
264
DỊ SỪNG NANG LÔNG
(Follicular dyskeratosis)
1. ĐẠI CƢƠNG
- Còn gọi là bệnh dị sừng nang lông của Darier, do rối loạn sừng hóa. Dị sừng
nang lông là bệnh di truyền trội. Gen bệnh di truyền ở vị trí nhiễm sắc thể 12q 23-
24.1.
- Bệnh đƣợc Lutz mô tả đầu tiên năm 1860 trong phạm vi của bệnh trứng cá
gọi là bệnh trứng cá da mỡ dày sừng tăng sản. Năm 1864, Lebert coi là bệnh vảy cá
da mỡ. Năm 1889, Darier xác định rõ bệnh với các đặc điểm riêng về lâm sàng và
mô bệnh học.
- Tỷ lệ mắc bệnh ở Bắc Âu là 1/100.000 và ở Anh là 1/55.000. Tỷ lệ bệnh ở
nam giới và nữ giới ngang nhau.
2. CHẨN ĐOÁN
a) Chẩn đoán xác định
- Lâm sàng
+ Bệnh khởi phát ở tất cả các lứa tuổi, thƣờng gặp nhiều ở độ từ 6-20 tuổi,
đỉnh cao ở tuổi dậy thì. Những biến đổi tiết mồ hôi, chất bã, thậm chí thay đổi vi
khuẩn chí có thể đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn khởi phát bệnh này. Ở
vùng phát thƣơng tổn, đầu tiên thấy thô ráp và có màu xám bẩn.
+ Thƣơng tổn cơ bản là sẩn sừng nhỏ, kích thƣớc từ 1-3mm, màu hồng hoặc
hơi nâu. Trên sẩn phủ vảy tiết màu nâu hơi xám, bẩn, sần sùi, dính vào da. Các sẩn
kết hợp lại với nhau tạo thành mảng lớn. Mùi khó chịu cùng với những những biểu
hiện cáu ghét làm ngƣời bệnh khó hòa nhập đƣợc với cộng đồng cũng nhƣ khó tìm
việc làm.
+ Vị trí thƣơng tổn ƣu tiên ở vùng da mỡ nhƣ ở mặt, thái dƣơng, da đầu, mặt
bên cổ, vùng giữa lƣng, ngực, đôi khi thấy ở các nếp gấp. Ở các đầu tận cùng, đặc
biệt là ở mu bàn tay thƣơng tổn giống dày sừng dạng hạt cơm của Hopf. Lòng bàn
tay, bàn chân, khám kỹ có thể tìm những chấm nhỏ lõm giữa, màu vàng nhạt, trong
suốt (giếng nhỏ). Thƣơng tổn này rất có giá trị giúp chẩn đoán xác định bệnh. Có
thể thấy dày sừng ở lòng bàn tay, chân dạng sợi chỉ cũng nhƣ các mảng xuất huyết.
+ Thƣơng tổn móng: móng bè rộng, có những khía dọc, có các băng dọc màu
đỏ xen kẽ các băng trắng, đôi khi thấy vết nứt, khấc ở bờ tự do của móng làm móng
dễ gẫy và có dày sừng dƣới móng.