"CHUYỂN TIẾP"

Trong những năm 1960-1970, do các thế lực của

chủ nghĩa dân tộc hậu thuộc địa tại Malaysia

không còn gò ép nghệ thuật thị giác phải tuân thủ

một lịch trình chính trị vạch sẵn, nên các loại hình

nghệ thuật đã phát triển với những phẩm chất mới.

Thực tế là các nghệ sĩ đã phấn đấu khôi phục

những hình thức quy ước của nghệ thuật cho phù

hợp với các điều kiện mới của mình trong tình

hình có những biến động lớn nẩy sinh khắp vùng

Đông Nam á. Một lần nữa, những ràng buộc cơ

bản về lịch sử và văn hóa từng đan xen giữa các

nước Đông Nam á lại tiếp tục xuất hiện. Hiệp hội ANTHONY LAU-

các nước Đông Nam á (asean) ra đời vào 1967 tạo Tâm đầu ý hợp-

ra sự khởi đầu của những hình mẫu mới và những điêu khắc thép

vận hội lớn lao, đặc biệt trong lĩnh vực trao đổi mềm

kinh tế và văn hóa. Sự hình thành các định chế đa

quốc gia của Malaysia như tập đoàn petronas và

việc quan tâm tới sự mở rộng hoạt động ra khắp vùng Đông Nam á

phản ánh sự tăng trưởng kinh tế có hệ thống của Malaysia. Các hoạt

động về nghệ thuật và văn hóa đồng hành với các giao dịch

Triển lãm “Chuyển tiếp” là cuộc thẩm định bức thảm chính trị-văn hóa

của một Malaysia đương thời và nền tảng chung kết gắn Malaysia với

những láng giềng. Nó khảo sát mối liên hệ của các nghệ sĩ Malaysia

với những loại hình nghệ thuật đâm trồi từ di sản hậu thuộc địa những

năm 1960-1970 cũng như bút pháp của họ nhằm thoát khỏi những

phạm vi nhàn tiện, phục nguyên cái bản sắc đẫm màu thời gian và

truyền thống.

Latiff Mohidin đã gộp lại cả hai chiến lược nghệ thuật thị giác đó với

nhau nhằm xác định cái hồn cốt văn hóa của người Malaysia trong bối

cảnh lịch sử Đông Nam á của họ. Latiff Mohidin học hội họa ở Đức

trong thập niên hậu thuộc địa 1960-khi mà đa số bè bạn cùng trang lứa

lại du học ở Anh. Các tác phẩm của Latiff Mohidin thường tránh mô tả

những hình ảnh kiểu mẫu mà thay vào đó biểu lộ những cái nhìn về quá

khứ và tái định vị nó. Từ tác phẩm Pago-Pago cho đến loạt tranh

Langkawi ông thiết lập quan hệ với quá khứ theo cái cách để thời xưa

cũ không còn là mộ địa hạt xa lạ, và những câu chuyện thần thoại dần

dà hiện mở một miền dĩ vãng thân quen.

Vào lúc thế hệ của ông là những người mang đến cho nghệ thuật đương

đại Malaysia những quan điểm nhân văn cùng các đóng góp rất quan

trọng thông qua những vấn đề họ nêu ra như hình thức sáng tác, phê

bình và đối ngoại nghệ thuật hiện đại, thì Latiff Mohidin lại chưa từng

ép mình phải xem xét nghệ thuật ngoài các phạm vi không gian lịch sử

của chính nó. Tuy thế, nghệ thuật của ông hàm chứa mọi sự đa dạng

của những phép thuật thị giác từng chi phối đời sống chính trị của nền

văn hóa Malaysia trong gần năm mươi năm qua.

Ngoài ra, ông cũng rất gần gũi với những lớp họa sĩ kế tiếp, những

người đã làm nên phong khí văn hóa đa diện mạo cho Malaysia. Chủ

nghĩa dân tộc và sự trỗi dậy của những giá trị Hồi giáo đã ảnh hưởng

mạnh mẽ và làm xáo trộn khung cảnh nghệ thuật của cuối những năm

1970 và 1980. Lúc này, nghệ thuật trình xuất nhiều nội dung phong phú

với quy mô lớn, khiến cho các vấn đề trọng tâm về văn hóa, chính trị và

tư tưởng được thấu suốt hơn và cũng bộc lộ thêm những giá trị thật sâu

sắc. Điều này cho thấy nghệ thuật đã chịu ảnh hưởng của những đổi

thay chính trị mang tính quốc gia hay toàn cầu ra sao, ví dụ như cuộc

Cách mạng Hồi giáo Iran năm 1979. Mặc dù chủ nghĩa tượng trưng Hồi

giáo đã tìm được con đường riêng trong nghệ thuật dân gian Malaysia

cũng như các tác phẩm đương đại, những nghệ sĩ như Zulkifli Yusoff

không còn chỉ quanh quẩn với các đề tài mang tính nghi lễ tôn giáo mà

đã quan sát rộng hơn với cả đời thường. Họa sĩ Wong Hoy Cheong có

cách nhìn khác với xu hướng chỉnh đốn văn hóa này. Quan điểm của

ông định vị vững chắc trong cơ cấu hậu thuộc địa và những tiến triển về

chính trị-xã hội từng ảnh hưởng đến các cộng đồng di dân người Hoa

tại Maylaysia. Sự nhạy cảm nghệ thuật của ông đã làm thay đổi những

đặc tính văn hóa Malaysia kéo theo sự đối chọi giữa truyền thống và

đương đại.

Sự khởi sắc của Malaysia và nhiều nền kinh tế Đông Nam á khác trong

những năm 1990 làm thay đổi đáng kể quan điểm của các nghệ sĩ. Họ

không còn tìm cách tháo gỡ cái tình thế tiến thoái lưỡng nan do chủ

nghĩa thực dân để lại, dẫu rằng những vấn đề họ bận tâm, ví dụ như

trong tác phẩm của Bayu Utomo Radijikin, vẫn không nằm ngoài tiến

trình tiếp tục đồng hóa các đặc tính đa dạng thông qua những hoạt động

nghệ thuật địa phương, song đã có những quỹ đạo mới rõ ràng nhắm

đến công chúng và thị trường nhiều hơn. Những họa sĩ khác như Shia

Yih Yiing thì gửi gắm trong tác phẩm những câu hỏi về bản sắc văn

hóa của cư dân bản địa. Sinh trưởng tại tiểu bang Sarawak Đông

Malaysia trên đảo Borneo nơi mà văn hóa của người Hoa di cư quện

hòa vào văn hóa bản xứ, nữ họa sĩ đã khám phá ra sự đa dạng của

những họa tiết ghi dấu những câu chuyện về xứ sở Trung Hoa hay của

người Sarawaki-những người đã dệt nên một truyền thống lịch sử

phong phú. Những đồ dệt Sarawak liên quan mật thiết với những nghi

lễ tôn giáo, và quá trình thiết kế chúng có lẽ là các bằng chứng tư duy

đương đại sớm nhất của lịch sử nghệ thuật Malaysia.

Tương tự, do mạng lưới văn hóa sở tại bị tính toàn cầu chi phối và nhất

là nhờ các phát kiến công nghệ nên các nghệ sĩ đã có thể sáng tạo nên

những tác phẩm luôn hàm chứa nhiều ý tưởng và vấn đề lớn. Tác phẩm

Nội thất (Dalam) của Simryn Gill mở ra những khả năng mới cho

người nghệ sĩ thoát khỏi các chuẩn mực Tây phương, hoặc giả vẫn duy

trì được nội hàm truyền thống nào đó. Tác phẩm Nội thất tuy chỉ mang

tính trang trí sách báo song được coi là một phát biểu sâu sắc về chính

trị và xã hội. Xét trên quan điểm khu vực thì tác phẩm của nữ họa sĩ là

một nhìn nhận lịch sử về những lối sống và những giá trị Đông Nam á

phổ quát.

ở mức độ khác, các họa sĩ Malaysia như Nirmala Shanmughalingam

hay Masnoor Ramli Mahmud đã khám phá những lối đi riêng mà vẫn

không xa rời nguồn cội Đông Nam á của mình. Không góp nhặt truyền

thống, họ khắc họa nghệ thuật của mình với một cảm xúc đặc biệt chứa

đựng nhiều vấn đề rộng lớn hơn đối với toàn khu vực. Trong tranh của

Nirmala với tiêu đề Ký vức Việt Nam II và tác phẩm Đôi ngả của

Masnoor có sự nối kết tác giả với lịch sử hiện đại nhiều bi thương của

Việt Nam và Indonesia. Tác phẩm của họa sĩ Bamahadj Nadiah người

gốc Yogjakarta cũng là một bình luận xã hội-chính trị phản ánh lịch sử

hiện đại của Malaysia và Indonesia.

Như dự báo, một khi các hoạt động nghệ thuật thế kỷ XXI có quy mô

biểu hiện phong phú và đa dạng phương tiện truyền thông, đồng thời

những tham số nghệ thuật và văn hóa đại chúng phần nào nhòe mờ, thì

hành trình của nghệ thuật đương đại Malaysia thật sự phức tạp mà thú

vị. Có thể nói hoạt động nghệ thuật nhân danh sự phát triển và toàn cầu

hóa là một hành lang dẫn đến những đổi thay nhận thức của bản thân

người nghệ sĩ.

Triển lãm này còn giới thiệu với công chúng những động lực nổi bật

của các trào lưu nghệ thuật Malaysia đương đại, ví như loạt tác phẩm

gần đây của Latiff Mohidin có tựa đề Du hành gợi nhắc một chuyến

rong chơi còn miên viễn.