
Trường Cao đẳng Nghề Thương mại và Công nghiệp Nguyễn Phương Thúy
Đề cương môn học Lý thuyết tài chính http://www.ebook.edu.vn 1
Môn học: LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH
Chương I: Những vấn đề cơ bản về tài chính
I/ Tiền đề ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính:
1. Tiền đề sản xuất hàng hoá và tiền tệ
Cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ:
Phân công lao động xã hội phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá được hình
thành Tiền tệ xuất hiện như 1 đòi hỏi khách quan Cuộc cách mạng trong
công nghệ phân phối ( chuyển từ phân phối bằng hiện vật sang phân phối bằng giá trị)
Tài chính ra đời.
2. Tiền đề Nhà nước:
Chế độ tư hữu xuất hiện:
Xã hội bắt đầu phân chia giai cấp và có sự đấu tranh giữa các giai cấp trong xã
hội Nhà nước xuất hiện dưới hình thái Nhà nước của chế độ nô lệ nhu cầu chi
tiêu nhằm duy trì quyền lực của Nhà nước Quỹ tiền tệ của nhà nước do công dân
đóng góp Tài chính nhà nước (tài chính công ) xuất hiện
3. Sự tồn tại và phát triển:
Trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, tài chính công chỉ là để phục vụ cho các
hoạt động đơn thuần về mặt chính trị của Nhà nước.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933, vai trò của Nhà nước đã được
thay đổi. Tài chính công lúc này không còn là một yếu tố trung lập mà là một công cụ
để Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế.
Ngoài bộ phận tài chính công phục vụ trực tiếp cho chức năng chính trị, còn xuất
hiện bộ phận tài chính công phục vụ cho việc thực hiện chức năng quản lý kinh tế của
Nhà nước. Bên cạnh đó cũng xuât hiện bộ phận tài chính tư gắn liền với các hoạt động
kinh tế của khu vực tư nhân trong nền kinh tế - xã hội.
Có thể nhận xét rằng, trong 2 tiền đề kể trên thì sản xuất hàng hóa - tiền tệ là
nhân tố mang tính chất khách quan có ý nghĩa quyết định đối với sự ra đời, tồn tại và

Trường Cao đẳng Nghề Thương mại và Công nghiệp Nguyễn Phương Thúy
Đề cương môn học Lý thuyết tài chính http://www.ebook.edu.vn 2
phát triển của tài chính và Nhà nước là nhân tố có ý nghĩa định hướng tạo ra hành lang
và điều tiết sự phát triển của tài chính.
II/ Bản chất của tài chính:
1. Biểu hiện bên ngoài:
Có thể thấy những biểu hiện bên ngoài của tài chính trong các mối quan hệ sau:
- Quan hệ giữa Nhà nước với các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và các tầng lớp dân
cư:
Dân cư, doanh nghiệp Nhà nước
- Quan hệ giữa các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội và các tầng lớp dân cư:
Biểu hiện cụ thể:
+ Các quan hệ thanh toán tiền mua bán tài sản, vật tư, hàng hoá, dịch vụ.
+ Các hình thức huy động nguồn tài trợ vốn kinh doanh của doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế, hộ gia đình và cá nhân kinh doanh: phát hành cổ phiếu, trái phiếu, liên
doanh, tín dụng,…
+ Quan hệ đóng lệ phí bảo hiểm và nhận tiền bồi thường bảo hiểm: bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm thương mại.
+ Quan hệ trả lương, trả công giữa doanh nghiệp với người lao động trong DN.
+ Quan hệ phân phối lợi nhuận và sử dụng các quỹ trong doanh nghiệp.
+ v.v...
- Quan hệ tài chính quốc tế:
Biểu hiện cụ thể:
+ Quan hệ viện trợ, vay nợ giữa các Chính phủ hoặc giữa chính phủ của một
nước với các tổ chức phi Chính phủ, với các tổ chức tài chính- tiền tệ - tín dụng quốc tế.
+ Các hình thức đầu tư trực tiếp,gián tiếp giữa các tổ chức, cá nhân của các nước.
Qua các hiện tượng tài chính trên có thể thấy biển hiện bên ngoài của tài chính
là các hiện tượng thu, chi bằng tiền; là sự vận động của các nguồn tài chính; là sự tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể trong xã hội.
Thuế, phí, lệ phí, mua trái phiếu do Nhà
nước phát hành
Cấp phát vốn, kinh phí cho DNNN, Tổ chức
xã hội, thực hiện chính sách phúc lợi, xã hội

Trường Cao đẳng Nghề Thương mại và Công nghiệp Nguyễn Phương Thúy
Đề cương môn học Lý thuyết tài chính http://www.ebook.edu.vn 3
2. Nội dung kinh tế xã hội ( bản chất bên trong)
Các hiện tượng tài chính ( biểu hiện bên ngoài của tài chính) là sự thể hiện và
phản ánh các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình phân phối các nguồn tài
chính, quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Các quan hệ kinh tế
như thế được gọi là các quan hệ tài chính. Các quan hệ tài chính biểu hiện mặt bản
chất bên trong của tài chính ẩn dấu sau các biểu hiện bên ngoài.
Chúng ta có thể dựa vào một số đặc điểm sau của các quan hệ tài chính để phân
biệt tài chính và các phạm trù kinh tế khác.
- Tài chính chỉ bao gồm những quan hệ kinh tế phân phối dưới hình thái giá trị.
- Tài chính là những quan hệ phân phối phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng
các quỹ tiền tệ.
- Tài chính là những quan hệ kinh tế chịu sự tác động trực tiếp của Nhà nước và của
Pháp luật.
Khái niệm tổng quát về tài chính:
Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể
trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân
phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm
đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
III/ Chức năng của tài chính:
1. Chức năng phân phối:
Chức năng phân phối của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó, các nguồn lực
đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau để
sử dụng cho những mục đích khác nhau, đảm bảo những nhu cầu, những lợi ích khác
nhau của đời sống xã hội.
1.1. Đối tượng, chủ thể và kết quả:
- Đối tượng: các nguồn của cải xã hội dưới hình thức giá trị, là các nguồn tài chính, là
tiền tệ đang vận động một cách độc lập với tư cách phương tiện thanh toán, phương tiện
tích luỹ trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
- Chủ thể: Là Nhà nước ( Cụ thể là các cơ quan và tổ chức của nó), doanh nghiệp, các tổ
chức xã hội, hộ gia đình hay cá nhân dân cư.

Trường Cao đẳng Nghề Thương mại và Công nghiệp Nguyễn Phương Thúy
Đề cương môn học Lý thuyết tài chính http://www.ebook.edu.vn 4
- Kết quả: là sự hình thành ( tạo lập ) hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể trong
xã hội nhằm những mục đích đã định.
1.2. Đặc điểm của chức năng phân phối:
- Sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thái giá trị, nó không kèm theo sự thay đổi hình
thái giá trị.
- Phân phối của tài chính gồm cả quá trình phân phối lần đầu và quá trình phân phối lại:
+ Phân phối lần đầu là sự phân phối được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất cho
những chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải vật chất hoặc thực hiện các
dịch vụ trong các đơn vị sản xuất và dịch vụ. Qua phân phối lần đầu, giá trị sản phẩm
xã hội mới chỉ được chia thành những phần thu nhập cơ bản.
+ Phân phối lại là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản, những quỹ tiền
tệ được hình thành trong phân phối lần đầu ra phạm vi xã hội hoặc theo những mục đích
cụ thể hơn của các quỹ tiền tệ.
Trong thực tế quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại có sự đan xen lẫn
nhau. Điều này là do quá trình tái sản xuất cũng như các hoạt động khác trong nền kinh
tế - xã hội diễn ra thường xuyên, liên tục.
- Phân phối của tài chính là sự phân phối luôn luôn gắn liền với sự hình thành và sử
dụng các quỹ tiền tệ nhất định
2. Chức năng giám đốc:
Chức năng giám đốc là chức năng mà nhờ vào đó việc kiểm tra bằng đồng tiền
được thực hiện đối với quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập các quỹ
tiền tệ hay sử dụng chúng theo các mục đích đã định.
2.1. Đối tượng, chủ thể và kết quả:
- Đối tượng: là các quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, các quá trình vận động
của các nguồn tài chính. Đó cũng là đối tượng của chức năng phân phối.
- Chủ thể: cũng là các chủ thể phân phối.
- Kết quả:là phát hiện ra những mặt được và chưa được của quá trình phân phối, từ đó
giúp tìm ra các biện pháp hiệu chỉnh các quá trình vận động của các nguồn tài chính,
quá trình phân phối của cải xã hội theo các mục tiêu đã định nhằm đạt hiệu quả cao của
việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.

Trường Cao đẳng Nghề Thương mại và Công nghiệp Nguyễn Phương Thúy
Đề cương môn học Lý thuyết tài chính http://www.ebook.edu.vn 5
2.2. Đặc điểm:
- Giám đốc tài chính là giám đốc bằng đồng tiền, nhưng nó không đồng nhất với mọi
loại kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền nói chung trong xã hội. Giám đốc tài chính chỉ
thực hiện với chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ của tiền tệ.
- Giám đốc tài chính là loại giám đốc rất toàn diện, thường xuyên, liên tục và rộng rãi.
* Chức năng giám đốc của tài chính luôn gắn liền với chức năng phân phối. Ngay trong
quá trình phân phối – quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập, sử dụng
các quỹ tiền tệ, đã luôn có sự cần thiết và khả năng kiểm tra sát sao các quá trình đó.
IV/ Hệ thống tài chính của Việt Nam:
1. Căn cứ để xác định các khâu tài chính
Hệ thống tài chính là hệ thống biểu thị quan hệ tài chính trong các lĩnh vực khác
nhau, và giữa các lĩnh vực đó có mối quan hệ hữu cơ trong quá trình tạo lập, phân phối
và sử dụng các nguồn lực tài chính.
Những tiêu thức cơ bản để xác định khâu tài chính là:
- Được coi là khâu tài chính nếu ở nơi nào đó có tụ điểm của các nguồn tài
chính, thực hiện hoạt động “ bơm” và “hút” các nguồn tài chính đó. Tại mỗi tụ điềm
này cũng có thể có một hoặc một số quỹ tiền tệ để thực hiện các mục tiêu đã định trước
của các chủ sở hữu.
- Các quỹ tiền tệ bao giờ cũng gắn với một chủ thể nhất định.
- Được coi là một khâu của hệ thống tài chính nếu những hoạt động tài chính
nào đó có cùng tính chất, đặc điểm, vai trò, cùng hình thức thể hiện.
Có thể có khái niệm về khâu tài chính như sau:
Khâu tài chính là nơi hội tụ của các nguồn tài chính, nơi diễn ra việc tạo lập và
sử dụng các quỹ tiền tệ gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chủ thể
trong lĩnh vực hoạt động.
2. Khái quát nhiệm vụ của các khâu tài chính:
2.1. Ngân sách Nhà nước:
NSNN là khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia. NSNN có các nhiệm vụ
- Động viên, tập trung các nguồn tài chính cho việc tạo lập quỹ tiền tệ của Nhà nước. (
qua các khoản thu bắt buộc như thuế, phí, lệ phí và các khoản đóng góp tự nguyện như
vay nợ quốc tế, viện trợ tự nguyện, …)

