
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
440
CÁC YẾU TỐ NỘI TẠI ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC THAM GIA
VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU CỦA VIỆT NAM
Đỗ Thanh Thư
Trường Đại học Thủy lợi, email: thudt@tlu.edu.vn
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) là một hình
thức quốc tế hóa các hoạt động kinh doanh
được đặc trưng bởi việc chia tách quá trình
sản xuất thành các giai đoạn riêng biệt được
thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Theo
Koopman và cộng sự (2010), GVC bao gồm
nội dung nhập khẩu của hàng xuất khẩu (giá
trị quá khứ), đồng thời thêm giá trị gia tăng
trong nước, là đầu vào trung gian được sử
dụng ở quốc gia thứ ba để xuất khẩu tiếp theo
(giá trị tương lai). GVC đã mang lại nhiều lợi
thế cho các nước đang phát triển với sự phát
triển của khoa học và công nghệ.
Theo hầu hết các nghiên cứu quốc tế, các
quốc gia tham gia GVC chịu tác động của các
đặc điểm riêng của quốc gia như vị trí địa lý,
thu nhập quốc dân, trình độ lao động, mức độ
cởi mở về kinh tế, thể chế và các yếu tố khác.
Căn cứ thực trạng kinh tế và sự tham gia vào
GVC của Việt Nam, các yếu tố nghiên cứu
được nêu trong phạm vi của bài viết này bao
gồm tỷ giá, FDI, thuế nhập khẩu, các thể chế
và năng lực công nghiệp của Việt Nam
Cho tới nay, các nghiên cứu về sự tham
gia vào GVC tại Việt Nam còn rất hạn chế,
một số ít là những nghiên cứu lý thuyết trên
phạm vi quốc gia, chủ yếu ở cấp độ ngành.
Do đó, nghiên cứu này có thể đóng vai trò là
điểm khởi đầu cho nghiên cứu định lượng ở
phạm vi quốc gia.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sự tham gia vào GVC được xác định bởi
nguồn gốc của giá trị gia tăng có trong xuất
khẩu theo hai góc nhìn: liên kết ngược
(backward) và liên kết xuôi (forward) của
một quốc gia. Do hiện nay Việt Nam đang
tham gia vào GVC theo kiểu liên kết ngược,
nên bài viết sử dụng dữ liệu về liên kết ngược
của Việt Nam để phân tích. Trên cơ sở đó, dữ
liệu về GVC của Việt Nam và các yếu tố nội
tại được thu thập từ năm 2000 tới năm 2022:
Bảng 1. Cơ sở dữ liệu
Tên dữ liệu Nguồn
GVC ngược (backward)
Thuế nhập khẩu
Tỷ giá
Năng lực công nghiệp
Thể chế
FDI (inflow)
OECD
The WB
The WB
The UNIDO
The Heritage Foundation
The WB
Để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự
tham gia GVC một quốc gia, trong khi Duasa
(2007) và Ali (2017) sử dụng mô hình
ARDL, Ademe (2016) và Ismail Lotf (2020)
sử dụng mô hình vectơ ECM và VECM cho
thấy hiệu quả đáng kể do tích hợp các mô
hình với các phương trình đồng thời, cho
phép đưa các biến trễ và hoán vị giữa các
biến nội sinh và ngoại sinh. Theo đó, bài viết
này sử dụng mô hình vectơ để nghiên cứu các
yếu tố nội tại ảnh hưởng tới sự tham gia GVC
của Việt Nam, cụ thể như sau:
LnGVCSt = β0 + β1TARIFFt + β2lnEXt +
β3 INDUSTt + β4lnECOt + β5lnFDIt + et
trong đó: LnGVCSt là biến phụ thuộc, đo
lường bằng logarit cơ số e của chỉ số tham
gia GVC (GVC backward) của Việt Nam.
Các biến độc lập bao gồm:
TARIFF: Thuế nhập khẩu của Việt Nam.

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
441
LnEX: logarit cơ số e của tỷ giá hối đoái
(VND/USD).
INDUST: năng lực công nghiệp của Việt
Nam.
LnECO: logarit cơ số e của Chỉ số tự do
kinh tế của Việt Nam (đại lượng đo lường thể
chế).
LnFDI: logarit cơ số e của FDI vào Việt
Nam.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kể từ khi thực hiện Đổi mới năm 1986,
Việt Nam đã chuyển mình từ một trong
những quốc gia nghèo nhất thế giới sang nền
kinh tế thị trường và ngày càng hội nhập toàn
cầu sâu rộng hơn. Theo cơ sở dữ liệu TiVA
của OECD, chỉ số tham gia GVC của Việt
Nam sau khi đạt đỉnh ở mức 62% vào năm
2011 đã giảm đáng kể do sự sụt giảm trong tỷ
lệ tham gia GVC ngược (GVC backward).
Đây là kết quả của việc tạo ra nhiều giá trị
gia tăng hơn ở Việt Nam (UNCTAD, 2018).
Bên cạnh đó, theo KPMG Việt Nam (2023),
Việt Nam hiện đang ở giai đoạn thứ hai trong
bốn giai đoạn hội nhập vào GVC. Ở giai
đoạn này, Việt Nam chủ yếu tập trung vào
các ngành sản xuất thâm dụng lao động với
yêu cầu công nghệ đơn giản..
Về các yếu tố nội tại, Việt Nam được xem
là mô hình thành công về thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI giai đoạn 1986 - 2022
do môi trường đầu tư hấp dẫn, nền tảng chính
trị ổn định, tiềm năng phát triển kinh tế cao.
Bên cạnh đó, với việc tích cực cải cách thuế
quan và tham gia vào các cam kết với
ASEAN cũng như các Hiệp định thương mại
quốc tế, Việt Nam đã giảm dần thuế nhập
khẩu theo hướng mở cửa thị trường, giúp
Việt Nam tham gia và định vị trong các
GVC. Về thể chế, nhìn chung, chỉ số tự do
kinh tế của Việt Nam đã có sự thay đổi theo
hướng tích cực và thể hiện rõ trong giai đoạn
2000 - 2022. Điều này chứng tỏ Việt Nam đã
có nhiều cải cách, nỗ lực đổi mới từng bước
để hỗ trợ, thúc đẩy và nâng cao chất lượng
thể chế trong những năm gần đây. Về năng
lực công nghiệp, theo Báo cáo của UNIDO,
năng lực cạnh tranh công nghiệp của Việt
Nam đã được cải thiện đáng kể, đưa đất nước
từ nhóm "nền kinh tế đang phát triển" lên
"nền kinh tế công nghiệp mới nổi". Tuy
nhiên, công nghiệp Việt Nam chủ yếu phát
triển theo mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền
vững và chưa gắn kết chặt chẽ với các ngành
kinh tế khác.
* Kết quả hồi quy:
Với dữ liệu thu thập được, các biến trong
mô hình được mô tả cụ thể như sau:
Bảng 2. Thống kê mô tả các biến
Biến n T.bình SE.
TARIFF
lnEX
INDUST
LnECO
lnFDI
lnGVCS
19
21
20
21
21
21
8,89
9,82
39,1
3,91
8,62
10,35
3,02
0,17
21,32
0,07
0,95
1,09
Nguồn: Kết quả thống kê của tác giả
Thực hiện kiểm tra tính dừng bằng kiểm
định Dickey-Fuller với từng biến trong mô
hình cho thấy tất cả các biến đều dừng ở mức
ý nghĩa 1% và 5%.
Thực hiện kiểm định đồng tích hợp bằng
kiểm định Johansen, kết quả mô hình có đồng
tích hợp bậc 1. Do đó, sử dụng mô hình
VECM là phù hợp.
Trong VECM, sự thay đổi của các biến
không chỉ phụ thuộc vào các giá trị trong quá
khứ mà còn phụ thuộc vào độ lệch so với vị
trí cân bằng dài hạn trong giai đoạn trước.
Kết quả ước tính VECM ngắn hạn như sau:
Bảng 3: Kết quả VECM ngắn hạn
Biến Hệ số SE.
GVCS (-1) 0,148 0,023
ΔTARIFF
ΔlnEX
ΔINDUST
ΔlnECO
ΔlnFDI
-0,472***
-0,266
0,117*
0,289**
0,254*
0,021
0,145
0,031
0,093
0,076
*** p < 0,01, ** p < 0,05, * p < 0,1
Nguồn: Kết quả hồi quy của tác giả

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
442
Trong ngắn hạn, năng lực công nghiệp, tự
do kinh tế và FDI có tác động tích cực đến sự
tham gia GVC tại Việt Nam ở cả ba mức ý
nghĩa. Điều này cho thấy sự thay đổi tích cực
của các yếu tố này làm tăng thay đổi trong sự
tham gia GVC thêm 0,117; 0,289 và 0,254
đơn vị. Mặt khác, thuế quan có tác động tiêu
cực đến sự tham gia GVC.
Trong dài hạn, sự tham gia GVC của Việt
Nam chịu ảnh hưởng của những thay đổi
trong quá khứ, tức là, mức tăng trong quá
khứ làm tăng mức tăng hiện tại thêm 0,332
đơn vị.
Bảng 4. Kết quả VECM dài hạn
Biến Hệ số SE.
GVCS (-1) 0,332* 0,016
ΔTARIFF
ΔlnEX
ΔINDUST
ΔlnECO
ΔlnFDI
-0,354***
-0,236*
0,018*
0,233***
0,197*
0,037
0,025
0,006
0,048
0,063
*** p < 0,01, ** p < 0,05, * p < 0,1
Nguồn: Kết quả hồi quy của tác giả
Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái được phát hiện
là ức chế gia tăng trong sự tham gia GVC dài
hạn ở mức ý nghĩa 10%. Do đó, EX không
ảnh hưởng đến sự tham gia của GVC trong
ngắn hạn, nhưng nếu không được kiểm soát,
đây là yếu tố ức chế sự tham gia của GVC.
Bên cạnh đó, FDI tiếp tục được coi là nguồn
vốn bổ sung quan trọng để nâng cao năng lực
sản xuất trong nước, cải thiện quan hệ thương
mại và tăng khả năng tham gia các GVC của
Việt Nam. Tương tự như trong ngắn hạn,
năng lực công nghiệp và tự do kinh tế là yếu
tố thúc đẩy sự gia nhập GVC của Việt Nam.
Đối với Việt Nam, FDI và sự tham gia vào
GVC là động lực chính của tăng trưởng kinh
tế. Do đó, Chính phủ cần thúc đẩy mối liên
kết FDI-SME thông qua các phương pháp
khác nhau, đặc biệt là ưu đãi thuế để thúc đẩy
đầu tư vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong nước và nâng cấp các nhà cung cấp
trong nước. Đồng thời, Việt Nam có thể cân
nhắc mở rộng thêm các công cụ mới về ưu
đãi thuế quan để tăng sức cạnh tranh với các
nước khác trong khu vực. Bên cạnh đó, các
vấn đề về thể chế, tính minh bạch trong chính
sách thương mại và đầu tư rất quan trọng
trong việc giảm chi phí thương mại và đầu tư.
Ngoài ra, Việt Nam cần cải thiện cơ sở hạ
tầng vật chất như hệ thống giao thông và
công nghệ thông tin, cũng như thúc đẩy
chuyển giao kiến thức, như một điều kiện
tiên quyết cho sự phát triển và quản lý chuỗi
giá trị của mình.
4. KẾT LUẬN
Có thể nói thương mại của Việt Nam phụ
thuộc lớn vào sự tham gia GVC, và cho tới
nay Việt Nam đã nổi lên như một nhà máy
sản xuất của ASEAN tập trung vào các chức
năng lắp ráp. Tuy nhiên, đây lại là ngành có
giá trị gia tăng thấp nhất trong GVC, đa phần
thâm dụng lao động và yêu cầu kỹ thuật thấp.
Trong điều kiện hiện tại, sự suy giảm khối
lượng đầu tư nước ngoài do các hạn chế áp
đặt đối với dòng vốn xuyên biên giới đã dẫn
đến sự sụt giảm đáng kể hoạt động trong
GVC của các quốc gia. Vì thế, để Việt Nam
chuyển đổi sang giai đoạn cao hơn trong
GVC, bên cạnh các chính sách vĩ mô của
Chính phủ về thuế quan, thể chế và các chính
sách thu hút vốn đầu tư, các doanh nghiệp
cũng cần nhanh chóng nâng cao năng lực
quản lý và công nghệ của mình.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ademe, A.S. (2016). Determinants of
Ethiopian Trade Balance: Vector Error
Correction Model (VECM) Approach.
Journal of Research in Business, Economics
and Management 6(2): 858-867.
[2] Koopman, R., Powers, W., Wang, Z., và
Wei, S. J. 2010. Give credit where credit is
due: Tracing value added in global
production chains Bureau of Economic
Research No. w16426.
[3] UNCTAD. 2018. World Investment Report.
Retrieved from https://unctad.org/en/
PublicationsLibrary/wir2018_en.pdf.

