
!
49
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN VÀ CƠ HỘI LIÊN KẾT NGÀNH:
TÌNH HUỐNG CỦA NGÀNH MAY MẶC THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
NCS. Trịnh Lê Tân
Trường Đại học Duy Tân - Đà Nẵng
Tóm tắt
Quá trình xây dựng và hiện thực hóa Cộng đồng kinh tế Asean (AEC) sẽ tạo ra
một thị trường đơn nhất, một không gian sản xuất chung, hướng đến sự phát triển
năng động và cạnh tranh hơn. Đây chính là một cơ hội lớn cho sự phát triển của
những ngành kinh tế triển vọng của Việt Nam, trong đó có ngành may mặc - một
ngành được ưu tiên hội nhập trong khu vực. Nếu các doanh nghiệp trong ngành nắm
bắt tốt cơ hội này, nỗ lực phát triển quan hệ liên kết với các doanh nghiệp trong khu
vực sẽ giúp cho các doanh nghiệp phát triển được thị trường và nâng cao vị trí trong
chuỗi giá trị may mặc toàn cầu (GAVC). Bài viết này tập trung nghiên cứu chiến lược
nâng cấp trong GAVC trong mối quan hệ với AEC của ngành may mặc Đà Nẵng (ĐN).
Từ khóa: Chuỗi giá trị may mặc toàn cầu, Cộng đồng kinh tế Asean, Nâng cấp,
Thị trường Asean, ngành may mặc Đà Nẵng
Abstract
The process of developing and realizing the ASEAN Economic Community
(AEC) will create a single market, a common manufacturing space, toward the
development of more dynamic and competitive. This is a great opportunity for the
development of the economy's prospects in Vietnam, including the garment industry - a
priority sector in regional integration. If the firms in the industry in this excellent start,
efforts to develop relationships with businesses in the area will help businesses
develop and enhance market position in the Global apparel value chain (GAVC). This
article focused on strategy in GAVC upgrade in relations with other countries in the
AEC of Garment Indusstry DaNang.
Key words: Global Apparel Value Chain, ASEAN Economic Community,
Upgrade, Asean Market , Garment Indusstry DaNang
1. Đặt vấn đề
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập vào năm 1967 và
Việt Nam là thành viên chính thức của Hiệp hội này vào năm 1995. Với mong muốn
xây dựng một cộng đồng ASEAN thân thiện, thúc đẩy hòa bình, ổn định, thịnh vượng

!
50!
và cùng hợp tác phát triển năng động, Cộng đồng ASEAN chính thức hình thành vào
năm 2015, bao gồm 3 trụ cột chính trong đó có Cộng đồng kinh tế ngoài ra còn có
Cộng đồng chính trị - an ninh, Cộng đồng văn hóa - xã hội. AEC sau khi hình thành sẽ
tạo ra một thị trường chung với quy mô dân số khoảng 600 triệu người (dự kiến đến
năm 2020 đạt khoảng 690 triệu người), GDP bình quân đầu người năm 2013 khoảng
3900 USD, dự kiên đến năm 2030 đạt 8500 USD (Edward Lee, 2014), tốc độ tăng
trưởng kinh tế toàn khu vực trong thời gian qua khá ổn định và cao hơn bình quân toàn
thế giới khoảng 2%…; và hình thành một không gian sản xuất đơn nhất của khu vực,
với những lợi thế quốc gia riêng nhưng có tính bổ trợ cao. Vì vậy, khi hình thành AEC
sẽ mở ra cơ hội liên kết hợp tác rất lớn để các quốc gia nói chung và các ngành công
nghiệp nói riêng gia tăng lợi thế cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu.
Trong tầm nhìn dài hạn của ASEAN, AEC chỉ là điểm khởi đầu mới trong quá
trình hội nhập kinh tế toàn cầu của khu vực. Trong thời gian tới, bên cạnh những hiệp
định thương mại tự do (FTA), hiệp định đối tác kinh tế toàn diện (CEP) đã ký kết với
Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ…, ASEAN sẽ tiếp tục mở rộng liên kết với
các quốc gia, khu vực khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong
khu vực tham gia vào mạng lưới cung ứng toàn cầu và nâng cao vị thế trong chuỗi giá
trị toàn cầu đối với những ngành kinh tế chủ chốt của khu vực.
Trong 12 ngành ưu tiên hội nhập sâu trong AEC thì ngành dệt may là một trong
những ngành được dự đoán nhận được nhiều lợi ích nhất khi Cộng đồng này hình
thành và tiếp tục phát triển mở rộng ra khu vực lân cận và thế giới. Trong giai đoạn
trước năm 2015, ngành may là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng khá cao
của khu vực, đến thời điểm năm 2013 thị phần của các quốc gia ASEAN chiếm
khoảng 9,12% trong tổng giá trị xuất khẩu hàng may mặc trên thế giới, tăng
124,42% trong giai đoạn 2000-2013(WTO, 2013). Trong thời gian đến khi hình
thành AEC, thuế xuất nhập khẩu mặc hàng này sẽ giảm xuống 0%, sự lưu chuyển
hàng hóa giữa các nước trong khu vực dễ dàng hơn, qua đó sẽ tạo điều thuận lợi
cho các doanh nghiệp trong khu vực liên kết để chiếm lĩnh thị trường trong khu vực
và mở rộng ra thị trường toàn cầu. Bên cạnh đó, mạng lưới cung ứng các yếu tố đầu
vào của ngành như vải, chỉ, nút… sẽ được mở rộng, các doanh nghiệp có cợ hội tối
thiểu hóa chi phí sản xuất, nâng cấp trong chuỗi giá trị may mặc toàn cầu và mang
về giá trị gia tăng cao hơn.
Ngành dệt may Đà Nẵng trong những năm qua đã không ngừng lớn mạnh, giá trị
xuất khẩu của toàn ngành năm 2014 ước đạt 270 triệu USD - tăng khoảng 250% trong
giai đoạn 2000 - 2014 (Sở công thương Đà Nẵng), trở thành một trong những ngành có
giá trị xuất khẩu lớn nhất của Thành phố. Để đạt được những thành công trên, ngành

!
51
may mặc Đà Nẵng đã không ngừng nỗ lực đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nỗ lực
tiếp cận người mua trong chuỗi giá trị toàn cầu (GVC buyers) và phi toàn cầu (non-
GVC buyers); đồng thời triển khai chiến lược nâng cấp quy trình, sản phẩm và chức
năng. Với mục đích phân tích sâu hơn về mức độ thành công của ngành và phân tích
ảnh hưởng của thị trường ASEAN và người mua tại thị trường này đến sự phát triển
của ngành, nghiên cứu này đã được triển khai với những bước cơ bản sau: (1) Xây
dựng khung lý thuyết về sự liên kết trên cơ sở tiếp cận theo chuỗi giá trị may mặc toàn
cầu; (2) Thực hiện nghiên cứu theo phương pháp tình huống, đánh giá kết quả, thảo
luận; (3) Kết luận và đưa ra những khuyến nghị nhằm phát triển quan hệ liên kết giữa
ngành may mặc Đà Nẵng với các nước trong AEC.
2. Cơ sở lý thuyết
Trên cơ sở nghiên cứu ban đầu về “chuỗi hàng hóa toàn cầu”, Gereffi và cộng sự
đã đưa ra khung lý thuyết cơ bản về “chuỗi giá trị toàn cầu” trong công trình “The
Value of value chains: Spreading the gains from globalization”: Giá trị của chuỗi giá
trị: phân tán lợi ích của Toàn cầu hóa (Hải, 2008). Tiếp sau sau đó, ông và cộng sự đã
tiếp tục hoàn thiện thiện khung lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu thông qua các công
trình nghiên cứu khác là “The governance of global value chains, 2005” - cấu trúc
quản trị của chuỗi giá trị toàn cầu và “Global value chain and international
competition, 2011” - chuỗi giá trị toàn cầu và lợi thế cạnh tranh quốc tế. Chính những
nghiên cứu của Gereffi và các cộng sự đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về chuỗi giá trị
toàn cầu và vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia và phân
tích chuỗi giá trị toàn cầu sẽ thấy được xu hướng “động” của thị trường toàn cầu, làm
cơ sở để nâng cấp ngành, nâng cấp doanh nghiệp để giúp doanh nghiệp tạo ra thu nhập
một cách bền vững và gia tăng vị thế cạnh tranh khi tham gia vào thị trường toàn cầu.
Trong sổ tay nghiên cứu chuỗi giá trị (A handbook for value chain research) do
Raphael Kaplinsky và Mike Morris biên soạn vào năm 2003 đã tập hợp những nghiên
cứu liên quan về chuỗi giá trị và nhấn mạnh đến vai trò của lý thuyết về chuỗi giá trị
toàn cầu do Gerreffi và cộng sự biên soạn, trên cơ sở đó 2 tác giả đã trình bày vai trò
của phân tích chuỗi giá trị toàn cầu và định hướng nâng cấp chuỗi giá trị.
Trên cơ sở tiếp cận học thuyết chuỗi giá trị toàn cầu, các nhà khoa học/ tổ chức
đã tiến hành nghiên cứu về chuỗi giá trị may mặc toàn cầu, trong đó tập trung nghiên
cứu về ngành may mặc tại những nước đang phát triển. Qua nghiên cứu của Gary
Gereffi và Olga Memedovic năm 2003, đã chỉ ra nguyên nhân thành công của các
nước công nghiệp mới NICs trong những năm 70, 80 và Trung Quốc trong những năm
90 là nhờ vào sự tinh thông yếu tố động học của chuỗi giá trị may mặc - chuỗi do
khách hàng điều phối, ngành may mặc của những quốc gia này đã chuyển từ gia công

!
52!
sang cung ứng trọn gói (OEM), rồi sau đó từng bước chuyển sang sản xuất với thương
hiệu gốc (OBM). Đây là một bài học kinh nghiệm quan trọng đối với các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam, vì các nước đang phát triển chủ yếu tham gia vào
công đoạn có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi (Gereffi và cộng sự, 2011).
Hình 1. Đường cong giá trị gia tăng trong ngành may mặc toàn cầu
Nguồn: Fernandez-Stark, Frederick, Gereffi (2011)
Quan sát mô hình trên, chúng ta dễ dàng nhận ra công đoạn có giá trị gia tăng
thấp nhất là sản xuất và công đoạn có giá trị gia tăng cao nhất là R&D, Dịch vụ, Thiết
kế, Marketing. Sở dĩ giá trị gia tăng cao tập trung vào những công đoạn này là do chuỗi
giá trị may mặc toàn cầu là điển hình của chuỗi giá trị do khách hàng điều phối (Gereffi,
Memedovic, 2003), tốc độ thay đổi nhu cầu ngành hàng này rất nhanh, nên những công
đoạn tiếp cận gần nhất với người tiêu dùng và tạo giá trị cao cho họ sẽ mang về giá trị gia
tăng cao cho ngành may mặc của quốc gia/ khu vực nào thực hiện công đoạn đó. Cấu trúc
quản trị chủ yếu hiện nay trong ngành may mặc là “quan hệ” và “trói buộc” và những tổ
chức có quyền lực cao, quyết định giá trị gia tăng cho từng công đoạn hiện nay thuộc về:
nhà bán lẻ (Walmart, Target, Sears, Tesco, C&A, Marks & Spencer, Gap, Limited brands,
H&M, Benetton, Mango…), nhà sản xuất thương hiệu (VF, Hansbrands, Gildan,
Inditex…), nhà marketing thương hiệu (Nile, Levi’s, Polo, Liz Claiborne, Hugo Boss,
Diesal, Gucci…) (Gereffi & Frederick, 2010). Hiện nay những doanh nghiệp dẫn đạo đang
có xu hướng liên kết công đoạn thiết kế và bán lẻ (Céline Abecassis-Moedas, 2006), sự
liên kết này sẽ giúp các doanh nghiệp dẫn đạo gia tăng quyền thống trị, ảnh hưởng đến
mạng lưới cung ứng toàn cầu và chiến lược nâng cấp của ngành may mặc của các nước
đang phát triển (những nước có chi phí lao động thấp).
Tiền sản xuất:
Vô hình
Sản xuất:
Hoạt động hữu hình
Hậu sản xuất:
Vô hình
R&D
Thiết kế
Mua sắm
Sản xuất
Phân phối
Marketing
Dịch vụ
Giá trị
gia
tăng

!
53
Chiến lược nâng cấp trong chuỗi giá trị may mặc toàn cầu mà các nước đang
phát triển cần thực hiện là nâng cấp quy trình, nâng cấp sản phẩm và nâng cấp chức
năng. Trong đó nâng cấp chức năng quyết định đến quá trình dịch chuyển đến công
đoạn có giá trị gia tăng cao hơn (John Humphrey, Hubert Schmitz, 2000; Fullbright,
2011). Những giai đoạn chính khi thực hiện nâng cấp chức năng: (1) Gia công (CMT);
(2) OEM; (3) ODM; (4) OBM (Karina Fernandez-Stark và cộng sự, 2011). Để thực
hiện thành công quá trình nâng cấp từ CMT lên OBM, ngành may mặc các nước đang
phát triển gặp rất nhiều rào cản như: ngành công nghiệp phụ trợ trong nước (CMT→
OEM); kỹ năng của nguồn nhân lực, vị trí địa lý, cản trợ từ doanh nghiệp dẫn đạo
(OEM→ODM→ OBM)… Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực
thông qua quá trình liên kết trong nước, cũng như trong khu vực; bên cạnh đó cần đa
dạng hóa thị trường, đặc biệt là thị trường nội địa và thị trường trong khu vực để nâng
cao những kỹ năng về thiết kế, marketing để tạo nền tảng vững chắc cho quá trình
nâng cấp trong chuỗi giá trị toàn cầu (Cornelia Staritz, 2012; Karina Fernandez-Stark
và cộng sự, 2011). Ngoài ra, nếu đủ điều kiện các doanh nghiệp nên đồng thời phục vụ
cho người mua trên chuỗi giá trị toàn cầu, người mua ngoài chuỗi giá trị toàn cầu và
người mua trên thị trường nội địa (Hang, Utz Dornberger, 2012).
Từ những nghiên cứu trên cho thấy sự cần thiết phải thực hiện chiến lược nâng
cấp trên cơ sở liên kết và khi AEC hình thành thì đây là một cơ hội lớn để ngành may
Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng triển khai chiến lược nâng cấp theo hướng
đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, liên kết với những người mua tại các quốc gia trong
khu vực để nâng cấp sang ODM và OBM. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần liên kết
chặt chẽ hơn với ngành công nghiệp phụ trợ trong khu vực để nâng cấp hoàn toàn từ
CMT sang OEM để mang về giá trị gia tăng cao hơn khi tham gia vào chuỗi giá
trijmay mặc toàn cầu. Sau đây là mô hình nghiên cứu về chiến lược nâng cấp ngành
may mặc sau năm 2015 trên cơ sở tiếp cận chuỗi giá trị may mặc toàn cầu và cơ hội
liên kết trong AEC: