
MỘT SỐ CĂN CỨ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI ĐƯỢC QUY ĐỊNH TẠI
KHOÁN 2 ĐIỀU 68 LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Phán quyết trọng tài có tính độc lập tương đối, nó chỉ được Tòa án xem xét khi có
đơn yêu cầu hủy phán quyết của một trong các bên đương sự trong thời hạn do luật định.
Khi xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài Hội đồng xét đơn phải nghiên cứu các tài
liệu, chứng cứ do các bên đương sự xuất trình, các lý lẽ mà đương sự đưa ra tại phiên
họp; đồng thời phải đối chiếu các căn cứ được quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật trọng
tài thương mại để xác định có cơ sở rõ ràng phán quyết trọng tài vi phạm các trường hợp
được quy định tại khoản 2 Điều 68 hay không? để từ đó chấp nhận hay không chấp nhận
yêu cầu của đương sự. Do đó, việc nghiên cứu, nắm vững các trường hợp được coi là căn
cứ hủy phán quyết trọng tài có ý nghĩa rất quan trọng. Trong phần này tác giả chỉ đề cập
một số căn cứ hủy phán quyết trọng tài được quy định tại Điều 68 Luật trọng tài thương
mại sau đây:
1. Không có thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài là một cấu thành quan trọng tạo nên thấm quyền của Trọng tài.
Dù loại việc tranh chấp được quy định tại Điều 2 của Luật trọng tài thương mại thuộc
thẩm quyền trọng tài, nhưng nếu không có thỏa thuận trọng tài thì tranh chấp đó Trọng tài
không có thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp Trọng tài đã thụ lý thì phải căn cứ
Điều 43 Luật trọng tài thương nại để ra quyết định đình chỉ giải quyết; trường hợp Hội
đồng trọng tài không đình chỉ mà tiếp tục phân xử và ra phán quyêt, tạì đương sự có
quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đó. Trong Trường hợp này Tòa án căn cứ điểm a
khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại để hủy phán quyết trọng tài, nếu như bên yêu
cầu hủy phán quyết trọng tài đã có phản đối về thấm quyên trong thời hạn luật định.
Như vậy, khi vụ việc tranh chấp đã được Trọng tài giái quyết và có đương sự yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài, việc xác định vụ việc đó có thỏa thuận trọng tài hay không có
thoả thuận trọng tài là rất quan trọng. Vậy những trường hợp nào sẽ được coi là không có
thỏa thuận trọng tài? Căn cứ quy định của Luật trọng tài thương mại và Nghị quyết số
01/2014/NQ-HĐTP thì có thể coi các trường hợp dưới đây là không có thỏả thuận trọng
tài, nếu trọng tài giải quyết là vi phạm về thẩm quyền, sẽ là căn cứ để hủy phán quyết
trọng tài theo quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại.
1.1. Giữa các bên tranh chấp hoàn toàn không có thoả thuận trọng tài
Giữa các bên tuy có ký các hợp đồng về đầu tư, mua bán hàng hóa, dịch vụ... nhưng
trong hợp đồng, phụ lục hợp đồng hoặc các văn bản khác giữa các bên không có thỏa
thuận nếu có tranh chấp sẽ do Trọng tài giải quyết; khi tranh chấp, khi đã khởi kiện, trong
quá trình tố tụng... các bên cũng không có thỏa thuận tranh chấp sẽ do Trọng tài giải
quyết thì Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết.

Tuy nhiên, như đã phân tích ở các chuyên đề trước, ý chí của các bên có sức mạnh
chi phối rất lớn trong tố tụng trọng tài. Xuất phát từ sự tôn trọng ý chí của các bên, nếu
không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì ý chí đó sẽ được thừa nhận, sẽ được thực hiện.
Do đó, không chỉ những thỏa thuận trọng tài thể hiện theo phương thức truyên thông
mới được công nhận mà thỏa thuận này có thể được biểu hiện rất sinh động, như chính
cuộc sống, đều được công nhận, nếu đó đúng là ý chí đích thực của các bên. Thực tế cho
thấy có một số trường hợp, mặc dù trong các hợp đông hay các tài liệu kèm theo hợp
đồng giữa các bên không có điều khoản trọng tài, nhưng thẩm quyền của Hội đồng trọng
tài vẫn được xác lập dựa trên việc giải thích, xác định ý chí các bên. Cụ thể:
Một bên nộp đơn khởi kiện ra Trọng tài và bên còn lại (mặc dù có phản đối nguyên
đơn về các yêu cầu trong nội dung hợp đồng) nhưng không hề phản đối việc nguyên đơn
khởi kiện ra Trọng tài, thậm chí vẫn tham gia tố tụng trọng tài. Như vậy, trường hợp này
có thể xem như các bên đã xác lập một thỏả thuận trọng tài mới sau khi tranh chấp phát
sinh. Thỏa thuận này cũng có thể xem như đã lập thành văn bản là đơn khởi kiện của
nguyên đơn, hoặc quyết định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài mà không có phản
đối của các bên (trường hợp này đã quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 16 Luật trọng tài
thương mại).
1.2. Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được
Đây là trường hợp trước khi có tranh chấp hoặc khi đã có tranh chấp hay sau khi có
tranh chấp các bên trong quan hệ pháp luật đó đã cùng nhau thỏả thuận trọng tài sẽ có
thẩm quyền giải quyết, nhưng do xuất hiện những tình huống, những sự kiện và cũng có
thể do luật dành quyền lựa chọn cho một bên khi tranh chấp xảy ra, dẫn đến thỏa thuận
trọng tài đó không thể thực hiện được. Trường hợp này cũng có thể được coi như không
có thỏả thuận trọng tài.
"Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được" quy định tại Điều 6 Luật trọng tài
thương mại, Điều 4 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP là thỏa thuận trọng tài thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
(i) Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể
nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế
thừa, và các bên không thỏả thuận được việc lựa chọn Trung tâm trọng tài khác để giải
quyết tranh chấp.
(ii) Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc,
nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan
mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, hoặc Trung tâm trọng tài,
Tòa án không thể tìm được Trọng tài viên như các bên thỏả thuận và các bên không thỏa
thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.

(iii) Các bên đã có thỏả thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc,
nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp Trọng tài viên từ chối việc được chỉ định hoặc
Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên không thỏa thuận
được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
(iv) Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài nhưng lại
thỏa thuận áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác với Quy tắc tố tụng
trọng tài của Trung tâm trọng tài đã thỏa thuận và điều lệ của Trung tâm trọng tài do các
bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho phép áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung
tâm trọng tài khác và các bên không thỏả thuận được về việc lựa chọn Quy tắc tố tụng
trọng tài thay thế.
(v) Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏả thuận
trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ do nhà
cung cấp soạn sẵn quy định tại Điều 17 Luật trọng tài thương mại nhưng khi phát sinh
tranh chấp, người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp.
Các thỏa thuận trọng tài thuộc các trường hợp nối trên sẽ không có giá trị trên thực
tế, nếu Trọng tài nhận được đơn của một trong các bên đương sự, nhưng phía đương sự
bên kia đã phản đối về thẩm quyền trọng tài trong thời hạn luật dịnh thì Trọng tài không
có thấm quyền giải quyết. Trong trường hợp này, nếu Trọng tài vẫn giải quyết và ban
hành phán quyết thì sẽ vi phạm điểm a khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại.
Ngược lại, khi thuộc một trong các trường hợp từ điểm (i) đến (iv) Trọng tài thụ lý, giải
quyết đơn khởi kiện mà không có đương sự nào phản đối về thẩm quyền của Trọng tài thì
phán quyết trọng tài không vi phạm điểm a khoản 2 Điều 68.
2. Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
"Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài" có thể hiểu theo
nghĩa rộng sẽ bao gồm ba trường hợp sau:
- Vụ tranh chấp không thuộc loại việc được quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thương
mại.
- Vụ tranh chấp có thỏa thuận trọng tài thuộc loại việc quy định tại Điều 2 Luật trọng
tài thương mại, nhưng thỏả thuận đó không thể thực hiện được.
- Thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Tuy nhiên, quy định tại điểm c khoản 2 Điều 68 là: "Vụ tranh chấp không thuộc thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc
thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị hủy' sẽ được hiểu theo nghĩa hẹp là
trường hợp Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực không thuộc thẩm
quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại.

Ví dụ 1: Ông Nguyễn Văn Thực và bà Nguyễn Thị Thúy Liễu tranh chấp quyền sở
hữu căn nhà số 30 đường HV, phường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, Ông
Nguyên Văn Thực đã có đơn khởi kiện yêu cầu Trung tâm trọng tài M giải quyết. Trung
tâm trọng tài M đã thụ lý và ra phán quyết. Phán quyết trọng tài đã vi phạm Điều 2 Luật
trọng tài thương mại.
Ví du 2: Anh Nguyễn Văn A và chị Nguyễn Thi B trước khi đăng ký kết hôn đã lập
một thỏa thuận nếu sau này vợ chồng mâu thuẫn đến mức không thể chung sống với nhau
được nữa thì sẽ do Trung tâm trọng tài X giải quyết việc ly hôn. Luật áp dụng là BLDS.
Thỏả thuận trọng tài nói trên sẽ không có giá trị pháp lý do loại việc tranh chấp này
không thuộc quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại. Có một điểm cần lưu ý là tại
điểm c khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP khi đề cập "vụ tranh chấp
không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài" là loại việc không thuộc quy định tại
Điều 2 Luật trọng tài thương mại, đồng thời Nghị quyết còn quy định cả trường hợp vụ
tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài vượt quá phạm vi thỏả
thuận của hai bên đưa ra Trọng tài giải quyết, cũng nằm trong nội hàm của "vụ tranh chấp
không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài". Nhưng khi áp dụng căn cứ để hủy phán
quyết trọng tài thì, nếu thuộc trường hợp không có thỏa thuận trọng tài thì áp dụng điểm a
khoản 2 Điều 68; nếu Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp mà loại việc đó không
thuộc trường hợp quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại thì phán quyết trọng tài
đó đã vi phạm điểm c khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại.
Tuy nhiên, thực tế có thể có nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp được Trọng tài giải
quyết trong cùng một vụ, có quan hệ tranh chấp thuộc thẩm quyền trọng tài, có quan hệ
tranh chấp không thuộc thẩm quyền trọng tài đã có đương sự phản đối thẩm quyền Hội
đồng trọng tài trong thời bạn luật định, nhưng phán quyết trọng tài đã giải quyết tất cả các
quan hệ tranh chấp đó. Như vậy, đối với phần phán quyết thuộc thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài sẽ có giá trị pháp lý, còn phần phán quyết đối với quan hệ tranh chấp không
thuộc thẩm quyền Hội đồng trọng tài và có đương sự phản đối về thẩm quyền thì phần
phán quyết trọng tài đó không có giá trị pháp lý.
Về nguyên tắc, Tòa án chỉ hủy phần quyết định có nội dung không thuộc thẩm quyền
của Hội đồng trọng tài mà không hủy phán quyết trọng tài.
Trường hợp có thể tách được phần quyết định của Hội đồng trọng tài thuộc thẩm
quyền trọng tài, vớ phần quyết định của Hội đồng trọng tài không thuộc thấm quyền
trọng tài, thì phần quyết định không vượt quá thẩm quyền không bị hủy.
Trường hợp không thể tách được phần quyết định của Hội đồng trọng tài có nội dung
vượt quá thẩm quyền trọng tài với phần quyết định thuộc thẩm quyền trọng tài, thì Tòa án
mới hủy toàn bộ phán quyết trọng tài đó.

3. Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa
thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật trọng tài thương mại
Tại Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP đã hướng dẫn áp dụng quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại như sau:
"Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa
thuận của các bên hoặc trái với các quy định Luật trọng tài thương mại" là trường hợp các
bên có thỏa thuận về thành phần Hội đồng trọng tài, quy tắc tố tụng trọng tài nhưng Hội
đồng trọng tài thực hiện không đúng thỏả thuận của các bên hoặc Hội đồng trọng tài thực
hiện không đúng quy định Luật trọng tài thương mại về nội dung này mà Tòa án xét thấy
đó là những vi phạm nghiêm trọng và cần phải hủy nếu Hội đồng trọng tài không thể
khắc phục được hoặc không khắc phục theo yêu cầu của Tòa án quy định tại khoản 7
Điều 71 Luật trọng tài thương mại.
Ví dụ 1: Trường hợp một bên không được thông báo về đơn khởi kiện quy định tại
Điều 32 Luật trọng tài thương mại kịp thời và hợp pháp theo quy tắc tố tụng trọng tài,
Luật trọng tài thương mại dẫn tới việc không bảo đảm được quyền được thành lập Hội
đồng trọng tài là trường hợp vi phạm nghiêm trọng thú tục to tụng trọng tài quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại.
Ví dụ 2: Các bên thỏả thuận tranh chấp được giải quyết bởi Hội đồng trọng tài gồm
ba Trọng tài viên và áp dụng luật nội dung của Việt Nam để giải quyết vụ tranh chấp
nhưng thực tế việc giải quyết tranh chấp được tiến hành bởi Hội đồng trọng tài gồm một
Trọng tài viên duy nhất, pháp luật áp dụng là pháp luật nội dung của Singapore mặc dù
một bên có phản đối nhưng không được Hội đồng trọng tài chấp nhận thì đây là trường
hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài quy định tại điểm b khoản 2 Điều 68
Luật trọng tài thương mại."
Quá trình áp dụng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 68 và các quy định có liên quan
của Luật trọng tài thương mại để hủy phán quyết trọng tài cho thấy đã có trường hợp hiểu
và áp dụng không đúng, dưới đây là một ví dụ:
Tại Quyết định số 1536/2012/QĐKDTM-ST ngày 12/10/2012 của Tòa án nhân dân
thành phố H xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài theo yêu cầu của Công ty TNHH
Doanh Nhân, Hội đồng xét đơn đã nhận định:
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Quy tắc tố tụng trọng tài và khoản 2 Điều
54 Luật trọng tài thương mại quy định: "giấy triệu tập tham dự phiên họp phải được gửi
cho các bên chậm nhất 30 ngày trước ngày mở phiên họp" nhưng "Hội đồng trọng tài vụ
kiện số 35/11 đã không gửi giấy triệu tập cho bị đơn là Công ty Doanh Nhân để dự phiên
họp giải quyết tranh chấp mà chỉ gửi Công văn số 15 ngày 16/1/2010 với nội dung yêu
cầu bị đơn cung cấp thông tin, tài liệu; thông báo thời gian, địa điểm tổ chức phiên hợp