MẠCH VI
( ·L ¯ß - MINUTE (FEEBLE) PULSE - POULS PETITE).
A- ĐẠI CƯƠNG
- Vi là nhỏ, mạch đi chập chờn như có như không.
- Thuộc loại mạch âm, thuộc về Bát Lý Mạch.
B- HÌNH TƯỢNG MCH VI
- Chương ‘Biện Mạch Pháp’ (TH. Luận) ghi: “Mạch khí chập chờn như mnổi
trên canh”.
- Chương ‘Mạch Hình Trng Chỉ Hạ Bí Quyết’ (M. Kinh) ghi: “Mạch Vi là cực Tế
mà Nhuyn hoặc muốn tuyệt, như có như không”.
- Sách ‘Chẩn Gia Chính Nhãn’ ghi: “Mạch khí thưa, nhỏ, như có như không”.
- Sách ‘Trung Y Học Khái Luận’ ghi: “Mạch lờ mờ, rất nhỏ như có, như kng,
mun tuyệt mà không phi tuyệt”.
- Sách ‘Trung Y Chn Đoán Học Gang Nghĩa’ ghi: Mạch khí không rõ, lmờ,
lúc n lúc hiện”.
HÌNH VBIỂU DIỄN MẠCH VI
- Sách ‘Mạch Chẩn’ biểu diễn hình vmạch Vi:
C- NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH MẠCH VI
- Chương ‘Biện Mạch Pháp’ (TH. Luận) ghi: “Mạch Vi... do dương khí suy”.
- Sách ‘Chẩn Gia Chính Nhãn’ ghi: “Mạch Vi... do khí và huyết đều hư”.
- Sách ‘Trung Y Chn Đoán Học Ging Nghĩa’ ghi: Khí huyết hư suy thì sinh ra
mạch Vi”.
D- MẠCH VI CHỦ BỆNH
- Chương ‘Biện Mạch Pháp’ (TH. Luận) ghi: “c mạch Trầm, Sáp, Nhược,
Huyền, Vi là các mạch âm... các bệnh dương thấy mạch âm thì chết. Mạch ở thốn
khẩu Vi thì gi là dương không đủ, âm khí xâm nhập vào phn dương nên sợ lạnh.
Hỏi: Có người bệnh không run, không ra mồ hôi mà lại giải là ti sao? Đáp rằng:
Mạch thấy Vi là đã từng được phát hãn, như thế, hạ hoặc vong huyết là bên trong
không có tân dịch, âm dương tự điều hòa, tất bệnh tự khỏi, vì vy không run,
không ra mồ hôi mà gii vậy”.
- Sách ‘Tn Hồ Mạch Học’ ghi: “Mạch Vi là khí huyết suy vi, gây ra sợ lạnh, phát
sốt, mồ hôi ra nhiều. Nam lao nữ thì băng huyết. Mạch bộ thốn Vi thì th
ngắn hoặc kinh sợ. - Bộ quan Vi thì bụng đầy trướng, bộ xích Vi là tinh huyết khí
thiếu, sợ lạnh, đau rên rỉ”.
- Chương ‘Y Gia Quan Miện’ (HTYTT. Lĩnh) ghi: “Mạch Vi chủ có bại huyết
chảy ra không ngớt, sắc mặt không tươi nhuận. Mạch bộ thốn Vi là khí xông ngược
lên, bquan Vi là Tâm khí buất kết, mạch bộ xích Vi là dưới rốn có khí tích bôn
đồn”.
- Sách ‘Trung Y Học Khái Luận’ ghi: “Mạch Vi thấy trong chứng vong dương, khí
huyết quá suy”.
- Sách ‘Trung Y Chn Đoán Học Ging Nghĩa’ ghi: Mạch Vi chủ dương khí suy,
các chứng hư của âm dương, khuyết ở tình trng nghiêm trng”.
- Sách ‘Mạch Học Giảng Nghĩa’ ghi: “Mạch Vi chủ khí hư, mất máu, mồ hôi tự ra,
kiết lỵ, họng đau, tay cn tê lạnh, co quắp.
Tả Thốn VI
Khí huyết đều suy.
Hữu Thốn VI
Thở gấp, đàm ngng tụ.
Tả Quan VI Hữu Quan VI
Ngực đầy tức, tay chân co
quắp. Vhàn, ăn không tiêu.
Tả Xích VI
Đàn ông thì thương tinh.
Đàn bà thì băng lậu.
Hữu Xích VI
Tiêu chảy, đau dưới rốn.
- Sách ‘Đông Y Lược Khảo’ ghi: “Tay trái: Bộ thốn Vi là huyết kém sinh ra chứng
hồi hộp. - Bộ quan Vi là ngực đầy, người mệt, chân tay lạnh. - Bxích Vi, đàn ông
thì di tinh, tiu ra máu, đàn bà thì bị bạch đới, băng huyết. Tay phải: bộ thốn Vi là
hàn khí kết bế ở thượng tiêu gây ra chng khí kết, n đờm ngưng kết, - Bộ quan
Vi là Tỳ Vị bị hư hàn, ăn uống không tiêu, hay ợ, bụng đau luôn, - Bộ xích Vi là
hàn khí kết bế ở Thận và Tam tiêu gây ra tiêu chy”.
E- MCH VI KIÊM MCH BỆNH
- Chương ‘Biện Mạch Pháp’ (TH. Luận) ghi: “Hỏi: Thương hàn đã 3 ngày, mạch
Phù, Sác mà Vi, cơ thể người bệnh lại mát là tại sao? Đáp: Đó là sắp giải và gii
vào lúc nửa đêm. Mạch Phù thì ra mồ hôi nhanh mà giải, mạch Sác thì ăn được mà
giải, mạch Vi thì mồ hôi ra nhiều mà giải”.
- Chương ‘Bình Mạch Pháp’ (TH. Luận) ghi: “Mạch ở thốn khẩu Vi mà Sáp. Vi là
vệ khí không vận hành, Sáp là vinh khí không theo kịp”.
- Chương ‘Biện Thái Âm...Trị’ (TH. Luận) ghi: “Thái âm trúng phong, tay chân
nhức mỏi, mạch ở bộ thốn Vi, bộ xích Sáp mà Trường là sp khỏi”.
- Chương ‘Biện Thiếu Âm...Trị’ (TH. Luận) ghi: “Thiếu âm bệnh thì mạch Vi, Tế,
chỉ muốn ngủ, - Thiếu âm bệnh mạch Khẩn, đến 7-8 ngày sau tđi lỵ, mạch Vi
thm, tay chân lại ấm, mạch kng còn Khẩn nữa là bnh sắp giải”. Thiếu âm
trúng phong, mạch bộ thốn Vi, mạch bộ xích Phù là bnh sắp giải. Thiếu âm bệnh,
mạch Vi, Tế, Trầm, chỉ muốn nằm, mồ hôi mà không ra mà không phiền táo, muốn
ói, đến 5-6 ngày lại muốn đi kỵ mà phiền táo không nằm được thì chết”.
- Chương ‘Biện Quyết Âm... Trị’ (TH. Luận) ghi: “Quyết âm trúng phong, thấy
mạch Vi, Phù là sp giải, không Plà chưa giải”.
- Chương ‘Biện Hắc Loạn... Trị(TH. Luận) ghi: “Thương hàn mà mạch Vi Sác là
chứng hắc loạn”.
- Chương ‘Huyết Tý Hư Lao... Trị’ (KQY. Lược) ghi: “Bệnh huyết tý... thấy mạch
Vi Sáp thốn khẩu, và Tiu Khẩn ở bộ quan”.
- Chương ‘Phế Nuy Phế Ung... Trị’ (KQY. Lược) ghi: “Hỏi: Chứng ho ngược, xem
mạch làm sao để biết là chứng phế ung? Thầy đáp rằng: mạch ở thốn Khẩu Vi
mà Sác. Vi là do phong, Sác là do nhit. Vi thì ra mhôi, Sác thì sợ lạnh”.
- Chương ‘Hung Tý Tâm Thng’ (KQY. Lược) ghi: “Mạch phu dương Vi
Huyền thì bụng đầy, Nếu trong bụng không đầy tức, táo bón, 2 bên sườn đau, đó là
do hư hàn từ dưới lên. - Hi: Người bệnh bị tích thực làm sao mà phân biệt? - Thầy
đáp rằng: Mạch thốn khẩu Pmà Đại, ấn tay thì Sáp, bộ xích thì Vi mà Sáp là biết
có thức ăn tích lại không tiêu”.
- Chương ‘Thủy Khí Bệnh Mạch Chứng Tịnh Trị’ (KQY. Lược) ghi: “Mạch phu
dương mà Trì, Vi. Vi là khí, Trì là hàn”.
- Chương ‘Ẩu Thổ Uế...Trị’ (KQY. Lược) ghi: “Mạch ở thốn khẩu Vi mà Sác. Vi
là không có khí, không có khí thì mạch Vi Hư, Vi Hư thì huyết kng đủ, huyết
không đủ thì lạnh ở ngực”.
- Chương ‘Sang Ung, Trường Ung...Trị’ (KQY. Lược) ghi: “Hỏi: Mạch ở thốn
khẩu Phù, Vi mà Sáp thì phải ra mồ hôi, vong huyết. Nếu không ra mồ hôi là ti
sao?- Đáp: đó là do vết thương dao búa... Mất máu nhiều nên không ra mồ hôi”.
- Chương ‘Phụ Nhân Sản Hậu...Trị’ (KQY. Lược) ghi: “Sản phụ bị chóng mặt,
choáng váng, mạch Vi Nhược, nôn mửa, không ăn được, đại tiện cứng, đầu ra mồ
hôi. Sở dĩ như thế là do huyết b”.
- Chương ‘Lục Kinh Thụ Bệnh Phát Thương Hàn Nhiệt Bệnh Trúng’ (G.Ất) ghi:
Nhiệt bệnh đã 7-8 ngày, mạch Vi Tiểu, tiểu ra u, miệng khô thì 1 ngày rưỡi sau
sẽ chết - Nếu thấy mạch Đại thì 1 ngày sau schết”.
G- MẠCH VI ĐIỀU TRỊ
- Chương ‘Biện Thái Dương...Trị’ (TH. Luận) ghi: “Thái dương bệnh đã 8-9 ngày,
triệu chứng như sốt t, phát sốt, sợ lạnh, nóng nhiều lạnh ít, không ói mửa, đại tiện
đã thy điều hòa, trong ngày phát sốt, rét 2-3 lần, mạch Vi, Hoãn là sắp giải. Mạch
Vi mà s lạnh là âm dương đều hư, vì vậy không thể lại dùng các phép phát n,
thổ hạ.- Thái dương bệnh, phát nóng sợ lạnh, nóng nhiều lạnh ít, mạch Vi,Nhược
đó là vô dương, vì vậy, không thể dùng phép hãn được, cho uống bài Quế Chi Nhị
Việt Tỳ Nhất Thang (Quế Chi, Ma Hoàng, Thược Dược, Chích Thảo, Thạch Cao,
Đại Táo, Sinh Khương). Thái dương trúng phong, mạch Phù, Khẩn, phát sốt, s
lnh, cơ thể đau nhức ) ra mồ hôi mà lại phiền táo thì cho uống bài Đại Thanh
Long Thang (Ma Hoàng, Hnh Nhân, Thạch Cao, Quế Chi, Chích Thảo, Sinh
Khương, Táo). Nếu thấy mạch Vi, Nhược, ra mhôi, mà s gió thì không th
uống, nếu uống thì tất ssinh ra chứng quyết nghịch, gân cơ và thịt bị máy giật, đó
là nghịch chứng,- Mạch Phù Sác, ra mhôi mà lnh, nếu lầm mà dùng phép hạ thì
làm cho cơ thể nặng, hồi hộp. Kng thể dùng phép phát hãn mà hãy chờ cho mồ
hôi tự ra thì khỏi. Sở dĩ như vậy là vì mạch ở bộ xích Vi, đó là phn biểu bị hư,
phải chờ cho phần biểu và đều thực, tân dịch đều hòa tmồ hôi tự ra mà khi.-
Sau khi đã dùng phép hmà lại còn phát hãn, tất làm cho lnh run, mạch Vi Tế, sở
dĩ có như vậy là vì trong và ngoài đều bị hư. - Sau khi đã dùng phép hmà lại còn
phát hãn làm cho suốt ngày phiền táo, không ngủ được, đêm thì yên tĩnh, kng
ói, không khát, không có chứng biểu, mạch Trầm, Vi, cơ thể không nóng lắm, dùng
bài Can Khương Phụ Tử Thang mà chữa (Can Khương, Phụ Tử).- Thái dương
bệnh chưa chữa, mạch ở xích và thốn đều Vi, trước thì run ry, sau ra mồ hôi mà
giải, dùng bài Điều Vị Thừa Khí Thang (Đại Hoàng, Chích Thảo, Mang Tiêu).-
Thương hàn đã 13 ngày, nói xàm là có nhit, nên dùng phép hạ... Nếu tự hạ lỵ thì
mạch phải Vi quyết, nay lại điều hòa là do nội thực, cho uống bài Điều Vị Thừa
Khí Thang (Đại Hoàng,Chích Tho, Mang Tiêu).- Gặp mạch Vi Sác thì không
được dùng phép cu vì hỏa tà s làm cho phiền nghịch. Thái dương bệnh đã 6-7
ngày mà chứng biểu vẫn còn mạch Vi mà Trm, không bị kết hung, người bệnh
như phát cuồng, nhiệt hạ tiêu, vì vậy bụng dưới đầy cứng, tiểu tiện tự lợi, đại tiện
ra máu rồi tự khỏi. Sở dĩ như vậy là vì Thái dương đi theo kinh, huyết, lý mà
ra. Cho ung bài Để Đương Thang (Thủy Điệt, Mang Trùng, Đại Hoàng, Đào
Nhân)- Bnh thương hàn sau khi dùng phép thổ, hạ, li còn phát hãn, tất thấy
phiền, mạch Vi thậm, 7-8 ngày sau thì vùng vị quản đầy tức, đau dưới 2 bên sườn,
khí xung nghịch lên họng, hoa mắt, lâu ngày s thành chng nuy”.
- Chương ‘Biện Thiếu Âm...Trị’ (TH. Luận) ghi: “Thiếu âm bệnh đi lỵ mà mạch
Vi, cho ung bài Bạch Thông Thang (Phụ Tử, Thông Bạch, Can Khương). Thiếu
âm bnh, đi lỵ pn lng, trong lạnh ngoài nóng, tay cn lạnh, mạch Vi muốn
tuyệt, thể không sợ lnh, sắc mặt đỏ, bụng đau, n oẹ khan, họng đau hoặc
ngưng đi lỵ mà mạch lại không hiện ra, cho uống bài Thông Mạch Tứ Nghịch
Thang (Chích Thảo, Phụ Tử, Can Khương)- Thiếu âm bnh đi lỵ mà mạch Vi, Sáp,
nôn mửa mà ra mồ hôi... nên dùng phép ôn cứu ở trên (Bá Hội)”.
- Chương ‘Biện Quyết Âm...Trị’ (TH. Luận) ghi: “Thương hàn đã 6-7 ngày, mạch
Vi, chân tay lạnh, phiềno, nên cứu ở quyết m. Nếu đã dùng phép cu mà vẫn
còn bị quyết lãnh không hi phục được thì chết”.