61
CAN THIP CA CHÍNH PH VÀ QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ CỦA
DOANH NGHIP: BNG CHNG TI VIT NAM
ThS. Lương Thị Thảo
TS. Lê Thị Phương Vy
PGS.TS Trần Thị Hải Lý
Trường Đại học Kinh Tế TP. HCM
Tóm tắt
Bài nghiên cứu y xem xét ảnh hưởng của can thiệp chính phủ đến quyết định
đầu hiệu quả phân bổ vốn đầu của 336 doanh nghiệp niêm yết tại các Sở giao
dịch chứng khoán tại Việt Nam trong giai đoạn từ 2009 đến 2016. Phương pháp hồi quy
GMM hệ thống 2 bước được sử dụng để ước lượng mối quan hệ giữa các biến trong
hình nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy can thiệp trực tiếp chính phủ tác động
làm gia tăng đầu nhưng lại làm giảm hiệu quả phân bổ vốn đầu của các doanh
nghiệp trong mẫu. Ngoài ra, can thiệp thông qua các mối quan hệ chính trị với chính phủ
của lãnh đạo doanh nghiệp không ý nghĩa đối với doanh nghiệp nhà nước sở hữu chi
phối nhưng ý nghĩa cao trong việc giải thích sự thay đổi trong đầu hiệu quả
phân bổ vốn đầu tư của các doanh nghiệp khác.
Từ khóa: Can thiệp chính phủ, quyết định đầu tư, hiệu quả phân bổ vốn đầu tư.
1. Giới thiệu
Quan điểm về ảnh hưởng của can thiệp nhà nước đến doanh nghiệp nền kinh tế
thể khác nhau do cách tiếp cận, đặc điểm kinh tế từng giai đoạn khác nhau hoặc do
khác biệt về động cơ, lợi ích giai cấp nhưng thực tế cho thấy khó thể phủ nhận hoàn
toàn vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Vai trò y đặc biệt được củng cố trong
những năm gần đây khi cuộc khủng hoảng tài chínhkinh tế toàn cầu bùng nổ. Thực tế
cho thấy, can thiệp của chính phủ các quốc gia khác nhau mức độ tác động tính
hiệu quả khác nhau. những nền kinh tế phát triển, mức độ can thiệp của nhà nước thấp
hơn khi các hệ thống kinh tế đó hoạt động tương đối trơn tru, hiệu quả; còn đối với
những nền kinh tế chuyển đổi thì sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế và các doanh
nghiệp mạnh mẽ hơn. Đối với các doanh nghiệp, đầu quyết định tài chính quan
trọng hàng đầu nên việc xem xét quyết định này dưới tác động của can thiệp chính phủ
một trong những vấn đnghiên cứu mang tính thực tiễn hấp dẫn các nhà nghiên cứu
trên thế giới. Các tranh luận thuyết lẫn kết quả thực nghiệm vẫn chưa cho thấy sự
thống nhất giữa các trường phái. Các nghiên cứu của Chen & Yuan (2004); Pistor & u
(2005), Wang & Yung (2011) ủng hộ sự can thiệp của chính phủ đối với doanh nghiệp
nền kinh tế cho rằng trong môi trường pháp chưa hoàn thiện và/hoặc đối với nền kinh
tế chuyển đổi, sự can thiệp của chính phủ thể đóng một vai tthay thế trong việc
nâng cao hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, Wurgler (2000), Chen cộng sự (2011, 2013),
Pan & Tian (2017) cho thấy sự can thiệp trực tiếp của chính phủ thông qua tỷ lệ sở hữu
chi phối thông qua các mối quan hệ chính trị của lãnh đạo cấp cao doanh nghiệp làm
tăng đầu tư nhưng lại làm giảm hiệu quả trong việc phân bổ vốn đầu tư.
Việt Nam với nền kinh tế đang chuyển đổi, sau hơn 30 năm đổi mới đã đạt được
những thành tựu trong các mặt của đời sống kinh tế - hội, nhưng quản nhà nước
cũng tồn tại nhiều hạn chế liên quan đến đầu công, quản sử dụng tài sản công,
62
đặc biệt đầu và hiệu quả đầu của doanh nghiệp nhà nước luôn vấn đề thời sự, thu
hút sự quan tâm của toàn hội. Sở như vậy quyết định đầu đóng vai trò quan
trọng mang tính chiến lược dài hạn đối với doanh nghiệp nhằm chiếm lĩnh thị phần,
gia tăng giá trị doanh nghiệp góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo hiểu biết
của chúng tôi, các nghiên cứu vảnh hưởng của can thiệp chính phđến hoạt động đầu
tư của doanh nghiệp còn rất ít và chủ yếu dừng lại ở việc xem xét tác động trực tiếp thông
qua sở hữu nhà nước (Phan Thị Bích Nguyệt, 2014), chưa nghiên cứu nào đề cập đến
ảnh hưởng từ can thiệp của chính phủ thông qua các mối quan hệ chính trị của lãnh đạo
cấp cao trong doanh nghiệp. Do đó, việc thực hiện đề tài nghiên cứu này là cần thiết
nhằm lấp đầy khoảng trống nghiên cứu, góp phần củng cố lý thuyết và làm giàu thêm các
nghiên cứu thực nghiệm khi được thực hiện ở các quốc gia mới nổi như Việt Nam. Ngoài
ra, kết quả nghiên cứu sẽ những ý nghĩa hàm ý nhất định đối với các nhà nghiên
cứu, hoạch định chính sách các doanh nghiệp tại Việt Nam. Để đạt được c mục tiêu
nghiên cứu y, bài nghiên cứu tập trung o các câu hỏi nghiên cứu (i) can thiệp trực
tiếp chính phủ thông qua t lệ sở hữu chi phối hoặc qua các mối quan hệ chính trị của
lãnh đạo cấp cao trong doanh nghiệp tác động như thế nào đến quyết định đầu
hiệu quả phân bổ vốn đầu của doanh nghiệp tại Việt Nam? (ii) các mối quan hệ chính
trị với chính phủ của lãnh đạo doanh nghiệp tác động khác nhau thế nào đến quyết
định đầu tư hiệu quả phân bổ vốn đầu của doanh nghiệp nhà nước nắm tỷ lệ sở hữu
chi phối các doanh nghiệp phi nhà nước (nhà nước không chi phối)? GMM hệ thống 2
bước (system GMM 2 steps) được sử dụng để ước lượng các hệ số trong mô hình nghiên
cứu trên mẫu nghiên cứu gồm 336 doanh nghiệp niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán
TP.HCM và Hà Nội trong khoảng thời gian từ 2009-2016, tương ứng 2.688 quan sát theo
năm. ết quả nghiên cứu cho thấy, khi xét trên toàn mẫu, can thiệp trực tiếp chính phủ
thông qua t lệ sở hữu chi phối hay thông qua các mối quan hệ chính trị của lãnh đạo cấp
cao đều khiến doanh nghiệp xu hướng đầu nhiều hơn nhưng độ nhạy cảm của đầu
với các hội đầu lại giảm khiến hiệu quả phân bổ vốn đầu tư giảm. hi xem xét
mẫu nghiên cứu chỉ gồm các doanh nghiệp do nhà ớc nắm quyền chi phối (ký hiệu
S Es) thì ảnh hưởng từ can thiệp thông qua tỷ lệ chi phối vốn tính lấn át, khiến ảnh
hưởng từ can thiệp thông qua mối quan hệ chính trị của lãnh đạo cấp cao không còn ý
nghĩa trong việc giải thích đầu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi xem xét trên mẫu
gồm các doanh nghiệp nhà ớc không nắm giữ t lệ chi phối các doanh nghiệp phi
nhà nước (ký hiệu non-S Es) thì can thiệp thông qua các mối quan hệ chính trị với
chính phủ của lãnh đạo cấp cao doanh nghiệp vẫn ý nghĩa rất cao trong việc giải thích
thay đổi trong đầu tư và hiệu quả phân bổ vốn của những doanh nghiệp này.
2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước đây
Tranh luận về vai trò của nhà nước (chính phủ) đối với nền kinh tế được chia thành
hai quan điểm chính. Thứ nhất; quan điểm đề cao vai trò thị trường của trường phái cổ
điển ( dam Smith), n cổ điển và chủ nghĩa tự do mới (Milton Friedman), cho rằng nền
kinh tế thị trường sự ổn định chủ yếu thông qua chế cạnh tranh tự do, sự can thiệp
của nhà nước đôi khi cần thiết nhưng cũng chỉ nên giới hạn theo phương châm “thị
trường nhiều hơn, nhà nước can thiệp ít hơn”. Thứ hai; quan điểm đề cao vai trò nhà
nước của eynes và trường phái eynes (John R. Hicks, lvin H. Hansen), chủ nghĩa thể
chế (Wesley Mitchell), kinh tế học phái tả (John . Galbraith) kinh tế chính trị học
cấp tiến, cho rằng không một cơ chế tự hành nào ththúc đẩy nền kinh tế bản
chủ nghĩa đến khả năng sử dụng toàn bộ nguồn lực làm cho hoạt động đầu tăng lên
đều đặn bằng sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế. Vì đầu tư là quyết định tài chính
63
quan trọng của doanh nghiệp, là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Levin
& Renelt, 1992) nên câu hỏi rằng can thiệp chính phủ tác động như thế nào đến quyết
định đầu của doanh nghiệp nhận được sự quan tâm đặc biệt của các học giả và các nhà
làm chính sách. Các tranh luận thuyết lẫn kết quả thực nghiệm vẫn chưa cho thấy sự
thống nhất giữa các trường phái. Trường phái cho rằng can thiệp chính phủ tác động
cùng chiều đến quyết định đầu của doanh nghiệp dựa trên giả định chính là nếu không
sự can thiệp của chính phủ thì các doanh nghiệp không thể giải quyết triệt để một vài
khuyết tật của thị trường; chẳng hạn vấn đề ngoại tác hay thông tin bất cân xứng. Bằng
cách can thiệp vào c quyết định tài chính của doanh nghiệp, chính phủ thể thúc đẩy
hoạt động đầutăng trưởng thông qua đẩy nhanh tiếp cận nguồn vốn chuyển giao
công nghệ (Rosenstein-Rodan, 1943; Sacristan, 1980; Morris & delman, 1988), ng
cường ổn định vĩ mô (Wade, 1990), tăng cường chất lượng và đổi mới sản phẩm (Hart và
cộng sự, 1996). Ngược lại, những người ủng hộ thị trường tự do kinh tế nhân cho
rằng can thiệp chính phủ vào các hoạt động kinh tế nhiều khả năng dẫn đến kết quả tăng
trưởng đầu thấp kém hiệu quả bởi các mục tiêu đa dạng của chính phủ và vấn đề
thông tin (Hayek, 1945; Shleifer & Vishny, 1994). Hai cách thức can thiệp trực tiếp của
nhà nước được các học giả trên thế giới nghiên cứu phổ biến can thiệp thông qua t lệ
sở hữu vốn chi phối trong doanh nghiệp can thiệp thông qua mối quan hệ chính trị với
chính phủ của lãnh đạo doanh nghiệp.
2.1. Can thiệp chính phủ thông qua nắm giữ tỷ lệ sở hữu vốn chi phối
Đánh giá tác động của can thiệp trực tiếp từ chính phủ đến quyết định đầu của
doanh nghiệp phần lớn kết quả nghiên cứu cho thấy doanh nghiệp với t lệ sở hữu Nhà
nước càng cao thì đầu càng nhiều nhưng hiệu quả đầu lại ng thấp. Shleifer &
Vishy (1994) chỉ ra rằng các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà nước cao phải
thực hiện các dự án chính phủ áp đặt liên quan đến mục tiêu chính trị hội, bên
cạnh mục tiêu lợi nhuận. Ngoài ra, việc các chính trị gia can thiệp vào doanh nghiệp,
buộc các giám đốc phải hối lộ cho họ nhằm giúp doanh nghiệp không phải đi theo các
mục tiêu các chính trị gia đã đặt ra khiến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp bị
giảm sút. Tuy nhiên, Evans (1995) lại cho rằng sự tồn tại của lợi ích nhân một bộ
phận quan chức chính trị gia thì không nhất thiết dẫn đến ảnh hưởng bất lợi từ can
thiệp của chính phđặc điểm cấu trúc của bộ y nhà nước thể hạn chế việc lạm
dụng quyền lực làm cho can thiệp của chính phủ trở nên lợi cho doanh nghiệp. ết
quả là, can thiệp của chính phủ thể giúp doanh nghiệp nhiều hội đầu hơn
nguồn vốn dồi dào hơn, từ đó thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng đầu tư. Ngoài ra, trong nền
kinh tế do nhà nước điều hành, sự tham gia của chính phủ trong việc ra quyết định đầu
sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn và các cơ hội kinh doanh
giá trị khác (Sapienza, 2004). llen cộng sự (2005) trong nghiên cứu của mình đã
cho thấy phần lớn các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu bị chi phối bởi yếu tố
chính trị hay xuất phát từ các nguyên nhân khác không mang tính kinh tế đều dẫn đến
doanh nghiệp thường đầu nhiều nhưng không đem đến sự gia ng trong giá trị doanh
nghiệp, kết quả này củng cố quan điểm của Shleifer & Vishny (1994). Chen cộng sự
(2011) chỉ ra rằng độ nhạy cảm của chi tiêu đầu với các hội tăng trưởng các
doanh nghiệp nhà nước thấp hơn đáng kể so với các doanh nghiệp khác, chứng tỏ các
doanh nghiệp y đầu kém hiệu quả hơn. Chen cộng sự (2013) kết luận rằng
can thiệp của nhà nước quan hệ ngược chiều với quyết định đầu tư của doanh nghiệp,
tác động ấy cao và ý nghĩa đối với doanh nghiệp nhà nước hơn so với doanh nghiệp tư
nhân doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời ớng thay đổi của đầu sẽ làm giảm
64
hiệu quả đầu của các doanh nghiệp nhà ớc các doanh nghiệp nhân. Tóm lại,
các doanh nghiệp sự can thiệp của chính phủ thông qua nắm giữ tỷ lệ sở hữu chi phối
thường sự bảo hộ của chính phủ nên các doanh nghiệp này luôn nguồn tài trợ dồi
dào, khả năng kiệt quệ tài chính gần như không có, thậm chí khi các doanh nghiệp này
đầu không hiệu quả thì vẫn thể tiếp tục được vay nợ từ các ngân hàng thuộc sở hữu
nhà nước cho nên không do để hạn chế việc đầu từ việc sử dụng đòn bẩy i
chính (Yuan & Mottohashi, 2014; Shao và cộng sự, 2014; Shen cộng sự, 2016; Ding
và cộng sự, 2016).
2.2. Can thiệp chính phủ thông qua các mối quan hệ chính trị của lãnh đạo doanh
nghiệp
Một hình thức can thiệp trực tiếp khác đã được nhiều nghiên cứu đề cập thông
qua việc chính phủ can thiệp chỉ định lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp hoặc thông qua
các mối quan hệ chính trị (political connections). Một doanh nghiệp được xem các
mối quan hệ chính trị nếu có chủ tịch hội đồng quản trị hoặc giám đốc điều hành là người
đang hoặc đã từng quan chức chính phủ, quân đội (Faccio, 2006; Fan cộng sự,
2007; Chen cộng sự, 2011). Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy các mối quan
hệ chính trị đem lại nhiều lợi thế nhất định cho doanh nghiệp (Claessens cộng sự,
2008, Piotroski & hang, 2014), chẳng hạn lợi thế nắm được thông tin chính sách nhanh,
khả năng tiếp cận nguồn vốn bên ngoài dễ dàng hơn, giảm ràng buộc giới hạn về nguồn
vốn (Chan cộng sự, 2012) hay nhiều các hợp đồng hơn dựa vào các mối quan hệ
(Goldman cộng sự, 2013); do đó thể ảnh ởng đến quyết định đầu của các
doanh nghiệp (Lang cộng sự, 1996; ivazian cộng sự, 2005). Theo Wu cộng sự
(2012), Pan & Tian (2017) thì sự ảnh hưởng y thkhác nhau giữa loại hình doanh
nghiệp nhà nước loại hình doanh nghiệp ngoài nhà nước. Cụ thể, doanh nghiệp nhà
nước thường các mối quan hệ chính trị mang tính chất mặc định thông qua nhà ớc
nắm giữ quyền chi phối chỉ định người đại diện làm lãnh đạo cấp cao của doanh
nghiệp. hi đó, các mối quan hệ chính trị trong doanh nghiệp nhà nước sẽ không đem lại
giá trị tăng thêm, nghĩa đối với loại hình doanh nghiệp y tác động của can thiệp
thông qua tlệ sở hữu khiến doanh nghiệp đầu nhiều hơn, thì khi xem xét tác động
đồng thời với việc can thiệp thông qua các mối quan hệ chính trị đầu sẽ không tăng
thêm nữa. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ngoài nhà ớc động cơ mạnh mẽ để nuôi
dưỡng duy tcác mối quan hệ chặt chẽ với chính phủ, điều này giúp khắc phục thất
bại về thể chế và tưởng phân biệt đối với shữu tư nhân; các mối quan hệ chính trị
đã được chứng minh là giá trị đối với quyết định đầu tài trợ của các doanh
nghiệp ngoài nhà nước (Li và cộng sự, 2008; u và cộng sự, 2011), từ đó thúc đẩy doanh
nghiệp gia tăng đầu tư. Tuy nhiên, theo Huang cộng sự (2011) tsự tự tin quá mức
của ban lãnh đạo một trong những nguyên nhân khiến đầu trong các doanh nghiệp
tại Trung Quốc bị bóp méo. Chen cộng sự (2011) cũng chỉ ra bất cân xứng thông tin
cũng như sự mâu thuẫn giữa giám đốc các nhà đầu bên ngoài làm cản trở việc
doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư tối ưu.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Mô hình nghiên cứu
Để tìm hiểu về tác động từ can thiệp chính phủ đến quyết định đầu hiệu quả
đầu (đầu tối ưu) của doanh nghiệp, tác giả xây dựng nh nghiên cứu thực
nghiệm dựa trên hình nghiên cứu của Chen cộng sự (2011), Pan Tian (2017)
đồng thời bổ sung một số biến đặc thù cho phù hợp với điều kiện Việt Nam.
65
Trong đó,
INVi,t là biến phụ thuộc đo lường chi đầu tư của doanh nghiệp i vào năm t.
INVi,t-1 biến trễ của biến phụ thuộc, đóng vai trò như biến độc lập trong hình.
thuyết cấu trúc vốn cho rằng các công ty có thể điều chỉnh chi tiêu đầu tư của mình nhằm
hướng đến cấu trúc vốn tối ưu nên đầu k hiện tại thể chịu ảnh hưởng bởi đầu
ở kỳ trước đó.
TQ: Theo Modigliani & Miller (1958), trong thị trường hoàn hảo, đầu của doanh
nghiệp được quyết định dựa vào một yếu tố duy nhất là các hội đầu tư, được đo lường
bởi hệ số Q của Tobin (Tobin, 1969). Nếu giá trị thị trường của công ty cao hơn so với
chi phí vốn đầu thay thế hay giá trị của nhà xưởng, thiết bị đầu mới rhơn so với
giá thị trường của công ty. Do vậy, công ty sẽ dễ phát hành cổ phiếu với giá cao nhằm
huy động nguồn tài trợ để đầu tài sản mới. Ngoài ra, giá phát hành cao thì chi phí sử
dụng vốn chủ sở hữu thấp kéo theo t suất sinh lợi đòi hỏi tối thiểu đối với các dự án đầu
cũng thấp nên khả năng chấp nhận dự án gia tăng. Nghĩa là, khi hội đầu càng
tăng thì doanh nghiệp có khả năng đầu tư càng nhiều.
GOVi,t-1 biến độc lập chính của nh, thể hiện can thiệp của chính phủ vào hoạt
động đầu của doanh nghiệp i k t-1. Biến này gồm 2 đại diện khác nhau t lệ
sở hữu chi phối của nnước (S E) lãnh đạo cấp cao trong doanh nghiệp những
người có các mối quan hệ chính trị với chính phủ (PC).
Biến SOE: T lệ sở hữu của nhà nước trong doanh nghiệp được xem chi phối theo
Shao và cộng sự (2014) ở mức 30%. Tuy nhiên, tại Việt Nam theo những thay đổi mới
nhất trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, thì điều kiện tổ chức đại hội cổ đông lần đầu
chỉ cần tỷ lệ 51% tổng số phiếu biểu quyết (giảm so với mức 65% trước đây) để
thông qua nghị quyết đại hội cổ đông tmức thấp nhất yêu cầu cũng chỉ còn 51%.
Điều đó nghĩa là, nếu điều lệ công ty không quy định khác thì chỉ cần sở hữu
khoảng 26% (~51% x 51%) số cổ phiếu có quyền biểu quyết trong lần đại hội cổ đông
lần thứ nhất đủ để thông qua các quyết định trọng yếu của doanh nghiệp. vậy,
trong bài này, tlệ chi phối được tác giả xác định ngưỡng 26% và sử dụng giá trị
này m căn cứ gán giá trị nhị phân cho biến S E. Nói cách khác, S E biến giả,
nhận giá trị bằng 1 nếu tỷ lệ sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp lớn hơn hoặc bằng
26% nhận giá trị 0 nếu ngược lại. Nắm tỷ lệ chi phối giúp nhà nước quyền lực
lớn trong việc thực thi các quyết định tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt quyết
định đầu tư. Cụ thể, các doanh nghiệp do nắm giữ t lệ sở hữu chi phối thường sự
bảo hộ của chính phủ nên các doanh nghiệp này luôn nguồn tài trợ dồi dào, kh
năng kiệt quệ tài chính gần như không có, thậm chí khi các doanh nghiệp này đầu
không hiệu quả thì vẫn có thể tiếp tục được vay nợ từ các ngân hàng thuộc sở hữu nhà
nước. Vì vậy, tác giả đặt ra giả thuyết nghiên cứu như sau:
H1a: Can thiệp chính phủ thông qua tlệ sở hữu khiến doanh nghiệp đầu nhiều
hơn.
Biến PC: biến giả, nhận giá trị 1 nếu lãnh đạo cấp cao ít nhất một người trong
hội đồng quản trị hoặc ban điều hành của doanh nghiệp đang hoặc đã từng m việc
trong quan chính phủ, quản doanh nghiệp nhà nước hoặc quân đội; ngược lại
biến y mang giá trị 0. Cách đo lường y một chút khác biệt so với cách đo