
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN DỊCH TỄ HỌC
I. KHÁI NIỆM
Bệnh tật đã ảnh hưởng tới một số lượng lớn các cá thể trong quần thể động vật, đó là
mục tiêu khảo sát từ lâu của dịch tễ học. Dịch tễ học hiện đại là kết quả của một quá
trình phát triển dần dần, có thể thấy được tiến trình phát triển đó thông qua một số định
nghĩa về dịch tễ học kế tiếp nhau của một số tác giả như sau:
Dịch tễ học (Epidemiology) là môn học
Nghiên cứu sự phân bố của bệnh hoặc tình trạng sức khỏe trong quần thể hoặc sự tác
động của các yếu tố quyết định sức khỏe đến sự phân bố bệnh (Lilienfeld, 1958).
Nghiên cứu về bệnh trong quần thể (Schwabe, 1977).
Phương pháp lập luận về bệnh và đề cập đến suy luận sinh học bắt nguồn từ quan sát
hiện tượng bệnh trong quần thể và các nhóm cá thể (Lilienfeld, 1978).
Nghiên cứu về tần số, sự phân bố, và yếu tố quyết định sức khỏe và bệnh trong quần
thể (Martin, 1987).
Tóm lại: Dịch tễ học là môn khoa học nghiên cứu về tình trạng phân bố bệnh tật, cùng
các yếu tố quyết định sự phân bố đó. Vì vậy môn dịch tễ học có thể được xem là môn
học nghiên cứu về sức khỏe và bệnh tật của quần thể, mặc dầu quan tâm đến quần thể,
nhưng những hiểu biết về sức khỏe và bệnh tật của quần thể lại là cơ sở khoa học cho
các quyết định y học trên từng cá thể.
Dịch tễ học đang dần dần trở thành môn khoa học lý luận cơ bản của ngành Thú y và
của các ngành khoa học khác nghiên cứu về sức khỏe động vật, được ứng dụng rộng
rãi trong các nghiên cứu cũng như trong các công tác thực tiễn hằng ngày, đã có một
sự biến đổi sâu sắc trong khoảng thời gian gần đây. Cần phải phân biệt trường hợp một
cá thể bị bệnh và trường hợp một tập hợp các cá thể mắc bệnh trong quần thể (còn gọi
là hiện tượng bệnh hàng loạt). Không chỉ riêng các bệnh truyền nhiễm mới gây nên
hiện tượng bệnh xảy ra hàng loạt, mà gần như tất cả các loại bệnh, các hiện tượng sinh
lý, rối loạn sự tăng trưởng cũng xảy ra có tính chất đồng loạt. Hiện tượng sức khỏe bất
thường xảy ra đồng loạt, thì chỉ riêng tiếp cận lâm sàng sẽ không đủ sức giải quyết, mà
cần phải có phương pháp tiếp cận dịch tễ. Hai phương pháp có những đặc điểm giống
và khác nhau như sau: cả hai đều có các bước tiến hành như nhau, gồm chẩn đoán, giải
thích nguyên nhân, chọn phương pháp can thiệp hợp lý nhất và theo dõi sự diễn biến
tiếp tục. Nhưng nội dung của từng bước tiến hành thì có sự khác nhau, vì đối tượng
tiếp cận khác nhau. Đối tượng của lâm sàng là trường hợp một cá thể bị bệnh, còn của
dịch tễ học là tập hợp nhiều thú mắc bệnh, có những tính chất riêng về đặc điểm cá
thể, về thời gian, địa điểm.

2
Phương pháp Thú y truyền thống đề cập đến bệnh trên cá thể động vật, với mục đích
phát hiện và chữa trị bệnh trên mỗi cá thể, nhưng thực sự cá thể đó đã bị nhiễm bệnh
từ trước.
Phương pháp dịch tễ học nghiên cứu về bệnh trên quần thể, mô tả nó bằng tần số bệnh,
nhưng tần số bệnh hay bệnh xảy ra, chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự tác động lẫn nhau
của nhiều yếu tố khác nhau hoặc các yếu tố quyết định dịch bệnh và những yếu tố cơ
học có thể làm giảm tần số bệnh xảy ra trong quần thể.
Nhiệm vụ của nghiên cứu dịch tễ học, lâm sàng học: Người nghiên cứu dịch tễ ghi
nhận thông tin trên những thành viên của quần thể bất chấp nếu có bệnh hoặc khỏe
mạnh hơn với xác suất xảy ra. Còn nhà nghiên cứu lâm sàng làm việc bằng bảng tiêu
chuẩn lâm sàng. Nhà dịch tễ thì quan tâm nhiều hơn đến một vấn đề gì đó (hiện tượng
sức khỏe) xảy ra hơn là hiện tượng đó xảy ra như thế nào ở lúc phát sinh, cấp độ cơ
học. Nhà dịch tễ có thể làm việc với giả thuyết xảy ra hiện tượng đó, nếu cơ chế bệnh
học chưa được hiểu biết đầy đủ.
Đối tượng chẩn đoán của chẩn đoán lâm sàng dựa trên cá thể bệnh; Chẩn đoán thí
nghiệm dựa trên cá thể chết, một phần cá thể chết, hoặc cá thể bệnh. Còn chẩn đoán
dịch tễ dựa trên quần thể (chết, bệnh, khỏe).
Địa điểm thực hiện việc chẩn đoán lâm sàng thường được thực hiện ở bệnh viện hoặc
phòng mạch thú y; chẩn đoán thí nghiệm thường được thực hiện ở trong phòng thí
nghiệm. Còn chẩn đoán dịch tễ được thực hiện chủ yếu ở thực địa và các thiết bị hỗ trợ
chức năng.
Mục đích chủ yếu của việc chẩn đoán lâm sàng là điều trị cho cá thể; chẩn đoán thí
nghiệm là điều trị cho cá thể hoặc cá thể tương lai; còn chẩn đoán dịch tễ nhằm mục
đích khống chế bệnh, hoặc phòng bệnh xảy ra trong tương lai.
Quy tắc của chẩn đoán lâm sàng đưa ra được tên bệnh trên cơ sở dấu hiệu lâm sàng;
chẩn đoán thí nghiệm đưa ra được tên bệnh, hoặc mầm bệnh, trên cơ sở phản ứng của
ký chủ liên quan đến tác nhân gây bệnh. Còn chẩn đoán dịch tễ thì đưa ra được tần số
bệnh, mô hình dịch bệnh xảy ra, và các yếu tố có thể quyết định dịch bệnh xảy ra để
phân tích mối liên quan đó với dịch bệnh.
Mục đích chẩn đoán lâm sàng là đưa ra được tên bệnh, bệnh này điều trị như trị như
thế nào? Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm với kết quả là gọi được tên bệnh (xác định
được mầm bệnh), cơ chế gây bệnh như thế nào? Còn chẩn đoán dịch tễ cho biết quần
thể đó có bị bệnh (dịch bệnh) hay không; cá thể mắc bệnh có đặc điểm gì? Bệnh xảy ra
ở đâu (không gian), và khi nào (thời gian) ? Vì sao quần thể đó mắc bệnh? Tại sao
bệnh lại xảy ra? Khống chế và phòng bệnh như thế nào? Bảng 1.1 sẽ tóm tắt sự so
sánh giữa tiếp cận lâm sàng và dịch tễ học

3
Bảng 1.1. So sánh sự tiếp cận của lâm sàng và dịch tễ học
Các bước
Lâm sàng học
Dịch tễ học
Đối tượng
Một thú bệnh
Một hiện tượng sức khỏe/quần thể
Chẩn đoán
Xác định một ca bệnh
Xác định một hiện tượng sức khỏe/quần
thể (hiện tượng xảy ra hàng loạt)
Tìm nguyên
nhân
Nguyên nhân gây bệnh
cho một cá thể
Nguyên nhân làm xuất hiện và lan tràn
bệnh / quần thể
Điều trị
Điều trị cho một thú
bệnh bằng phác đồ
Một chương trình can thiệp TY, giám
sát, thanh toán hiện tượng bệnh hàng
loạt/ quần thể
Đánh giá kết quả
Chẩn đoán sự cải thiện
sức khỏe của một thú
bệnh. Theo dõi tiếp tục
sau điều trị
Phân tích sự thành công (kết quả) của
chương trình can thiệp. Giám sát dịch tễ
học tiếp tục
Cho nên có thể coi người làm công tác lâm sàng là người nghiên cứu chi tiết, còn
người làm công tác dịch tễ học là người nghiên cứu tổng quát.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN CỦA DỊCH TỄ HỌC
Phương pháp tiếp cận của dịch tễ học là phương pháp tiếp cận toàn diện. Sử dụng phối
hợp các mô tả khoa học và kỹ thuật khác nhau trong điều tra dịch bệnh cùng nhau đưa
ra kết quả tổng hợp, như là một bức tranh toàn diện về một căn bệnh cụ thể, phát triển
và duy trì trong tự nhiên. Biết được quá trình phát triển tự nhiên của bệnh trong quần
thể là chưa đủ, chưa phải là mục đích, mà chỉ mới là một phần của dịch tễ học. Quan
trọng là vấn đề can thiệp. Các biện pháp kiểm tra, giám sát và loại trừ các hiện tượng
bệnh xảy ra hàng loạt phải được đặt ra để chống lại nhiều bệnh (dịch). Cách tiếp cận
dịch tễ học sẽ cho những nhận xét, đánh giá chính xác đối với các phương pháp chẩn
đoán do đó sẽ có một sự chuyển đổi giữa phương pháp chẩn đoán và đưa ra các
phương pháp định hướng cho việc phát hiện và nghiên cứu dịch bệnh. Các tiếp cận
dịch tễ học sẽ làm cho khoa học về các phương pháp chẩn đoán đó phát triển nhanh
chóng. Không được đánh giá một hiện tượng sức khỏe ngoài bối cảnh tự nhiên của nó,
mà phải xét nó trong mối quan hệ với các vấn đề sức khỏe khác.
Như vậy, dịch tễ học không phân tích một yếu tố căn nguyên riêng lẽ, mà phải tiến
hành phân tích đồng thời các bệnh quan trọng và tất cả các yếu tố liên quan tới nó.
Phải gắn liền một hiện tượng sức khỏe với phức hợp các điều kiện phương thức chăn
nuôi và kinh tế xã hội. Mỗi quần thể đều có những tính chất đặc trưng, những tính chất

4
đó là những yếu tố quan trọng góp phần quyết định đặc điểm của các hiện tượng sức
khỏe trong quần thể. Việc can thiệp đối với quần thể nào đó như dự phòng, trị liệu, các
chương trình can thiệp phòng chống,..cũng xuất phát từ khả năng của cộng đồng xã
hội, gắn liền với các điều kiện khoa học, kinh tế, chính trị xã hội, gắn liền với trình độ
tổ chức quản lý của ngành Thú y.
Dịch tễ học chú trọng đến những vấn đề như sau: Quan sát bệnh xảy ra như thế nào
trong điều kiện tự nhiên mà không phải trong điều kiện thí nghiệm. Nghiên cứu bệnh
diễn ra trên quần thể mà không phải trên cá thể. Phát hiện mối quan hệ giữa nguyên
nhân gây bệnh và bệnh thông qua các phương pháp suy luận mà không nghiên cứu tìm
cơ chế sinh bệnh.
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA DỊCH TỄ
HỌC THÚ Y
3.1. Nội dung nghiên cứu
Bao gồm các nội dung sau:
- Dịch tễ học mô tả: bao gồm việc quan sát và ghi chép lại những bệnh và những yếu
tố nguyên nhân có thể, nó thường là một phần của nghiên cứu điều tra.
- Dịch tễ học phân tích: là phân tích các kết quả quan sát được bằng cách dùng các
chẩn đoán và phép kiểm thống kê phù hợp.
- Dịch tễ học thực nghiệm: quan sát và phân tích dữ liệu từ một nhóm động vật được
lựa chọn với những thay đổi quan hệ liên quan đến nhóm.
- Dịch tễ học lý thuyết: dùng phương pháp toán học để xây dựng lên mô hình dịch
bệnh.
Ngoài ra, còn có thể phân loại dịch tễ học chi tiết hơn như dịch tễ học lâm sàng, dịch
tễ học di truyền…
3.2. Các khái niệm cơ bản
Quan điểm cơ bản của dịch tễ học cho rằng bệnh không xảy ra một cách ngẫu nhiên
mà bệnh là kết quả do sự tác động lẫn nhau của các yếu tố như mầm bệnh, ký chủ, và
môi trường.
3.2.1. Bệnh xảy ra trên cá thể
Bệnh có xảy ra hay không xảy ra trên một cá thể phụ thuộc sự tác động lẫn nhau của 3
yếu tố là ký chủ, mầm bệnh và môi trường.
Ký chủ là động vật (hoặc người) có thể mắc một căn bệnh. Tuổi tác, di truyền học, đặc
điểm sinh lý, mức độ tiếp xúc, và tình trạng sức khỏe, tất cả các đặc điểm trên ảnh
hưởng đến tính nhạy cảm của ký chủ để phát triển thành bệnh. Tính nhạy cảm với
bệnh của từng cá thể là yếu tố quyết định thứ nhì để gây nên bệnh. Sự khác biệt tự
nhiên giữa các cá thể sẽ đưa đến các đáp ứng khác nhau. Sức đề kháng tự nhiên đối
với tình trạng nhiễm trùng hay bệnh là do bởi dòng giống, giới tính hoặc tuổi.

5
Nguyên nhân gây bệnh: mầm bệnh là yếu tố gây bệnh (vi khuẩn, virus, ký sinh trùng,
nấm, hóa chất độc, thiếu dinh dưỡng ...) hoặc do một hoặc nhiều nguyên nhân có thể
tham gia vào quá trình sinh bệnh như vi khuẩn lao sẽ gây bệnh khi sức đề kháng bị
giảm sút do làm việc hoặc khai thác động vật quá mức.
Môi trường bao gồm môi trường xung quanh và các điều kiện hoặc là bên trong, hoặc
bên ngoài của cơ thể ký chủ để gây bệnh, gây ra hoặc cho phép các bệnh lây truyền
xảy ra. Môi trường có thể làm suy yếu sức đề kháng của ký chủ hoặc làm tăng tính
nhạy cảm của ký chủ với căn bệnh, hoặc cung cấp điều kiện có lợi cho sự sống còn của
mầm bệnh.
Yếu tố môi trường bao gồm nhiều đặc điểm rất khó định lượng. Môi trường và yếu tố
quản lý là những yếu tố quyết định quan trọng đối với sự xảy ra dịch bệnh.
Yếu tố môi trường gồm 3 thành phần chủ yếu: Lý học môi trường, sinh học môi
trường và môi trường kinh tế xã hội; Thành phần vật lý của môi trường gồm có: Đại
môi trường (Macro) và tiểu môi trường (Micro); Thành phần sinh học của môi trường
gồm có con người và động vật; Môi trường kinh tế xã hội bao gồm trình độ dân trí, tập
quán sinh hoạt và trình độ phát triển chăn nuôi.
3.2.2. Bệnh xảy ra trong quần thể
Mức độ bệnh xảy ra trong quần thể phụ thuộc sự tác động lẫn nhau của 3 yếu tố sau:
- Yếu tố cá thể: loại cá thể nào có khả năng bị mắc bệnh và nó có khả năng làm lan
tràn dịch bệnh ?
- Yếu tố không gian: bệnh xảy ra phổ biến hoặc hiếm gặp ở đâu ? những chỗ này khác
nhau như thế nào ?
- Yếu tố về thời gian: tần số bệnh thay đổi như thế nào theo thời gian và những yếu tố
khác có liên quan gì đến sự thay đổi này ?
3.2.2a. Yếu tố cá thể
Dựa vào một số đặc điểm ta có thể phân biệt các cá thể trong quần thể thành từng
nhóm, như: giống, tuổi, giới tính, và phương thức chăn nuôi…Một nhiệm vụ quan
trọng của nghiên cứu dịch tễ học là nhằm mục đích xác định ảnh hưởng của các đặc
điểm cá thể với các nguy cơ mắc bệnh.
3.2.2b. Yếu tố không gian - nơi cư trú
Các mô hình không gian của bệnh thường là hậu quả của các yếu tố môi trường. Yếu
tố môi trường bao gồm các đặc tính của khí hậu (nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa) cũng
như các đặc điểm công tác quản lý sử dụng động vật (quản lý động vật trong một khu
vực nhất định của một đất nước có thể dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh cao mà có thể không
được nhìn thấy trong các khu vực khác). Hệ thống thông tin địa lý và dễ dàng truy cập
tiếp cận các dữ liệu không gian (ví dụ như hình ảnh vệ tinh) đã tạo điều kiện cho khả
năng tiến hành phân tích dịch tễ học không gian trong những năm gần đây.