Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của tư pháp huyện, quận, thị xã, thành ph
thuộc tỉnh
Với mục tiêu góp phần nâng cao kiến thức, knăng cơ bản về chuyên môn
nghiệp vụ Tư pháp cấp huyện nói chung, kiến thức, nghiệp vụ về xử lý đơn
thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực Tư pháp cấp huyện nói
riêng, chuyên đề này trình bày và phân tích các vấn đề chính bao gồm: vai trò
của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại cơ sở và nhiệm vụ, quyền hạn của
Phòng Tư pháp trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo; những vấn đề cơ
bản về quy trình nghip v xử lý đơn và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
I. Vai trò của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại cơ sở và nhiệm vụ,
quyền hạn của Phòng Tư pháp trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo
1. Vai trò của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại cơ sở
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền tự nhiên của con người trước những
vấn đề bị vi phạm để tự bảo vệ mình. Hay nói một cách khác, bản chất của quyền
khiếu nại, tố cáo là quyền tự vệ hợp pháp trước những hành vi vi phạm để tự bảo
vmình hoặc bảo vệ quyền và li ích của xã hội. Đó là quyền hiến định, quyền
phản hồi, quyền dân chủ hơn thế nữa, đó là quyền để bảo vệ quyền. Chính vì
vậy, khiếu nại, tố cáo là hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội. Khiếu nại,
tcáo là một kênh thông tin khách quan phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ
máy nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức. Do
đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không những vai trò quan trọng trong
quản lý nhà nước, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đảng Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn,
sphù hp của đường lối, chính sách, pháp luật do mình ban hành, tđó s
thực tiễn để hoàn thiện slãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản Nhà
nước. Vì vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một vấn đề được Đảng,
Nhà nước nhân dân đặc biệt quan m. Để việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết
khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, góp phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, quan, tổ chức; tạo sở pháp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo Nhà
nước ta đã ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và được sửa đổi, bsung
vào các m 2004, 2005. Để phát huy và nâng cao trách nhim trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo của cả hệ thống chính trị, Ban thư Trung ương Đảng đã ban
hành Chthị số 09-CT/TW ngày 6-3-2002 v một số vấn đề cấp bách cần thực
hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay.
Thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo và Chthị số 09-CT/TW của Ban thư, các
ngành, các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, nhờ đó, công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã
những chuyển biến tích cực. Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo đã góp phần
quan trọng vào việc ổn định tình hình an ninh, chính trị, phục vphát triển kinh tế
- hội trong những năm qua. Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân
ở một số địa phương vẫn có chiều hướng gia tăng, số lượng các vụ việc khiếu kiện
ợt cấp, đông người vẫn còn nhiều. Trong những người đi khiếu nại, tố cáo,
những người khiếu nại, tố cáo đúng, mong muốn được pháp luật giải quyết công
minh; nhưng cũng có một số người mặc dù vviệc khiếu nại đã được quan
thẩm quyền xem xét, giải quyết đúng pháp luật, nhưng hoặc vì thiếu hiểu biết,
hoặc vì cchấp mà vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài. Một số người đi khiếu
nại, tcáo thái độ gay gắt, cực đoan, hành vi quá khích làm ảnh hưởng đến
trật tự xã hội ở một số địa bàn.
Tuy nhiên, những m gần đây, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn còn
nhiều hạn chế, bất cập. Nhiều nơi số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo gia ng,
thậm chí nơi tình hình khiếu nại, tố cáo diễn biến hết sức phức tạp, làm ảnh
hưởng đến an ninh, trật tự tại địa phương như Tây, Hưng Yên… Thi gian gần
đây, rất nhiều vụ việc khiếu nại liên quan đến đất đai. Nhiều trường hợp khiếu
nại liên quan đến việc Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển
kinh tế - hội, như đòi được bồi thường đất ở, nâng gbồi thường, tăng tiền hỗ
trợ, bố trí tái định cư, giải quyết việc làm; đòi lại đất cũ, tranh chấp đất đai, nhà ở.
Ngoài ra, một skhiếu nại liên quan đến việc thực hiện chính sách xã hội, kỷ
luật của cán bộ, công chức... Về nội dung tố cáo, chủ yếu là tcáo cán bộ, công
chức làm sai chính sách, tiêu cực, tham nhũng trong quản đất đai, tài chính, đầu
tư, xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách xã hội, cổ phần hóa doanh nghiệp; thiếu
trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, bao che người bị tố cáo, không xử
nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này thì nhiều, nhưng thể nói một trong
nguyên nhân bản là do một số nơi chính quyền sở còn chưa quan m đúng
mức tới công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là chính quyền cấp xã
phường và chính quyn cấp quận, huyện và th xã. Khi phát sinh khiếu nại, tố cáo,
một số chính quyền cơ sở chưa làm tròn trách nhiệm của mình, thiếu quan m giải
quyết từ gốc - nơi phát sinh khiếu nại, tố cáo, nhiều vụ việc giải quyết chậm,
thẩm tra, xác minh sài, thu thập chứng cứ không đầy đủ, kết luận thiếu chính
xác, áp dụng pháp luật cng nhắc, phương án giải quyết thiếu thuyết phục, dân
không đồng tình, tiếp tục khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó, sự phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước để giải quyết khiếu nại, tố cáo lúc chưa tốt, còn hiện tượng
đùn đẩy trách nhiệm, chuyển đơn lòng vòng, trlời thiếu thống nhất. Việc tuyên
truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục, hướng dẫn người khiếu nại, tố cáo và
công tác hòa giải cơ sở chưa được quan tâm thực hiện đúng mức nên những
vviệc đơn giản vẫn phát sinh đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp. Bên cạnh đó,
trong một số trường hợp, bọn phản động và phần tử hội lợi dụng, kích động
những người đi khiếu nại, tố cáo; tổ chức, lôi kéo khiếu kiện đông người, biến các
vviệc khiếu nại thuần túy trở thành vấn đề chính trị - hội, dẫn đến tình hình
khiếu nại, tố cáo thời gian qua những diễn biến phức tạp như vThích Quảng
Độ, Thích Không Tánh âm mưu tiến hành tại Hà Nội và thành phHồ Chí Minh
vào ngày 23/8/2007.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp trong lĩnh vực giải quyết khiếu
nại, tố cáo
Ngày 28/4/2009 pháp Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số
01/2009/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
cấu tổ chức của S pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp
thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện công c pháp của Ủy ban nhân dân cấp
xã. Thông tư này thay thế Thông liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV ngày 05-5-
2005 của lien Bộ pháp Nội vhướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức các cơ quan chuyên n giúp Ủy ban nhân n quản quản
nhà nước về công tác tư pháp địa phương. Theo quy định của Thông số
01/2009/TTLT-BTP-BNV thì Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên n thuộc Uban
nhân dân cp huyện; tham u, gp Uban nhân n cấp huyện thực hiện chức
ng quản nhà nước về: công tác y dựng và thi nh văn bản quy phạm pháp
luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; phbiến, giáo dục pháp luật; thi
nh án dân sự; chứng thực; hộ tịch; trợ giúp pháp lý; hoà gii ở cơ svà ng tác
pháp khác theo quy định của pp luật.
N vậy, có thể nói cùng với sự trưởng thành ca ngành Tư pháp, vị trí và chc
ng, nhim vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp cũng ngày càng được tăngờng. So
với trước kia, Phòng Tư pháp hiện nay được quy định có tư cách pháp nhân, con du
và tài khoản riêng; đồng thời, Phòng Tư pp cũng được bổ sung một số nhiệm vụ,
quyn hạn, trong đó nhiệm vụ, quyền hạn rất mới và quan trọng như về theo dõi
nh hình thi hành văn bản quy phạm pháp luậtiểm a, khoản 6, Điều 5, Thông tư số
01/2009/TTLT-BTP-BNV)- đây là một nhiệm vụ mang tính tờng xuyên, liên tục,
toàn diện và kịp thời và luôn gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan chuyên môn ca Ủy ban, trong đó trách nhiệm nhiệm giải quyết khiếu nại, tố
o của côngn theo thẩm quyền; có những nhiệm vụ quyền hạn được bsung rất
nhy cảm”, liên quan đến nhiều thủ tục hành chính n thực hiện chứng thực bản
sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài; chứng thực chữ ký
của người dịch trong các giấy tờ, văn bản từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc
từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài; chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản
bằng (điểm b, khoản 11, Điều 5, Thông tư số 01/2009/TTLT-BTP-BNV); hay
Giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho
người từ đủ 14 tuổi trở lên và xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung
hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch cho mọi trường hợp, không phân biệt độ tuổi, cấp bản
sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch theo quy định của pháp luật (điểm b, khoản 12,
Điều 5, Thông tư số 01/2009/TTLT-BTP-BNV). Đặc biệt, khoản 16, Điều 5 của
Thông tư số 01/2009/TTLT-BTP-BNV quy định Phòng Tư pháp có nhiệm vụ và
quyền hạn:
Chtrì, phối hợp với các quan liên quan kiểm tra, thanh tra việc thi hành
pháp luật vhoạt động pháp trên địa bàn; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng,
chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí trong hoạt động pháp
trên địa bàn theo quy định của pháp luật và phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp
huyện”.
Trên thc tế, những địa phương, Phòng Tư pp được giao phối hợp với Thanh
tra huyn ngay trong giai đoạn phân loại, c định thẩm quyền giải quyết và x
đối với một số trường hợp khiếu nại, tố cáo. Đặc biệt, khi ng chức Phòng Tư pháp
được giao nhiệm vụ tham gia các đoàn thanh tra, c minh liên ngành để gp Chủ
tch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết khiếu nại, tố o theo thẩm quyền thìng
chức Phòng Tư pháp, ngi việc giữ vai trò là thành vn của đoàn, còn phải vấn
không nhng nội dung pháp luật liên quan mà n c những nghiệp vvxác
minh, giải quyết khiếu nại, tố cáo sao cho việc xác minh, kết luận, kiến nghvà giải
quyết đúng quy trình pháp luật và đạt hiệu quả. Tuy nhn, thực tiễn, số Phòng Tư