Chủ thể và tư cách: Nghĩ về quy định nhà
đầu tư nước ngoài
Không thể phủ nhận rằng, trong xã hội, mỗi chủ thể (cá nhân hoặc pháp
nhân) tồn tại dựa trên các hành vi tương tác với nhau. Mỗi hành vi tương tác
trong xã hội tạo cho mỗi chủ thể một tư cách khác nhau. Và không hiếm
trường hợp, một hành vi to cho chủ thnhiều tư cách, nhìn từ các mối quan
hvới các chủ thể khác. Hay, nói một cách khác đi, mỗi chủ thể đều phải pn
thân trong các mối quan htương tác với các chủ thể khác trong suốt quá
trình tồn tại. Đầu tư cũng là hành vi to ra sự phân thân như thế cho chủ thể.
Dự án đầu tư và nhà đầu tư
Một chủ thể muốn mang tiền hoặc tài sản để thực hiện hoạt động đầu tại Việt
Nam, theo luật đầu tư, trước tiên, hcần phải có một dự án đầu tư. Dán đầu tư,
theo định nghĩa của luật đầu tư, là tập hợp c đề xuất bỏ vốn trung hạn và i hạn
để tiến hành các hoạt động đầu trên địa bàn cthể, trong khoảng thời gian xác
định. i một ch khác, dự án đầu là tập hợp các ý tưởng kinh doanh của mt
chủ thể. Tập hợp c ý tưởng kinh doanh đó, cũng theo luật đầu tư, phải được đăng
hoặc thẩm tra trước khi triển khai thực hiện. Khi thủ tục đăng hoặc thẩm tra
được hoàn thành, chủ thể của các ý tưởng kinh doanh chính thức được xác lập một
tư cách: nhà đầu tư.
Tuy nhiên, nhà đầu không xn tay t thực hiện d án đầu tư. Để biến c ý
tưởng kinh doanh thành hiện thực, họ thành lập doanh nghiệp theo c loại hình
khác nhau được quy định trong luật doanh nghiệp.
Thành viên và pháp nhân
Việc kinh doanh thể lãi, hoặc trái lại, cũng thể thua lỗ. Việc thua lỗ rất
thdẫn tới tình trạng sạt nghiệp đối với nhà đầu , bởi, một quy tắc về trách
nhim n s: chủ thể phải chịu trách nhiệm bằng toàn bkhối tài sn có của sản
nghiệp. Để né tránh rủi ro này, kthuật pháp đã thừa nhận tư cách chủ thể (tư
cách pháp nhân) cho doanh nghiệp. Nhà đầu tư không còn lo lng với nguy cơ phải
chịu trách nhiệm bng sản nghiệp n sự cho hoạt động kinh doanh nữa. Mọi hoạt
động để triển khai dự án đầu tư, sdo doanh nghip tiến hành. Hay, nói theo ngôn
ngpháp lý, doanh nghiệp sẽ, nhân danh chính và chịu trách nhim bằng toàn
bkhối tài sản trong sn nghiệp của nó, xác lập hàng loạt các giao dịch để biến
ý tưởng kinh doanh của nhà đầu tư thành hiện thực. nhà đầu tư, vi hành vi hùn
vốn cho doanh nghiệp, tự bằng lòng với một tư cách khác: thành viên hoặc cổ đông
của doanh nghiệp mà h thành lập nên (sau đây gi chung là thành viên).
Một cách rõ ràng, ta thy rằng, chủ thể có dự án đầu tư luôn mang tư cách kép: (i)
ch nhà đầu tư trong mi quan hệ giữa họ với quan đăng ký và thẩm tra ý
tưởng kinh doanh của họ; (ii) tư cách thành viên trong mối quan hgiữa họ vi
doanh nghiệp mà h lập nên để thực hiện dự án.
Nhắc li một lần nữa rằng, chính doanh nghiệp chứ không phải thành viên ca
doanh nghiệp, nhân danh chính và bng tài sn thuộc sản nghiệp của mình, mi
là chthể xác lập các giao dịch để thc hiện dự án đầu tư. Với ngôn ngữ thông
thường, người ta có thể nói: doanh nghiệp A là của ông A. Điu đó nghĩa rằng,
không spn biệt giữa doanh nghiệp và thành viên của nó. Tuy nhiên, vmặt
pháp lý, doanh nghip và thành viên của lại là hai chủ thể độc lập, tự chịu trách
nhim pháp lý bằng sản nghiệp của riêng mình. Người thứ ba xác lập giao dịch với
doanh nghip, nếu xảy ra tranh chấp, chỉ có thể khởi kiện doanh nghiệp chứ không
thkhởi kiện thành viên của doanh nghiệp. Tương tự, người thứ ba xác lập giao
dch vi thành viên, nếu có tranh chấp, chỉ thể khởi kiện chính thành viên ch
không th khi kin doanh nghiệp.
Quy định về nhà đầu nước ngoài: ngoi l hay là s tuỳ tiện?
Theo một quy định gần đây nhất (Quyết định s88/2009/-TTg của Thủ tướng
Chính phngày 18 tháng 6 năm 2009, sau đây gọi tắt là Quyết định số 88), nhà
đầu tư nước ngoài bao gồm tổ chức úng ra, phải là pháp nhân, bi, không phải t
chức nào cũng cách pháp nhân) nhân nước ngoài. Tchức thành lập
hoạt động Việt Nam tỷ lệ tham gia góp vốn của n nước ngoài trên 49%
cũng được Quyết định này liệt kê là t chức nhân nước ngoài.
Giống như nhân, pháp nhân cũng những yếu tố nhân thân. Thông thường,
pháp nhân thành lập quốc gia nào t được coi là pháp nhân của quốc gia đó.
Điều này ging như yếu tố quốc tịch của một cá nhân. Việc coi pháp nhân thành
lập Việt nam pháp nhân nước ngoài một quy định không theo thông lệ
chung. Đi tìm li giải cho ngoại l này, qu thật, không phải là một điều dễ
dàng.
Hơn thế, nhắc lại rằng, pháp nhân và thành viên của là hai chthể pháp độc
lập, tự nhân danh chính mình xác lập các giao dịch và tchịu trách nhiệm bằng tài
sản thuộc sản nghiệp của mình. Nguyên tc pháp này khiến cho việc đi tìm l
của quy định nhân thân của thành viên (quốc tịch) là yếu tố nh hưởng tới tư cách
chthể của pháp nhân mà hthành lập, trnên cùng kkhăn. Thực vy, vi
quy định này, doanh nghiệp được thành lp tại Việt nam bỗng nhiên trthành t
chức nước ngoài thành viên mang quốc tịch nước ngoài góp vn vào doanh
nghiệp (trên 49% tổng số vốn của doanh nghiệp). Vi việc bị trở thành t chức
nước ngoài, doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam này s bị hạn chế hoạt động
trong một số lĩnh vực.
Không thnói rằng đây là một quy định mang tính ng bằng. Cứ thử hình dung:
doanh nghiệp này, gi sử, muốn mua cổ phần của một doanh nghiệp Việt Nam
kinh doanh trong lĩnh vực bất động sn (lĩnh vực kinh doanh điều kiện đối với
nhà đầu nước ngoài). Thế thì, ai slà ch thể của giao dịch mua cổ phần này,
theo quan điểm của c giả Quyết định số 88? Doanh nghiệp hay là thành viên của
doanh nghiệp? u trả li, theo học thuyết pháp được thừa nhận rộng rãi v
pháp nhân, rõ ràng, chủ thcủa giao dịch, trong trường hợp này, không thlà thành
viên của doanh nghiệp. Chính doanh nghiệp, nhân danh chính và chịu trách
nhim bằng tài sn của nó, sẽ xác lập và thực hiện giao dịch. Không phải là chủ thể
của giao dch, cũng không phi chịu trách nhiệm bng tài sn thuộc sản nghiệp của
mình đối vi giao dịch, thế nhưng, thành viên, với yếu tố nhân thân (quốc tịch
nước ngoài) của mình, lại trở thành nhân tmang tính quyết định tới cách của
doanh nghiệp trong các mối quan h pháp . Điều này công bằng vi doanh
nghiệp? Cũng rất kthể tìm thấy u trả li về sự ng bằng khi ta so sánh
doanh nghiệp này vi doanh nghiệp cũng thành viên mang quốc tịch nước
ngoài, tuy nhiên, tlgóp vốn nhỏ hơn 49% tổng số vốn của doanh nghiệp. Một
băn khoăn nữa: với điều khoản này, học thuyết pháp v pháp nhân được thừa
nhận rộng rãi tại hu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới, liệu còn tồn tại,
trong con mt các tác gi soạn thảo điu luật?
Luật pháp, nếu không tuân thủ thông lcũng như sự công bng, không thể làm tròn
chức năng là ng cụ thiết lập trật tự xã hi, trái lại, sẽ chỉ khiến cho các mi quan
hxã hội trở nên ln xộn và cách của c chủ thể trong xã hội bị đảo ln mà
thôi./.