pháp lý ở các cấp trung ương, tỉnh, và địa phương. Thành lập cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm về an toàn thực phẩm. Quy định mức phạt cao hơn đối với vi phạm về nguyên tắc an toàn thực phẩm. Quy định hình phạt khắt khe hơn đối với đối tượng vi phạm nhiều lần. Cân nhắc đưa những sai phạm nghiêm trọng vào Bộ luật Hình sự.
3.1.5 Hàng giả Bộ ngành liên quan: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ Mô tả vấn đề: Như chúng tôi đã đề cập trong phần Tổng quan, sự yếu kém về việc thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một rào cản khác gián tiếp gây tổn hại đến ngành nông nghiệp nói riêng và xã hội nói chung. Vấn đề này làm giảm khả năng đổi mới của ngành nông nghiệp trên thị trường. Hàng giả và các sản phẩm bảo vệ thực vật bất hợp pháp ngày càng phát triển; thuốc trừ sâu giả không được giám định và có thể chứa các tạp chất độc hại khôn lường, đe dọa sức khỏe của nông dân và người tiêu dùng. Hơn nữa, hàng giả có thể hủy hoại mùa màng hoặc khiến hàng bị các công ty thực phẩm trả lại do tồn dư lượng hóa chất không được phép. Những tác động trên có thể khiến nông dân rơi vào cảnh khốn cùng. Liên quan đến vấn đề này, chúng tôi rất hoan nghênh Nghị định số 08/2013/NĐ-CP về xử phạt hành chính đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng cần quy định mức phạt cao hơn. Các lợi ích/quan ngại tiềm tàng đối với Việt Nam: Các sản phẩm bất hợp pháp có tác động tiêu cực đến nền kinh tế, vì hàng giả là rào cản đối với đầu tư, dập tắt và ngăn chặn sáng tạo đổi mới. Đổi mới trong nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động về lâu dài, phát triển nông thôn, và bảo vệ môi trường nhờ sử dụng công nghệ tạo ra những giải pháp mới để vượt qua các thách thức hiện tại. Kiến nghị: Bổ sung các quy định pháp lý có hiệu quả, hướng đến cả sự an toàn và sự hiệu quả Bảo vệ dữ liệu pháp lý và thông tin về bí mật kinh doanh rất quan trọng trong thúc đẩy sáng tạo
và phát triển.
Cần bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ để khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, và giúp
ngành khoa học thực vật củng cố nền tảng sáng tạo của mình.
Đàm bảo thực thi pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và tịch thu các sản phẩm bất hợp pháp
trên thị trường.
Để hiểu thêm về chủ đề này, vui lòng xem chương Quyền Sở hữu Trí tuệ trong cuốn Sách Trắng này.
SÁCH TRẮNG 2014: CÁC VẤN ĐỀ THƯƠNG MẠI/ĐẦU TƯ VÀ KIẾN NGHỊ 7
CHƯƠNG 3.1: CÁC VẤN ĐỀ CỦA NGÀNH – KINH DOANH NÔNG NGHIỆP VÀ AN TOÀN THỰC PHẨM
3.1.6 Quản lý Thuốc trừ sâu Bộ ngành liên quan: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Công Thương Mô tả vấn đề: Các vấn đề về an toàn thực phẩm đã được thảo luận xuyên suốt Chương này, tuy nhiên, chúng tôi muốn Chính phủ đặc biệt lưu ý đến những vướng mắc về sử dụng thuốc trừ sâu, một trong những mối quan ngại chính đối với các thành viên của Tiểu ban Croplife Việt Nam trực thuộc EuroCham. Tình trạng sử dụng thuốc trừ sâu không hợp lý và sử dụng thuốc trừ sâu kém chất lượng là thách thức lớn trong sản xuất chế biến thực phẩm. Tình trạng này có thể làm hại sức khỏe của người trực tiếp sử dụng và người tiêu dùng nông sản, cũng như gây tổn hại cho môi trường. Bên cạnh đó, về khía cạnh kinh tế, điều này còn ảnh hưởng đến nông sản xuất khẩu do hàng có thể bị trả lại vì lượng tồn dư hóa chất vượt quá mức cho phép. Theo báo cáo, nhiều phương thức canh tác nguy hiểm vẫn rất phổ biến ở Việt Nam, dù một bộ phận lớn nông dân đã được các cơ quan trong và ngoài nhà nước tập huấn kỹ thuật.42 Phương thức canh tác của nông dân vẫn bị ảnh hưởng nặng nề bởi thói quen từ xa xưa và đánh giá rủi ro dựa trên kinh nghiệm thay vì những hướng dẫn kỹ thuật chính thống. Các lợi ích/quan ngại tiềm tàng đối với Việt Nam: Bằng việc đảm bảo sản xuất thực phẩm an toàn, đặc biệt là về việc sử dụng thuốc trừ sâu, Việt Nam có thể tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản, và tăng nguồn ngoại tệ. Hơn nữa, điều này sẽ nâng cao uy tín của Việt Nam, như một nguồn cung cấp thực phẩm an toàn đáng tin cậy cho các nước nhập khẩu. Đổi lại, Việt Nam sẽ được hưởng lợi và cải thiện thu nhập cho nông dân. Kiến nghị: Xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm loại bỏ tình trạng sử dụng thuốc trừ sâu tiềm ẩn nguy cơ
cao đối với sức khỏe con người và môi trường.
Khuyến khích hoạt động quản lý và sử dụng thuốc trừ sâu có trách nhiệm và đạo đức; áp dụng các tiêu chuẩn thực hành tốt trong bán hàng; quy định ghi nhãn phù hợp với các hướng dẫn. Quy định tiêu chí cụ thể nhằm khuyến khích các loại thuốc bảo vệ thực vật mới với kỹ thuật và
công nghệ hiện đại.
Chú trọng sử dụng các loại thuốc trừ sâu chất lượng cao và an toàn. Xây dựng chương trình đào tạo chất lượng cho nông dân nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng và lợi ích của việc sử dụng thuốc trừ sâu hợp lý và tuân theo hướng dẫn sử dụng ghi trên nhãn sản phẩm.
3.1.7 Chất lượng phòng thí nghiệm Các bộ liên quan: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ Mô tả vấn đề: Hiện tại, rất nhiều biện pháp quan trọng liên quan đến hoạt động và chất lượng phòng thí nghiệm, đang được triển khai.43 Tuy nhiên, do có quá nhiều phòng thí nghiệm trực thuộc nhiều đơn vị với các nhiệm vụ khác nhau, các biện pháp và chương trình này không được thực hiện một cách thống nhất. Như đã đề cập trước đó, đây là điều cần tránh. Các phòng thí nghiệm có thể được công nhận bởi Văn phòng Công nhận Chất lượng (BoA), trực thuộc Hệ thống Công nhận Phòng Thí nghiệm Việt Nam (VILAS), tuy nhiên, các phòng thí nghiệm liên quan đến giám định lại không phải luôn luôn được công nhận. Điều này có nghĩa chất lượng giám định không được đảm bảo và các vấn đề về an toàn thực phẩm không được phát hiện và xử lý. Một vấn đề nữa là giới hạn phạm vi có thể giám định.44 Cách lấy mẫu có thể đã được cải tiến; nhưng hiện tại, các mẫu thường không được lấy ngẫu nhiên mà do công ty chuẩn bị. Bên cạnh đó, chi phí
42 P. Van Hoi, Governing pesticide use in vegetable production in Vietnam, http://library.wur.nl/WebQuery/wda/1928507, 2010 43 Các chương trình quốc tế được hỗ trợ bởi JICA, UNIDO, WHO, GTZ,... và các chương trình quốc gia khác. 44 Xem: http://pops.org.vn/UserPages/News/detail/tabid/138/newsid/833/language/en-US/Default.aspx.
SÁCH TRẮNG 2014: CÁC VẤN ĐỀ THƯƠNG MẠI/ĐẦU TƯ VÀ KIẾN NGHỊ 8
CHƯƠNG 3.1: CÁC VẤN ĐỀ CỦA NGÀNH – KINH DOANH NÔNG NGHIỆP VÀ AN TOÀN THỰC PHẨM
giám định rất lớn đối với những giám định không thể thực hiện được tại Việt Nam. Quy trình thực hiện còn phức tạp hơn vì có thể phải cần có giấy phép xuất khẩu mẫu giám định. Cuối cùng, nếu phòng thí nghiệm của một bên thứ ba được công nhận thực hiện các giám định cụ thể, thì các kết quả giám định cần được chấp thuận và phê duyệt giống như các kết quả của các phòng thí nghiệm khác trong nước. Ví dụ, kết quả giám định của Trung tâm Kỹ thuật Đo lường Chất lượng 3 (Quatest 3) luôn được coi là kết quả chính thức cho phép nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam, mặc dù có thể đã có kết quả giám định của phòng thí nghiệm nước ngoài. Chúng tôi cũng đã đề cập đến trường hợp kết quả giám định là sai, nhưng việc giám định lần 2 lại không được chấp thuận. Để nâng cao chất lượng của các phòng thí nghiệm, chúng tôi xin đề xuất một số ý do Diễn đàn các Tổ chức Thực thi Luật An toàn Thực phẩm (FLEP) soạn thảo.45 Chúng tôi cho rằng cơ quan an toàn thực phẩm như đã trình bày phía trên sẽ chịu trách nhiệm cải thiện hệ thống hiện tại. Các lợi ích/quan ngại tiềm tàng đối với Việt Nam: Phương pháp giám định hiện nay rất tốn kém, mất thời gian, và không phát hiện ra các vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm cần xử lý. Nếu có thể thay đổi hệ thống hiện tại, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí hơn và có thể giảm giá bán, mà vẫn đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm cao hơn. Sản phẩm Việt Nam sẽ trở nên cạnh tranh hơn. Năng lực cạnh tranh và an toàn thực phẩm đều được nâng cao. Chúng tôi cho rằng để tăng cường an toàn thực phẩm và năng lực cạnh tranh, điều quan trọng là phải nâng cao chất lượng của các phòng thí nghiệm và mở rộng phạm vi giám định. Kiến nghị: Hài hóa hóa các phương thức hoạt động của phòng thí nghiệm và xây dựng quy phạm thực hành
tốt phòng thí nghiệm
Quan tâm thực hiện các sáng kiến hiện tại một cách hài hòa. Giảm bớt thủ tục hành chính đối với các giám định cần thực hiện ở nước ngoài. Chấp thuận các kết quả giám định của các phòng thí nghiệm ở nước ngoài đã được công nhận.
phẩm của Ủy ban châu Âu nhằm trao đổi thông tin, giải quyết những bất cập và nghiên cứu những khó khăn thực thi luật trong thực tiễn.
45 Xem: www.flep.org/downloads/Products/Enforcement/Official_labs.doc. FLEP là diễn đàn tập hợp các đại diện từ các cơ quan quản lý thực
SÁCH TRẮNG 2014: CÁC VẤN ĐỀ THƯƠNG MẠI/ĐẦU TƯ VÀ KIẾN NGHỊ 9