Chứng khoán đang rất cần tái định vị
Để thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát, Chính phủ hiện đang
triển khai một loạt giải pháp, trong đó có giải pháp hạ thấp chỉ tiêu tăng
trưởng tín dụng xuống 20%.
Với mục tiêu này thì việc huy động vốn vay của các doanh nghiệp để phát
triển kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng. Trong bối cảnh đó, thị trường chứng
khoán, vốn được coi là một kênh dẫn vốn cho nền kinh tế, liệu có thể giúp gì
cho doanh nghiệp hay không?
Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng bị “hạn chế” như hiện nay thì việc
doanh nghiệp xoay qua thị trường chứng khoán để tìm vốn có thể là khuynh
hướng, là chuyện bình thường, nhưng không đơn giản. Vì đối với doanh
nghiệp, trong nhiều trường hợp vốn ngân hàng chỉ là nguồn bổ sung.
Vấn đề còn nằm ở chỗ quy mô vốn huy động và khả năng huy động thành
công. Điều này tùy thuộc nhiều vào tình trạng thị trường chứng khoán và
tâm lý nhà đầu tư, nhất là vào thời buổi khó khăn như hiện tại. Tuy vậy, thị
trường chứng khoán vẫn luôn là kênh cung vốn hiệu quả mà doanh nghiệp
trông cậy.
Cho dù thị trường không còn hào phóng như các năm trước, nhưng cánh
cửa huy động vốn trên thị trường này vẫn rộng mở, doanh nghiệp vẫn có thể
lựa chọn thời điểm và loại sản phẩm để chào mời, với điều kiện việc huy
động đó đồng thời là cơ hội tốt đối với nhà đầu tư.
Hoạt động huy động vốn là hoạt động sơ cấp, mặc dù đối tượng hay sản
phẩm đầu tư cũng được gọi là “chứng khoán”, nhưng đây được xem là bước
đầu đầu tư trực tiếp vào doanh nghiệp, và như vậy có thể xem nó chưa “làm
khó” cho thị trường - ở đây được hiểu là thị trường giao dịch thứ cấp. Có
chăng chỉ là chuyện niêm yết sau này.
Nếu doanh nghiệp uy tín, có dự án tốt, mục tiêu kinh doanh thuyết phục,
triển vọng về hiệu quả có thể dự đoán được là hấp dẫn thì doanh nghiệp
chẳng lo khó và thị trường cũng chẳng sợ nó làm khó về sau. Vì trong giai
đoạn kinh tế khó khăn này cơ hội đầu tư tốt chắc chắn vẫn sẽ được chào đón,
nếu không muốn nói là săn lùng.
Đặc biệt, các nhà đầu tư giá trị, các quỹ đầu tư “dưới sàn” hay dài hạn luôn
hiện diện. Ngay cả giới “lướt sóng”, vào một lúc nào đó, họ cũng có thể lui
lại để đón đầu. Nói chung, nhà đầu tư vẫn đang ngoài cửa doanh nghiệp để
chờ cơ hôi...
Người ta gọi thị trường chứng khoán là “nhiệt kế” của nền kinh tế dựa trên
hai phương diện. Một là thuộc tính phản ứng nhạy cảm của thị trường trước
các biến động nói chung và hai là về quy mô có tính đại diện của định chế
này trong hoạt động kinh tế, hoặc đối với từng lĩnh vực hay ngành kinh tế.
Với thị trường chứng khoán Việt Nam, phản ứng nhạy cảm là có, nhưng về
quy mô thì diễn biến của thị trường chưa thể được xem là có tính đại diện
phản ảnh đúng sức khỏe của nền kinh tế. Tuy nhiên, dù sao thì đây vẫn là
kênh tài chính quan trọng, ngày càng khẳng định vai trò nuôi dưỡng sức
sống doanh nghiệp và thúc đẩy phát triển kinh tế nước nhà. Do đó, ta cần có
thái độ và cách hành xử thích đáng, không thể cứ hễ kinh tế khó khăn là đem
chứng khoán ra “hy sinh” như lâu nay.
Thị trường chứng khoán là định chế công cụ có tính liên lập, đáp ứng yêu
cầu đồng bộ trong cấu trúc kinh tế thị trường. Dó đó, không thể tách nó ra để
mà xét đoán bằng ngôn từ tình cảm, hoặc có thể nói sản xuất - kinh doanh là
“thực”, là có ích, còn đầu tư chứng khoán là “ảo”, là không có ích.
Suy diễn sai lầm như vậy ít nhiều đã dẫn tới tâm lý dị ứng, tạo ra cách hành
xử phân biệt rất bất lợi cho việc phát triển thị trường chứng khoán nói riêng
và kinh tế nói chung. Nhiều biểu hiện không thuận lợi tại các diễn đàn và áp
lực chính sách đối với thị trường chứng khoán gần đây đã làm cho giới đầu
tư có cảm giác chứng khoán bị “ra rìa”. Đây là điều đáng tiếc.
Theo quan điểm của tác giả, chẳng cần đến khi siết tín dụng - điều này chỉ
tạo thêm tâm lý căng thẳng, bi quan và “mất lửa” - thì với thực tế thị trường
và lãi suất ngất trời như hiện nay, có lẽ chẳng mấy ai dám cầm tiền vay để đi
mua chứng khoán.
Do vậy, rất cần có một sự định vị lại thị trường chứng khoán trong nền kinh
tế, từ tầm nhìn vĩ mô. Trong những điều kiện khó khăn như hiện nay, nhà
đầu tư rất cần nghe thông điệp, biết động thái, và thấy được sự chuyển động
tích cực, thể hiện mối quan tâm thực sự của giới hữu trách đến sức sống thị
trường.