Cơ quan và các hệ cơ quan

Các chức năng của cơ thể được thực hiện bởi các cơ quan. Mỗi cơ quan là

một cấu trúc mà ta có thể nhận diện được - chẳng hạn như tim, phổi, gan,

mắt, và dạ dày - chúng thực hiện những chức năng chuyên biệt. Một cơ quan

được tạo thành từ vài loại mô khác nhau và do đó cũng có nghĩa là nó được

hình thành từ vài loại tế bào khác nhau. Chẳng hạn như tim có chứa mô cơ

có chức năng co bóp để bơm máu, mô xơ để tạo thành các van tim, và những

tế bào đặc biệt có chức năng duy trì tần số và nhịp đập của tim. Mắt có chứa

các tế bào cơ để mở và đóng con ngươi, các tế bào trong suốt để tạo thành

thủy tinh thể và giác mạc, các tế bào sản xuất ra dịch bên trong mắt, các tế

bào cảm nhận ánh sáng, và các tế bào thần kinh dẫn truyền xung tín hiệu đến

não. Ngay cả một cơ quan có vẻ ngoài đơn giản như túi mật cũng có chứa

nhiều loại tế bào khác nhau, chẳng hạn như những tế bào lát mặt trong lòng

túi mật để chống lại tác dụng kích thích của mật, các tế bào cơ để co bóp

tống mật ra ngoài, và những tế bào tạo ra lớp thành xơ bên ngoài bao túi

mật.

Một vài ví dụ về cơ quan bao gồm: da, cơ, xương, hạch bạch huyết, mạch

máu, dây thần kinh, những cơ quan cảm giác, v.v... Có trên 700 cơ trong cơ

thể và có trung bình 206 xương, do đó có khoảng trên 1000 cơ quan trong cơ

thể nếu tính luôn tất cả các cơ quan nội tạng.

Hệ cơ quan

Mặc dù mỗi cơ quan có một chức năng chuyên biệt khác nhau, nhưng các cơ

quan hoạt động theo từng nhóm, được gọi là hệ cơ quan. Hệ cơ quan là đơn

vị tổ chức thuộc đối tượng nghiên cứu của y học, phân loại bệnh tật và lên

kế hoạch điều trị.

Một ví dụ về hệ cơ quan là hệ tim mạch, bao gồm tim và các mạch máu. Hệ

tim mạch chịu trách nhiêm bơm máu và đưa máu đi khắp cơ thể theo vòng

tuần hoàn. Hệ tiêu hóa đi từ miệng cho đến hậu môn chịu trách nhiệm nhận

và tiêu hóa thức ăn rồi sau đó là bài tiết chất thải. Hệ tiêu hóa không chỉ bao

gồm dạ dày, ruột non, ruột già, là nơi di chuyển và hấp thu thức ăn, mà còn

bao gồm những cơ quan phụ trợ chẳng hạn như tụy, gan, và túi mật có chức

năng sản xuất ra các enzyme tiêu hóa, loại bỏ chất độc và dự trữ những chất

cần thiết cho sự tiêu hóa. Hệ cơ xương bao gồm xương, cơ, dây chằng, gân,

và khớp có chức năng nâng đỡ cơ thể và vận động.

Đương nhiên các hệ cơ quan không hoạt động một mình. Chẳng hạn như sau

khi ăn một lượng lớn thức ăn, hệ tiêu hóa cần phải có nhiều máu hơn để hoạt

động. Do đó nó cần phải có sự hỗ trợ của hệ tim mạch và hệ thần kinh. Các

mạch máu của hệ tiêu hóa sẽ dãn ra để vận chuyển được nhiều máu hơn. Các

xung thần kinh sẽ được gửi đến não để báo cho nó biết cần phải gia tăng

hoạt động. Hệ tiêu hóa thậm chí còn có thể kích thích trực tiếp tim thông qua

các xung thần kinh và những chất hóa học được phóng thích vào máu. Tim

đáp ứng lại bằng cách bơm nhiều máu hơn. Não đáp ứng lại bằng cách làm

cho bớt cảm giác đói đi, cho cảm giác đầy bụng và cho cảm giác ít hứng thú

với những hoạt động mạnh mẽ.

Sự giao tiếp giữa các cơ quan và giữa các hệ cơ quan với nhau mang tính

chất sống còn. Sự giao tiếp cho phép cơ thể điều chỉnh hoạt động của từng

cơ quan dựa vào nhu cầu của toàn cơ thể. Tim cần phải biết khi nào cơ thể

đang nghỉ ngơi để đập chậm lại và khi nào các cơ quan khác cần nhiều máu

hơn để đập nhanh lên. Thận phải biết khi nào cơ thể đã có quá nhiều dịch để

sản xuất ra nhiều nước tiểu hơn và khi nào cơ thể thiếu nước để giữ nước lại

bên trong cơ thể.

Qua sự giao tiếp, cơ thể giữ được cân bằng - được gọi là sự cân bằng nội

môi (homeostasis). Nhờ cân bằng nội môi, các cơ quan trong cơ thể không

hoạt động quá mức mà cũng không lười biếng quá mức, và mỗi cơ quan hỗ

trợ cho chức năng của mọi cơ quan còn lại.

Sự giao tiếp để giữ cân bằng nội môi có thể xảy ra qua hệ thần kinh hoặc qua

những chất kích thích hóa học. Một phần của hệ thần kinh, hệ thần kinh tự

động, kiểm soát một mạng lưới giao tiếp phức tạp điều hòa các chức năng

của cơ thể. Phần hệ thần kinh này hoạt động mà không cần con người suy

nghĩ đến chúng và cũng không cần có sự chú ý quá nhiều đến chúng khi

đang làm việc. Những chất hóa học được dùng để giao tiếp được gọi là các

transmitter (chất truyền tin, truyền tín hiệu). Các transmitter được một cơ

quan sản xuất và đi đến những cơ quan khác qua dòng máu có tên là các

hormon. Các transmitter dẫn truyền thông tin giữa những phần khác nhau

của hệ thần kinh được gọi là các chất dẫn truyền thần kinh

(neurotransmitter).

Một trong những chất dẫn truyền được biết đến nhiều nhất là hormon

epinephrine (adrenaline). Khi một người đột ngột bị stress hoặc sợ hãi, não

sẽ lập tức gửi một thông điệp đến tuyến thượng thận, tuyến này sẽ nhanh

chóng tiết ra epinephrine. Trong giây lát, chất hóa học này sẽ đưa toàn bộ cơ

thể vào trạng thái báo động, đáp ứng này đôi khi còn được gọi là đáp ứng

chiến đấu. Tim sẽ đập nhanh hơn và mạnh hơn, mắt sẽ dãn ra to hơn để cho

nhiều ánh sáng đi vào, thở nhanh hơn, và hoạt động của hệ tiêu hóa sẽ giảm

đi để cho máu đến cơ nhiều hơn. Tác động này xảy ra nhanh và mãnh liệt.

Những chất truyền tin hóa học khác ít dữ dột hơn nhưng cũng có tác động

tương đương. Chẳng hạn như khi cơ thể trở nên thiếu nước và cần nhiều

nước hơn, thể tích máu di chuyển bên trong hệ tuần hoàn giảm xuất. Sự

giảm thể tích máu này tác động đến những receptor bên trong các động

mạch ở cổ. Chúng sẽ đáp ứng lại bằng cách gửi những tín hiệu qua các dây

thần kinh đến tuyến yên nằm ở đáy não, tuyến yên sẽ sản xuất ra hormon

chống bài niệu. Hormon này sẽ ra hiệu cho hai thận cô đặc nước tiểu lại và

giữ nước lại bên trong cơ thể nhiều hơn. Kế tiếp, não sẽ tạo ra cảm giác

khác, khiến cho chủ nhân của nó phải đi uống nước.

Cơ thể còn có một nhóm các cơ quan được gọi là hệ nội tiết có chức năng

chính là sản xuất ra các hormon để điều hòa hoạt động của những cơ quan

khác. Chẳng hạn như tuyến giáp sản xuất ra các hormon giáp kiểm soát tốc

độ chuyển hóa (tốc độ hoạt động của các hóa chất trong cơ thể); tụy sản xuất

ra insulin kiểm soát sự sử dụng đường; và tuyến thượng thận sản xuất ra

epinephrine kích thích nhiều cơ quan khác dể chuẩn bị cho cơ thể đối đầu

với stress.

Danh sách các hệ cơ quan trong cơ thể

Hệ tim mạch: tim, các mạch máu (động mạch, mao mạch, tĩnh mạch)

Hệ hô hấp: mũi, miệng, hầu, thanh quản, khí quản, phế quản, phổi

Hệ thần kinh: não, tủy sống, các dây thần kinh (những dây mang

xung thần kinh đến não và những dây mang xung thần kinh từ não đến cơ và

các cơ quan khác).

Da: da (bao gồm bề mặt da thường được nghĩ là da và những cấu trúc

mô liên kết nằm bên dưới bao gồm mỡ, các tuyến và các mạch máu).

Cơ xương: Cơ, dây chằng và gân, xương, khớp

Máu: các tế bào máu và tiểu cầu, huyết tương (thành phần lỏng của

máu), tủy xương (nơi sản sinh ra các tế bào máu), lách, và tuyến ức.

Hệ tiêu hóa: miệng, thực uqanr, dạ dày, ruột non, ruột già, trực tràng,

hậu môn, gan, túi mật, tụy (phần sản xuất enzyme), và ruột thừa.

Hệ nội tiết: tuyến giáp, tuyến cận giáp, tuyến thượng thận, tuyến yên,

tụy (phần sản xuất insulin), dạ dày (những tế bào sản xuất gastrin), tuyến

tùng, buồng trứng, tinh hoàn.

Hệ tiết niệu: thận, niệu quản, bàng quang, niệu đạo.

Hệ sinh dục nam: dương vật, tiền liệt tuyến, túi tinh, ống dẫn tinh,

tinh hoàn.

Hệ sinh dục nữ: âm đạo, cổ tử cung, tử cung, vòi trứng, buồng trứng.