Con đường nào đưa doanh nghiệp tư nhân
đến với ODA
Tuy nhiên, để tiếp tục thực hiện Ngh quyết 14-NQ/TW (khóa IX), Ban thư yêu
cầu các cấp ủy, t chức đang, các quan Chính ph và các cấp chính quyền địa
phương làm tốt nhiều công việc ch yếu, trong đó chú trọng sửa đổi, b sung, ban
hành mới các quy định v pháp luật, cơ chế, chính sách, th tục hành chính có liên
quan nhằm h tr mạnh m hơn nữa khu vực kinh tế nhân phát triển, trong đó
có một yêu cầu quan trọngxây dựng chế để doanh nghiệp nhân được vay
vốn viện tr phát triển chính thức (ODA) như các doanh nghiệp nhà nước.
Các doanh nghiệp nhân rt phấn khởi hoan nghênh ch trương của Đảng cho
phép h vay vốn ODA bình đẳng như các doanh nghiệp nhà nước. Đây không ch
là một s giải tỏa vm ly bức xúc v bất bình đẳng công bây lâu nay trong
viêc tiếp cn và s dụng nguồn lực công, không ch đơn thuân là s đáp ứng cơn
khát vốn của khu vực nhân,hơn thế nữa đó là s đột phá chính sách đối
với việc s dụng nguồn vốn ODA một cách hiệu qu mà cho đến nay vẫn khép
kín dành cho các quan và doanh nghiệp nhà nước.
S h hởi của khu vực kinh tế nhân v ch trương mới này thật d hiểu như
“đất b han hán lâu ngày gặp được trận mưa “nhấttrong nghịch cảnh “người ăn
chẳng hết, k lần chẳng ra“, ám ch tổng vốn ODA đã ký kết trong thi k 2006-
2010 bấy lâu nay độc quyền trong tay các bộ, chính quyền địa phương và doanh
nghiệp nhà nước lên ti 22,2 t USD, song mới ch giải ngân được 13,8 t USD,
đạt khoảng hơn 60 %, trong khi đó tiền thuế của dân đang phi tr phí cam kết
cho nhà tài tr đối với s vốn chưa giải ngân tồn đọng trên các trang giấy của các
Hiêp định vay vốn ODA đã ký kết. Chưa hết, đại đa s các công trình ODA mang
lại hiệu qu kinh tê-xã hôi cho đất nước, được c chúng ta lẫn các nhà tài tr thừa
nhận, song cũng đáng buồn những hạt sạn gây quan ngại của người dân và xã
hội v hiệu qu và chất lượng của một s d án ODA mà các bộ, địa phương
quan ch quản hoặc là ch đầu đã để xẩy ra những v việc như hầm đương b
va cắt băng khánh thành đã biến thành sông giưa lòng thành ph sau trận a rào
mùa hạ, hoc một s người trong Ban quản lýcác d án tr giá c trăm triệu, thậm
chí c t USD lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm càn, hối l, tham nhũng…
Nhiều doanh nghiệp nhân đón nhận ch trương mới này rât “hồn nhiên“ coi như
như một l t nhiên phải thế. Bi vây, ngay lập tức đã có nhiều doanh nghiêp
nhân gửi công văn tới quan chức năng v quản lý ODA đề ngh được vay
nguồn vốny, k c doanh nghiệp sản xuất nước mắm, thư nước chấm khoái
khẩu của dân Việt. l những doanh nghiệp này chưa nhận thức hết thực tế khó
khăn, phức tạp để một ch trương mới đi vào cuộc sống trước hết phải khắc
phục duy c hữu xem vốn ODA là “lãnh địa riêng“ của các quan và doanh
nghiệp nhà nước, th đến là phảichính sách minh bạch và chế bảo đảm
bình đăng đối với việc tiếp cận và s dụng nguồn vốn công này. Thực vậy, một
năm sắp trôi qua k t khi Ban thưch trương cho phép doanh nghip
nhân vay vốn ODA, song cho đến nay những chính sách, chế đ hiện thực hóa
ch trương này mới ch ngưng đọng những ý tưởng ban đầu. Vậy thực chât của
việc nhân vay vốn ODA là gì và có những con đường nào để hiện thực hóa ch
trương này của Đảng?
Ai cũng biết, ODA (viện tr không hoàn lạivốn vay) là nguồn vốn mà Chính
ph nước ngoài và các định chế tài chính quốc tế, các t chức quốc tế và liên
Chính ph dành cho Chính ph Việt Nam để h tr thực hiện các mục tiêu phát
triển ưu tiên, trước hếtđể phát triển các công trình công ích quốc gia. Tuy
nhiên, xuất phát t định nghĩa này lâu nay chúng ta coi người th hưởng ODA
đương nhiên là khu vực nhà nước (các quan và doanh nghiệp nhà nước Trung
ươngđịa phương) được tiếp nhận quản lý và th hưởng vốn ODA để thực hiện
các d án s h tâng kinh tế và xã hội, mặc dù trên thực tế trong nhiều trường
hợp doanh nghiệp nhân có th làm tốt n công việc này xét v hiệu quả, chất
lượng cũng như chi phí. Bên cạnh đó, t trọng vốn ODA dành cho Việt Nam
không phảilớn, ch chiếm khoảng 3-4 % GDP trong thời k 2006-2010, song
năng lực hấp th vốn của các bộ, địa phương và doanh nghiệp nhà nước yếu, mc
giải ngân vốn của các đinh chế tài chính quốc tế và nhà tài tr ch chốt như WB,
ADB, Nhật Bản thường thấp hơn mức giải ngân bình quân trong khu vực . Nếu
doanh nghiệp nhân được s dụng ODA thi h s góp phần nâng cao kh năng
hấp th vốn ODA của Việt Nam, và điều này rất quan trọng vì nhà tài tr thường
căn c vào kh năng hấp th vốn để xem xét việc tăng vốn cho nước nhận ODA
Ngoài ra, doanh nghiệp nhân còn b thêm vốn của h cùng với ODA thông qua
nhiều hình thức như công -hợp tác (PPP) đ làm cho tổng vn đầu lớn n,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu đầu phát triển kết cấu h tầng.
Việc s dụng ODA để h tr phát triển khu vực kinh tế nhân đã được các nhà
tài tr đề ra t lâu trước khi ODA được nối lại cho Việt Nam vào năm 1993. m
1992, Ủy ban h tr phát triển (DAC) của T chức hp tác kinh tế và phát triển
(OECD)- quan hoạch định và khuyến ngh chính sách viện tr phát triển toàn
cầu đã đề ra nhưng nguyên tắc đối với hiệu qu viện tr, trong đó có những
khuyến ngh chính sách s dụng ODA để thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế
nhân tại các nước đang phát triển (Development Assistance Manual: DAC
Principles For Effective Aid,OECD Paris,1992.Tr. 17,Tr.58). nước ta, ý tưởng
v s bình đẳng gữa các thành phần kinh tế trong tiếp cận và s dụng vốn ODA
cũng đa manh nha t 6-7 năm trước trong quá trình b sung và sửa đổi Ngh định
17 CP của Chính ph v quản lý và s dụng ODA. Song lúc đó điều kiện chưa
chín muồi chưa có ch trương liên quan đến vấn đềy. Tuy nhiên, trên thực tế
cũng đã có một vài trường hợp doanh nghiệp nhân được th hưởng vốn vay
ODA như hạn mức tín dụng của Đan Mạch dành cho các doanh nghiệp vừa
nhỏ, d án tín dụng hai bước h tr phát triển khu vc nhân của Nhật Bản, tín
dụng vi mô của nhiều t chức quốc tế dành cho ph n và nông dân nghèo… Kết
của các d án này rất kh quan không có doanh nghiệp nhân nào được vay vốn
ODA mà có n quá hạn. Song đó cũng mới ch là một vài trường hp cá biệt
không phải “danh chính, ngôn thuận“.
Để doanh nghiệp nhân có th vay vốn viện tr phát triển chính thức (ODA) như
các doanh nghiệp nhà nước cần bắt đầu băng việc xác định công khai và minh
bạch trong chính sách s dụng nguồn vốn này rằng tất c các thành phần kinh tế,
không phân biệt nhà nước hay nhân nếu tán thành mục đích đích của ODA,
cùng chia s quyền lợi, trách nhiệm và rủi ro với Chính ph đều bình đăng trong
việc tiếp cận và s dụng ODA để phục v các định hướng phát triển ưu tiên của
nhà nước. Để đưa chính sách này vào cuộc sông cần thiết kế một th chế quản
với những chế và những th tục hành chính vừa tuân th luật pháp Việt Nam
va hài hòa hóa với chính sách, quy trình và th tục của nhà tài tr