
Hội thảo khoa học Quốc gia Quản lý tài nguyên, môi trường
và phát triển bền vững vùng Tây Bắc, Việt Nam
ĐÁNH GIÁ TÍNH BỀN VỮNG SẢN PHẨM DU LỊCH HOMESTAY MỘC CHÂU
THEO HƯỚNG TIẾP CẬN CẢNH QUAN VĂN HÓA
Lê Thị Thu Hòa, Điêu Thị Vân Anh, Bùi Thị Hoa Mận
Khoa Khoa học Xã hội – Trường Đại học Tây Bắc
Email: hoaltt@utb.edu.vn
Tóm tắt: Nghiên cứu này trình bày tổng quan cách tiếp cận khái niệm cảnh quan văn hóa trên thế giới, từ đó tạo căn
cứ khoa học nghiên cứu thực trạng khai thác và bảo tồn cảnh quan văn hóa tại các homestay thuộc huyện Mộc Châu,
tỉnh Sơn La. Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng nhận đánh giá của du khách du lịch và các chủ cơ sở
homestay về tình hình khai thác tài nguyên văn hóa du lịch dựa vào cộng đồng. Trên cơ sở này, đánh giá thực trạng,
khai thác giá trị văn hóa tại homestay và đưa ra các khuyến nghị và giải pháp để khai thác, bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa du lịch tại các homestay thuộc huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
Từ khóa: Cảnh quan văn hóa, du lịch, cộng đồng, homestay, Mộc Châu.
1. GIỚI THIỆU
“Du lịch là một thành phần quan trọng nhất trong nền kinh tế của vùng núi”, “Du lịch núi bền vững là cơ hội
cho cộng đồng địa phương” [1]. Du lịch văn hóa gần đây đã được Tổ chức Du lịch Thế Giới (UNWTO) khẳng
định là một yếu tố chính của tiêu dùng du lịch quốc tế, chiếm hơn 39 % lượng khách du lịch. Nghiên cứu du lịch
văn hóa cũng phát triển nhanh chóng, xu hướng nghiên cứu chính bao gồm sự chuyển đổi từ di sản vật thể sang
phi vật thể, chú ý nhiều hơn đến các nhóm dân tộc bản địa và dân tộc thiểu số khác (UNWTO, 2019) [2]. Để xây
dựng các căn cứ khoa học cho du lịch văn hóa tại địa phương, nghiên cứu này, làm rõ thực trạng khai thác cảnh
quan văn hóa du lịch dựa vào cộng đồng tại các homestay thuộc huyện miền núi cao nguyên Mộc Châu, tỉnh Sơn
La. Kết quả nghiên cứu xác định được cơ sở khoa học để tiếp cận cảnh quan văn hóa trong phát triển sản phẩm du
lịch homestay để đưa ra các giải pháp cho du lịch văn hóa của huyện Mộc Châu, giúp cộng đồng địa phương phát
huy giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc vào phát triển sản phẩm du lịch homestay, tạo ra sinh kế bền vững.
2. PHƯƠNG PHÁP LUẬN
2.1. Phương pháp khảo sát thực địa
Để nắm được vấn đề chủ động chính xác nhóm nghiên cứu đã tiến hành 3 chuyến thực địa từ tháng 6/2018 -
8/2019.
Chuyến 1: Khảo sát sơ bộ tình hình các homestay để lấy cơ sở xây dựng bảng hỏi.
Chuyến 2: Thực hiện hỏi và phát phiếu điều tra, tiếp tục chỉnh sửa nội dung bảng hỏi cho phù hợp.
Chuyến 3: Điều tra lại và củng cố thông tin nghiên cứu.
Mục đích của các chuyển khảo sát nhằm tìm hiểu thực trạng tại các homestay tại huyện Mộc Châu (gồm thực
trạng về du khách, thực trạng thực hành các giá trị văn hóa của các homestay).
2.2. Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp điều tra được thực hiện trên cơ sở xây dựng hai nội dung bảng hỏi cho hai đối tượng khách du
lịch và chủ các homestay. Kết hợp với thực địa đã phát phiếu hỏi đến 10 chủ homestay và 100 khách du lịch tình
hình khai thác các yếu tố văn hóa nhằm phát triển du lịch tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã tham vấn về ý tưởng nghiên cứu, nội dung bảng hỏi và cách thức đưa
ra các luận điểm nghiên cứu.
2.5. Phương pháp bản đồ và GIS
Phương pháp bản đồ GIS kết hợp với phương pháp thực địa đã xây dựng bản đồ hành chính đảm bảo tính trực
quan và khoa học.

398 Lê Thị Thu Hòa, Điêu Thị Vân Anh, Bùi Thị Hoa Mận
2.6. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
Tổng hợp các tài liệu bao gồm cảnh quan văn hóa, du lịch văn hóa, du lịch dựa vào cộng đồng, du lịch bền
vững, bảo tồn cảnh quan và địa lý môi trường. Các tìm kiếm trên máy vi tính được thực hiện bằng cơ sở dữ liệu
trực tuyến từ UNESCO, Science Direct, Tổ chức du lịch Thế Giới, niên giám thống kê và nhiều tài liệu văn bản
khác. Các tài liệu cung cấp cái nhìn toàn diện hơn về cảnh quan văn hóa, du lịch văn hóa và du lịch dựa vào cộng
đồng trên Thế Giới và Việt Nam.
3. NỘI DUNG
3.1. Tiếp cận khái niệm cảnh quan văn hóa trong du lịch
Khái niệm cảnh quan văn hóa lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà địa lý người Đức Friedrich Ratzel vào năm
1895. Ông giải thích rằng “cảnh quan được hình thành và chịu ảnh hưởng của hoạt động của con người” (theo
Puteri Yuliana Samsudin, 2015) [3]. Năm 1922, nhà khoa học Paul Vidal de la Blache thuộc trường phái địa lý
Pháp công bố tác phẩm “Địa lý nước Pháp” đã tiếp cận gần đến khái niệm cảnh quan văn hóa hiện nay khi
“công nhận tầm quan trọng của xã hội địa phương và phong tục tập quán trong việc hình thành cảnh quan, cảnh
quan tự nhiên và xã hội là sự thống nhất toàn diện” (theo Antrop, 2000) [4]. Cũng đồng quan điểm công nhận
vai trò của con người trong cảnh quan, năm 1925 nhà địa lý văn hóa người Mỹ Carl Sauer xuất bản tác phẩm
“Hình thái cảnh quan” đã đưa ra quan niệm “cảnh quan là một khoảng đất đai được hình thành bởi các yếu tố tự
nhiên và yếu tố văn hóa” đã coi tác động của con người đến cảnh quan là biểu hiện của văn hóa, ông đã nhấn
mạnh vai trò của con người (nhân sinh) trong việc thay đổi cảnh quan Trái Đất. Đặc biệt ông cho rằng: “Văn hóa
là tác nhân, khu vực tự nhiên là phương tiện, cảnh quan văn hóa là kết quả” (Sauer, trong Titin. Fatimath, 2015)
[5]. Ông chỉ ra rằng cảnh quan văn hóa đang thay đổi vì sự thay đổi cảnh quan của con người theo thời gian và
“một cảnh quan văn hóa được tạo ra từ một cảnh quan tự nhiên”. Từ các quan điểm trên, chúng tôi đồng ý với
Sauer rằng cảnh quan văn hóa đã thay đổi do các hoạt động của con người, văn hóa là yếu tố chính nuôi dưỡng,
bảo vệ môi trường tự nhiên. Một cảnh quan được đặc trưng bởi chính nền văn hóa, cộng đồng dân cư địa phương
là nhân tố hình thành cảnh quan văn hóa trong khu vực. Nếu cộng đồng địa phương không thực hành các yếu tố
văn hóa trong lối sống hàng ngày của họ, tính nguyên bản của làng bản sẽ mất đi và không được đánh giá cao.
Văn hóa của cộng đồng dân cư còn thể hiện trong cách hành xử với tự nhiên, cụ thể là việc hiểu, tôn trọng và bảo
vệ tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên.
Theo báo cáo Đánh giá thiên niên kỷ (MEA, 2003; MEA, 2005) và sáng kiến toàn cầu về kinh tế của các hệ
sinh thái và đa dạng sinh học (TEEB, 2010) đã đề xuất khung chức năng cảnh quan và dịch vụ hệ sinh thái. Qua
đó, văn hóa dân tộc được coi là dòng hàng hóa vật chất quan trọng của cảnh quan mang đến hạnh phúc và lợi ích
kinh tế cho con người (trong đó có du lịch) [6], [7], [8].
Bảng 1. Các nhóm chức năng của cảnh quan và hệ sinh thái
Chức năng điều tiết
Lợi ích thu được từ các quá
trình trong cảnh quan của hệ
sinh thái
- Điều hòa khí hậu
- Lọc không khí
- Điều tiết nước
- Lọc nước
- Giảm thiểu bệnh tật
- Thụ phấn
Chức năng cung cấp
Sản phẩm thu được từ
Cảnh quan và hệ sinh thái
- Thực phẩm và chất sơ
- Nước
- Nhiên liệu
- Dược phẩm
- Trang sức và các sản phẩm khác
- Không gian hoạt động
Chức năng văn hóa
Lợi ích phi vật chất từ cảnh quan và hệ
sinh thái
- Sự đa dạng của nền văn hóa
- Di sản
- Giá trị tinh thần và tôn giáo
- Hệ thống kiến thức và giáo dục
- Cảm hứng nghệ thuật
- Vẻ đẹp thẩm mỹ của cảnh quan
- Du lịch và giải trí
Chức năng môi trường sống
Duy trì đa dạng sinh học và các quá trình tiến hóa của hệ sinh thái
- Sự hiện diện của các loài quý hiếm và đặc hữu.
- Môi trường sinh sản của các loài di cư.
Nguồn (TEEB, 2010)

Đánh giá tính bền vững sản phẩm du lịch homestay Mộc Châu 399
theo hướng tiếp cận cảnh quan văn hóa
Khái niệm Cảnh quan văn hóa gần đây được một số tổ chức và quốc gia trên thế giới áp dụng nhằm bảo tồn,
khai thác ngành du lịch bền vững. Năm 2005, Tổ chức Khoa học và Văn hóa Giáo dục Liên Hợp Quốc
(UNESCO) đã đưa ra khái niệm cảnh quan “Kết hợp của thiên nhiên và loài người, thể hiện mối quan hệ lâu dài
và mật thiết giữa các dân tộc và môi trường tự nhiên của họ” (UNESCO, 2005) [9], đồng thời tổ chức này đã lựa
chọn 114 cảnh quan văn hóa trên toàn thế giới để xếp hạng thành di sản thế giới nhằm tôn vinh và bảo tồn những
thành quả tương tác giữa con người và thiên nhiên. Trong ngành du lịch, cảnh quan văn hóa chính là nơi thu hút
khách. Tại Mông Cổ, cảnh quan văn hóa được coi là các đồng cỏ, đàn gia súc, người dân du mục. Các yếu tố này
chính là sản phẩm du lịch thu hút khách, được thương mại hóa và trở thành biểu tượng du lịch của đất nước này
(Ralf Buckley, 2008) [10]. Tại Thái Lan, cộng đồng người Amphawa định cư ven sông lâu đời, nền văn hóa xuyên
thời gian với tôn giáo, lối canh tác, kiến thức bản địa, các ngành thủ công truyền thống với kỹ năng tinh xảo được
coi là cảnh quan văn hóa hấp dẫn khách du lịch (Siriporn Luekveerawattana, 2012) [11]. Trước bối cảnh đô thị
hóa diễn ra mạnh mẽ, không gian nông thôn Pantanal tại Braxin được coi là một cảnh quan văn hóa, được quy
hoạch khoa học nhằm công nhận chức năng sản xuất thịt bò hữu cơ, nâng cao tầm quan trọng của kinh tế nông
thôn. Mục tiêu chính của chính phủ và ngành du lịch nước này còn hướng đến tăng thu nhập cho người dân nông
thôn, kết hợp với du lịch sinh thái nông thôn đề duy trì nguồn gen truyền thống và văn hóa địa phương (theo
Samsudin and Maliki, 2015) [12]. Hình thức du lịch homestay gắn với du lịch văn hóa cộng đồng được coi là giải
pháp cho kinh tế nông thôn ở nhiều nước đang phát triển như Lào, Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ và nhiều nước châu
Phi [5], [13], [14], [15], [16], [17]. Tại Malaisia, các homestay được công nhận là cảnh quan văn hóa, được coi là
công cụ cho cộng đồng nông thôn giảm nghèo và là cơ sở để nâng cấp hạ tầng ở nước này. Các homestay ở
Malaisia được bộ nghệ thuật, văn hóa và du lịch (MOCHAT) của nước này quản lý hướng dẫn người dân thực
hiện. Đặc biệt ở Thái Lan, các homestay là cảnh quan văn hóa cuốn hút đặc biệt vì có điểm nhấn về cả tự nhiên và
nhân tạo như các tour trải nghiệm với đom đóm, làm than hoạt tính từ trái cây điếc, làm mứt thực phẩm tại các hộ
gia đình làm homestay, các hoạt động này được du khách đón nhận và rất hào hứng. Các homestay ở đây được
Tổng cục du lịch hướng dẫn kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm cho khách, được kiểm soát chất lượng sản phẩm khi đưa
đến du khách (Nguyễn Văn Mỹ, 2016) [18].
Tại Việt Nam, khái niệm cảnh quan văn hóa được tiếp cận nhằm phát triển du lịch như “cảnh quan văn hóa
tâm linh Yên Tử” (Trần Lê Bảo, 2015) [19]. Tại Yên Tử, cảnh quan văn hóa là không gian địa lý - văn hóa được
định vị ở vùng văn hóa Yên Tử (bao gồm các quần thể văn hóa ở Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Dương) và các
yếu tố tự nhiên bao gồm hệ thống Lục Đầu giang và vùng vòng cung Đông Triều, đến Chí Linh, Hải Dương. Gần
đây, hướng tiếp cận cảnh quan văn hóa nhằm đến bảo tồn và phát triển bền vững như công trình “cảnh quan di
sản văn hóa trong vùng di sản - những thách thức đương đại cho tính bền vững của đô thị Hà Nội” (Phạm Thị
Trầm, Phạm Hoàng Hải, Nguyễn An Thịnh, 2018) nhằm đánh giá tác động của quá trình đô thị hóa đến cảnh
quan nói chung và cảnh quan văn hóa nói riêng hướng đến sử dụng hợp lý tài nguyên bền vững. Mô hình
homestay ở Việt Nam phát triển mạnh ở khu vực có thị trường du lịch truyền thống như: Đà Nẵng, Nha Trang,
Huế, các tỉnh miền Tây Nam Bộ và các tỉnh miền núi phía bắc nước ta như Hòa Bình, Lào Cai,... Trong đó, các
homestay ở Lào Cai là điểm đến được nhiều du khách quốc tế đánh giá cao vì tính bản địa và văn hóa đặc sắc
gắn với cộng đồng [11].
Nhìn chung, khái niệm cảnh quan văn hóa ứng dụng nghiên cứu và phát triển du lịch trên thế giới cũng như
Việt Nam còn chưa nhiều. Nỗ lực của UNESCO (2005) để thúc đẩy khái niệm cảnh quan văn hóa trong du lịch
dường như chưa có bất kỳ công bố nào chính thức nào. Nhiều nghiên cứu khẳng định du lịch luôn đồng hành cũng
văn hóa nhưng chính du lịch tạo ra văn hóa (Richard, 2018) [21]. Để biến lý thuyết vào thực tiễn cần đưa các cảnh
quan văn hóa của một nơi cụ thể thành sản phẩm du lịch. Sản phẩm này cần được người dân và du khách công
nhận, nỗ lực và kỳ vọng để mang lại nguồn lợi và bảo tồn cảnh quan đó, hướng đến ngành du lịch bền vững.
Thông qua việc nghiên cứu tổng quan về khái niệm cảnh quan văn hóa và khai thác và thực hành văn hóa vào
khai thác du lịch trên thế giới và Việt Nam giúp nhóm nghiên cứu nhận định được (1).
3.2. Nguyên tắc phát triển du lịch bền vững
Cùng với khái niệm, Tổ chức Du lịch Thế giới đã đưa ra các nguyên tắc phát triển du lịch bền vững. Quá trình
thực địa, xây dựng bảng hỏi và đánh giá tính bền vững của du lịch dựa tại các homestay phát triển của nhóm
nghiên cứu về thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tại các homestay của Mộc Châu được tiến hành lấy định
nghĩa, các nguyên tắc này làm căn cứ.
Tại hội nghị về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc tại Rio de Janeiro năm 1992, Tổ chức Du lịch Thế
giới (UNWTO) đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng

400 Lê Thị Thu Hòa, Điêu Thị Vân Anh, Bùi Thị Hoa Mận
nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các
nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lý
các nguồn tài nguyên nhằm thỏa mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mỹ của con người trong khi đó vẫn duy
trì được sự toàn vẹn về văn hóa, đa dạng sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho
sự phát triển của con người”
Nguyên tắc 1: Khai thác, sử dụng nguồn lực một cách bền vững: Việc bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài
nguyên thiên nhiên, văn hóa và xã hội là hết sức cần thiết. Chính điều này sẽ khiến cho việc kinh doanh du lịch
phát triển lâu dài.
Nguyên tắc 2: Giảm sự tiêu thụ quá mức tài nguyên và giảm thiểu chất thải: Việc giảm tiêu thụ quá mức tài
nguyên như nước, năng lượng và giảm chất thải ra môi trường sẽ tránh được những chi phí tốn kém cho việc hồi
phục tổn hại về môi trường và đóng góp cho chất lượng của du lịch.
Nguyên tắc 3: Duy trì tính đa dạng, cả đa dạng thiên nhiên, đa dạng xã hội và đa dạng văn hóa: Việc duy trì và
tăng cường tính đa dạng của thiên nhiên, văn hóa và xã hội là yếu tố cốt yếu cho du lịch phát triển bền vững lâu
dài, và cũng là chỗ dựa sinh tồn của ngành công nghiệp du lịch.
Nguyên tắc 4: Phát triển du lịch phải đặt trong quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế - xã hội: Hợp nhất phát
triển du lịch vào trong khuôn khổ quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cấp quốc gia và địa phương,
việc tiến hành đánh giá tác động môi trường sẽ tăng khả năng tồn tại lâu dài của ngành Du lịch.
Nguyên tắc 5: Phát triển du lịch phải hỗ trợ kinh tế địa phương phát triển: Ngành du lịch mà hỗ trợ các hoạt
động kinh tế của địa phương và có tính đến giá trị và chi phí về môi trường sẽ vừa bảo vệ được kinh tế địa phương
phát triển lại vừa tránh được tổn hại về môi trường.
Nguyên tắc 6: Lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa phương: Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào
hoạt động du lịch sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương và môi trường mà còn nâng cao chất
lượng phục vụ du lịch.
Nguyên tắc 7: Lấy ý kiến quần chúng và các đối tượng có liên quan: Việc trao đổi, thảo luận giữa ngành du
lịch và cộng đồng địa phương, các tổ chức và cơ quan liên quan khác nhau là rất cần thiết nhằm cùng nhau giải tỏa
các mâu thuẫn tiềm ẩn về quyền lợi.
Nguyên tắc 8: Chú trọng công tác đào tạo nguồn lực: Việc đào tạo nguồn nhân lực trong đó có lồng ghép vấn
đề phát triển du lịch bền vững vào thực tiễn công việc và cùng với việc tuyển dụng lao động địa phương ở mọi cấp
sẽ làm tăng các sản phẩm du lịch.
Nguyên tắc 9: Tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm: Việc tiếp thị, cung cấp cho khách du lịch những thông
tin đầy đủ và có trách nhiệm sẽ nâng cao sự tôn trọng của du khách đối với môi trường thiên nhiên, văn hóa và xã
hội ở nơi tham quan, đồng thời sẽ làm tăng sự hài lòng của du khách.
Nguyên tắc 10: Coi trọng công tác nghiên cứu: Tiếp tục nghiên cứu và giám sát các hoạt động du lịch thông
qua việc sử dụng và phân tích có hiệu quả các số liệu là rất cần thiết để giúp cho việc giải quyết những vấn đề tồn
đọng và mang lại lợi ích cho các điểm tham quan, cho ngành Du lịch và cho khách hàng.
3.3. Cảnh quan văn hóa tại các homestay của Mộc Châu
Mộc Châu là huyện miền núi, cao nguyên biên giới nằm ở phía Đông Nam tỉnh Sơn La, diện tích tự nhiên
1.081,66 km2 đứng số 8 trong 12 huyện thành phố của tỉnh Sơn La. Toàn huyện có 2 thị trấn (Mộc Châu và Nông
trường Mộc Châu) và 13 xã (Đông Sang, Mường Sang, Lóng Sập, Chiềng Khừa, Chiềng Hắc, Tân Lận, Chiềng
Sơn, Tân Hợp, Phiêng Luông, Quy Hướng, Na Mường, Hua Păng, Tà Lại) [22].
Huyện Mộc Châu có đầy đủ điều kiện để biến ngành du lịch thành ngành kinh tế
trọng điểm. Vị trí địa lý chỉ cách thủ đô Hà Nội 180 km về phía Tây Nam, khí hậu mát mẻ, địa hình lượn sóng, có
các hang karst đẹp, thảm thực vật phong phú với nhiều loài quý hiếm với hệ sinh thái phong phú (Hệ sinh thái núi
cao, hệ sinh thái cao nguyên, hệ sinh thái ven sông, hệ sinh thái thung lũng,...). Thiên nhiên đã giúp Mộc Châu trở
thành biểu tượng “thảo nguyên xanh” giữa núi rừng Tây Bắc với quang cảnh núi rừng hùng vĩ, đồng cỏ, đồi chè,
vườn mơ mận với hoa cải, hoa ban, hoa dã quỳ rực rỡ. Mộc Châu thực sự là điểm lựa chọn lý tưởng cho nhiều du
khách, mang lại nguồn kinh tế đáng kể cho huyện trong những năm qua.
Tài nguyên du lịch văn hóa ở Mộc Châu cũng rất phong phú và triển vọng. Mộc Châu có lịch sử lâu đời gắn
liền với công cuộc khai phá của người Việt cổ với quá trình du cư của người Thái từ thể kỷ XIV và chương trình
khai hoang xây dựng kinh tế mới của người Kinh từ những năm 60 của thế kỷ XX. Hiện nay Mộc Châu là là địa
bàn cư trú của 10 dân tộc, mỗi dân tộc có văn hóa, ngôn ngữ, phong tục khác nhau tạo nên bức tranh địa phương

Đánh giá tính bền vững sản phẩm du lịch homestay Mộc Châu 401
theo hướng tiếp cận cảnh quan văn hóa
đa màu sắc. Tại đây tồn tại hai nền văn hóa lớn là văn hóa thung lũng (văn hóa lúa nước) của người Thái và Văn
hóa gò đồi (văn hóa lúa nương) của người Mông, Dao, Xinh Mun, Khơ Mú,... Mỗi nền văn hóa có những nét đặc
trưng riêng về văn hóa làm nên nét độc đáo, đặc sắc trong văn hóa dân tộc toàn huyện.
Hình 1. Bản đồ hành chính huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
Du lịch gắn với cộng đồng ở Mộc Châu được được phát triển trong 3 năm gần đây dưới dạng du lịch trải
nghiệm gắn với các homestay. Đây là hình thức lưu trú trải nghiệm mà ở đó người dân địa phương chia sẻ không
gian sống và sinh hoạt của mình cũng du khách, giúp du khách trải nghiệm tự nhiên địa phương, hiểu được nét văn
hóa của chính dân tộc mình (kiến trúc, lối canh tác, ẩm thực, đời sống văn hóa tinh thần,...). Cảnh quan văn hóa tại
các homestay bao gồm các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng các dân tộc và thiên nhiên tại
huyện Mộc Châu. Khi du khách có nhu cầu khám phá, trải nghiệm nét độc đáo của địa phương, cảnh quan văn
hóa, thiên nhiên của địa phương đó trở thành sản phẩm du lịch và điểm đến hấp dẫn du khách.
Bảng 2. Tổng hợp tính đa dạng văn hóa dân tộc tại huyện Mộc Châu
Tên loại hình Biểu hiện
Loại hình văn hóa Văn hóa thung lũng, lúa nước của người Thái, văn hóa gò đồi, lúa nương của dân tộc
Xinh Mun, Mông, Dao, Khơ Mú,...
Kiến trúc Nhà sàn (Thái, Mường, Khơ Mú, Xinh Mun), nhà đất (Kinh, Mông, Dao).
Trang phục Trang phục ngày thường, trang phục lễ hội, cưới xin, ma chay,... của các dân tộc: Thái,
Mường, Xinh Mun, Khơ Mú, Mông, Dao.
Ẩm thực
Ẩm thực Thái nổi tiếng với gỏi cá, gỏi thịt, thịt trâu bò khô, lạp xưởng, thịt nướng, cơm
lam, xôi ngũ sắc, măng chua, các món nộm, các món chua, canh bon, rượu ngô, rượu cần,
rượu lá; Ẩm thực Mông điển hình với các món đặc sản như bánh dày, mèn mén, thịt treo
gác bếp, rượu mầm thóc; Ẩm thực Dao gồm có các món rượu hoẵng, canh khoai sọ,...