Cập nhật phương pháp điều trị

đau thần kinh tọa

Đau thần kinh tọa do tổn thương cột sống.

Bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó thoát vị đĩa đệm gây

chèn ép rễ thần kinh là nguyên nhân thường gặp nhất (60-90%). Phần lớn các

trường hợp đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm có thể điều trị khỏi bằng

phương pháp nội khoa bảo tồn. Chỉ có khoảng 20% các trường hợp phải điều

trị can thiệp và phẫu thuật. Kết quả điều trị phẫu thuật phụ thuộc vào sự

đúng đắn của chỉ định phẫu thuật và độ chính xác của phương pháp phẫu

thuật. Trong tương lai, ngày càng có các phương pháp điều trị hiệu quả và ít

gây tổn thương hơn cho loại bệnh lý này.

Tác động của tổn thương dây thần kinh tọa do thoát vị

Bệnh cảnh điển hình là sau một gắng sức xuất hiện đau, khởi đầu là đau

lưng, vài giờ hoặc vài ngày sau đau tiếp tục tăng lên và lan xuống mông, khoeo và

cẳng bàn chân theo đường đi của dây thần kinh tọa. Có khi đau âm ỉ nhưng thường

đau dữ dội, đau tăng khi ho, hắt hơi, cúi. Đau giảm khi nằm yên trên giường cứng,

gối co lại. Cảm giác kiến bò, tê cóng hoặc như kim châm bờ ngoài bàn chân chéo

qua mu chân đến ngón cái (rễ TL5), ở gót chân hoặc ngón út (rễ S1). Một số bệnh

nhân bị đau ở hạ bộ và đau khi đại tiểu tiện do tổn thương rộng xâm phạm các rễ

thuộc đám rối thần kinh đuôi ngựa. Thăm khám lâm sàng phát hiện tình trạng co

cứng cơ cạnh cột sống, cột sống mất đường cong sinh lý, vẹo cột sống, các tư thế

chống đau, gãy khúc đường gai sống... Các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh hiện đại,

đặc biệt là chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ có thể phát hiện những trường

hợp có phồng, lồi (protrusion) hoặc thoát vị đĩa đệm (herniation) mà không có

triệu chứng lâm sàng.

Khám kỹ lâm sàng có thể định khu được đĩa đệm bị tổn thương như trong

trường hợp kích thích rễ L5: Phản xạ gân gót bình thường, giảm hoặc mất cảm

giác phía ngón cái (có thể tăng ở giai đoạn kích thích), không đi được bằng gót,

teo nhóm cơ cẳng chân trước ngoài, các cơ mu chân. Hay trong trường hợp kích

thích rễ S1: Phản xạ gót giảm hoặc mất, cảm giác giảm hoặc mất phía ngón út,

không đi được bằng mũi chân, teo cơ bắp cẳng chân, cơ gan bàn chân.

Cập nhật các biện pháp điều trị

Điều trị nội khoa:

Bệnh nhân cần có chế độ bất động trong giai đoạn đau cấp tính. Những

khuyến cáo gần đây là nên cho vận động sớm ngay khi đau giảm tuỳ theo cảm

nhận của bệnh nhân nhằm tăng khả năng của cơ cột sống. Cũng có thể kết hợp vật

lý liệu pháp: dùng nhiệt, xoa nắn chỉnh hình, điện xung, sóng ngắn, châm cứu, kéo

giãn cột sống.

Thuốc chống viêm giảm đau không steroid có thể dùng dạng tiêm giai đoạn

cấp, sau đó thay bằng đường uống trong vòng 2-3 tuần. Thuốc giãn cơ dùng khi có

co cứng cơ cạnh cột sống. Tiêm corticoid ngoài màng cứng được áp dụng từ hơn

50 năm nay, tuy nhiên, khi theo dõi lâu dài một số nghiên cứu nhận thấy phương

pháp này không hơn gì phương pháp giả dược khi đánh giá về tác dụng giảm đau

và tỷ lệ bệnh nhân phải phẫu thuật.

Điều trị can thiệp: Kỹ thuật tiêm trực tiếp vào đĩa đệm làm tiêu nhân nhày

bằng chymopapaine, gần đây kỹ thuật này rất ít sử dụng do tai biến nhiều (dị ứng,

vôi hóa đĩa đệm). Phương pháp làm giảm áp đĩa đệm bằng laser và lấy nhân nhày

qua da bằng tay. Gần đây điều trị thoát vị đĩa đệm bằng sóng có tần số radio cũng

bắt đầu được thực hiện ở nước ta.

Phẫu thuật: Chỉ định phẫu thuật trong các trường hợp điều trị nội khoa

đúng phương pháp trên 3 tháng mà không có kết quả, người bệnh đau rất nhiều,

liên tục, không giảm khi nghỉ ngơi hay dùng thuốc giảm đau, có biểu hiện liệt hay

yếu một phần hay toàn bộ cơ lực của các nhóm cơ mà do các rễ thần kinh chi phối.

Mất phản xạ gân gót luôn luôn tồn tại trong thể liệt nặng, nhưng nếu chỉ mất phản

xạ gân gót đơn độc mà không kèm với liệt vận động thì không phải là một dấu

hiệu của sự nặng bệnh và triệu chứng đó thường tồn tại sau cả khi đã hết đau. Có

hội chứng đuôi ngựa: thường gặp trong đau rễ L5 (khối thoát vị lớn, thể trung tâm)

biểu hiện bằng rối loạn cơ tròn (bí hay tiểu, đại tiện không tự chủ); đau thần kinh

tọa kiểu nhiều rễ và hai bên; giảm hay mất cảm giác vùng yên ngựa (vùng tầng

sinh môn); mất phản xạ gân gót.

Kỹ thuật mổ nội soi ít xâm lấn được áp dụng trong những năm gần đây và

ngày càng phát triển vì tính chất ưu việt của phương pháp: ít xâm lấn, ít gây tổn

thương tổ chức, đặc biệt là giảm nguy cơ xơ hóa sau phẫu thuật. Phương pháp điều

trị phẫu thuật cho một tỷ lệ thành công khá cao: từ 70 - 90% các trường hợp tùy

theo các phương pháp phẫu thuật. Triệu chứng đau kiểu rễ thần kinh thường biến

mất sau mổ nhưng triệu chứng đau thắt lưng có thể tồn tại kéo dài.