
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội ngày naythì phân phối là một khâu không thể thiếu được củaquá
trình taí sản xuất , phân phối là khâu quan trọng nối liền sản xuất và tiêu
dùng.Phân phối phụ thuộc vào sản xuất nhưng phân phối tốt hay không tốt lại ảnh
hưởng đến sản xuất, đến trao đổi tiêu dùng và đời sống nhân dân.
Khi mà nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang
nền kinh tế thị trường thì phân phối giữ một vị trí hết sức quan trọng.Phân phối
nối liền sản xuất với sản xuất,sản xuất với tiêu dùng ,nối liền thị trường hàng tiêu
dùng ,dịch vụ thị trường yếu tố sản xuất ,làm cho sự vận động của kịnh tế thị
trương diễn ra thông suốt.
Tuy nhiên,khichuyển sang kinh tế thị trường , hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh
vực phân phối thu nhập như tiền lương,lợi nhuận,lợi tức ,địa tô và phân phối lao
động ,các hình thúc phân phối khác phù hợp với nguyên lý kinh tế thị trường
cũng như các tác đọng của chúng đối với sự phát triển kinhtế - xã hội ở nước
tađang đòi hỏi có sư nghiên cứu nghiêm túc công phu. Vì vậy việc nghiên cứu
vấn đề quan hệ phân phối ở việt nam hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách .
Kết cấu đề tài này gồm hai chương
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay
Chương 2: Thực trạng quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay và những giải
pháp hoàn thiện quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay
Em xin chân thành cảm ơn thâỳ Trần Việt Tiến đã tận tình hướng dẫn,tạo điều
kiện ,giúp đỡ cho em hoàn thành đề tài này .

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
1.1. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUANCỦA QUAN HỆ PHÂN PHỐỈ Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY
Trong nền kinh tế thị trường thì phân phối giữ vi trí hết sức quan trọng .Trong
quá trình tái sản xuất thi phân phối làm khâu trung gian nối liền giũa sản xuất với
sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, nó phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu
dùng. Nhưng sản xuất lại đóng vai trò quyết định đối với phân phối ,sản xất tao
ra đối tượng và vật liệu cho phân phối ,quyết định quy mô và cơ cấu của cải để
phân phối .
Phân phối không thể vượt qúa khả năng cho phép của sản xuất,thu nhập thực
tế chỉ có thể tăng lên theo đà phát triển của sản xuất nhưng tốc độ tăng của thu
nhập thực tế phải chậm hơn tốc độ tăng lên của sản xuất ,có như thế mới đảm bảo
tái sản xuất mở rộng . Hiện nay nứoc ta đang thực hiện công cuộc CNH-HĐH đất
nước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội . Chế độ xã hội chủ
nghĩa là chế độ làm chủc tập thể của nhân dân lao động trên tất cả mọi lĩnh vực
trong đó làm chủ tập thể về kinh tế là cơ sở .Trong chế độ làm chủ tập thể về kinh
tế thì làm chủ về tư liệu sản xuất là cơ sở ,điều kiên để đảm bảo làm chủtập thể về
phân phối. Một khi tư liệu sản xuất la thuộc sở hữu chung của nhân dân lao động
thì của cải làm ra cũng thuộc sở hữu chung của họ và việc phân phối của cải làm
ra chỉ có thể nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân lao động .Trong điều
kiện của nước ta hiện nay nền kinh tế vẫn còn ở tình trạng lạc hậu , nghèo nàn
chưa đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu .Vì thế việc thực hiện phân phối
theo thu nhập trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là mộ vấn đề vô cùng
quan trọng đẻ tạo ra đọng lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát
triển ,ổn định tình hình kinh tế -xã hội nâng cao đời sống nhân dân thực hiện mục
tiêu dân giầu nước mạnh xã hội công bằng ,dân chủ ,văn minh .

1.1.1.Bản chất và vị trí của phân phối.
Quá trình tái sản xuất xã hội gồm bốn khâu:sản xuất, phân phối ,trao đổi,
tiêu dùng.Cáckhâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau,trong đó sản xuất là khâu cơ
bản đóng vai trò quyết định;các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất,nhưng chúng
có quan hệ trở lại đối với sản xuất cũng như ảnh hưởng lẫn nhau chính vi có quá
trinh phân phối này mới có sự tác động qua lại giữa sản xuất và tiêu dùngvà từ đó
thúc đẩy sản xuất phát triển ,tăng quy mô tiêu dùng .
Tính chất của quan hệ phân phối do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
quyết định. Khi ta xét về quan hệ giữa người và người thì phân phối do quan hệ
sản xuất quyết định. Quan hệ trong sản xuất như thế nào thì quan hệ trong phân
phối như thế ấy. Xã hội luôn tồn tại mối quan hệ sản xuất và sản phẩm. Bản thân
phân phối là sản phẩm của sản xuất không chỉ về nội dung mà cả về hình thức.
Phân phối không phải là một lĩnh vực độc lập đứng bên cạnh sản xuất. Bản chất
của quan hệ phân phối hoàn toàn do quan hệ sản xuất quyết định.
Mặt khác ta thấy rằng phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu cực
của sản xuất và trao đổi mà nó còn tác động mạnh mẽ ngược trở lại trao đổi và
sản xuất. Phân phối có tính độc lập tương đối của nó,nó có chức năng cụ thể ,có
những quy luật đặc thù tác động tích cực đến cáckhâu của quá trình tái sản xuất.
Trước khi phân phối sản phẩm thì nó là: phân phối những công cụ sản xuất và
điều này là một tính qui định nữa cũng của một mối quan hệ ấy - phân phối các
thành viên xã hội theo những loại sản xuất khác nhau. Rõ ràng phân phối sản
phẩm chỉ là kết quả của sự phân phối đó, sự phân phối này đã bao hàm trong bản
thân quá trình sản xuất và quyết định trong cơ cấu sản xuất. Xem xét sản xuất một
cách độc lập với sự phân phối đó, sự phân phối bao hàm trong sản xuất, thì rõ
ràng là một sự trừu tượng trống rỗng, còn sự phân phối sản phẩm thì trái lại, đã
bao hàm trong sự phân phối này là sự phân phối ngay từ đầu đã là một yếu tố của
sản xuất.
Cơ sở kinh tế của sự phân phối bao gồm cả sự phân phối cho sản xuất và phân
phối cho tiêu dùng do đó tổng sản phẩm xã hội vừa được phân phối để tiêu dùng

cho sản xuất, vừa được phân phối để tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong
xã hội . Nhưng vì sự phân phối bao giờ cũng gồm cả sự phân phối cho sản xuất
xem là yếu tố của sản xuất và phân phối cho tiêu dùng xem là kết quả của quá
trình sản xuất,cho nên không phải toàn bộ sản phẩm xã hội tạo ra đều được phân
phối cho tiêu dùng cá nhân mà cần trích ra để bù đắp những tư liệu sản xuất hao
phí, mở rộng sản xuất lập quỹ dự phòng, chi phí về quản lý hành chính tổ chức...
Phần còn lại phù hợp với số lượng và chất lượng lao động. Như vậy,phân phối là
tổng sản phẩm xã hội và phân phối để tiêu dùng cho sản xuất, vừa được phân phối
để tiêu dùng cho cá nhân.
I.2 VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ PHÂN PHỐI
Bàn về vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội, F.Ăngghen cho
rằng:‘’ Sự phân phối chừng nào mà còn bị những lý do thuần tuý kinh tế chi phối,
thì nó sẽ được điều tiết bởi lợi ích của sản xuất, rằng sản xuất sẽ được thuận lợi
trên hết trong mọi phương thức phân phối mà mọi thành viên trong xã hội có thể
phát triển, duy trì và thực hiện những năng khiếu của họ một cách toàn diện nhất.,,
(1)
Ta thấy rằng mỗi một hình thái kinh tế xã hội đều bao gồm cả một hệ
thống phức tạp các lợi ích mà trong đó lợi ích kinh tế đóng vai trò quyết định.
Các lợi ích kinh tế được quy định bởi quan hệ sản xuất cua mỗi chế độ xã hội,
trong đó quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất có vai trò chi phối hệ thống lợi ích
kinh tế.
Bản chất của quan hệ sản xuất trong mối phương thức sản xuất được thể
hiện qua hình thức sở hữu - đó không phải là quan hệ đơn thuần như mọi sự việc
tồn tại trong xã hội mà nó là mối quan hệ phức tạp giữa con người với con người.
Trong lịch sử không hề có một hình thái sở hữu nào mà không phản ánh những
quan hệ trong sản xuất. ‘’Nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì ở đó
không tồn tại một nên sản xuất nào cả, do đó cũng không một xã hội nào cả.,, (2)
Sở hữu - đó là những quan hệ về các điều kiện khách quan của sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải vật chất.
Sở hữu với tư cách là những quan hệ sản xuất, nó là cơ sở của các lợi ích.
Hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi chế độ xã hội sẽ quy định hệ thống các

lợi ích vốn có trong giai đoạn phát triển của nó. Trong hệ thống các lợi ích thì
lợi ích kinh tế giữ vai trò chủ đạo. Lợi ích kinh tế được hiểu là những quan hệ
kinh tế phản ánh những nhu cầu, những động cơ khách quan về sự hoạt động của
các gia cấp, những nhóm xã hội hoặc của từng người làm viêc riêng biệt do quan
hệ sản xuất quyết định. Nói lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những quan
hệ kinh tế của mỗi xã hội nhất định nghĩa là lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế
khách quan, nó chỉ xuất hiện khi giưa những người sản xuất có những mối quan
hệ kinh tế khác nhau. Lợi ích kinh tế vừa mang tính chất khách quan vừa mang
tính chủ quan. Nó mang màu sắc khách quan bởi vì nó luôn tồn tại và vận động.
Thông qua sự vận động của các quy luật kinh tế do nó trực tiếp sinh ra mà quan
hệ sản xuất ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Còn nó mang màu sắc chủ quan là
ở chỗ nó biến các tác động khách quan của các quy luật kinh tế thành các động
cơ hành đọng kinh tế cử con người.
Lợi ích kinh tế có vai trò quan trọng là động lực mạnh mẽ đối với sự phát
triển của xã hội. Những hình thức chủ yếu của lợi ích kinh tế trong hệ thống này
luôn được đặc trưng bằng tính đại diện và tính thống nhất giữa ba nhóm lợi ích
cơ bản.
Đó là lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể lợi ích và lợi ích của bản thân người
lao động. Sự thống nhất giữa các hình thức lợi ích kinh tế khác nhau trong xã
hội sẽ dẫn đến sự liên hệ chặt chẽ và thâm nhập nhau giữa chúng. Trong đó lợi
ích cá nhân trực tiếp là động lực mạnh mẽ nhất đối với sự phát triển của xã hội.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đã nói lên
sự không đồng nhất về lợi ích kinh tế xã hội. Tuy nhiên đây là một xu thế tất yếu
bởi điểm xuất phát đi lên là thấp trong khi đó yêu cầu hội nhập quốc tế là cách
duy nhất để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tương ứng với
quá trình đó, trong nền kinh tế sẽ có nhiều quy luật vận động. Các quy luật kinh
tế phát sinh trên cơ sở những quan hệ kinh tếa tương ứng và cũng trực tiếp quy
định sự hình thành các lợi ích kinh tế của từng giai cấp từng tầng lớp dân cư
trong xã hội. Tuy nhiên bên cạnh sự thống nhất giữa các lợi ích kinh tế cơ bản,
không loại trừ những mâu thuẫn giữa chúng cũng như trong phạm vi mỗi nhóm
lợi ích. Vì vậy cần phải phát hiện kịp thời các mâu thuẫn giữa các lợi ích và tìm
cách giải quyết các mâu thuẫn đó.