BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Mã đề tài: ĐTCT.2020.114

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Quỳnh

Hà Nội, 2020

BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Mã đề tài: ĐTCT.2020.114

Chủ nhiệm đề tài:

ThS. Nguyễn Thị Quỳnh

Thư ký đề tài: ThS. Trần Thị Phương Thúy

Thành viên tham gia: ThS. Lê Vĩnh Hoàng Linh

Hà Nội, 2020

LỜI CẢM ƠN

Nhóm nghiên cứu xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, phòng Quản lý đào tạo Sau đại học, khoa Quản

lý xã hội, phòng Công tác sinh viên đã tạo điều kiện thuận lợi để nhóm nghiên

cứu triển khai và hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này.

Xin chân thành cảm ơn các anh chị em đồng nghiệp, các bạn sinh viên

trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã hợp tác, giúp đỡ nhóm nghiên cứu trong quá

trình thực hiện đề tài.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

TM. Nhóm nghiên cứu Chủ nhiệm đề tài

Nguyễn Thị Quỳnh

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CTSV

CVHT

ĐHNVHN

ĐTB

GV

MXH

SV

: Công tác sinh viên : Cố vấn học tập : Đại học Nội vụ Hà Nội : Điểm trung bình : Giảng viên : Mạng xã hội : Sinh viên

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1

2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................ 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 8

5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 8

6. Đóng góp mới của đề tài ........................................................................... 9

7. Kết cấu của đề tài .................................................................................... 11

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN12

1.1. Một số khái niệm cơ bản ..................................................................... 12

1.2. Đặc điểm, vai trò và tác động của mạng xã hội .................................... 18

1.3. Vấn đề sử dụng mạng xã hội của sinh viên .......................................... 23

1.3.1. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên ..................................... 23

1.3.2. Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên ................................... 25

1.3.3. Thời gian, phương tiện sử dụng mạng xã hội của sinh viên .............. 27

1.3.4. Một số hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên ........................... 28

1.3.5. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân của SV trên không gian mạng ....... 30

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng mạng xã hội của sinh viên ............ 33

Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 36

Chương 2. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI ......................................................................... 37

2.1. Phân tích thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học

Nội vụ Hà Nội ............................................................................................ 37

2.1.1. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên ..................................... 37

2.1.2. Mức độ sử dụng mạng xã hội của sinh viên ...................................... 39

2.1.3. Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên ................................... 45

2.1.4. Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên ...................................... 48

2.1.5. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân trên MXH ............................... 63

2.1.6. Lợi ích và tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên ........... 66

2.2. Đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học

Nội vụ Hà Nội ............................................................................................ 73

2.2.1. Ưu điểm............................................................................................ 73

2.2.2. Hạn chế . .......................................................................................... 76

2.2.3. Nguyên nhân .................................................................................... 76

Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 79

Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ

SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ

NỘI ......................................................................................................................................... 81

3.1. Một số giải pháp ...................................................................................................... 81

3.1.1 Tăng cường nhận thức của sinh viên về mạng xã hội .......................................... 81

3.1.2. Kết hợp nội dung sử dụng MXH vào các hoạt động trong nhà trường ....... 85

3.1.3. Hướng dẫn cho sinh viên các kỹ năng sử dụng mạng xã hội hiệu quả ....... 88

3.1.4. Tổ chức đa dạng các hoạt động ngoại khóa ....................................... 91

3.1.5. Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ GV, CVHT, Đoàn thanh niên ...... 96

3.2. Khuyến Nghị .......................................................................................................... 100

3.2.1. Đối với Nhà trường và các phòng, khoa ........................................... 100

3.2.2. Đối với giảng viên, cố vấn học tập ................................................... 102

3.2.3. Đối với sinh viên .............................................................................. 103

KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 105

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 107

PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 110

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Mức độ sử dụng các trang mạng xã hội của sinh viên ...................... 39

Bảng 2.2. Mục đích sử dụng MXH của sinh viên ............................................. 45

Bảng 2.3. Biểu hiện hành vi sử dụng MXH của sinh viên qua nội dung “đăng tải” 48

Bảng 2.4. Biểu hiện hành vi sử dụng MXH thông qua nội dung “chia sẻ” ....... 52

Bảng 2.5. Biểu hiện hành vi sử dụng MXH thông qua nội dung “like” và

“comment” ....................................................................................................... 58

Bảng 2.6. Thời gian sử dụng MXH xét theo thời điểm ..................................... 69

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1. Nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên ............................................. 37

Biểu đồ 2. Thời gian sử dụng MXH mỗi ngày của sinh viên ............................ 43

Biểu đồ 3. Phương tiện truy cập MXH của sinh viên ....................................... 44

Biểu đồ 4. Thời gian sử dụng MXH xét theo thời điểm .................................... 60

Biểu đồ 5. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân của sinh viên trên MXH ....... 63

Biểu đồ 6. Lợi ích khi sử dụng MXH của sinh viên ......................................... 66

Biểu đồ 7. Tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên ......................... 69

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 làm thế giới thay đổi nhanh chóng

từng ngày, đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống internet, mạng xã hội

đã và đang chiếm lĩnh các kênh thông tin, giải trí, giao lưu phong phú với mọi đối

tượng. Việc tham gia MXH đưa con người đến với thế giới rộng lớn, hấp dẫn, nhiều

màu sắc, nơi mà ở đó những khoảng cách về địa lý, màu da, sắc tộc, ngôn ngữ, tôn

giáo không còn quá nhiều ý nghĩa khi con người có cùng những mối quan tâm

chung. Sự tương tác và kết nối trên không gian mạng kéo gần con người lại với

nhau trên phạm vi toàn cầu. Với những tính năng đa dạng, nguồn thông tin phong

phú cho phép người dùng tiếp nhận, chia sẻ và chọn lọc thông tin một cách có hiệu

quả. Mạng xã hội và thời đại kỹ thuật số đã đem lại những lợi thế to lớn và nâng

cao chất lượng cuộc sống đối với người dùng nói chung và sinh viên nói riêng.

Sinh viên trường ĐHNVHN là những người trẻ, năng động và sáng tạo việc

tiếp cận, sử dụng MXH là điều tất yếu. MXH mang đến cho sinh viên nói chung và

sinh viên trường ĐHNVHN nói riêng cơ hội được giao lưu, học học phát triển khả

năng và thể hiện bản thân, SV được bày tỏ quan điểm cá nhân đối với các vấn đề

của cộng đồng, của xã hội, của cuộc sống. Việc tham gia các diễn đàn khởi nghiệp,

diễn đàn học tập và các hội nhóm trên không gian mạng giúp sinh viên mở mang tri

thức và rèn luyện kỹ năng cho bản thân như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình,

kỹ năng đàm phán, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng giải quyết vấn đề và các kỹ năng

khác phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp trong tương lai.

Có thể nói, MXH không chỉ mang lại cho sinh viên cơ hội lớn kết nối bạn bè

trên khắp thể giới để học hỏi, để phát triển mà còn thể hiện trách nhiệm của SV đối

với các vấn đề của xã hội. Tuy vậy, MXH cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với sinh

viên trường ĐHNVHN. Việc liên tục cập nhật những tính năng mới, ứng dụng đa

dạng, phong phú phù hợp với đặc điểm tâm lý, nhu cầu và mục đích sử dụng đã lôi

cuốn sinh viên tham gia MXH ngày càng nhiều với lượng thời gian sử dụng MXH

mỗi ngày rất lớn. Sinh viên thay vì chú tâm vào học tập, rèn luyện thì ngày càng bị

cuốn vào “rừng” thông tin, kho phim và kho game trên các trang mạng xã hội dẫn

1

đến sao nhãng học hành, rời xa các mục tiêu chính trong cuộc sống. Ngoài ra, việc

sử dụng MXH của sinh viên đa phần là tự phát, ngẫu nhiên theo các trào lưu trên

không gian mạng mà chưa đầu tư tìm hiểu kỹ những ứng dụng hay các trang MXH

mà mình sử dụng. Bởi vậy, việc sử dụng MXH của sinh viên là “ảo” nhưng hệ lụy

của nó lại là “thật”, tình trạng sinh viên bị kẻ xấu đánh cắp tài khoản, hình ảnh,

thông tin cá nhân sử dụng vào mục đích xấu như lừa đảo, quấy rối không phải là

hiếm gặp. Có thể nói, nhận thức của sinh viên trường ĐHNVHN về MXH còn

nhiều hạn chế, sinh viên chưa có kỹ năng chắt lọc, kiểm chứng thông tin dẫn đến

việc SV chưa nhận biết được dấu hiệu của tin giả đã tác động đến hành vi đăng tải,

chia sẻ thiếu chuẩn mực của SV trên không gian mạng. Chính vì lẽ đó, sinh viên

trường ĐHNVHN cần phải được trang bị những kiến thức cơ bản về mạng xã hội,

cách sử dụng mạng xã hội an toàn và những hiểu biết về Luật An ninh mạng. Mỗi

sinh viên cần phải được trang bị kỹ năng sử dụng MXH hiệu quả để biết chọn lọc

những thông tin chính xác và nhận biết các trang mạng chính thống để tránh bị tin

giả dẫn dắt cảm xúc, tư duy và hành động sai trái. Xuất phát từ những lý do đó thúc

đẩy nhóm nghiên cứu lựa chọn vấn đề: “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường

Đại học Nội vụ Hà Nội, thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu

2.1. Các công trình nghiên cứu về mạng xã hội

Thời gian qua những vấn đề về “mạng xã hội” đã và đang nhận được nhiều

sự quan tâm rất lớn không chỉ từ các nhà kinh doanh, các nhà chính trị mà còn đặc

biệt từ các nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục vì tính mục đích và vai trò của nó

trong mọi mặt đời sống hiện nay.

Tác giả John Scott and Peter J. Carrington đã xuất bản cuốn “Cẩm nang về

Mạng xã hội” đã cung cấp nguồn tư liệu phong phú, đa dạng cho những người

tham gia lĩnh vực phân tích MXH. Tác giả đã giới thiệu cho người đọc các khái

niệm chính, chủ thể thực chất, phương pháp trung tâm và các cuộc tranh luận

chính. Các nội dung được đề cập đến như lý thuyết mạng, ứng dụng liên ngành,

mạng trực tuyến, mạng lưới vận động hành lang, mạng công ty...là kho tư liệu

phong phú cho những người quan tâm đến phân tích MXH có thể tham khảo [33].

Tác giả Peter J. Carrington, John Scott, Stanley Wasserman đã viết và xuất

2

bản cuốn“Mô hình và phương pháp phân tích mạng xã hội”. Đây là cuốn sách đi

sâu phân tích mạng xã hội với sự tăng trưởng ồ ạt. Sự tăng trưởng này đã được kết

hợp bởi sự tinh tế ngày càng tăng trong một công cụ kỹ thuật có sẵn cho người

dùng [34].

Tác giả Xiaoming Fu, Jar-Der Luo and Margarete Boos đã xuất bản cuốn

“Phân tích mạng xã hội, phương pháp tiếp cận liên ngành và nghiên cứu trường

hợp” đã đưa ra các nhận định về sự tương tác của con người với gia đình, đồng

nghiệp, bạn bè, các cá nhân và các tổ chức khác. Mạng xã hội liên kết mọi người

với nhau theo sở thích chung hoặc các loại phụ thuộc lẫn nhau. Ngày nay sự năng

động của mạng lưới xã hội. ngày nay, sự năng động của mạng xã hội thường được

thúc đẩy bởi việc truy cập vào các nền tảng trực tuyến hiện đại và địa lý cao, dẫn

đến tương tác giữa các cá nhân lớn hơn [35].

Đây là những công trình nghiên cứu đã đưa ra các vấn đề lý luận và phương

pháp nghiên cứu các vấn đề liên quan đến mạng xã hội mà đề tài có thể kế thừa và

phát huy trong quá trình nghiên cứu.

2.2. Các nghiên cứu về sử dụng mạng xã hội

* Về các tác động và ảnh hưởng từ việc sử dụng mạng xã hội

Nhiều nhà khoa học hàng đầu của Anh đã có nhiều công trình nghiên cứu

đưa ra các cảnh báo về hiện tượng: “Các trang web cộng đồng đang gây nên nhiều

thay đổi tiêu cực đối với não của trẻ em tại xứ sở sương mù”. Trong đó, phải kể đến

các nhà nghiên cứu tiêu biểu như: Susan Greenfield - chuyên gia thần kinh nổi tiếng

của Anh đã với những nghiên cứu khẳng định:“Các mạng xã hội như Facebook,

Twitter và Bebo khiến trẻ em trở nên ích kỷ hơn, đồng thời làm giảm khả năng tập

trung và làm tăng tính tự mãn”; Baroness Greenfield - nhà thần kinh học của Đại

học Oxford, hiện giữ chức giám đốc Viện Hoàng gia Anh, cho rằng việc tiếp xúc liên

tục với mạng xã hội sẽ đảo ngược mọi hoạt động của não: “Các mạng xã hội, trò

chơi điện tử bạo lực, chương trình truyền hình sẽ làm chậm tốc độ phát triển của não

trẻ, vì chúng rất dễ bị thu hút bởi âm thanh và ánh sáng mạnh”; Baroness cũng

khẳng định việc việc chơi game, chat và tham gia mạng xã hội có thể khiến cả một

thế hệ mất đi khả năng tập trung trí óc: “Một ngày nào đó, cách giao tiếp truyền

thống sẽ bị thay thế bởi những hộp thoại trên màn hình máy tính” [20].

3

Nhiều nhà tâm lý học cũng cho rằng công nghệ số đang thay đổi cách tư duy

của con người. Họ chỉ ra rằng học sinh ngày nay không cần phải lập dàn ý trước

khi viết bài luận vì sự phổ biến của các chương trình xử lý văn bản trên mạng. Điển

hình: Sue Palmer - tác giả của cuốn sách nổi tiếng Toxic Childhood đã đưa ra nhận

định: “Sự phát triển trí óc của trẻ em ngày nay đang bị cản trở vì chúng không

tham gia vào những hoạt động mà loài người đã thực hiện từ hàng nghìn năm nay.

Tôi không phản đối việc cho trẻ tiếp cận với công nghệ số và máy tính, nhưng trước

khi tham gia vào xã hội ảo, chúng cần phải biết cách tạo mối quan hệ với người

thực”; Nhà nghiên cứu Turkle trong cuốn Alone Togethervừa xuất bản mới đây đã

bày tỏ mong muốn kêu gọi “Người dân nên bớt thời gian dành cho các trang mạng

xã hội như Twitter hay Facebook. Thay vào đó, chúng ta nên tăng cường các hoạt

động giao tiếp trong xã hội thực” [30].

Tại Việt Nam, trong thời gian vừa qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu về

mạng xã hội và đã đưa ra những kết quả nghiên cứu sau: Theo một thống kê toàn

cầu của Google công bố tháng 8/2010, MXH lớn nhất ở Việt Nam là Zingme của

công ty VNG (Tập đoàn Vinagame), nơi phần đông người sử dụng là những thanh

thiếu niên từ độ tuổi 15 – 22 [37]. Với thế hệ này, internet đã trở thành một phần

không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của họ. Học hành, giao tiếp, đọc thông

tin… tất cả đều qua internet. Đây là thế hệ không ngại chia sẻ trên internet - mức

độ thông tin mà họ không ngại ngần bày tỏ qua internet thật là đáng ngạc nhiên đối

với thế hệ già hơn. Như nhận xét của tạp chí Time trong bài viết về nhân vật của

năm: “Ý thức về bản thân của chúng ta thay đổi nhiều hơn, trong khi ý thức về sự

riêng tư mở rộng hơn. Những gì đã từng được coi là thầm kín thì nay được chia sẻ

với hàng triệu người chỉ bằng một cú nhấp chuột” [37].

Tác giả Nguyễn Thị Hậu (2010), với bài viết MXH với lối sống của giới trẻ

Thành phố Hồ Chí Minh. MXH với sự xuất hiện với những tính năng đa dạng, nguồn

thông tin phong phú đã cho phép người dùng hiện nay có thể tiếp nhận, cũng như

chia sẻ và chọn lọc thông tin một cách dễ dàng không phân biệt khó khăn về không

gian cũng như thời gian. Nó giúp nâng cao vai trò của mỗi người công dân trong việc

tạo lập quan hệ và tự tổ chức xoay quanh những mối quan tâm chung trong những

cộng đồng thúc đẩy sự liên kết các tổ chức xã hội. Tác giả đã nêu rõ ảnh hưởng của

4

mạng xã hội đến lối sống giới trẻ Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thông qua việc

tìm hiểu nhu cầu, mục đích và hình thức sử dụng MXH góp phần giúp các bạn trẻ

có thể cải thiện được việc sử dụng MXH của mình [14].

Đặc biệt, trong đề tài Cấp Nhà nước KX.01.10/16-20“Mạng xã hội trong bối

cảnh phát triển xã hội thông tin ở Việt Nam” đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn

mạng xã hội và kinh nghiệm quản lý mạng xã hội ở Việt Nam và một số quốc gia

trên thế giới; nhận diện thực trạng, vấn đề của mạng xã hội và quản lý thông tin,

truyền thông trên mạng xã hội, từ đó đề xuất mô hình và giải pháp quản lý thông

tin, truyền thông ở Việt Nam đáp ứng đòi hỏi của tiến trình hội nhập, phù hợp với

xu thế và bối cảnh phát triển xã hội thông tin ở Việt Nam [46].

Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trên đã đưa ra được các tác động và

ảnh hưởng của việc sử dụng mạng xã hội đến sự phát triển cảu não bộ và các mối

quan hệ xã hội của con người đặc biệt là trẻ em. Tuy nhiên, các công trình này lại

chưa đưa đánh giá sâu về mức độ sử dụng mạng xã hội và ảnh hưởng lâu dài đến

học tập và sự phát triển sự nghiệp cá nhân của người trưởng thành. Đây chính là

những khoảng trống nghiên cứu mà nhóm tác giả có thể xây dựng định hướng

nghiên cứu mới cho đề tài nhưng cũng đồng thời kế thừa các kết quả nghiên cứu đi

trước để làm sáng tỏ hơn các kết quả nghiên cứu của đề tài.

* Về việc sử dụng mạng xã hội của sinh viên

Tác giả Ana M.Martinez Aleman and Catherine Lynk Wartman (2009) đã

tiến hành nghiên cứu “Mạng xã hội trực tuyến trong khuôn viên trường: hiểu những

vấn đề trong văn hóa sinh viên” đã chỉ ra bất kỳ tiến bộ công nghệ nào cũng mang

đến cho các nhà khoa học xã hội cơ hội hiểu biết sâu sắc về hành vi của con người

và sự đổi mới của mạng xã hội trực tuyến đã mang đến cho những người trong

chúng ta quan tâm tìm hiểu văn hóa đại học với một nền văn hóa đặc biệt phong

phú. Với nghiên cứu của mình, nhóm nghiên cứu mong muốn biết thế hệ sinh viên

đại học và đại học thế kỷ 21 đánh giá cao giá trị, xây dựng và phân biệt văn hóa

sinh viên trực tuyến như thế nào [32].

Tại Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã có những nghiên cứu về những tác

động của internet đến hoạt động học tập của sinh viên. Tiêu biểu là các công trình

nghiên cứu sau:

5

Đề tài “Mối quan hệ của việc sử dụng internet và hoạt động học tập của

sinh viên” Mã số Q.CL.05.01 [25] của Nguyễn Quý Thanh cùng nhóm tác giả

Nguyễn Vân Anh, Nguyễn Khánh Hòa, Nguyễn An Ni. Đề tài đã tiến hành khảo sát

640 sinh viên của 10 trường đại học, trong đó 5 trường ở Hà Nội và 5 trường ở

Thành phố Hồ Chí Minh;

Đề tài “Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên Cao đẳng Sư phạm Thái

Bình”, luận văn Thạc sỹ Tâm lý học của Đặng Thị Nga (2013) đã khái quát chung

về tình hình sử dụng MXH của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình. Qua

nghiên cứu đề tài đã chỉ ra rằng, MXH trong xã hội ngày nay đóng một vai trò to

lớn trong đời sống của mỗi người và có ảnh hưởng lớn đối với hoạt động sống và

học tập của sinh viên [25];

Tác giả Trần Thị Minh Đức, Bùi Thị Hồng Thái (2014), với bài viết: “Sử

dụng mạng xã hội trong sinh viên Việt Nam” chỉ ra trong các MXH sinh viên

thường dùng thì Facebook được sử dụng nhiều nhất (chiếm 86,6%), với thời gian

sử dụng trải dài từ 1 giờ đến dưới 5 giờ/ngày. Sinh viên sử dụng mạng xã hội chủ

yếu cho nhu cầu tương tác và giải trí, mặc dù mức độ chịu áp lực từ việc sử dụng

mạng xã hội ở sinh viên chưa đáng báo động, nhưng khi sinh viên càng có nhu cầu

sử dụng mạng xã hội cao thì họ càng dễ có nguy cơ chịu áp lực từ MXH [8].

Tác giả Nguyễn Hoàng Ánh (2018), với bài viết: “Chúng ta sử dụng mạng

xã hội một cách thông thái?” đã chỉ ra những tiềm năng khổng lồ của mạng xã hội

đối với người sử dụng nhưng cũng chỉ ra những mối nguy hại từ mạng xã hội mà

con người cần phải lưu ý khi sử dụng mạng xã hội. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra

một số nguyên tắc mà người dùng mạng xã hội phải tuân thủ để tránh những rủi ro

đáng tiếc có thể xảy ra. Như vậy, bài viết gợi mở cho nhóm nghiên cứu những ý

tưởng tiếp cận dưới góc độ hành vi sử dụng MXH của sinh viên hiện nay [47].

Tác giả Nguyễn Thị Lan Hương (2018), với bài viết: “Sử dụng mạng xã hội

của thanh, thiếu niên ở Việt Nam hiện nay” đã thống kê một số trang mạng xã hội

phổ biến ở Việt Nam hiện nay như Facebook, Instagram, Youtube, Twitter,

Myspace... và một số mạng nội địa như Zingme, Go.vn, Yume.vn… với nhiều tiện

ích đáp ứng được các nhu cầu hết sức đa dạng: kết nối - giao tiếp, tìm kiếm thông

tin, học tập, giải trí, kinh doanh... của thanh, thiếu niên. Bài viết đã điều tra thực

6

trạng sử dụng mạng xã hội của thanh, thiếu niên Việt Nam với một số nội dung như:

mục đích sử dụng mạng xã hội; đối tượng kết nối; địa điểm và phương tiện sử dụng;

ngôn ngữsử dụng trên mạng xã hội…Những kết quả nghiên cứu được trình bày trong

bài viết sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị đối với nhóm nghiên cứu trong quá trình

điều tra, thu thập và xử lý thông tin liên quan đến các nội dung đề tài của mình [17].

Đây cũng là định hướng của nhóm nghiên cứu khi thực hiện đề tài, nghiên cứu việc

sử dụng Facebook dưới góc độ tâm lý học để có những cái nhìn tổng quan hơn về

hoạt động sử dụng mạng xã hội của sinh viên [8].

Đề tài “Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Hải

Dương”, luận văn thạc sĩ Tâm lý học của Nguyễn Thị Bắc (2018) đã khảo sát và

đánh giá hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên đại học Hải Dương. Tác giả

đánh giá cao tác động của mạng xã hội đối với sinh viên, nhưng cũng chỉ ra những

biểu hiệnhành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên như: Thời gian sử dụng; nội

dung chia sẻ; nội dung đăng tải; mục đích khi nhấn nút like...Những số liệu và

phântích trong đề tài là nguồn tư liệu để nhóm nghiên cứu tham khảo và có những

đối chứng so sánh khi đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên

trường đại học Nội vụ Hà Nội [7].

Tóm lại, vấn đề sử dụng MXH được nhiều tác giả trong và ngoài nước tiếp

cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới những góc độ tiếp cận, các tác giả chỉ ra

thực trạng và biện pháp khác nhau để đạt được mục đích nghiên cứu của vấn đề.

Tuy có rất nhiều công trình nghiên cứu về MXH nhưng chưa có tác giả nào nghiên

cứu vấn đề sử dụng MXH của sinh viên trường ĐHNVHN. Vì vậy, nghiên cứu vấn

đề sử dụng MXH của sinh viên trường ĐHNVHN là nội dung mới cần được khai

thác trên nhiều khía cạnh khác nhau.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề xuất một số giải pháp đảm bảo hiệu quả sử dụng mạng xã hội của sinh viên

trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về sử dụng mạng xã hội của SV

- Đánh giá thực trạng sử dụng MXH của SV trường ĐHNVHN.

- Đề xuất các giải pháp đảm bảo hiệu quả sử dụng mạng xã hội của sinh viên

7

trường ĐHNVHN.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Sử dụng mạng xã hội của sinh viên

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung các nội dung sau:

./ Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên

./ Mức độ sử dụng MXH của sinh viên

./ Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên

./ Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên

./ Cách thức bảo mật thông tin cá nhân trên MXH của sinh viên

./ Lợi ích và tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên.

+ Phạm vi về thời gian: Khảo sát việc sử dụng MXH của sinh viên năm học

2019 - 2020

+ Phạm vi về khách thể : Khách thể chính: 575 sinh viên đại học, hệ chính quy;

khánh thể phụ: 70 Giảng viên, Cố vấn học tập (GV,CVHT) tại trường Đại học Nội vụ,

cơ sở Hà Nội.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thu thập, tổng hợp và phân tích đánh giá

các tài liệu và các nghiên cứu trước để kế thừa có chọn lọc xây dựng tổng quan và

lịch sử vấn đề nghiên cứu góp phần bổ sung hệ thống lý luận cho đề tài.

- Phương pháp điều tra bảng hỏi (Anket): Đây là phương pháp chính của đề

tài nhằm thu thập những thông tin về nhu cầu sử dụng mạng xã hội, mức độ sử

dụng mạng xã hội (thời gian sử dụng và thiết bị vào mạng...), mục đích, hành vi sử

dụng MXH của sinh viên, cách thức bảo mật thông tin, những lợi ích và tác động

tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên. Với đề tài này chúng tôi sử dụng thiết kế

nghiên cứu điều tra một lần theo lát cắt ngang và sử dụng phương pháp điều tra

bằng bảng hỏi với 02 loại phiếu: phiếu dành cho SV và phiếu dành cho GV, CVHT

(Phụ lục 1 và 2); Chúng tôi sử dụng các hình thức khảo sát phát phiếu trực tiếp và

khảo sát bằng phiếu online thông qua các trang mạng xã hội facebook, zalo, các

forum.... Trước khi gửi phiếu và sau khi nhận phiếu trả lời của nghiệm thể, nhóm

nghiên cứu đều tiến hành bước làm sạch phiếu. Kết quả 575 phiếu thu về đều đạt

8

yêu cầu, đảm bảo tính khách quan trong kết quả nghiên cứu.

- Phương pháp quan sát: để thu thập thông tin phục vụ đánh giá thực trạng sử

dụng MXH của sinh viên, nhóm nghiên cứu quan sát hành vi sử dụng MXH của

sinh viên trong mỗi giờ lên lớp và quan sát các hoạt động sử dụng MXH trên các

trang cá nhân của sinh viên. Để từ đó làm cơ sở đánh giá thực trạng sử dụng MXH

của sinh viên.

- Phương pháp phỏng vấn sâu: để thu thập thêm thông tin về thực trạng sử

dụng mạng xã hội của sinh viên, nhóm nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu đối với:

Đại diện Ban Giám hiệu Nhà trường (Phụ lục 03); Đại diện Lãnh đạo các đơn vị

(Phụ lục 04); Giảng viên, cố vấn học tập (Phụ lục 05) và sinh viên (Phụ lục 06).

- Phương pháp thống kê toán học: Thông qua quá trình khảo sát, chúng tôi

thu thập được những dữ liệu mà sinh viên cung cấp, đưa ý kiến. Để thống kê và

khái quát hóa thành những con số có ý nghĩa chúng tôi sử dụng PP thống kê toán

học để tính phần trăm cho các câu hỏi và phần trăm cho các lựa chọn, tính điểm

trung bình cho các item.

+ Tỷ lệ %:

./ Câu hỏi mang tính kiểm chứng (câu 1)

./ Trong các câu hỏi có hai phương án: Lựa chọn và không lựa chọn (câu 3,

câu 5, câu 6, câu 7, câu 9, câu 10, câu 11)

./ Đối với các câu hỏi có thanh đo, phép thống kê này sẽ được sử dụng khi

cần thiết:

Giá trị trung bình (Mean): Dùng để tính điểm trung bình của các item trong

câu hỏi và tính giá trị trung bình của các thang đo trong toàn bộ bảng hỏi.

Đối với các câu hỏi dạng thang đo (câu 2, Câu 4, Câu 8) chúng tôi sẽ xếp thứ

tự theo thang đo của từng câu hỏi tuỳ thuộc vào số lượng item của từng thang. Trong

một thang có n item thì tương đương n thứ tự. Việc xếp thứ tự này chỉ có ý nghĩa

trong tương quan với các item của thang và trong tổng mẫu của nghiên cứu. Ví dụ:

Câu 2 có 8 item các điểm trung bình (ĐTB) của từng item xếp thứ tự từ 1 đến 8.

6. Đóng góp mới của đề tài

Đề tài đã khảo sát và đưa ra những số liệu thực tế về vấn đề sử dụng MXH

của sinh viên trường ĐHNVHN, trong đó chỉ ra thời gian sử dụng MXH trung bình

9

mỗi ngày, nhu cầu, mục đích sử dụng MXH của sinh viên làm cơ sở đánh giá mức

độ lệ thuộc vào MXH của sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, đề tài

cũng chỉ ra những hành vi sử dụng trên không gian mạng làm căn cứ để nhà trường

nắm bắt, định hướng hành vi sử dụng MXH của sinh viên trong thời gian tới. Với

phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, PP quan sát, PP phỏng vấn sâu với nhiều

nhóm đối tượng khác nhau, đề tài cung cấp số liệu đáng tin cậy về mức độ tương

đồng và khác biệt trong đánh giá vấn đề sử dụng MXH của sinh viên dưới góc độ

các góc độ khác nhau. Là căn cứ để đề xuất các khuyến nghị đối với Nhà trường,

các phòng khoa, GV, CVHT và sinh viên về vấn đề này.

Ngoài ra, đề tài đã làm rõ nhận thức chưa đầy đủ của sinh viên về lợi ích và

tác động tiêu cực khi sử dụng MXH cũng như cách thức bảo mật thông tin cá nhân

trên không gian mạng. Đây chính là cơ sở thực tiễn đáng tin cậy để phòng CTSV,

các khoa trung tâm nghiên cứu đề xuất các hoạt động, các chuyên đề, các tọa đàm

nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên về MXH. Thông qua số liệu thực tiễn của

đề tài, đoàn thanh niên sẽ có cơ sở xây dựng và tổ chức những hoạt động ngoại

khóa bổ ích lôi cuốn sinh viên tham gia nhiều hơn, tích cực hơn, hiệu quả hơn

nhằm hạn chế sự lệ thuộc vào mạng xã hội do thiếu sân chơi dành cho sinh viên

trong nhà trường.

Đồng thời, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần giúp nhà trường có cách

nhìn nhận tổng quan về vấn đề sử dụng mạng xã hội của sinh viên, từ đó có những giải

pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng mạng xã hội sinh viên trường ĐHNVHN

trong thời gian tới. Trên cơ sở khái quát thực trạng, nhóm nghiên cứu đã đề xuất được

các nhóm giải pháp mang tính khả thi như tăng cường nhận thức của sinh viên về

mạng xã hội; hướng dẫn các kỹ năng sử dụng MXH hiệu quả; kết hợp các nội dung sử

dụng MXH vào các hoạt động khác trong nhà trường; tổ chức đa dạng các hoạt động

ngoại khóa; nâng cao trách nhiệm của GV, CVHT, chuyên viên chuyên trách và sinh

viên trên không gian mạng; Thiết lập bộ hướng dẫn sử dụng MXH cho sinh viên trong

thời gian tới. Các giải pháp được trình bày chi tiết với các biện pháp thực hiện được

trình bày cụ thể đảm bảo triển khai có hiệu quả vào thực tiễn.

Cùng với đó, nhóm nghiên cứu đã có những đề xuất cụ thể đối với BGH nhà

trường, các phòng khoa; với GV,CVHT và sinh viên để các giải pháp nâng cao hiệu

10

quả sử dụng MXH được sớm triển khai trong thời gian tới.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài có kết cấu

3 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận về sử dụng mạng xã hội của sinh viên

Chương 2. Thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học

Nội vụ Hà Nội

Chương 3. Một số giải pháp và khuyến nghị đảm bảo hiệu quả sử dụng mạng

11

xã hội của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

Chương 1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN

1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm mạng xã hội

Khái niệm MXH nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu với

các góc nhìn khác nhau, mỗi tác giả đưa ra khái niệm mạng xã hội dựa trên hướng

nghiên cứu của mình.

Tác giả Nguyễn Hải Nguyên đưa ra khái niệm về MXH: mạng xã hội là dịch

vụ kết nối các thành viên cùng sở thích trên internet lại với nhau với nhiều mục

đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian. Tác giả giải thích thêm,

mạng xã hội được hình thành khi một nhóm người khởi xướng gửi đi thông điệp

mời những người chưa quen gia nhập và thành bạn bè trong website của mình. Các

thành viên khác sẽ lặp lại quá trình trên và tạo nên một trang mạng liên kết rộng lớn

không phân biệt không gian địa lý của các thành viên [23].

Tác giả Đặng Thị Nga trong luận văn thạc sỹ “Nhu cầu sử dụng Mạng xã hội

của sinh viên cao đẳng sư phạm Thái Bình” đã đưa ra khái niệm: Mạng xã hội là

một xã hội ảo với hai thành tố chính tạo nên đó là các thành viên và liên kết giữa

các thành viên đó. Mạng xã hội là dịch vụ internet cho phép kết nối các thành viên

cùng sở thích không phân biệt không gian và thời gian [25].

Tác giả Tống Thị Thu Hương trong luận văn thạc sĩ “Nhu cầu sử dụng MXH

của sinh viên trường Đại học FPT đưa ra khái niệm: Mạng xã hội là một dịch vụ

kết nối những thành viên là người sử dụng dịch vụ đó tạo thành một cộng đồng ảo

trên Internet, thông qua tương tác của các thành viên và cùng kết nối. Mỗi người là

một mắt xích trong mạng lưới truyền tải thông tin đó, tạo nên một xã hội online, có

những điểm tương tự và khác riêng đặc trưng so với xã hội thực ngoài đời [17].

Tác giả Nguyễn Thị Bắc trong luận văn thạc sỹ của mình đã đưa ra khái niệm:

“MXH là một website mở trong đó người dùng có thể tự xây dựng nội dung nhằm kết

nối và tương tác với mọi người thông qua các tính năng riêng biệt của MXH” [3].

Như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về MXH cho thấy sự quan tâm

của các nhà nghiên cứu là rất lớn. Bởi vậy, để thống nhất một cách hiểu, một khái

12

niệm về mạng xã hội là điều không dễ dàng. Điều này dẫn đến có những cách hiểu

chưa đúng, đầy đủ về khái niệm MXH đã gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan

quản lý nhà nước về lĩnh vực này ở Việt Nam.

Nhận thức được điều đó, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm

2013 của Thủ tướng chính phủ về việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet

và thông tin trên mạng. Tại Khoản 22, Điều 3 Chương 1. Những quy định chung

nêu rõ: “Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng

đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ

và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân,

diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các

hình thức dịch vụ tương tự khác”[6].

Có thể nói, MXH là khái niệm nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên

cứu ở các khía cạnh khác nhau. Hiện nay, số lượng các trang mạng xã hội ngày

càng gia tăng, các tính năng được cập nhật và nâng cấp liên tục nhằm thỏa mãn nhu

cầu, mục đích sử dụng của người dùng trên khắp thế giới với các độ tuổi khác nhau.

Một số trang MXH có thể kể đến như:

Facebook: là một mạng xã hội được thành lập bởi Mark Zuckerberg với

những người bạn học tại trường Đại học Harvard là sinh viên Eduardo Saverin,

Dustin Moskovitz và Chris Hughes. Thành viên được quyền sử dụng trang Facebook

ban đầu được giới hạn bởi những người sáng lập cho sinh viên Harvard, nhưng sau

đó đã được mở rộng đến các trường đại học khác trong khu vực như đại học Boston,

Ivy League, và Đại học Stanford. Về sau Facebook dần dần được nâng cấp để hỗ trợ

cho tất cả các sinh viên tại các trường đại học trước khi trở thành một trang mở dành

cho học sinh trung học, và cuối cùng là cho bất cứ ai ở độ tuổi 13 trở lên.

Facebook là một website mạng xã hội truy cập miễn phí do công ty Facebook, Inc

điều hành và sở hữu tư nhân. Người dùng có thể tham gia các mạng lưới được tổ

chức theo thành phố, nơi làm việc, trường học và khu vực để liên kết và giao tiếp

với người khác.

YouTube: là nền tảng video phổ biến nhất hiện nay. Sự đơn giản của

YouTube là một trong nhiều lý do khiến nó bùng nổ về mức độ phổ biến trong

những năm qua. YouTube giúp tạo nội dung dễ dàng, chia sẻ với một lượng lớn

13

khán giả. Các nội dung được chia sẻ rất đa dạng. Chẳng hạn như hướng dẫn làm

đẹp, đánh giá sản phẩm, kênh chơi trò chơi, phim, giải trí….Youtube là một nền

tảng truyền thông xã hội liên tục phát triển. Một trong những lý do chính khiến

Youtube giữ vị trí thống lĩnh trong ngành là bởi mức độ truy cập. Youtube giúp dễ

dàng bắt đầu và chia sẻ nội dung của bạn với một lượng lớn khán giả. Sự đơn giản

mà mọi người có thể bắt đầu trên Youtube đã góp phần to lớn vào việc thu hút hàng

triệu người sáng tạo nội dung trên toàn thế giới.

Zalo: được phát hành bởi VNG từ năm 2012, mạng xã hội “Made in

Vietnam” này đã có hơn 100 triệu người dùng trên toàn thế giới. Zalo vốn là ứng

dụng nhắn tin và gọi điện thoại miễn phí nhưng đang dần chuyển thành một mạng

xã hội với nhiều tính năng chia sẻ. Công cụ này ngày càng được hoàn thiện với

nhiều dịch vụ tiện ích như trợ lý ảo, xử lý các thủ tục hành chính, mua sắm, phương

tiện trao đổi thông tin và liên lạc nhanh chóng, tiện dụng.

Instagram: là nền tảng chia sẻ hình ảnh phổ biến nhất hiện nay với hơn 500

triệu người dùng hoạt động mỗi ngày. Instagram là nền tảng top đầu về số lượng

người dùng hoạt động với hơn 500 triệu người, bỏ xa Twiter (326 triệu người),

Snapchat (150 triệu người), Pinterest (250 triệu người).

Viber: là một ứng dụng cho phép nhắn tin, gọi điện miễn phí. Nó là phần mềm

nghe gọi miễn phí được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Với chất lượng cuộc gọi

rất tốt. Ở Việt Nam, viber đã có thời gian được sử dụng rất mạnh mẽ. Và hiện tại, thị

phần của nó đứng thứ 2, sau Zalo trong lĩnh vực nghe gọi miễn phí. Viber có phiên

bản tiếng Việt cho người dùng nên chúng ta có thể dễ dàng sử dụng.

Twitter: là dịch vụ MXH miễn phí cho phép người sử dụng đọc, nhắn và cập

nhật các mẩu tin nhỏ gọi là tweet. Những mẩu tweet được giới hạn tối đa 140 ký tự

được lan truyền nhanh chóng trong phạm vi nhóm bạn của người nhắn hoặc có thể

được trưng rộng rãi cho mọi người. Thành lập từ năm 2006, Twitter đã trở thành

một hiện tượng phố biến toàn cầu.

Myspace: là một trang MXH nổi tiếng, cung cấp một mạng lưới thông tin

giữa người dùng với bạn bè của họ, cho phép người dụng tạo những hồ sơ cá nhân,

viết blog, lập nhóm, tải hình ảnh lên, lưu trữ nhạc và video cho giới trẻ cũng như

người lớn trên khắp thế giới. Trụ sở của nó đặt tại Beverly Hills, California, Hoa

14

Kỳ, được chia sẻ cùng với công ty Fox Interactive Media. Tuy nhiên, do chậm chạp

trong việc cải tiến và nâng cấp tính năng nên Myspace đang bị cạnh tranh từ các

đối thủ khác như Facebook, Twitter…

Zing Me: là mạng xã hội của công ty Vinagame. Zing me chú trọng tới các

tính năng đặc trưng của một mạng xã hội như kết bạn, chat trực tuyến, viết blog,

lập câu lạc bộ. Bên cạnh đó các thành viên có thể tham gia diễn đàn, nghe nhạc,

xem phim, chia sẻ ảnh và tham gia các trò chơi trực tuyến. Ngoài việc xây dựng thế

giới ảo, Zing me còn thường xuyên tổ chức các sự kiện đối với người sử dụng của

mình nói riêng hay cộng đồng nói chung và nhận được nhiều phản hồi tích cực.

Các trang MXH vẫn không ngừng gia tăng về số lượng và cải tiến các tính

năng để thu hút người dùng trên phạm vi toàn cầu. Tham gia MXH giúp người

dùng có những trải nghiệm thú vị trên không gian mạng, giải tỏa căng thẳng, mệt

mỏi trong đời thực. Hiện nay, có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về

mạng xã hội, nhóm nghiên cứu đã khái quát và kế thừa những quan điểm của các nhà

nghiên cứu trong và ngoài nước về mạng xã hội. Đó thực sự là nguồn tư liệu có giá

trị đối với nhóm tác giả khi triển khai nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, trong khuôn khổ

đề tài này, nhóm nghiên cứu lựa chọn khái niệm được quy định tại Khoản 22, Điều 3

Chương 1 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2013 của Thủ tướng

chính phủ về việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng

làm khái niệm công cụ trong nghiên cứu của mình. Theo đó, Mạng xã hội (social

networks) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các

dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau,

bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện

(chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác.

1.1.2. Khái niệm sinh viên

Theo quy chế công tác học sinh sinh viên trong các trường đào tạo: Sinh viên

là những người đang học trong hệ đại học và cao đẳng.

Trong cuốn tâm lý học sư phạm của Phạm Minh Hạc: sinh viên có nguồn

gốc tiếng La tinh “Students” là những người làm việc nhiệt tình, người tìm hiểu và

khai thác tri thức.

Trong từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê: “Thuật ngữ này được dùng để chỉ

15

những người đang theo học ở bậc Đại học. Theo chúng tôi, sinh viên là những

người trưởng thành về thể chất, xã hội và tâm lý, đó là những người ở độ tuổi

khoảng 18 – 25 và đang theo học tại các trường Cao đẳng, Đại học”. [28]

Có thể nói, khái niệm sinh viên được hiểu ở các khía cạnh khác nhau nhưng

đều có những điểm chung về lứa tuổi, môi trường học tập tại các trường Đại học,

cao đẳng. Ở độ tuổi này, sinh viên có một số đặc điểm tâm lý cơ bản như sau:

Sự phát triển về nhận thức, trí tuệ, sinh viên khác với các giai đoạn trước khi

vào học ở các trường đại học, do đã có những kiến thức về xã hội, lịch sử, lại chịu tác

động rõ nét của dư luận xã hội và môi trường giáo dục đại học, trong đó đề cao khả

năng tự đánh giá và biểu thị ý kiến cá nhân, nên có cơ hội để khẳng định và định

hình rõ nét hệ thống thái độ và định hướng giá trị, từ đó hình thành thế giới quan,

nhân sinh quan, niềm tin và lý tưởng. Sự hình thành và điều chỉnh để hoàn thiện các

thuộc tính của nhân cách diễn ra với tốc độ nhanh, cường độ mạnh cùng với tác động

mạnh mẽ của cảm xúc có sự phân cực rõ ràng. Khả năng chịu sự tác động bên ngoài

một cách nhanh nhạy có thẩm định và tự điều chỉnh để quá trình hoàn thiện của SV

diễn ra liên tục, có tốc độ cao.

Với sinh viên, việc hình thành các chuẩn mực giá trị, các đặc điểm nhân cách

không bắt nguồn từ sự nhận thức một cách bị động, theo những công thức xác định,

mà nó bắt nguồn từ sự nhận thức một cách chủ động, sâu sắc, trên cơ sở có sự đánh

giá và kiểm nghiệm một cách nhạy bén và toàn diện. Chính điều đó tạo ra sự định

hình bền vững, đồng thời sự hoàn thiện nhân cách được diễn ra nhanh hơn, chất

lượng hơn. Sự tìm tòi, vươn đến mức thúc đẩy SV muốn thử nghiệm và có những

quan điểm mới, tính cách mới và sự khám phá cá nhân. Tuy nhiên, khi sự kiểm

nghiệm, thử nghiệm đó được thực hiện trên nền của những hiểu biết còn chưa đầy

đủ cộng với tính bồng bột và lãng mạn của tuổi trẻ có thể gây ra những hậu quả

khôn lường.

Sự phát triển xúc cảm – tình cảm, ở tuổi sinh viên, mọi tình cảm đạo đức

cũng thường được gắn liền với những nguyên tắc và tiêu chuẩn đạo đức trong nhận

thức. Do đó sinh viên có khả năng tự phân tích, đánh giá những tình cảm của mình.

Đó là một điều kiện tốt để tiến hành tu dưỡng đạo đức. Sinh viên có nhu cầu muốn

hiểu biết, muốn phân tích những tình cảm của mình và tìm cách thể hiện những tình

16

cảm đó. Bên cạnh đó, tình cảm trách nhiệm và tình cảm nghĩa vụ cũng phát triển

mạnh. Một điểm đáng chú ý về tình cảm của sinh viên là sự phát triển tình cảm bạn bè

và tình yêu nam nữ, tình bạn giúp đỡ nhau trong học tập, lao động và sinh hoạt. Sinh

viên cảm thấy vui khi hoàn thành những công việc khó khăn trong học tập và nhiều

sinh viên có xu hướng muốn đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu những điều mà mình

thích, trăn trở khi công việc không hoàn thành. Nói chung những tình cảm đã nói trên

của sinh viên phát triển cao độ, đặc biệt là tình cảm đạo đức và tình cảm trí tuệ.

Do đây là lứa tuổi cần được giao lưu, trò chuyện và kết nối với bạn bè, tìm

hiểu những người bạn khác giới, tìm hiểu những điều mới mẻ thì MXH đúng là nơi

có thể đáp ứng được nhu cầu này cho giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng. Tạo

ra một sân chơi bổ ích mà gắn kết được khắp nơi trên thế giới.

Như vậy, sinh viên là những người trẻ, năng động và có đặc điểm tâm lý

phong phú và đa dạng, khái niệm sinh viên đã được nhiều tác giả đề cập đến là cơ

sở quan trọng để nhóm nghiên cứu kế thừa và phát triển khái niệm sinh viên của

mình. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm như sau:

“Sinh viên là những người trẻ có độ tuổi khoảng từ 18 – 25 tuổi, là những người

trưởng thành về thể chất, xã hội và tâm lý, đang theo học tại các trường cao đẳng,

đại học để tìm hiểu, khai thác tri thức và làm chủ công nghệ”.

1.1.3. Khái niệm sử dụng mạng xã hội của sinh viên

Trong thời đại bùng nổ công nghệ số 4.0, các MXH trở nên phổ biến hơn

bao giờ hết. MXH khiến mọi thứ chuyển dịch dần từ offline sang online. Hầu hết

các thống kê đều cho rằng giới trẻ là thành phần chính sử dụng mạng xã hội, hoặc

thậm chí là thực trạng nghiện mạng xã hội, sống ảo của những người trẻ. Hầu hết

người Việt tham gia mạng xã hội đều có thái độ, tình cảm, trách nhiệm đúng mực với

cộng đồng xã hội. Không những vậy, một bộ phận cộng đồng mạng rất có trách

nhiệm trong phản biện, phát hiện và đấu tranh phê phán tình trạng vi phạm pháp luật;

vi phạm đạo đức lối sống, thuần phong mỹ tục; thói hư tật xấu trong xã hội;… Tuy

nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận tham gia mạng xã hội có ý đồ xấu; thiếu

trách nhiệm với đất nước, với cộng đồng; cố tình làm hại lợi ích, xúc phạm danh dự

của người khác; vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục … một bộ phận người tham

gia mạng xã hội có bài viết, video, clip, ảnh trái với đạo đức, thiếu chuẩn mực trong

17

một số lĩnh vực của đời sống xã hội gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến

cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và kinh tế của người dân.

Khi tham gia MXH, mỗi người cần có ý thức mình phải là người có trách

nhiệm chính mình, với cộng đồng, với đất nước; biết tôn trọng nhân phẩm, danh dự,

quyền lợi của người khác; và nhất là biết tôn trọng danh dự bản thân thì mới có trách

nhiệm với mỗi bài viết, mỗi hình ảnh, mỗi comment khi đăng lên mạng xã hội. Với

những người cố tình sử dụng mạng xã hội để bịa đặt, xuyên tạc sự thật, làm hại

người khác cần phải xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Như vậy, sử dụng mạng xã hội là hoạt động của mỗi cá nhân dùng mạng xã

hội làm công cụ, phương tiện nhằm thỏa mãn các nhu cầu, mục đích khác nhau

trong cuộc sống.

Việc sử dụng MXH trong sinh viên hiện nay là phổ biến. Có khoảng 22 triệu

học sinh, sinh viên Việt Nam sử dụng mạng xã hội [36]. Mục đích sử dụng MXH

của sinh viên đa số là khai thác sử dụng thông tin hữu ích phục vụ cho việc học tập,

nghiên cứu khoa học, trao đổi thông tin và giải trí lành mạnh. Bên cạnh đó tăng

việc tương tác trong học tập, hoạt động nhà trường và người thân bạn bè. Theo

đánh giá các chuyên gia, người học đang bị ảnh hưởng bởi MXH, một số bộ phận

sinh viên đang thiếu kỹ năng, kiến thức, chưa được trang bị đầy đủ dẫn đến việc

không ứng phó với những thông tin xấu độc về tư tưởng, đạo đức, bị lệ thuộc vào

cảm xúc, giá trị ảo trên MXH. Điều đó đặt ra cho giảng viên, nhà trường và Bộ giáo

dục cần trang bị kiến thức, kỹ năng cho sinh viên khi tham gia sử dụng MXH.

Như vậy, MXH là công cụ phương tiện luôn đồng hành cùng với hoạt động

của sinh viên hiện nay. Để sử dụng MXH có hiệu quả mỗi sinh viên phải trang bị

những kiến thức, kỹ năng sử dụng sao cho đúng với văn hóa, đạo đức xã hội và

pháp luật. Từ đó, có thể hiểu: Sử dụng MXH của sinh viên là hoạt động của mỗi

sinh viên dùng mạng xã hội làm công cụ, phương tiện nhằm thỏa mãn các nhu cầu,

mục đích khác nhau trong học tập và cuộc sống.

1.2. Đặc điểm, vai trò và tác động của mạng xã hội

1.2.1. Đặc điểm và vai trò của mạng xã hội

Hiện nay, có rất nhiều tài liệu, bài báo viết về các đặc điểm của mạng xã hội,

trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đã khái quát một số đặc điểm nổi bật của MXH

18

như sau:

Thứ nhất, là website mở, nội dung được xây dựng bởi các thành viên tham gia.

Các trang mạng xã hội ra đời sớm hay muộn, lớn hay nhỏ đều không tự tạo nên nội

dung mà chính những thành viên tham gia (gọi chung là cư dân mạng) mới tạo ra nó.

Tất cả những gì cư dân mạng chia sẻ, like, commet, đăng tải... đều tạo nên sự phong phú

cho trang mạng và đó chính là nội dung của MXH. Những tính năng của MXH cho

phép cư dân mạng chia sẻ, đăng tải, thể hiện quan điểm cá nhân dễ dàng hơn.

Thứ hai, sự tham gia trực tiếp của nhiều cá nhân (hoặc doanh nghiệp nhưng

với vai trò như những cá nhân). MXH là không gian mở cho phép các cá nhân đủ

điều kiện như độ tuổi...được tạo tài khoản và tham gia cộng đồng cư dân mạng. Sự

tham gia trực tiếp của cá nhân không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính, sắc

tộc đã tạo nên mạng lưới phong phú, đa dạng trên không gian mạng.

Thứ ba, độ tương tác cao, khả năng truyền tải và lưu trữ khổng lồ. MXH cung

cấp các công cụ cho phép cư dân mạng chia sẻ thông tin và thể hiện quan điểm cá

nhân bằng cách tag ảnh, bình luận, chia sẻ, chát, gọi video, gửi tin nhắn và các ứng

dụng giải trí khác. Nhờ vậy, cư dân mạng có thể cùng chia sẻ, bày tỏ quan điểm cá

nhân, tương tác trực tiếp với bạn bè, người thân, nhóm sở thích ở bất kỳ đâu.

Thứ tư, khả năng lan truyền không biên giới dựa trên những mối quan hệ có

sẵn. Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi các mạng xã hội phát triển một cách

nhanh chóng về mặt số lượng người dùng. Với các tính năng trên, mạng xã hội đã

duy trì mối quan hệ sẵn có và phát triển thêm những mối quan hệ xã hội mới, dễ

dàng kết bạn với người lạ bất cứ nơi đâu và dễ dàng quản lý nhóm bạn bè...

Với các đặc điểm trên thì mạng xã hội có những vai trò rất tích cực trong đời

sống xã hội, nhóm nghiên cứu khái quát một số vai trò cơ bản của MXH là:

Giúp giao lưu, trao đổi thông tin giữa các thành viên dễ dàng. Giao tiếp là vai

trò cơ bản, truyền thống của các MXH. Tương lai việc giao tiếp sẽ ngày càng dễ dàng

hơn không chỉ giới hạn bằng những văn bản, biểu tượng hay hình ảnh.

Tích hợp và hỗ trợ phát triển thương mại điện tử. Xu hướng tích hợp thương

mại điện tử vào các trang mạng xã hội cũng là tất yếu và ngày càng nở rộ. Thương

mại điện tử ngày càng phát triển và điều tất yếu là sự hợp tác giữa những doanh

nghiệp thương mại điện tử với mạng xã hội để tiếp cận dễ dàng một lượng khách

19

hàng khổng lồ và ổn định.

Tích hợp quảng bá thương hiệu, sản phẩm, công cụ quảng bá hữu hiệu của

doanh nghiệp trong thời đại internet. Một số quốc gia sử dụng mạng xã hội như công

cụ chính trị, kinh tế: MXH là công cụ quảng bá văn hóa (quốc gia, tổ chức, doanh

nghiệp...). Hầu hết các quốc gia đang phát triển đều cố gắng xây dựng cho mình

một MXH với đặc điểm riêng của quốc gia mình.

Mạng xã hội đóng vai trò quan trong trong xu thế phát triển của các trường

Đại học hiện nay, bất cứ trường Đại học nào cũng xây dựng cho mình những trang

fanpage riêng nhằm nhằm quảng bá hình ảnh của trường, cung cấp cho sinh nhưng

những thông tin cơ bản như: các danh mục ngành đào tạo; hướng dẫn quy chế

tuyển sinh; cổng thông tin tuyển sinh của trường; cổng thông tin tuyển sinh của Bộ

giáo dục và đào tạo; ngoài ra hàng tuần, hàng tháng, hàng năm trên website của

trường đăng tải những thông tin liên quan đến hoạt động của nhà trường, lịch thi,

thời khóa biểu, chỉ tiêu tuyển sinh, điểm thi.

MXH đóng vai trò vô cùng to lớn đối với giảng viên trong hoạt động giảng

dạy. Thông qua MXH, GV khái thác những thông tin hữu ích trên không gian mạng

bổ sung những kiến thức mới, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ để hướng

dẫn sinh viên học tập những kiến thức mới theo kịp sự thay đổi và phát triển của xã

hội. Đối với sinh viên, MXH giúp các em hình thành kỹ năng tự học, rèn luyện khả

năng tự nghiên cứu mọi lúc, mọi nơi để phát triển vốn kiến thức của bản thân.

1.2.2. Tác động của mạng xã hội

Ngày nay, chúng ta có thể dễ dàng nắm bắt được các thông tin từ rất nhiều

nguồn khác nhau trên internet và đặc biệt là thông qua MXH với tốc độ lan truyền

nhanh chóng. Mục đích của MXH là tạo ra một hệ thống trên nền Internet cho

phép người dùng giao lưu và chia sẻ thông tin một cách có hiệu quả, vượt ra ngoài

những giới hạn về địa lý và thời gian.

1.2.2.1. Tác động tích cực của mạng xã hội

Với tính năng đa dạng, nguồn thông tin khổng lồ, phong phú về tất cả các

lĩnh vực đời sống xã hội, SV có thể tra cứu những thông tin liên quan trên mọi lĩnh

vực: khoa học, kĩ thuật, công nghệ, văn học, nghệ thuật… MXH cho phép sinh viên

tiếp nhận, chia sẻ và chọn lọc thông tin một cách có hiệu quả. Thông tin được

20

truyền tải trên không gian mạng vượt qua trở ngại về không gian và thời gian, vượt

qua khoảng cách giữa các thế hệ, mở ra cho người dùng nói chung và SV nói riêng

cơ hội tiếp cận, chia sẻ và sử dụng khối lượng thông tin khổng lồ này theo nhu cầu

của từng người. Internet còn là một trường học không giới hạn về thời gian, không

gian, tại môi trường đó ai cũng có thể cung cấp, chia sẻ thông tin vào bất cứ thời

gian nào và chỉ cần một thao tác đơn giản thì ai cũng có thể tìm thấy những thông

tin cập nhật kịp thời về lĩnh vực, vấn đề mà mình quan tâm theo dõi.

Đối với SV, những tiện ích mà MXH mang lại như: sử dụng MXH trong học

tập, giao tiếp và tìm kiếm cơ hội nghề nghiệp. Thông qua MXH liên kết hợp tác với

nhau thành các nhóm người có cùng sở thích, cùng sự quan tâm, cùng ý nguyện có

thể gặp gỡ, trao đổi trên mạng rồi tiến tới sinh thực hiện những hành động có ý nghĩa

tích cực như tổ chức các hoạt động từ thiện nhân, giúp đỡ trẻ đường phố, tổ chức

những sinh hoạt văn hóa lành mạnh; nhiều nhóm chia sẻ sở thích du lịch kết hợp việc

làm từ thiện ở vùng cao biên giới hẻo lánh…không chỉ vậy, rất nhiều sinh viên từ các

trường đại học khác nhau trên mọi miền tổ quốc đã lập ra những forum (diễn đàn)

giúp đỡ nhau học tập tiếng anh hoặc các môn học chuyên ngành. Đây là một trong

những kênh giúp các bạn chia sẻ kiến thức và tài liệu, nâng cao hiệu quả học tập.

Thông qua MXH sinh viên giới thiệu bản thân mình với mọi người về tính

cách, sở thích, quan điểm của bản thân trên MXH và giúp gia tăng khả năng kết nối

với bạn bè trên khắp thế giới. MXH không chỉ giúp người dùng biết được nhiều

thông tin về bạn bè, người thân mà còn có thể giúp thu hẹp lại khoảng cách về mặt

địa lý giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ với nhau. Hơn nữa MXH còn là môi trường

kinh doanh lý tưởng cho các bạn sinh viên thử sức với khả năng kinh doanh online.

Từ đó góp phần rèn luyện kỹ năng giao tiếp, khả năng tài chính và nâng cao chất

lượng cuộc sống và học tập

1.2.2.2. Tác động tiêu cực của mạng xã hội

Bên cạnh những mặt tích cực thì việc sử dụng MXH cũng gây ra những tác

động không tốt đối với sinh viên. Mạng xã hội đã khiến nhiều sinh viên sao nhãng

việc học tập cũng như tham gia các hoạt động ngoại khóa. Quỹ thời gian tự học của

các bạn giảm đi do dành quá nhiều thời gian cho các hoạt động trên các trang

mạng. Thay vì chú tâm vào việc học tập, tìm kiếm công việc trong tương lai bằng

21

cách học hỏi những kỹ năng cần thiết, một bộ phận sinh viên lại dành thời gian cho

hoạt động không cần thiết trên MXH.

Mạng xã hội được coi là kho giải trí với muôn vàn nội dung phong phú, đa

dạng, tuy nhiên nếu sinh viên sử dụng quỹ thời gian vào MXH không hợp lý sẽ tạo

ra hội chứng “nghiện” mạng xã hội. Nghiện mạng xã hội không chỉ khiến sinh viên

dành ít thời gian cho việc học tập, giao lưu với các mối quan hệ thực tế mà còn

khiến các em buồn phiền khi bạn coi trọng bạn bè “ảo” từ những mối quan hệ ảo

hơn những gì ở thực tế cuộc sống. Nghiện MXH ảnh hưởng xấu đến sức khỏe về cả

về thể chất lẫn tình thần, tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu ảnh

hưởng đến kết quả học tập. Các nghiên cứu gần đây cho thấy những ai sử dụng

mạng xã hội càng nhiều thì càng cảm thấy tiêu cực hơn, thậm chí có thể dẫn đến trầm

cảm. Điều này đặc biệt nguy hiểm với những ai đã được chẩn đoán mắc bệnh trầm

cảm từ trước. Có những trường hợp người nghiện MXH mắc hội chứng “tâm thần”

và những hành vi lệch chuẩn, thậm chí là những hành vi vi phạm pháp luật. Sử dụng

MXH thường xuyên tiếp xúc với những tin giả, tin độc hại gây ra tâm lý lo lắng, sợ

hãi, hoang mang ảnh hưởng đến mặt tinh thần, tâm lý của người dùng, đặc biệt là

giới trẻ chưa có đầy đủ kinh nghiệm sống, cũng như vốn tri thức để nhận thức và

đánh giá các thông tin đó.

Sinh viên là thế hệ trẻ năng động, sáng tạo trong học tập và các hoạt động xã

hội. Những phẩm chất đó sẽ được phát huy hơn nữa khi sinh viên tham gia vào các

hoạt động nghiên cứu khoa học và các hoạt động thực tế vì cộng đồng cùng với sự

trợ giúp từ MXH. Tuy nhiên, nếu quá lệ thuộc vào mạng xã hội thì sẽ hạn chế sự

sáng tạo, làm cho sinh viên lười suy nghĩ, tìm kiếm cái mới, thường lấy những cái

có sẵn trên MXH mà không không có sự đầu tư, sáng tạo, dần dần sẽ phụ thuộc vào

những điều có sẵn. Người dùng cảm thấy thoải mái trên mạng nên thường có những

lời nói mà ngoài đời không dám phát biểu hoặc không có thực. Điều đó tác động

không nhỏ đến tâm lý, suy nghĩ của cá nhân tham gia môi trường mạng.

MXH còn tiềm ẩn nguy cơ khi những thông tin, nội dung, hình ảnh riêng tư

được đưa lên mạng để chia sẻ với người thân, bạn bè… nhưng vô tình bị những đối

tượng có mục đích xấu lợi dụng hoặc là người sử dụng mạng xã hội chưa có ý thức,

vô trách nhiệm trong việc đưa thông tin xấu lên mạng gây ảnh hưởng không tốt đến

22

suy nghĩ của sinh viên. Tất cả những vấn đề này có tác động tiêu cực đến đời sống

và việc học của sinh viên.

Cũng như nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật khác, mạng xã hội được sáng

tạo và phát triển là nhằm phục vụ lợi ích của xã hội, tuy nhiên sử dụng nó như thế

nào thì sẽ chịu tác động tích cực hay tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào mỗi con

người. Không thể phủ phận những mặt tích cực mà MXH đã mang lại, nó giúp sinh

viên hiểu biết, tiếp thu, nâng cao được tầm hiểu biết, tri thức, kiến thức cũng như

tìm hiểu được nhiều hơn ngoài các kiến thức trên ghế nhà trường. Trong xã hội

thông tin này, nếu sinh viên nắm vững được công cụ hữu ích này sẽ trở thành chủ

nhân của một đất nước vững bước hội nhập vào thế giới.

1.3. Vấn đề sử dụng mạng xã hội của sinh viên

1.3.1. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên

Hiện nay MXH là công cụ hữu ích đối với mọi người nói chung và đối với

sinh viên nói riêng trong việc chia sẻ cảm xúc, thông tin, sự quan tâm và kiến

thức... với mọi người trong cộng đồng mạng. Đối với sinh viên nhu cầu chia sẻ

thường là những nội dung liên quan đến sự quan tâm đến bạn bè, người thân trong

gia đình thể hiện qua những lời chúc mừng sinh nhật, chúc mừng thành công hay

chia sẻ những câu chuyện buồn. Một trong những trào lưu hiện nay của sinh viên là

chia sẻ ảnh và video trên mạng xã hội, có thể là ảnh, video cá nhân hoặc những

người nổi tiếng, thần tượng... để thu hút sự quan tâm của mọi người về nội dung

mình chia sẻ. Mạng xã hội là phương tiện để sinh viên có thể lan tỏa một cách

nhanh chóng những hành động tử tế đến cộng đồng, truyền cảm hứng đến các thế

hệ trẻ ra sức học tập, trau dồi đạo đức, cố gắng hoàn thiện bản thân và xây dựng,

bảo vệ tổ quốc.

Cùng với đó, sử dụng MXH đáp ứng nhu cầu thể hiện bản thân của sinh

viên. Đây là nhu cầu mà mỗi con người muốn được người khác tôn trọng và mong

muốn khẳng định bản thân mình. Biểu hiện của nhu cầu này là trên các ứng dụng

của các trang mạng xã hội sinh viên thiết lập một tài khoản riêng của mình như: tài

khoản facebook, tài khoản google, kênh youtube... với những nội dung mà cá nhân

chia sẻ sẽ có nhiều người đăng kí theo dõi, nhiều lượt chia sẻ. Thông qua những tài

khoản trên các ứng dụng MXH mỗi cá nhân thể hiện phong cách, quan điểm, xu

23

hướng và nội dung quan tâm riêng của mình. Nhu cầu thể hiện bản thân của sinh

viên còn được thể hiện thông qua những hành động cụ thể như tham gia các cuộc

thi tìm hiểu hay sáng tạo được tổ chức trên các trang web của nhà trường hay do cơ

quan tổ chức chính thống phát động.

Nhu cầu học tập trên mạng xã hội là đòi hỏi của người học đối với sự lĩnh hội

nội dung kiến thức, phương pháp học tập, nhằm làm giàu vốn kinh nghiệm, phát

triển và hoàn thiện nhân cách của bản thân. Nhu cầu học tập trên mạng xã hội là thành

phần cơ bản của động cơ học tập, là nguồn gốc giúp sinh viên phát huy tính tích cực và

óc sáng tạo. Với mong muốn học tập và trao đổi bài vở một cách thường xuyên và liên

tục, khối lượng bài tập nhiều và cần tìm hiểu thêm kiến thức về xã hội, học thuật, khảo

sát nên MXH đã đáp ứng được về phần giới hạn về không gian và thời gian để bổ sung

cho sinh viên những thiếu hụt về thông tin, kiến thức. Như vậy, MXH đã đáp ứng

được phần nào đó về nhu cầu học tập, nhu cầu tìm hiểu tri thức, biểu hiện được thể

hiện qua một số yếu tố và sé được làm rõ trong khuôn khổ của đề tài.

Không những đáp ứng nhu cầu học tâp, MXH được mệnh danh là kho cung cấp

thông tin, vì vậy, nếu như sinh viên có nhu cầu tìm kiếm việc làm thì chỉ cần gõ cụm

từ cần tìm kiếm việc làm sẽ có hàng nghìn kết quả liên quan. Trong thời đại cách mạng

công nghiệp 4.0 mỗi sinh viên đều có thể vừa học, vừa tìm kiếm việc làm thêm một

cách dễ dàng.

Giải trí là nhu cầu của con người vì nó đáp ứng những đòi hỏi của cá nhân,

nếu thiếu nó thì sự phát triển của cá nhân không thể đầy đủ và toàn diện. Sau thời

gian học tập, làm việc mệt mỏi và căng thẳng, các hoạt động giải trí là trở nên vô

cùng cần thiết. Nhu cầu giải trí là động cơ của hoạt động giải trí. Khi sinh viên

tham gia mạng xã hội với mục đích giải trí, mạng xã hội đã đem lại cho sinh viên

không ít lợi ích như được giao tiếp, thể hiện mình, kết bạn, chia sẻ cảm xúc. Với

công cụ giải trí có thể truy cập ở khắp mọi nơi, đã khiến cho sinh viên vơi bớt đi

những căng thẳng trong học tập. MXH đã mang lại cho đời sống tính thần của sinh

viên thêm sự phong phú và đa dạng, giờ đây không chỉ bó hẹp là đi chơi, đi dã

ngoại, gặp nhau ngoài hàng quán, hoặc một địa điểm nào đó thì ngay trên MXH

luôn có người lắng nghe và chia sẻ.

Sử dụng MXH không chỉ để học tập, giải trí, sinh viên sử dụng MXH còn

24

đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Mạng xã hội nói chung và Facebook nói riêng đang ở

vào thời kỳ hoàng kim hơn bao giờ hết. Và đồng hành cùng với nó, các hình thức

quảng cáo và bán hàng trên hệ thống mạng xã hội cũng đang ngày một phát triển

rực rỡ với cơ số hình thức và phương pháp cực kỳ đa dạng. Sức mạnh của MXH

trong lĩnh vực kinh doanh và quảng cáo online là vô cùng lớn. Nắm bắt được xu

hướng và trào lưu của kinh doanh trên mạng xã hội các bạn sinh viên có thể kiếm

thêm thu nhập bằng hình thức kinh doanh này. Không phải tốn tiền cho quảng bá

truyền thông, hay những nội dung quảng cáo đắt đỏ và không mất tiền thuê mặt

bằng nhưng hiệu quả của nó đem lại thiết thực gấp nhiều lần so với những hình

thức kinh doanh cổ điển.

Một trong những nhu cầu giao tiếp xã hội giữa người với người, giữa cá

nhân với nhóm thông qua MXH, mọi người có thể hiểu nhau nhiều hơn và tâm sự,

chia sẻ thông qua sự tương tác. Ở bất cứ thời đại nào con người nói chung và sinh

viên nói riêng đều có nhu cầu tương tác, tuy nhiên trong thời kì công nghệ 4.0 nhu

cầu tương tác của sinh viên cao hơn, không đơn thuần giữa các cá nhân ở tập trung

trong địa điểm nhất định. Thông qua MXH sinh viên dễ dàng tương tác với nhau,

không giới hạn về mặt không gian, thời gian, vị trí địa lý, mà còn là sự tương tác

trên toàn cầu thông qua các ứng dụng như facebook, zalo, viber...kết nối sinh viên

trên khắp thế giới.

1.3.2. Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên

Mạng xã hội là kho tin tức khổng lồ được cập nhật thường xuyên, liên tục,

từng giờ, từng phút về tất cả các lĩnh vực đời sống, xã hội, khoa học, giáo dục...

MXH không chỉ là kho tin tức giới hạn ở Việt Nam mà còn là tin tức trên toàn thế

giới. Chính vì vậy, những người dùng MXH nói chung và sinh viên dùng MXH nói

riêng có thể cập nhật được những tin tức mới nhất từng giờ trong ngày mà không

cần đến tận nơi nhận tin tức.

Thông qua MXH sinh viên có thể học ở mọi lúc, mọi nơi, có thể tìm kiếm,

chia sẻ kiến thức, tài liệu học tập với thầy cô, bạn bè. Bên cạnh đó sinh viên thường

xuyên cập nhật kiến thức mới để không bị lỗi thời, lạc hậu so với sự phát triển của

xã hội và có cơ hội học tập thường xuyên. Mục đích học tập của sinh viên hiện nay

ngày càng phong phú, đa dạng hơn nhờ vào sự phát triển của mạng internet và các

25

ứng dụng công nghệ 4.0 vào quá trình học tập. Ngoài mục đích học tập để nâng cao

kiến thức chuyên môn để sau nay có công việc theo mong muốn của bản thân sinh

viên còn có thể học thêm nhiều kỹ năng nghề nghiệp, giao tiếp ứng xử, xây dựng

hình ảnh của thân và tìm kiếm cơ hội việc làm trong tương lai.

Đa số sinh viên đều xa gia đình, bạn bè nên việc kết nối với mọi người thông

qua MXH trở nên dễ dàng hơn. Không được gặp gỡ trực tiếp nhưng sinh viên vẫn

nghe được giọng nói, thấy hình ảnh và trao đổi thông tin, chia sẻ mọi chuyện một

cách thường xuyên. Các trang mạng như facebook, zalo... cho phép thành lập các hội

nhóm như: hội bạn học cùng lớp; hội cùng đam mê sở thích; hội kinh doanh online.

Với sự dịch chuyển của thế giới đi đến khái niệm “thế giới phẳng”, thì việc

thể hiện tốt bản thân mình trên Internet là một điều rất quan trọng. Với tính năng

kết nối cao, lượt người theo dõi nhiều thì facebook, zalo, youtube … là những

phương tiện hỗ trợ đắc lực cho xây dựng hình ảnh của bản thân. Việc xuất hiện và

tồn tại được trong môi trường internet cũng là một xu hướng tất yếu, được nhiều

người thành công sử dụng như một bước đệm cho cuộc sống và tương lai.

Đầu tiên, chúng ta phải xác định thế giới Internet là thế giới thứ hai, tồn tại

song song với xã hội thực tế. Trong đó, mỗi cá nhân được phép bộc lộ những cá

tính, năng lực, quan điểm… giống hệt như thực tế bên ngoài. Không ít người trở

nên nổi tiếng trên các trang mạng tìm kiếm, tuy nhiên cũng không ít “nạn nhân” bị

phiền nhiễu vì những thông tin cá nhân không chọn lọc. Điều này đòi hỏi những

kiến thức nhất định về internet, cũng như quyết định chia sẻ những giá trị nào trong

môi trường này, đó là những giá trị thật hay giá trị ảo… Chính vì internet là một

môi trường rất khó để kiểm định độ chính xác của thông tin, nên chúng ta phải định

hướng và bảo vệ mình. Thể hiện bản thân mình một cách thông minh trên Internet

cũng là một kỹ năng quan trọng giúp sinh viên có thể tạo sự ảnh hưởng tích cực

nhất định trên MXH hiện nay.

MXH đã trở nên gần gũi và phổ biến, thậm chí đã trở thành một phần tất yếu

trong cuộc sống hiện đại của giới trẻ. MXH giúp sinh viên trong việc xả stress sau

những giờ học, làm thêm căng thẳng, là nơi để giới trẻ có thể nghe nhạc, xem phim

hay chơi game, kết nối, chia sẻ với bạn bè. Cuộc sống trở nên thực sự đầy màu sắc

một phần là nhờ MXH. Như vậy, gần như tất cả mọi thứ đều có trên MXH, nào là

26

nghe nhạc miễn phí, xem phim online, chơi trò chơi điện tử trực tuyến, quá nhiều thứ

để giải trí đang luôn sẵn sàng chờ bạn đăng ký làm thành viên và tham gia chơi trong

mạng lưới rộng thậm chí trên toàn quốc hay toàn thế giới tùy thuộc vào mục giải trí mà

sinh viên lựa chọn.

Ngày nay, MXH đang trở thành chân trời tìm việc làm vô cùng hot. Nhà tuyển

dụng không chỉ nhìn đơn xin việc mà còn sẽ xem xét và đánh giá sinh viên qua các

MXH mà sinh viên tham gia. Vì vậy, để tăng cơ hội được tuyển chọn của nhà tuyển

dụng, sinh viên cần đảm bảo rằng các trang MXH mà mình sử dụng mang tính

nghiêm túc, tích cực. MXH có thể biến ước mơ mở một cửa hàng nhỏ hay một kênh

bán hàng đã không còn quá xa vời nhờ vào tốc độ truyền hình ảnh và thông tin qua

Twitter, Zalo, Viber hay Facebook. Sinh viên chỉ cần tạo một trang miễn phí, mời gia

đình, bạn bè tham gia và ghé thăm online là đã có thể thường xuyên cập nhật và

quảng cáo các sản phẩm của mình và chăm sóc khách hàng qua mạng.

MXH đang trở nên vô cùng phổ biến với nhiều ứng dụng, nội dung vô cùng

phong phú và đa dạng cho nên chỉ cần có một chiếc điện thoại thông minh, hay một

cái máy laptop để truy cập là có thể ngồi hàng giờ, hàng ngày để truy cập. Sinh

viên ngoài việc học tập có những bạn tìm việc làm thêm, có bạn kinh doanh online,

tuy nhiên, có những bạn lại có rất nhiều thời gian rảnh nhưng không biết làm gì chỉ

biết vào MXH để giết thời gian. Điều đó đã làm cho một bộ phận sinh viên quá lạm

dụng MXH và nó mang lại những tác hại không mong muốn đối với sức khỏe và

các hoạt động khác. Nguy cơ nghiện MXH là một trong những hệ lụy của việc sử

dụng MXH quá nhiều để giết thời gian, nó có thể tạo ra cảm giác cô lập, nguy cơ

trầm cảm, xao nhãng mục tiêu cá nhân, giết chết sự sáng tạo, giảm tương tác giữa

người với người.

1.3.3. Thời gian, phương tiện sử dụng mạng xã hội của sinh viên

1.3.3.1. Thời gian sử dụng mạng xã hội của sinh viên

Theo thống kê của Vnetwork, tần suất người dùng internet tại Việt Nam

2019: người dùng Việt Nam dành trung bình tới 6 giờ 42 phút mỗi ngày để tham

gia các hoạt động liên quan tới mạng Internet. Báo cáo cũng đề cập thêm, người

dùng Việt Nam dùng trung bình 2 giờ 32 phút để dùng mạng xã hội, 2 giờ 31 phút

để xem các stream hoặc các video trực tuyến và dùng 1 giờ 11 phút để nghe nhạc.

27

94% là tỷ lệ người dùng Internet ở Việt Nam sử dụng Internet hàng ngày. Và 6% là

số người sử dụng Internet ít nhất một lần trong tuần [37]. Nhìn vào số liệu thống kê

ta có thể thấy, người dùng Internet ở Việt Nam không tách rời các hoạt động liên

quan đến Internet quá một tuần.

Theo nghiên cứu của Trần Thị Minh Đức – Bùi Hồng Thái thì tỉ lệ sinh viên

thường sử dụng mạng xã hội từ 1 giờ đến dưới 3 giờ/ ngày là cao nhất (chiếm

43,5%) và từ 3 giờ đến dưới 5 giờ/ ngày (chiếm 31,5%). Đáng lưu ý là có 7,2%

sinh viên bỏ ra 8 giờ/ ngày để truy cập mạng xạ hội [8]. Lượng thời gian này là

đáng báo động về một trong những dấu hiệu của nghiện mạng xã hội trong sinh

viên. Khi các nhu cầu của sinh viên không được đáp ứng một cách toàn diện thì việc

ngồi nhiều thời gian trên MXH để học tập, tán gẫu, giải trí, tìm cảm giác mạnh thông

qua các trò chơi điện tử là điều dễ hiểu.

1.3.3.2. Phương tiện sử dụng mạng xã hội của sinh viên

Thống kê của Vnetwork, trong số 64 triệu người dùng internet tại Việt Nam,

thì số lượng người dùng truy cập bằng thiết bị di động là 61.73 triệu người (chiếm

96% số người sử dụng internet). Trong số 143.3 triệu số thuê bao được đăng ký thì

có tới 45% đã đăng ký 3G&4G. Theo thống kê năm 2019, có tới hơn 2.7 tỷ lượt tải

về các ứng dụng trên điện thoại và số tiền người tiêu dùng chi ra cho những ứng

dụng này là 161.6 triệu $, trung bình một ngày mỗi người chạm vào điện thoại hơn

150 lần, và chỉ từ năm 2018 đến 2019, số lượng người dùng mạng xã hội trên thiết bị

di động đã tăng đến 16% [37]. Đối với sinh viên sử dụng smartphone truy cập vào

MXH gần như tuyệt đối. Bởi lẽ smartphone là thiết bị gọn nhẹ, phù hợp với túi tiền

của sinh viên và có thể sử dụng mọi lúc, mọi nơi chỉ cần có 3G, 4G hoặc có wifi.

Sinh viên lựa chọn laptop để truy cập MXH đứng vị trí thứ hai, bởi lẽ hầu hết

mỗi sinh viên đều trang bị cho mình 1 chiếc laptop ngoài việc phục vụ học tập hàng

ngày, tìm kiếm thông tin, tài liệu, giải trí và kinh doanh...

Máy tính bảng cũng là một trong số thiết bị được sinh viên sử dụng nhiều để

truy cập MXH, nó chiếm khoảng 13%, tuy nhiên, lượt truy cập máy tính bảng tiếp

tục giảm mạnh cho thấy dấu hiệu của sự tăng trưởng mạnh mẽ trong việc sử dụng

điện thoại thông minh thay vì sử dụng máy tính bảng.

1.3.4. Một số hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên

28

Hành vi sử dụng MXH là hành vi thể hiện ý chí của cá nhân trong việc bộc

lộ giá trị của bản thân, là hành những động được xã hội đánh giá, nó phản ánh văn

hóa của cộng đồng, mức độ hiểu biết và trình độ hiểu biết của chính cá nhân đó.

Hành vi sử dụng MXH là một hành vi có ý thức, do đó để hình thành hành vi sử

dụng MXH việc xem xét cấu trúc hành vi ý thức là điều cần thiết dựa trên các đặc

điểm tâm lý, mối liên hệ giữa ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi. Thông thường

các hành vi ý chí gắn liền với quá trình tư duy vì điều quan trọng nhất trong các

hành vi là phải nhận thức được vấn đề mà mình quan tâm thông qua các hành động

cụ thể. Con người khi sử dụng một hành vi nào đó nếu không có tư duy sẽ không có

được những hành vi có ý chí tự giác thật sự. Ở một khía cạnh khác thì việc truyền

thụ kiến thức từ xã hội đến cá nhân không chỉ đơn giản là sự nhồi nhét những kiến

thức vào đầu của con người mà việc tiếp thu kiến thức chính là khả năng chiếm lĩnh

được những phương thức hành động mang tính lịch sử xã hội. Như vậy hành động

của con người là hành động đã được nhận thức từ trước.

Hành vi sử dụng MXH của sinh viên được biểu hiện thông qua các hành vi

cụ thể nó phản ánh nhận thức, thái độ cũng như động cơ ý chí của sinh viên. Trong

giới hạn của đề tài chỉ nghiên cứu những hành vi biểu hiện ra bên ngoài thông qua

các hành động cụ thể trong những hoàn cảnh khác nhau. Hành vi sử dụng MXH

của sinh viên là những hành vi được biểu hiện qua các hành động bên ngoài như

nội dung đăng tải, chia sẻ, like, comment trên không gian mạng. Thông qua những

hành vi để có ứng xử phù hợp với chuẩn mực mà bộ thông tin đã quy định đối đối

với người sử dụng MXH để có những ứng xử phù hợp giữa sinh viên với chính bản

thân mình và giữa sinh viên với người khác, với những người xung quanh. Với

cách đặt vấn đề như trên, khái niệm được xác định rõ: Hành vi sử dụng MXH của

sinh viên là cách ứng xử của con người với những phương tiện nhằm đạt được mục

đích của chủ thể và con người và hành vi này phải được thể hiện qua bên ngoài của

cá nhân. Như chúng ta biết hành vi là một quá trình lâu dài và quá trình này chịu

ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhất đinh, trong đó có các yếu tố chủ quan (bên trong

chủ thể: nhận thức, thái độ, đặc điểm tâm lý - xã hội cá nhân,…) và yếu tố khách

quan (bên ngoài chủ thể: môi trường, điều kiện sinh hoạt, hoàn cảnh xã hội,…).

Như vậy hành vi sử dụng MXH của sinh viên bao gồm hành vi đăng tải, chia sẻ,

29

like, comment trên không gian mạng. Hành vi sử dụng MXH của sinh viên cũng

chịu tác động của các yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan.

1.3.5. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân của SV trên không gian mạng

Việt Nam là một trong nhữngquốc gia có số lượng người dùng bị ảnh hưởng

nhiều nhất từ vụ bê bối lộ thông tin trên Facebook - đây là cảnh báo đáng lo ngại

đối với những người có thói quen dùng mạng xã hội thiếu an toàn. Chính vì thế, có

rất nhiều tài liệu, nhiều nghiên cứu hướng dẫn cách thức bảo mật thông tin cá nhân

trên không gian mạng nhằm nâng cao cảnh giác cho người dùng nói chung và sinh

viên nói riêng. Trên cơ sở tổng hợp và kế thừa kết quả từ nghiên cứu của GS.TS

Trần Thị Minh Đức trong bài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên Việt Nam” đăng

trên tạp chí Khoa học Giáo dục [8], nhóm tác giả có sự phân tích, đánh giá các cách

thức bảo mật thông tin cá nhân của sinh viên trên không gian mạng như sau,

Thứ nhất, cảnh giác với những tin nhắn, đường link lạ trên không gian mạng.

Hiện nay, hình thức lừa đảo ngày càng tinh vi nhằm đánh cắp thông tin cá nhân,

thông tin tài khoản ngân hàng, chiếm đoạt tiền trong tài khoản của người dùng ngày

càng nhiều. Mục đích của đối tượng lừa đảo là thông qua các website này để lấy

cắp thông tin sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, từ đó chiếm đoạt tiền trong tài

khoản ngân hàng của khách hàng. Chiêu thức thường dùng của những đối tượng

này là gửi những tin nhắn đề nghị giúp đỡ về một vấn đề nào đó hoặc yêu cầu truy

cập vào đường link (giả mạo) như bình chọn (like) cho một người bạn trong cuộc

thi hay một fanpege cụ thể. Để tiến hành bình chọn kẻ xấu sẽ yêu cầu sinh viên

cung cấp các thông tin về: tên truy cập, mật khẩu truy cập, mã OTP, thông tin thẻ

hoặc các thông tin cá nhân khác để xác nhận. Ngoài ra, đối tượng lừa đảo có thể sử

dụng các chiêu thức lừa đảo trên để yêu cầu sinh viên cài đặt ứng dụng hay mở file

có chứa virus... sinh viên cần cảnh giác, không nhắn tin phản hồi hoặc làm theo

hướng dẫn đối với các tin nhắn không rõ nguồn gốc, có nội dung quảng cáo, mời

chào hoặc mạo danh các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Tội phạm gửi tin nhắn văn

bản hoặc tin nhắn đa phương tiện có chứa đường link liên kết đến trang website giả

mạo có tên địa chỉ truy cập và hình thức gần giống với website chính thức của các

ngân hàng, tổ chức tài chính, trung gian thanh toán... và yêu cầu sinh viên thực hiện

cung cấp thông tin trên website giả mạo, từ đó tội phạm đánh cắp thông tin này để

30

thực hiện các giao dịch chiếm đoạt tài sản. Bởi vậy, sinh viên phải nâng cao cảnh

giác với các tin nhắn, đường link lạ được đăng tải hoặc gửi trực tiếp vào ứng dụng

của mình. Hãy cân nhắc kỹ trước khi quyết định nhấp chuột vào những tin nhắn,

đường link mà mình nhận được.

Thứ hai, hạn chế cập nhật thông tin cá nhân trên mạng xã hội. Đặc biệt,

những lộ trình hay kế hoạch cá nhân như đi du lịch, địa chỉ trường học, câu lạc

bộ…nên hạn chế cập nhật bởi chính những thông tin này là tư liệu cho kẻ xấu theo

dõi và thực hiện các ý đồ không tốt đối với sinh viên. Bởi vậy, khi sử dụng MXH,

việc cung cấp hình ảnh, clip, lộ trình di chuyển, các hoạt động cá nhân… đã vẽ nên

chân dung của SV càng rõ ràng hơn. Điều này tạo thuận lợi cho những kẻ xấu có

những hành vi không tốt như đánh cắp tài khoản, dữ liệu, hình ảnh, thậm chí theo

dõi sinh viên ngoài đời thực với mục đích xấu mà sinh viên không hề hay biết.

Chưa kể, do thói quen tương tác như nhấn like, bình luận hay sở thích đăng ảnh,

check in… mà sinh viên vô tình để lại các thông tin khá chi tiết về hoạt động của

mình mỗi ngày. Tương tự, sinh viên có thể điền thông tin trên các trang web mua

bán, các cửa hàng nhỏ lẻ, để mong nhận được khuyến mãi. Đó chính là những nơi

mà thông tin bị thu thập mà người khác có thể dùng vào mục đích thiếu lành mạnh,

ảnh hưởng đến quyền riêng tư của của sinh viên. Vì vậy, bản thân sinh viên phải

nhận thức được việc giữ bí mật thông tin cá nhân và hạn chế đăng những thông tin

nhạy cảm để tự bảo vệ mình trên không gian mạng cũng như ngoài đời thực.

Thứ 3, nâng cấp độ khó của mật khẩu và không chia sẻ mật khẩu với bất kỳ

ai. Đây là một trong những cách thức đơn giản nhưng hiệu quả nhưng không phải

sinh viên nào cũng nhận thức được hết tầm quan trọng của nó. Mọi thiết bị cần phải

được bảo vệ bằng mật khẩu, từ điện thoại di động đến máy tính xách tay cá nhân.

Điều này cũng được sử dụng với các tài khoản trực tuyến bao gồm email, mạng xã

hội và ngân hàng trực tuyến. Để tăng tính bảo mật cho tài khoản trên không gian

mạng, sinh viên nên sử dụng mật khẩu có độ bảo mật mạnh bằng cách kết hợp các

ký tự ngẫu nhiên, số và ký hiệu đặc biệt. Tuyệt đối không nên đặt mật khẩu có liên

quan đến thông tin cá nhân như ngày tháng năm sinh, số nhà… Cũng không nên sử

dụng cùng một mật khẩu cho hai hoặc nhiều tài khoản. Ngoài ra, sinh viên không

nên chia sẻ mật khẩu với bất kỳ ai, kể cả là những người thân thiết. Trong trường

31

hợp cần thiết phải chia sẻ mật khẩu tại thời điểm nào đó, sinh viên phải thay đổi

mật khẩu ngay lập tức. Tránh những rủi ro có thể xảy ra.

Thứ 4, cảnh giác và khoanh vùng nhóm bạn trên các forum. Có rất nhiều

người tham gia, tạo tài khoản trên MXH trong đó có các nhóm bạn, nhóm học tập,

nhóm cùng sở thích, nhóm mua bán hàng online hay các forum khác nhau…tuy

nhiên chúng ta không chắc chắn về những thông tin cá nhân của họ. Để tránh việc

những thông tin cá nhân bị lộ lọt vào tay đối tượng xấu sinh viên cần nâng cao cảnh

giác, không nên kết bạn với người lạ hay tham gia vào các nhóm, các forum trên

MXH mà có nhiều thành viên không quen biết. Không trả lời tin nhắn từ người lạ

có dấu hiệu đáng ngờ gửi đến trên facebook, zalo... Cần rà soát các nhóm, groups

đã tham gia và rời nhóm không cần thiết. Hạn chế tham gia các trò chơi trên MXH

có yêu cầu xác thực hay kiểm tra thông tin cá nhân nhiều lần.

Thứ 5, hạn chế liên kết với các tài khoản khác và kiểm tra https. Khi sinh

viên tham gia trình duyệt, hãy đảm bảo rằng trang web bắt đầu bằng https. Https có

nghĩa là trang web đang cung cấp kết nối được mã hóa cho người dùng cuối. Vì

vậy, dữ liệu ai đó chia sẻ với trang web này chỉ hiển thị với những người có quyền

truy cập được phép đọc. Ngoài ra, cũng có thể tải tiện ích bổ sung cho trình duyệt

giúp mã hóa trình duyệt web của cá nhân. Tuyệt đối không click, nhấp vào đường

dẫn lạ có nguy cơ ăn cắp mã độc.

Thứ 6, thường xuyên thay đổi mật khẩu, bật tính năng xác thực hai yếu tố.

Khi thay đổi mật khẩu, một số mã thông báo sẽ bị vô hiệu hóa ngay lập tức, yêu cầu

đăng nhập lại và phê duyệt lại mã thông báo gmail và facebook sẽ vô hiệu hóa các

mã thông báo khi sinh viên thay đổi mật khẩu của mình. Tính năng xác thực hai

bước hiện rất phổ biến và được sử dụng rộng rãi ở cả các dịch vụ của các hãng công

nghệ lớn. Đây được xem là một phương pháp hiệu quả để bảo vệ tài khoản của người

dùng nói chung và sinh viên nói riêng.Việc sử dụng xác thực hai yếu tố cho phép các

cá nhân bảo vệ mật khẩu của mình lên cấp độ cao hơn. Sinh viên cần lưu ý thường

xuyên thay đổi mật khẩu và bật các tính năng xác thức hai yếu tố để đảm bảo các

thông tin cá nhân trên không gian mạng của mình được an toàn.

Thứ 7, hạn chế truy cập và cảnh giác cao với wifi miễn phí. Việc sử dụng kết

nối wifi công cộng tại các sân bay, nhà ga, trạm xe bus và quán cà phê có vẻ hấp

32

dẫn và tiện lợi. Đặc biệt sinh viên là đối tượng thường xuyên đến các điểm công

cộng như khu mua sắm, café, trạm xe bus…việc kết nối wifi công cộng như là thói

quen và nhu cầu của sinh viên.Tuy nhiên, những kết nối này không an toàn, vì hacker

dễ dàng chiếm đoạt thông tin cá nhân qua wifi miễn phí. Nếu phải sử dụng wifi công

cộng, sinh viên nên tránh trao đổi những công việc riêng tư hay thực hiện các giao

dịch tài chính khi đang sử dụng wifi công cộng. Sau khi kết nối wifi công cộng, sinh

viên nên nhanh chóng thay đổi mật khẩu để hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra.

Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các trang MXH với sự tham gia

ngày càng gia tăng số lượng người dùng nói chung và sinh viên nói riêng. Đây

cũng chính là mảnh đất “màu mỡ” cho những hacker trên không gian mạng với các

thủ đoạn ngày càng tinh vi đã đặt ra các yêu cầu cấp thiết về nâng cấp các cách

thức bảo mật thông tin cá nhân trên MXH. Đến nay, cách thức bảo mật thông tin

nhanh chóng, hiệu quả đã được các nhà mạng cập nhật, nâng cấp, hướng dẫn cho

người dùng nhằm bảo vệ an toàn thông tin trên không gian mạng. Với những cách

thức bảo mật này SV cài đặt, sử dụng sẽ nâng cao tính bảo mật thông tin cá nhân,

hạn chế tối đa những rủi ro khi sử dụng MXH.

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng mạng xã hội của sinh viên

1.4.1. Yếu tố chủ quan

Yếu tố chủ quan đầu tiên là thái độ của sinh viên khi sử dụng MXH. Có thể

xem xét thái độ là một thuộc tính trọn vẹn của ý thức, thái độ cũng thể hiện ra biểu

hiện bên ngoài thông qua các hành động của con người đối với đối tượng theo một

hướng nhất định như thông qua các hành vi, cử chỉ, nét mặt cũng như cách thức

ứng xử và lời nói của người đó trong những tình huống, điều kiện cụ thể. Có rất

nhiều quan điểm khác nhau nhưng đa phần các nhà nghiên cứu đều cho rằng thái độ

là môi trường để cá nhân hình thành hành vi. Điều này thể hiện việc con người sẽ

lựa chọn cách thức hành động như thế nào trước. Thái độ là những đánh giá tốt,

xấu, đồng tình hoặc không đồng tình là những xu hướng mang tình nhất quán của

cá nhân thể hiện bằng việc ủng hộ hay không ủng hộ về một vấ đề nào đó. Thái độ

của sinh viên khi sử dụng MXH là những đánh giá về ý thức của họ khi sử dụng

các trang MXH. Như vậy cần hiểu rằng để hình thành được ý thức khi sử dụng

MXH của người dùng nói chung và sinh viên nói riêng cần làm cho họ nhận thức

33

được MXH là gì, vai trò của MXH từ đó để có những hành vi cụ thể, những hành vi

được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ trở thành hành vi ý thức.

Yếu tố chủ quan thứ 2 là động cơ của sinh viên khi sử dụng MXH. Khi nói

đến động cơ là động lực thúc đẩy con người hành động giúp con người thỏa mãn các

nhu cầu về cả tinh thần lẫn vật chất. Có nhiều quan niệm về động cơ nhưng có thể

hiểu động cơ là tổng hợp các yếu tố thúc đẩy con người hành động như: mong muốn,

tình cảm, niềm tin, khát vọng tư duy và thói quen... Động cơ là sức mạnh thúc đẩy

hành động. Để đánh giá được khách quan bản chất hành vi của mỗi người cần xem

xét động cơ xuất phát bên trong của họ là rất quan trọng, nó là tiền đề để đánh giá

hành vi của họ. Vì vậy mà trong thực tế, có rất nhiều người có hành vi tương tự

giống nhau nhưng với động cơ khác nhau, thì mỗi người lại có cách thức hành động

khác nhau và rõ ràng là kết quả sẽ khác nhau Từ những phân tích trên cho thấy khi

sử dụng MXH, yếu tố bên trong là động cơ thúc đẩy sinh viên quyết định cách thức

sử dụng MXH như thế nào cho phù hợp với yêu cầu chuẩn mực của xã hội.

Yếu tố chủ quan thứ 3 chính là đặc điểm tâm lý lứa tuổi ảnh hưởng đến sử

dụng MXH của sinh viên. Sinh viên là những người trẻ tuổi với lòng nhiệt huyết

cao, họ luôn có nhu cầu được chinh phục cái mới thông qua MXH, sinh viên có thể

trao đổi những tư tưởng tình cảm cũng như công việc học tập của bản thân. Vì vậy

MXH thực sự là công cụ không thể thiếu đối với giới trẻ đặc biệt là sinh viên. Sinh

viên với lứa tuổi còn rất trẻ, khi rời khỏi trường ghế nhà trường phổ thông, việc lựa

chọn cho mình ngôi trường phù hợp để học tập và theo đuổi ngành nghề mà mình yêu

thích, đây là bước ngoặt lớn và có những thay đổi nhất định. Việc tìm kiếm bạn bè

trong môi trường mới bước đầu gặp khó khăn vì phải đi làm quen, trò chuyện, giao

lưu, nhưng với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay thì việc này vô cùng

đơn giản chỉ với hành động “like” hay một click chuột, thì bạn đã kết nối với cả thế

giới thay bất kể về không gian hay thời gian thay vì việc phải đi gặp mặt trực tiếp.

1.4.2. Yếu tố khách quan

Mỗi sinh viên là thành viên của cộng đồng, tùy thuộc vào đặc điểm tính

cách của từng sinh viên, cá nhân sẽ bị tác động đến việc thể hiện hành vi khác

nhau. Sinh viên trường ĐHNVHN đa số đến từ các vùng miền khác nhau sau khi

nhập học cùng sống trong một môi trường như cùng kí túc xá, xóm trọ, những sở

34

thích, nhu cầu khác nhau. Tuy nhiên, khi cùng tham gia vào môi trường chung SV

có những những mong muốn tìm đến nhau để được cùng chia sẻ sở thích, cùng giúp

nhau những lúc khó khăn trong học tập và cuộc sống. Vì vậy, MXH được xem là

một nơi có tính cộng đồng cao có thể giúp sinh viên kết nối được những điều này.

Là tầng lớp tri thức của xã hội, với sự tìm tòinhạy bén SV đã tự tìm ra những trang

MXH hay và bổ ích không chỉ phục vụ cho nhu cầu học tập mà còn giúp bản thân

giải trí sau những giờ học tập căng thẳng. Trong quá trình sử dụng sinh viên trao đổi

kinh nghiệm của bản thân từ đó giới thiệu cho bạn bè những trang MXH có lợi với

tính năng sử dụng dễ và thân thiện với mọi người dùng đặc biệt là các bạn trẻ.

Như chúng ta biết nhu cầu của con người được hình thành theo cơ chế từ

thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp. Khi nhu cầu thấp đạt được sẽ hướng đến

một nhu cầu cao hơn. Trong hành vi cũng vậy cũng theo cơ chế đó chỉ khi đạt được

những hành vi đơn giản con người mong muốn chinh phục những hành vi phức tạp.

Việc sử dụng một cách lâu dài sẽ tạo thành các thói quen, điều này có ý nghĩa hết

sức quan trọng để hình thành hành vi có ý thức. Việc hình hành các thói quen sẽ

được thực hiện tương đối dễ dàng khi có những điều kiện sinh hoạt phù hợp. Hơn

nữa sinh viên đa phần sống xa gia đình không có sự quản lý chặt chẽ của gia đình,

thời gian nhiều không biết làm gì? nên họ truy cập mạng MXH thường xuyên. Đây

được coi là niềm vui để các bạn giải trí sau những giờ học căng thẳng.

Việc hình thành và tạo thói quen là một quá trình và sẽ được thực hiện tương

đối nhanh khi có phương tiện vật chất đáp ứng yêu cầu của bản thân. Xã hội phát

triển không ngừng đặc biệt khi công nghệ phát triển mạnh như hiện nay thì đời

sống của sinh viên cũng được nâng cao, sinh viên đa phần đều có máy tính và điện

thoại công nghệ cao kết nối internet tạo là môi trường thuận lợi để SV truy cập

MXH một cách nhanh chóng và dễ dàng. Như vậy trong các yếu tố chủ quan và

khách quan ảnh hưởng đến hành vi sử dụng MXH của sinh viên, yếu tố khách quan

như môi trường sống, phương tiện kỹ thuật là điều kiện quan trọng trong viêc hình

thành hành vi sử dụng MXH. Đây được xem là yếu tố khó kiểm soát trong điều

kiện hiện nay. Yếu tố chủ quan: nhận thức, thái độ có mối quan hệ gắn bó tác động

qua lại với nhau tạo nên đặc điểm tính cách riêng của mỗi cá nhân. Đây là những

yếu tố bên trong khó tác động, muốn thay đổi cần có thời gian thay đổi nhận thức

35

cũng như thái độ của họ.

Tiểu kết chương 1

Tóm lại, trong chương 1 nhóm tác giả đã khái quát các nội dung về mạng xã

hội và sử dụng MXH của sinh viên. Nhóm nghiên cứu trên cơ sở kế thừa các nghiên

cứu đi trước đã khái quát và đưa ra một số khái niệm cơ bản như: khái niệm mạng xã

hội, khái niệm sinh viên và sử dụng mạng xã hội của sinh viên; đặc điểm, vai trò vá

tác động của mạng xã hội. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đề cập đến vấn đề sử

dụng mạng xã hội của sinh viên với các khía cạnh như: nhu cầu sử dụng, mục đích

sử dụng, thời gian, phương tiện sử dụng MXH cũng như một số hành vi sử dụng

MXH cơ bản của sinh viên. Nhóm nghiên cứu đã khái quát những yếu tố chủ quan

và khách quan ảnh hưởng đến sử dụng mạng xã hội của sinh viên cũng như cách

36

thức bảo mật thông tin cá nhân trên không gian mạng.

Chương 2.

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

2.1. Phân tích thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại

học Nội vụ Hà Nội

Để tiến hành phân tích thực trạng vấn đề sử dụng MXH của sinh viên, nhóm

nghiên cứu đã đưa ra câu hỏi: Bạn có sử dụng MXH không? Kết quả cho thấy

100% sinh viên lựa chọn “có” sử dụng MXH, điều này cho thấy MXH đã rất phổ

biến với sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, chính sự phong phú, đa dạng,

tiện ích của các trang MXH đã mở ra cơ hội cho sinh viên tiếp cập và sử dụng ngày

càng dễ dàng hơn, chính vì thế kết quả khảo sát 100% sinh viên sử dụng MXH là

điều dễ hiểu.

Chúng tôi tiến hành phân tích thực trạng sử dụng MXH của sinh viên trên

các khía cạnh: Nhu cầu sử dụng, mức độ sử dụng, mục đích sử dụng, hành vi sử

dụng MXH, cách thức bảo mật thông tin cá nhân trên không gian mạng, những lợi

ích và tác động khi sử dụng MXH của sinh viên trong giai đoạn hiện nay.

Biểu đồ 1. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên

2.1.1. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên

MXH xuất hiện mở ra cho sinh viên những cơ hội được tiếp cận, sử dụng

những tiện ích đa dạng. Đặc biệt, đa số MXH đều cho người dùng sử dụng miễn

có thể tham gia rất nhiều mạng và mỗi trang mạng lại có thêm nhiều tài khoản truy

cập khác nhau. Sở dĩ MXH được sử dụng ngày càng nhiều bởi nó đáp ứng rất tốt

nhu cầu của người dùng, trong đó có sinh viên nói chung và sinh viên ĐHNVHN

37

phí đã thúc đẩy cư dân mạng sử dụng MXH ngày càng nhiều. Thậm chí, một người

nói riêng. Kết quả từ biểu đồ 1 cho thấy, có 33% sinh viên có nhu cầu tương tác

trên MXHxếp vị trí số 1; 23,5% sinh viên có nhu cầu giải trí và 21,6% sinh viên có

nhu cầu học tập. Đây là 3 nhu cầu được sinh viên lựa chọn nhiều nhất, cũng chính

là những tính năng ưu việt mà MXH mang đến cho người dùng. Tương tác và giải

trí trên MXH là một trong những xu thế khi sử dụng MXH, với kết nối nhanh

chóng, thông tin cập nhật, nội dung phong phú đã thu hút sinh viên tham gia MXH

ngày càng đông. 33% SV có nhu cầu tương tác với bạn bè, người thân, trò chuyện

cho thấy MXH đã lôi cuốn người dùng bởi những tiện ích như gọi điện miễn phí,

chát massege, lập các hội nhóm, các forum ngày càng phong phú cả về số lượng và

chất lượng...trong đó có những trang MXH đáp ứng tốt nhu cầu này của sinh viên

như facebook, zalo, youtube....Ngoài ra, với nguồn thông tin khổng lồ và tính cập

nhật liên tục, MXH là kênh tư liệu để sinh viên sử dụng đáp ứng nhu cầu học tập

ngày càng gia tăng.

Bên cạnh đó, các nhu cầu có tỉ lệ lựa chọn thấp như nhu cầu như nhu cầu

chia sẻ (chiếm 8%); nhu cầu kinh doanh (chiếm 4,2%); nhu cầu tìm kiếm việc làm

thêm (chiếm 4.3%) thậm chí tỉ lệ sinh viên có nhu cầu rất thấp như nhu cầu thể hiện

bản thân chỉ chiếm 1,7%. Các nhu cầu khác chiếm tỉ lệ rất thấp. Sở dĩ những nhóm

nhu cầu này ở mức độ thấp cho thấy kinh doanh qua MXH chưa phải là mối bận

tâm của nhiều sinh viên. Cùng với đó, sinh viên được khảo sát đang là sinh viên

năm nhất, năm thứ 2, năm thứ 3 nên áp lực tìm kiếm công việc trên MXH chưa

phải ưu tiên khi sử dụng MXH. Ngoài ra, nhu cầu thể hiện bản thân của sinh viên

trên MXH rất thấp cho thấy sinh viên chưa nhận thấy vai trò của MXH trong việc

xây dựng, quảng bá hình ảnh, uy tín cá nhân của bản thân trong giai đoạn bùng nổ

công nghệ như hiện nay.

Như vậy, có thể nói nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên Trường ĐHNVHN

tương đối đơn giản, tập trung chủ yếu nhóm 3 nhu cầu như nhu cầu tương tác, nhu

cầu giải trí và nhu cầu học tập. Những nhu cầu còn lại chiếm tỉ lệ rất thấp. Ngược

lại với lựa chọn của sinh viên về nhu cầu sử dụng MXH của bản thân, GV, CVHT

có sự nhận định về nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên đa dạng hơn so với lựa

chọn của sinh viên. Cụ thể, có đến 68/70 GV, CVHT cho rằng nhu cầu sử dụng

MXH của sinh viên là để giải trí chiếm 97,1% và 59/70 ý kiến của GV, CVHT cho

38

rằng sinh viên sử dụng MXH vì có nhu cầu học tập chiếm vị trí thứ 2 với 84,3%. Vị

trí thứ 3 dành cho nhu cầu chia sẻ với 81,4% và đứng vị trí cuối cùng là nhu cầu

tìm kiếm việc làm chiếm 52,9%. Có một điều đáng lưu ý rằng sinh viên lựa chọn

nhu cầu tương tác có tỉ lệ cao nhất, đứng vị trí số 1 trong nhóm 7 nhu cầu được

khảo sát thì với GV, CVHT nhu cầu này chỉ đứng vị trí thứ 4 với 74,3% ý kiến GV,

CVHT lựa chọn. [PL bảng số liệu, câu 3]. Điều này cho thấy, GV, CVHT chưa nắm

bắt được chính xác nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên. Vẫn biết rằng, để hiểu

được nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên là điều không dễ dàng, GV, CVHT cần

có nhiều thời gian quan sát, lắng nghe, chia sẻ để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của

sinh viên để từ đó có những tác động, những định hướng phù hợp cho vấn đề sử

dụng MXH của sinh viên lớp mình phụ trách, hướng cho sinh viên đạt đến những

nhu cầu sử dụng tích cực, phục vụ hoạt động học tập và rèn luyện trong nhà trường.

Như vậy, dù nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên còn khá đơn giản nhưng

theo quan sát của nhóm nghiên cứu, mức độ sử dụng MXH của sinh viên là rất

thường xuyên và thời gian dành cho MXH mỗi ngày cũng không hề nhỏ. Để tìm

hiểu rõ hơn về thực trạng này, chúng tôi tiến hành khảo sát mức độ sử dụng MXH

của sinh viên thông qua các trang MXH, thời gian sử dụng, phương tiện truy cập

MXH mỗi ngày của sinh viên.

Bảng 2.1. Mức độ sử dụng các trang mạng xã hội của sinh viên

2.1.2. Mức độ sử dụng mạng xã hội của sinh viên

Mức độ sử dụng

Mạng xã hội

Thường

Thỉnh thoảng

Hiếm khi

Chưa bao giờ ĐTB

xuyên

%

N

%

N

N

%

N

%

0

0

0

0

93

Facebook

16.2

3.94

497

86.4

0

3.54

15

2.6

0

232

Youtube

40.3

327

56.9

0.9

2.95

134

23.3

5

115

20.0

Zalo

321

55.8

13.7

2.83

131

22.8

79

191

33.2

174

Instagram

30.3

81.0

1.25

79

13.7

466

7

1.2

23

Viber

4.0

72.0

1.42

97

16.9

414

16

2.8

48

Twitter

8.3

43.3

1.94

28.7

249

53

9.2

Zing me

108

18.8

165

43

7.5

0

0

6

Myspace

1.0

91.0

1.09

523

0

0.00

0

0

0

0

0

0

Mạng khác

0

39

Kết quả từ bảng 2.1 cho thấy, mức độ sử dụng các trang MXH của sinh viên

rất khác nhau. Facebook là trang MXH được sinh viên sử dụng nhiều nhất (ĐTB =

3,94), đứng thứ 2 là Youtube (ĐTB = 3.54), đứng thứ 3 là Zalo (ĐTB = 2.93), đứng

thứ 4 là Instagram (ĐTB = 2.83), các trang mạng ít được sử dụng hơn như Zing me

(ĐTB = 1.94), Twitter (ĐTB = 1.42), Viber (ĐTB = 1.25) và mạng ít sử dụng nhất

là Myspace (ĐTB = 1.09)

Trong nhóm các trang MXH nhóm nghiên cứu đã khảo sát, Facebook là trang

mạng được sinh viên sử dụng nhiều nhất (ĐTB = 3,94), 497 ý kiến (chiếm 86.4%)

sinh viên thường xuyên và 93 ý kiến (chiếm 16.2%) sinh viên thỉnh thoảng sử dụng.

Không có sinh viên nào không sử dụng facebook. Sở dĩ đa số sinh viên lựa chọn sử

dụng facbook vì tiện ích mà facebook mang lại cho người dùng là rất lớn. Facebook

không ngừng nâng cấp, hoàn thiện các tính năng hiện đại, nhanh chóng và đa dạng,

đáp ứng cao nhất nhu cầu của người dùng như: Tạo cuộc khảo sát ngay trên tường cá

nhân; sử dụng hình ảnh Panorama 360 độ làm ảnh bìa; xem thông tin các cuộc khủng

hoảng, tai nạn, thiên tai; chơi game giải trí không cần tải app và tạo ảnh cực chất với

các hiệu ứng sẵn có...chính những tiện ích này là điểm mạnh giúp facebook luôn có tỉ

lệ người người sử dụng cao trên toàn thế giới và ở Việt Nam.

Ngoài ra, các forum trên không gian mạng nói chung và facebook nói riêng

được tạo lập ngày càng nhiều đã thu hút đông đảo thành viên là sinh viên tham dự

như các diễn đàn thanh niên, diễn đàn khởi nghiệp, diễn đàn sinh viên Nội vụ mở ra

cơ hội giao lưu, kết nối, tương tác của SV trên mọi miền đất nước...Thông qua các

fanpage của Đoàn trường, của các phòng khoa để SV được thể hiện bản thân cũng

như bày tỏ tâm tư nguyện vọng, những vướng mắc trong học tập và cuộc sống. Đây

cũng chính là một trong những lý do lý giải vì sao SV sử dụng MXH facebook

ngày càng nhiều.

Cùng với facebook, Youtube là trang mạng được sinh viên sử dụng nhiều thứ

2 (ĐTB = 3.54), cụ thể có 56,9% sinh viên sử dụng thường xuyên, 40,3% thỉnh

thoảng sử dụng và chỉ có 2,6% sinh viên hiếm khi sử dụng, không có sinh viên nào

không sử dụng mạng này. Có thể nói, Youtube nền tảng video phổ biến nhất hiện

nay, sự đơn giản của Youtube là một trong nhiều lý do khiến nó bùng nổ về mức độ

phổ biến trong những năm qua. Đặc biệt, theo số liệu thống kê của Google, Việt

40

Nam đứng trong top 5 các nước xem Youtube nhiều nhất trên thế giới, vượt trội hơn

cả các nước có công nghệ tiên tiến như Nhật, Hàn, Đài Loan [37]. Có thể nhận

thấy, điểm mạnh của Youtube chính là việc tạo nội dung dễ dàng, chia sẻ với một

lượng lớn khán giả, các nội dung được chia sẻ đa dạng như hướng dẫn làm đẹp,

đánh giá sản phẩm, kênh chơi trò chơi, phim, giải trí …đây cũng chính là lý do sinh

viên lựa chọn sử dụng trang mạng này với số lượng lớn. Ngoài ra, với sự năng

động, sáng tạo sinh viên nội vụ không chỉ thụ động sử dụng mạng youtube mà còn

tích cực xây dựng và chia sẻ các youtube nhằm phục vụ cho nhiệm vụ học tập hoặc

các sở thích cá nhân. Bạn Trần V. D sinh viên khóa 18 cho biết: “em đam mê âm

nhạc nên em lập trang youtube để thỏa mãn sở thích của mình. Những bài hát hay

đoạn nhạc của em trên youtube được các bạn, thầy cô theo dõi, chia sẻ, like em

cảm thấy rất vui. Điều đó giúp em có thêm động lực để học tập và theo đuổi ước

mơ”. Ngoài ra, các đoạn phim ngắn về nội dung học tập cũng được sinh viên chia

sẻ rộng rãi. Đó chính là lý do tại sao youtube là một trong những trang MXH được

đa số sinh viên Nội vụ thường xuyên sử dụng.

Cùng với facebook và youtube, trang MXH được sinh viên sử dụng nhiều

thứ 3 là Instagram, với 33,2% sinh viên sử dụng thường xuyên, 30,3% thỉnh thoảng

sử dụng và có 13,7% không sử dụng. Instagram là một phần mềm chia sẻ ảnh miễn

phí cho phép người dùng chụp ảnh trên điện thoại của mình, thêm các bộ lọc hình

ảnh, và sau đó chia sẻ trên nhiều mạng xã hội khác nhau, kể cả instagram. Những

bức ảnh chụp được sẽ có dạng hình vuông với tỉ lệ 4:3 thường được dùng trong các

thiết bị di động. 33,2 % sinh viên Nội vụ sử dụng instagram thường xuyên, cho

thấy sự năng động và tiếp cận nhanh của một bộ phận sinh viên với công nghệ, đặc

biệt các trang MXH mang tính ứng dụng cao. Tuy nhiên, tỉ lệ SV hiếm khi và chưa

bao giờ sử dụng vẫn chiếm tỉ lệ lớn, cho thấy tính phổ biến của instagram còn thua

xa facebook và youtube.

Trong bối cảnh nghỉ tránh dịch covid – 19, đa số sinh viên tham gia học trực

tuyến và lập các hội nhóm trên các MXH ngày càng nhiều với các loại nhóm khác

nhau như nhóm lớn, nhóm nhỏ, nhóm cố vấn học tập, nhóm học phần…là yếu tố

thúc đẩy mức độ sử dụng MXH tăng cao. Trong đó có trang mạng Zalo được nhiều

sinh viên, giảng viên lựa chọn sử dụng. So với facebook, youtube, instagram, zalo

được sinh viên sử dụng ít hơn nhưng vẫn cho thấy tính tiện ích và ưu thế của trang

41

mạng này so với các trang mạng còn lại chưa được sinh viên sử dụng hoặc sử dụng

rất ít như Myspace, Twitter, Zing me…Trong đó, có thể nhận thấy Zing me là trang

mạng của Việt Nam do công ty cổ phần VNG tập trung sản xuất và phát hành game

trực tuyến. Tỉ lệ 9.2%, sinh viên sử dụng Zing methường xuyên và có đến 43.3%

sinh viên không sử dụng trang này. Điều này cho thấy dù là trang mạng nội địa

nhưng độ phủ sóng của trang với sinh viên chưa cao.

Trang MXH ít được sinh viên sử dụng nhất là Myspace (ĐTB = 1.09), trong

đó 91% sinh viên chưa bao giờ sử dụng, 1,0% sinh viên thỉnh thoảng sử dụngvà

7.5% sinh viên hiếm khi sử dụng, không có sinh viên nào sử dụng ở mức độ thường

xuyên. Myspace là một trang MXH cung cấp mạng lưới thông tin tương tác giữa

người dùng với bạn bè của họ, cho phép người dùng tạo những hồ sơ cá nhân, viết

blog, lập nhóm, tải hình ảnh lên, lưu trữ nhạc và video cho giới trẻ cũng như người

lớn trên khắp thế giới. Mạng này được khởi tạo từ năm 2003 có trụ sở tại

California, Hoa Kỳ. Mạng xã hội này từng có lịch sử lẫy lừng, vượt qua cả Google

về số lượng người truy cập. Ở Việt Nam, Myspace không phổ biến, có khá ít người

dùng lựa chọn mạng xã hội này để sử dụng. Bởi vậy, tỉ lệ sinh viên Nội vụ chưa

bao giờ sử dụng mạng này cũng là điều dễ hiểu.

Có thể thấy mức độ sử dụng các trang MXH của sinh viên không giống

nhau, đa số sinh viên thường xuyên sử dụng các trang MXH mang tính phổ biến

như facebook, youtube… những trang MXH chưa mang tính phổ biến tỉ lệ sinh

viên sử dụng thấp. Đánh giá về mức độ sử dụng MXH của sinh viên, 70/70 (100%)

GV, CVHT được khảo sát đều cho rằng mức độ sử dụng MXH nói chung của sinh

viên là rất thường xuyên [PL bảng số liệu, câu 1]. Chia sẻ về vấn đề này, đại diện

Ban giám hiệu (BGH) Nhà trường cho biết: “Trong bối cảnh bùng nổ mạng mẽ của

công nghệ 4.0, các mạng xã hội mang đến cho sinh viên rất nhiều tiện ích. Sinh

viên tiếp nhận các thông tin về thời khóa biểu, thông báo của lớp, của phòng ban,

của CVHT, thông tin tuyển sinh, hoạt động truyền thông từ các fanpage của Nhà

trường, của các đơn vị phòng, khoa, của lớp rất nhanh chóng, đầy đủ.. bởi vậy,

mức độ sử dụng MXH của sinh viên là rất thường xuyên. Tuy nhiên, thời gian sử

dụng MXH của mỗi sinh viên là khác nhau”.

Như vậy, việc sử dụng MXH trong học tập, sinh hoạt của sinh viên hiện nay

là tất yếu, tuy nhiên thời gian sử dụng MXH của mỗi sinh viên là không giống

42

nhau. Để làm rõ vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã khảo sát thời gian sử dụng MXH

1%

6%

13%

16%

32%

a. Dưới 30 phút b. c. d. e. f.

30 phút - 1 giờ /ngày 1 – 3 giờ 3 – 5 giờ 5 – 8 giờ Nhiều hơn 8 giờ

32%

Biểu đồ 2. Thời gian sử dụng mạng xã hội mỗi ngày của sinh viên

mỗi ngày của sinh viên, kết quả như sau:

Theo thống kê của Vnetwork, tần suất người dùng internet tại Việt Nam

2019: người dùng Việt Nam dành trung bình tới 6 giờ 42 phút mỗi ngày để tham

gia các hoạt động liên quan tới mạng Internet. Báo cáo cũng đề cập thêm, người

dùng Việt Nam dùng trung bình 2 giờ 32 phút để dùng mạng xã hội, 2 giờ 31 phút

để xem các stream hoặc các video trực tuyến và dùng 1 giờ 11 phút để nghe nhạc.

94% là tỷ lệ người dùng Internet ở Việt Nam sử dụng Internet hàng ngày [37]. Điều

này chứng minh rằng người Việt Nam nói chung và sinh viên nói riêng đã dành thời

gian đáng kể cho các hoạt động trên không gian mạng để phục vụ các nhu cầu khác

nhau. Kết quả từ biểu đồ cho thấy, thời gian sinh viên sử dụng MXH mỗi ngày là rất

lớn, trung bình mỗi SV dành 5,7 giờ/ngày để sử dụng MXH. Lượng thời gian dành

cho MXH quá nhiều, bởi SV còn phải học tập trên lớp, tự học, tự nghiên cứu và các

hoạt động khác. Cụ thể, có186 sinh viên sử dụng MXH từ 3 - 5 giờ/ngày chiếm 32%.

Tương tự, có 186 sinh viên dành từ 1 – 3 giờ/ngày để sử dụng MXH. Cùng với đó,

16% sinh viên sử dụng từ 5 – 8 giờ/ngày. Đáng lưu ý có đến 13% sinh viên sử dụng

> 8 giờ/ngày. Lượng thời gian sử dụng MXH là rất đáng báo động về nguy cơ lệ

thuộc MXH ngày càng gia tăng trong SV Nội vụ hiện nay. Điều này đặt ra yêu cầu

cấp thiết phải có sự quan tâm nhiều hơn, sát sao hơn của Nhà trường, GV, CVHT

nhằm định hướng thời gian hợp lý khi sử dụng MXH hạn chế tối đa sự sa đà, lệ thuộc

vào MXH trong một bộ phận SV hiện nay. Trao đổi về vấn đề này, sinh viên Trần T.

ra xem tin, nói chuyện với bạn bè. Ngoài ra, em cũng xem phim, nghe nhạc youtube

liên tục. Mỗi ngày không truy cập facebook là không chịu được”.

Như vậy, dù rằng số trang MXH sinh viên lựa chọn sử dụng không nhiều,

nhưng thời gian online mỗi ngày lại rất lớn. Thời gian sử dụng MXH của sinh viên

43

H khóa 19 cho biết: “em sử dụng MXH rất nhiều, ngày nào cũng phải mở facebook

Nội vụ quả thật đáng lo ngại. Đây là vấn đề cần được lưu ý, nghiên cứu kỹ lưỡng

và tìm hướng giải quyết phù hợp tránh tình trạng lệ thuộc vào MXH sẽ ảnh hướng

đển học tập và các hoạt động xã hội khác.

Hỗ trợ cho việc sử dụng MXH của sinh viên chính là các thiết bị truy cập

MXH. Hiện nay, thiết bị để truy cập MXH của sinh viên tương đối phong phú, cụ

Biểu đồ 3. Phương tiện truy cập mạng xã hội của sinh viên

thể như sau:

Kết quả từ biểu đồ 2 cho thấy điện thoại thông minh là phương tiện sinh viên

dùng để truy cập MXH nhiều nhất với 570 ý kiến lựa chọn chiếm 99,1%. Tiếp theo

là máy tính xách tay chiếm 48,9%; máy tính để bàn chiếm 16,2% và máy tính bảng

chiếm 10,1%. Có thể thấy, cùng với sự phát triển của công nghệ, các dòng điện

thoại phân khúc tầm trung – thấp liên tục được ra đời giúp cho người dùng dễ dàng

sở hữu những chiếc điện thoại thông minh để tiếp cận Internet. Trong số 64 triệu

người dùng internet tại Việt Nam năm 2019, có 61,73 triệu sử dụng thiết bị di động

để truy cập MXH chiếm 96% số lượng người dùng [37]. Điều này cho thấy điện

thoại di động là thiết bị được ưu tiên sử dụng khi truy cập Internet nói chung và

MXH nói riêng. Sinh viên Nội vụ cũng không ngoại lệ, thậm chí số lượng sinh viên

sử dụng hơn 2 điện thoại để truy cập MXH cũng không ít. Cùng với đó, máy tính

xách tay cũng là phương tiện được sử dụng nhiều để truy cập MXH. Thực tế cho

thấy sinh viên Nội vụ có rất nhiều bài tập phải hoàn thiện cần đến máy tính xách

tay, chính vì thế, máy tính xách tay được kết nối mạng cũng chính là thiết bị được

tính bảng ít hơn do tính cơ động và thuận lợi của 2 thiết bị này không cao.

Chính sự nhỏ gọn tiện dụng, nhanh chóng của các thiết bị điện thoại thông

minh cũng là tác nhân thúc đẩy thời gian sử dụng MXH nhiều hơn ở sinh viên. Bởi,

44

sinh viên sử dụng để truy cập MXH. Tỉ lệ sinh viên sử dụng máy tính bàn và máy

nếu không có thiết bị hoặc thiết bị lỗi thời, sinh viên sẽ không có công cụ để truy

cập các trang MXH nhanh chóng dẫn đến thời gian sử dụng sẽ ít hơn. Tuy nhiên,

trong xu thế phát triển, việc sử dụng điện thoại thông minh như vật “bất li thân”

cũng là điều dễ hiểu.

2.1.3. Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên

Từ kết quả bảng 2.1 và các biểu đồ 1 cho thấy, mức độ và thời gian sử dụng

MXH của sinh viên là rất lớn, vậy sinh viên sử dụng MXH vì mục đích gì? Kết quả

Bảng 2.2. Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên

khảo sát như sau:

Mục đích sử dụng MXH

Số lượng

Tỉ lệ (%)

Thứ bậc

Cập nhật tin tức mới

495

86.1

2

Mục đích học tập (tìm kiếm, chia sẻ tài liệu với thầy cô và nhóm học tập)

463

80.5

3

Kết nối và giữ liên lạc với bạn bè

509

88.5

1

Tham gia các nhóm trên mạng xã hội

306

53.2

5

Xây dựng và quảng bá hình ảnh của bản thân

17.9

9

103

Giải trí (chơi game, xem phim, đọc báo, đọc truyện…)

454

79.0

4

Quảng cáo, kinh doanh, bán hàng online

128

22.3

8

Tìm việc làm thêm

151

26.3

6

Chỉ để giết thời gian

7

146

25.4

0

0

0

Ý kiến khác

Kết quả khảo sát từ bảng 2.2 cho thấy cho thấy mục đích sử dụng MXH của

sinh viên rất đa dạng, cụ thể có 509 ý kiến chiếm 88,5% sinh viên lựa chọn mục

đích kết nối và giữ liên lạc với bạn bè xếp vị trí số 1. 495 ý kiến chiếm 86,1% cho

rằng mục đích sử dụng MXH là để cập nhật thông tin mới xếp vị trí thứ 2. Trong

khi đó, có 463 sinh viên sử dụng MXH vì mục đích học tập đứng thứ 3 và 454 sinh

viên có mục đích giải trí xếp thứ 4. Những mục đích còn lại nhận được ít hơn sử

lựa chọn của sinh viên như tìm việc làm thêm (chiếm 26.3%), quảng cáo, kinh

doanh, bán hàng online (chiếm 22,3%), chỉ có 17,9 % sinh viên lựa chọn mục đích

xây dựng và quảng bá hình ảnh bản thân. Cùng với đó, có đến 146 sinh viên chiếm

45

25,4% sử dụng MXH chỉ để giết thời gian. Như vậy có thể nói MXH với tính năng

đa dạng, nguồn thông tin phong phú, cập nhật hằng ngày, hàng giờ đáp ứng rất tốt

mục đích kết nối và giữ liên lạc với bạn bè và cập nhật tin tức của sinh viên. Đặc

biệt, trong giai đoạn cả nước phòng, chống dịch Covid – 19 đã hạn chế sự tiếp xúc

trực tiếp thì sự trao đổi thông tin trên không gian mạng thể hiện rõ ưu thế. Cùng với

đó, trong giai đoạn phòng chống dịch Covid – 19, SV dù không đến lớp, không trực

tiếp làm việc với nhau, với thầy cô, với CVHT nhưng vẫn nắm bắt thông tin nhanh

chóng, kịp thời. Trường ĐHNVHN hiện nay có các fanpage của Đoàn trường, của

các khoa, các phòng dùng để cập nhật các thông tin, thông báo, thời khóa biểu, lịch

học lại hay các chế độ của sinh viên. Nhờ vậy, sinh viên chỉ cần ở nhà, kết nối

mạng đều có thể nắm bắt thông tin cần thiết.

Đặc biệt, trong khoảng thời gian nghỉ tránh dịch theo chỉ thị số 16 của Thủ

tướng Chính phủ, trường ĐHNVHN đã tổ chức học trực tuyến trên phần mềm

Zoom từ tháng 3/2020 đến tháng 5/2020 bởi vậy, việc sử dụng MXH vào mục đích

học tập được SV chú trọng hơn. Việc tạo lập và tham gia các forum học tập được đẩy

mạnh. Ngoài ra, bằng phương pháp quan sát thực tế giảng dạy, nhóm nghiên cứu

nhận thấy tính tích cực của sinh viên khi chủ động tạo lập, gia nhập các nhóm học

tập trên facebook, zalo của lớp, của nhóm. Thậm chí, một SV tham gia rất nhiều

nhóm học tập khác nhau trên MXH. Thông qua các diễn đàn, các nhóm học tập trên

không gian mạng SV chủ động tiếp cận, bày tỏ quan điểm cá nhân, thảo luận sôi nổi

các nhiệm vụ học tập. Bởi vậy, có 80,5% SV sử dụng MXH với mục đích học tập

(xếp vị trí thứ 3) tỉ lệ này cho thấy SV đã biết sử dụng MXH một cách có ích, phục

vụ cho hoạt động học tập của mình. Tuy nhiên, đối với sinh viên học tập vẫn là

nhiệm vụ quan trọng nhất, bởi vậy, học tập nên là mục đích ưu tiên hàng đầu khi sử

dụng MXH sau đó mới đến các mục đích khác. Trao đổi về vấn đề này, Đại diện lãnh

đạo phòng CTSV cho biết: “Mục đích sử dụng MXH của sinh viên ĐHNVHN đa số

là tích cực, các em dùng MXH phục vụ mục đích giải trí, kết nối bạn bè, kinh doanh,

học tập và một số mục đích khác. Trong đó, học tập chưa phải là mục đích cao nhất

khi sử dụng MXH của sinh viên, đa số sinh viên sử dụng MXH để giải trí, kết nối bạn

bè nhiều hơn là để học”. Đúng vậy, kết quả khảo sát cho thấy, tỉ lệ SV sử dụng MXH

với các mục đích ngoài học tập rất lớn. Chính vì thế, GV, CVHT cũng cần có những

46

định hướng về mục đích sử dụng MXH cho sinh viên, hướng SV vào những mục

đích ưu tiên cho học học tập, phát triển kỹ năng nhiều hơn.

Bên cạnh đó, SV sử dụng MXH để giải trí như xem phim, chơi game, nghe

nhạc chiếm 79% là tỉ lệ rất lớn. Tỉ lệ lớn SV sử dụng MXH để giải trí cũng là điều

dễ hiểu từ chính các tính năng của MXH, điều này cho thấy sinh viên đã biết tiếp

cận, sử dụng các tính năng, ứng dụng trên không gian mạng phục vụ cho mục đích

giải trí của mình. Tuy nhiên, nếu thiếu kỹ năng sử dụng, SV sẽ bị cuốn vào các tính

năng giải trí dẫn đến thời gian dành cho MXH quá nhiều ảnh hướng đến kết quả

học tập, rèn luyện. Thực tế cho thấy, thời gian SV dành cho xem phim, nghe nhạc,

chơi game trên MXH còn nhiều hơn thời gian các bạn dành cho các hoạt động

khác. Việc chiếm dụng nhiều thời gian cho mục đích giải trí sẽ thu hẹp thời gian

dành cho học tập, tham gia các câu lạc bộ, hoạt động cộng đồng hoặc tham gia các

khóa học phát triển kỹ năng.

Cùng với đó, 25,4% sinh viên dùng MXH chỉ vì mục đích là để giết thời

gian. Đây là vấn đề đáng lo ngại khi SV lãng phí thời gian sử dụng MXH của mìn.

Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này chính là tâm lý thụ động, lười vận động, ngại

giao tiếp từ phía SV, đồng thời việc thiếu cơ sở hạ tầng, khuôn viên vui chơi, thể

dục, thể thao và các hoạt động ngoại khóa lôi cuốn đã hạn chế cơ hội tham gia hoạt

động của SV, dẫn đến tình trạng SV sử dụng MXH để giết thời gian rỗi của mình.

Bởi vậy, cần đầu tư cơ sở hạ tầng, khu thể thao tích hợp đáp ứng nhu cầu thể dục

thể thao của SV và phải định hướng mục đích sử dụng MXH cho sinh viên hợp lý

hơn, hiệu quả hơn, trong đó học tập nên là mục đích ưu tiên khi sử dụng MXH của

sinh viên.

So sánh đánh giá của GV, CVTH và SV trong bảng 2.2 cho thấy giữa GV,

CVTH và SV có sự khác biệt nhất định trong lựa chọn mục đích sử dụng MXH của

sinh viên. Trong đó, nếu đa số sinh viên lựa chọn mục đích kết nối và giữ liên lạc

với bạn bè thì đa số GV, CVTH lại cho rằng mục đích sử dụng MXH của sinh viên

là để cập nhật thông tin mới và mục đích học tập chiếm tỉ lệ theo thứ tự là 95,6% và

77,1%. Ngoài ra, mục đích giải trí; xây dựng và quảng bá thương hiệu cũng được

GV, CVHT đánh giá cao với tỉ lệ 68,6% và 64,3% [phụ lục bảng số liệu câu 3].

Những mục đích khác giữa GV, CVHT và SV có sự lựa chọn tương đồng nhau.

47

Chia sẻ về vấn đề này, cô Trần Thị D. T. GV, CVHT cho biết: “MXH có rất nhiều

tính năng hữu ích sinh viên có thể khai thác. Bởi vậy, mục đích sử dụng MXH của

sinh viên rất phong phú, đa dạng. Trong đó, mục đích học tập, kết nối bạn bè, mua

bán hàng online và tìm kiếm cơ hội làm thêm là chủ yếu, ngoài ra, tỉ lệ sinh viên sử

dụng MXH không có mục đích cụ thể cũng không phải ít”.

Như vậy, có thể thấy dù sự đánh giá của GV, CVHT và sự lựa chọn của sinh

viên vẫn còn có sự khác biệt, nhưng về cơ bản, GV, CVHT đã nắm được mục đích

sử dụng MXH của sinh viên. Đây sẽ là một trong những thuận lợi để GV, CVHT

định hướng mục đích sử dụng MXH phục vụ cho hoạt động học tập nhiều hơn cho

SV, trong đó, GV, CVHT cần có những giải pháp cụ thể đối với nhóm 25,4%SV sử

dụng MXH “chỉ để giết thời gian” để các em xác định lại mục đích sử dụng MXH

phù hợp hơntrong thời gian tới.

2.1.4. Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên

Kết quả khảo sát sinh viên cho thấy dù nhu cầu sử dụng MXH là tương đối

đơn giản nhưng mức độ sử dụng lại rất lớn và mục đích sử dụng cũng có sự phân

hóa rõ rệt. Tuy nhiên, vấn đề sử dụng MXH của sinh viên chủ yếu được biểu hiện

thông qua hành vi sử dụng MXH. Bởi vậy, khảo sát hành vi sử dụng MXH thông

qua thời gian sử dụng theo hoàn cảnh, nội dung chia sẻ và đăng tải; hành vi nhấn

Bảng 2.3. Biểu hiện hành vi sử dụng MXH của sinh viên qua nội dung “đăng tải”

nút like (yêu, thích) và hành vi bình luận trên MXH của SV, kết quả như sau:

Mức độ

Hiếm khi

Nội dung “đăng tải”

ĐBT

Thường xuyên N %

Thỉnh thoảng N %

N %

chưa bao giờ N %

Đăng tải tất cả mọi thứ về

20

3.5

203 35.3 269 46.8

83

14.4

2.28

cuộc sống của mình

Đăng tải bài viết, video liên

24

4.2

65

11.3

244 42.4 242 42.1

2.39

quan đến học tập của mình

Đăng các group bán hàng

17

3.0

66

11.5 164 28.5 328 57.0

1.60

online

Đăng các bức ảnh “sexy”

hoặc thông tin gây sốc để

0

0.0

11

1.9

37

6.4

527 91.7

1.10

câu like

48

Đăng tải bài báo nhằm kêu

gọi sự giúp đỡ đối với

42

7.3

242 42.1 182 31.7 109 19.0

2.38

những hoàn cảnh khó khăn

Đăng thông tin chính thống

2.23

59

10.3 199 34.6 133 23.1 184 32.0

về dịch bệnh

Đăng tải thông báo từ giảng

viên, cố vấn học tập, đoàn

thanh niên…liên quan đến

58

10.1 225 39.1 169 29.4 123 21.4

2.38

học tập, nghiên cứu khoa

học

Kết quả từ bảng số liệu 2.3 cho thấy, hành vi đăng tải các nội dung lên MXH

của sinh viên trường Nội vụ ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào các nội dung cụ

thể. Trong đó, nội dung được đăng tải nhiều nhất là “các bài viết, video liên quan

đến học tập của mình” (ĐTB = 2.39) với 4,2% thường xuyên, 42,4% thỉnh thoảng,

42,1% hiếm khi và 11,3% chưa bao giờ. Khi được hỏi về vấn đề này sinh viên Đỗ

C. A. khóa 17 cho biết: “Em rất ít khi đăng các nội dung học tập lên MXH, chỉ lúc

nào ở lớp có những hoạt động nhóm học tập vui nhộn hoặc những bài tập nhóm

làm tốt, được điểm cao hay các video clip học tập hài hước em mới đăng tải lên

MXH”. Bạn Đoàn Đức Đ khóa 19 cho biết thêm: “vì em là cán bộ lớp, nên em

thường xuyên thường xuyên đăng tải các nội dung liên quan học tập của mình để

các bạn khác cùng theo dõi, như nội dung ôn tập, phân chia nhóm, nguồn tài

liệu...thỉnh thoảng, em cũng cập nhật nguồn tài liệu mới cho các bạn cùng tham

khảo”. Có thể nói, việc đăng tải các nội dung học tập của cá nhân lên MXH không

phải là quy định hay yêu cầu bắt buộc chủ yếu xuất phát từ nhu cầu hay mục đích

sử dụng của sinh viên. Việc chia sẻ nội dung học tập lên MXH cũng là một kênh

thông tin quan trọng để sinh viên học tập, trao đổi cùng nhau. Lúc này, việc sử

dụng MXH không còn là vô bổ hay chỉ để giết thời gian nữa.

Nội dung đăng tải bài báo nhằm kêu gọi sự giúp đỡ đối với những hoàn cảnh

khó khăn (ĐTB = 2.38) và đăng tải thông báo từ giảng viên, cố vấn học tập, đoàn

thanh niên… liên quan đến học tập, nghiên cứu khoa học (ĐTB = 2.38), cùng xếp

49

vị trí thứ 2. Có thể nhận thấy những tín hiệu tích cực trong việc sử dụng MXH thể

hiện qua các nội dung đăng tải. Sinh viên trường Nội vụ cùng với hoạt động học

tập, rèn luyện chính là sự chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn. Hằng năm, Đoàn

trường ĐHNVHN, các liên chi đoàn, các câu lạc bộ đều có các chương trình thiện

nguyện như chương trình “Cùng em tới trường” tại thôn Co Loi, xã Mẫu Sơn,

huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, năm 2020 của Khoa Khoa học Chính trị; chương

trình thiện nguyện “Tết yêu thương mùa 5” của CLB Văn phòng trẻ - Khoa Quản

trị văn phòng năm 2019; Chương trình “Áo ấm cho em” do Đoàn trường tổ chức

năm 2019 và nhiều chương trình thiện nguyện khác đã được tổ chức. Truyền thống

và tinh thần tương thân tương ái trong nhà trường đã lan tỏa đến đông đảo sinh viên

Nội vụ. Bởi vậy, để góp công sức của mình chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn

trong xã hội, sinh viên đã đăng tải lên MXH các bài báo nhằm kêu gọi sự giúp đỡ

đối với những hoàn cảnh khó khăn với 7,3% Thường xuyên; 42,1% thỉnh thoảng,

31,7% hiếm khi và 19% chưa bao giờ.

Cùng với đó, sinh viên cũng thường xuyên chia sẻ các thông báo từ giảng

viên, cố vấn học tập, đoàn thanh niên, các phòng khoa chức năng… liên quan đến

học tập, nghiên cứu khoa học với tỉ lệ thường xuyên 10,1%, thỉnh thoảng 39,1%,

hiếm khi 29,4% và chưa bao giờ 21,4%. Có thể nói, một trong những tính năng ưu

việt của MXH là khả năng cập nhật thông tin nhanh chóng, tính tương tác cao bởi

vậy, đây là một trong những kênh liên lạc quan trọng giữa GV, CVHT, các phòng

khoa chức năng với SV và ngược lại. Hiện tại, các GV, CVHT các Khoa, phòng

đều có trang cá nhân, fanpage, nhóm lớp, nhóm học phần trên facebook hoặc zalo

để cập nhật thông tin nhanh nhất đến sinh viên. Đặc biệt là những thông báo của cố

vấn học tập về lịch họp lớp, thông báo điểm rèn luyện, học phí, lịch học lại, học cải

thiện, thời khóa biểu… đều được cập nhật trên MXH là điều kiện thuận lợi nhất để

sinh viên, dù bất kỳ đâu chỉ cần có kết nối mạng và phương tiện phù hợp đều có thể

nhận thông tin và phản hồi ngay khi cần thiết.

Một điều đáng lưu ý hành vi đăng tải của sinh viên lên MXH là đăng tải tất

cả mọi thứ về cuộc sống của mình (ĐTB = 2,28) với mức độ thường xuyên chiếm

3,5%, thỉnh thoảng chiếm 35,3%; hiếm khi chiếm 46,8% và 14,4% chưa bao giờ.

Có thể nói, với nhu cầu sử dụng MXH để tăng tương tác và kết nối bạn bè thì tỉ lệ

50

sinh viên đăng tải tất cả mọi thứ về cuộc sống của mình ở mức độ thường xuyên

cao cũng không quá khó hiểu. Sinh viên có thể đăng tải tất cả những cảm xúc, suy

nghĩ, thông tin, hình ảnh, hoạt động…về cuộc sống của mình lên MXH mà gặp cản

trở nào. Tuy nhiên, các chuyên gia MXH cũng có những cảnh báo đối với những

người thường xuyên sử dụng MXH cần cân nhắc trước khi đăng tải các thông tin cá

nhân hay hoạt động riêng tư của mình lên MXH tránh bị đối tượng xấu lợi dụng

hình ảnh, thông tin cá nhân vào mục đích xấu. Theo ông Nguyễn Minh Đức, Giám

đốc điều hành Công ty cổ phần An toàn thông tin CyRadar cho biết: Hầu hết các

thông tin cá nhân của người sử dụng hiện nay ở Việt Nam đều do chính người sử

dụng tự đưa lên. Thông tin về ngày tháng năm sinh, trường học, nơi làm việc, nơi

ở... kê khai trong các ứng dụng mạng xã hội được để ở chế độ mở. Thêm vào đó,

nhiều người có thói quen cập nhật rất nhiều hoạt động trong ngày lên mạng xã hội.

Điều này đồng nghĩa với việc ai cũng có thể thu thập được thông tin của họ, có thể

dễ dàng lập tài khoản giả mạo và tiến hành các hành vi lừa đảo [41].

Thảo luận về vấn đề này trong buổi nói chuyện chuyên đề “Hành vi ứng xử

MXH của sinh viên” do Khoa QLXH tổ chức tháng 5/2019 do diễn giả Ngô Bá Lục

trình bày, một bạn sinh viên chia sẻ câu chuyện của mình như sau: “trong một lần

em đi tập văn nghệ, em đã nghịch ngợm chụp một bức ảnh đóng giả một người

mang bầu sau đó đăng lên trang cá nhân facebook. Không ngờ sau đó một số

fanpage lấy hình của em đăng lên trang của họ để câu like, câu view… làm em bị

hiểu nhầm. Bạn bè ai cũng hỏi thăm rồi comment làm em không thể giải thích

được. Em còn bị bố mẹ ở quê gọi điện tra khảo, mắng rất nhiều. Sau đó, em có liên

hệ trang fanpage gỡ ảnh của em xuống nhưng họ không gỡ làm em không biết làm

thế nào. Sau đó, em phải chụp bức ảnh đính chính là em không mang bầu nhưng

cộng đồng mạng cũng không tin, họ còn nói em đã phá thai nên mới thế….” Chia

sẻ của bạn sinh viên đã làm cho cả khán phòng cười ồ lên. Tuy nhiên, nhà báo Ngô

Bá Lục cho rằng “tai nạn” của bạn không phải hiếm gặp. Rất nhiều sinh viên gặp

vấn đề như bạn và nguyên nhân chủ yếu là sinh viên đăng tải lên MXH quá nhiều

hình ảnh, thông tin cá nhân của mình trong khi chưa có kỹ năng và công cụ nào

kiểm soát tính an toàn của thông tin đăng tải. Ngoài ra, nhà báo chia sẻ thêm sinh

viên có thể bị đánh cắp tài khoản và các đối tượng xấu dùng tài khoản của sinh viên

để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của bạn bè, người thân. Khi được phỏng vấn về vấn

51

đề này, đại diện Lãnh đạo khoa Quản lý xã hội chia sẻ: “Mạng xã hội là công cụ kết

nối hiệu quả với các tính năng phong phú và đa dạng, tuy nhiên kỹ năng sử dụng

MXH đối với sinh viên còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, sinh viên cần có quá trình sàng

lọc, kiểm chứng, đăng tải thông tin một cách hiệu quả. Tránh sa đà vào MXH, ảnh

hướng đến hoạt động sống và sức khỏe”.

Nội dung được ít sinh viên đăng tải nhất là “đăng các bức ảnh “sexy” hoặc

thông tin gây sốc để câu like” (ĐTB = 1.10). trong đó có 91,7% sinh viên chưa bao

giờ sử dụng, 6,4% hiếm khi, 1,9% thỉnh thoảng và không có sinh viên nào đăng tải

nội dung này ở mức độ thường xuyên. Thực tế, việc sử dụng MXH chủ yếu mang

tính cá nhân của người dùng. Việc đăng tải các nội dung lên MXH cũng là lựa chọn

của mỗi người. Tuy nhiên, với sinh viên,việc đăng tải các bức ảnh “sexy” lên MXH

tiềm ẩn nhiều rủi ro như thu hút sự chú ý của các đối tượng xấu như buôn người

hoặc các dịch vụ giải trí trá hình có thể có những chiêu thức mời gọi, quấy nhiễu

sinh viên, ăn cắp hình ảnh phục vụ cho mục đích thiếu lành mạnh…Bởi vậy, đại

diện BGH Nhà trường đã đưa ra lời khuyên dành cho SV: “Sử dụng MXH, sinh viên

cần biết cách khai thác mặt tích cực của MXH, cần thận trọng khi chia sẻ các vấn

đề riêng tư để tránh những sự cố đáng tiếc có thể xảy ra”.

Cùng với nội dung đăng tải, hành vi sử dụng MXH của sinh viên còn biểu

Bảng 2.4. Biểu hiện hành vi sử dụng MXH thông qua nội dung “chia sẻ”

hiện thông qua các nội dung “chia sẻ”.

Mức độ sử dụng

Nội dung “chia sẻ”

Hiếm khi

ĐBT

Thường xuyên N %

Thỉnh thoảng N %

N %

chưa bao giờ N %

Chia sẻ mọi thứ liên quan đến cá

32

5.6

208 36.2

101 17.6 2.30

234

40.7

nhân

Chia sẻ kiến thức liên quan đến học

56

9.7

164

28.5

45

7.8

310 53.9

2.66

tập

Chia sẻ những vấn đề về dịch bệnh

153

26.6

121 21.0 2.42

59

10.3 242 42.1

Chia sẻ thông tin về kinh tế, chính

16

2.8

135 23.5

229

39.8

195 33.9 1.95

trị

Chia sẻ công tác tình nguyện, thiện

57

9.9

178

31.0

84

256 44.5

14.6 2.50

nguyện của đoàn trường

52

Chia sẻ thông báo từ giảng viên, cố

vấn học tập, đoàn thanh niên hoặc

183

31.8

94

16.3 2.47

64

11.1 234 40.7

các phòng ban trong nhà trường

Chia sẻ các trang bán hàng online

14

2.4

54

9.4

167

29.0

340 59.1 1.55

Chia sẻ tất cả những thông tin,

18

3.1

117 20.3

247

43.0

193 33.6 1.93

status của người thân, bạn bè

Nếu như đăng tải là hành vi SV chủ động đưa các nội dung lên trang cá nhân

của mình, thì “chia sẻ” là tính năng giúp SV “kéo” các nội dung mình quan tâm về

trang cá nhân của mình. Có thể nói, tính năng này giúp người dùng tiết kiệm thời

gian khi sử dụng MXH. Chỉ cần cú click chuột, sinh viên có thể chia sẻ những

thông tin cần thiết lên trang cá nhân, đây cũng chính là hình thức lưu tin rất hiệu

quả đối với các thông tin quan trọng hoặc những lĩnh vực mà sinh viên cảm thấy

quan trọng. Ngoài ra, tính năng này còn giúp sinh viên chia sẻ thông tin đến các

hội, nhóm với số lượng thành viên lớn để thông tin đến được với số lượng người

dùng đông đảo nhất. Đối với sinh viên trường ĐHNVHN, khảo sát cho thấy nội

dung chia sẻ của sinh viên mang tính đa dạng, phong phú như các thông tin học tập

đến thông tin mang tính kinh tế, chính trị, dịch bệnh và cả các trang bán hàng

Online. Tuy nhiên, hành vi chia sẻ của sinh viên trên MXH ở mức độ thỉnh thoảng

và hiếm khi. Tỉ lệ thường xuyên chia sẻ không nhiều. Cụ thể, nội dung được nhiều

sinh viên lựa chọn chia sẻ là “chia sẻ những kiến thức liên quan đến học tập” (ĐTB

= 2.66) trong đó có 9.7% chia sẻ ở mức độ thường xuyên, 53,9% thỉnh thoảng,

28,5% hiếm khi và 7,8% chưa bao giờ. Có thể nói, đây là nội dụng có điểm trung

bình cao nhất nhưng cho thấy mức độ chia sẻ chưa nhiều, chủ yếu là thỉnh thoảng

mới chia sẻ. MXH là kho thông tin khổng lồ về các lĩnh vực mang tính toàn diện,

trong đó có kiến thức liên quan đến học tập của sinh viên. Tuy nhiên, những kiến

thức liên quan đến học tập như các bài viết, các nghiên cứu chuyên sâuvới các thuật

ngữ chuyên ngành hoặc chỉ dành cho nhóm đối tượng nhất định nên “kén” người

đọc. So với xem một trích đoạn phim, xem một MV ca nhạc hấp dẫn thì đọc một

bài nghiên cứu chuyên sâu quả là khó khăn hơn rất nhiều. Chính vì thế tỉ lệ sinh

viên thường xuyên chia sẻ những kiến thức liên quan đến học tập chưa nhiều, tỉ lệ

53

thỉnh thoảng, hiếm khi và chưa bao giờ cao hơn gấp nhiều lần. Cùng với đó, nội

dung được chia sẻ đứng vị trí thứ 2 là chia sẻ công tác tình nguyện, thiện nguyện

của Đoàn trường (ĐTB = 2.50) với 9,9% thường xuyên chia sẻ, 44,5% thỉnh

thoảng, 31,3% hiếm khi và 14.6% chưa bao giờ; Hằng năm, Đoàn trường

ĐHNVHN đều tổ chức những chương trình thiện nguyện đến với các hoàn cảnh

khó khăn trên mọi miền đất nước. Các chương trình này thu hút sự tham gia đông

đảo của GV, SV trong toàn trường, tuy nhiên công tác truyền thông cho các chương

trình, hoạt động của đoàn trường chưa được đầu tư đúng cách, dẫn đến sự tiếp cận

đến sinh viên chưa nhiều. Bởi vậy, thông qua tính năng chia sẻ trên MXH, SV và

các nhóm công chúng sẽ biết nhiều hơn đến hoạt động của đoàn trường. Đây chính

là cách thức truyền thông hiệu quả mà Đoàn trường cần đầu tư xây dựng và hoàn

thiện, trong đó, xây dựng một đội ngũ đoàn viên, thanh viên thành lập các fanfage

và chia sẻ mạnh mẽ trên MXH để nâng cao hình ảnh và nhân rộng những hành

động đẹp trong cuôc sống. Ngoài ra, 11,1% sinh viên còn thường xuyên chia sẻ các

thông báo từ GV, CVHT, các phòng ban, đơn vị trong Nhà trường. 10,3% sinh viên

thường xuyên chia sẻ những vấn đề về dịch bệnh, 42,1% thỉnh thoảng chia sẻ về

nội dung này. Có thể nói, năm 2020 là năm chịu ảnh hưởng của dịch bệnh Covid –

19 trên mọi mặt đời sống, trong đó có hoạt động học tập của sinh viên. Thay vì đến

trường học tập, sinh viên tham gia học trực tuyến qua phần mềm Zoom. Cùng với

đó, các kênh truyền thông về dịch bệnh được phổ biến rộng rãi, tất cả các kênh báo

đài, truyền hình, MXH đều chia sẻ rộng rãi thông tin về dịch bệnh nguy hiểm này.

Từ đó, giúp mọi người nâng cao cảnh giác, chủ động thực hiện và thực hiện có hiệu

quả các biện pháp phòng dịch theo hướng dẫn của cơ quan chức năng. Công cụ

truyền thông nhanh chóng và hiệu quả chính là tuyên truyền qua MXH, chính vì

thế, đăng tải hay chia sẻ các thông tin về dịch bệnh cũng được sinh viên thực hiện

với 10,1% sinh viên thường xuyên chia sẻ và có 21,0% sinh viên chưa bao giờ chia

sẻ. Lý giải về vấn đề này, sinh viên Quang Thị H. khóa 19 cho biết: “em rất thận

trọng khi chia sẻ những thông tin liên quan đến dịch bệnh lên MXH. Chỉ lúc nào có

những thông tin chính xác từ các trang chính thống em cảm thấy cần thiết mới chia

sẻ lên trang cá nhân. Em sợ mình có thể chia sẻ những thông tin sai, tin giả sẽ làm

mọi người hoang mang hơn”. Cùng suy nghĩ với bạn Quang Thị H, đa số sinh viên

54

được hỏi đều thận trọng khi chia sẻ thông tin về nội dung này trên MXH vì sợ

vướng phải tin giả. Sự thận trọng này của sinh viên là có cơ sở. Mới đây, thông tin

từ Bộ Công an cho biết đã có 170 cá nhân tung tin sai lệch về dịch Covid 19 bị triệu

tập, xử lý, thông tin sai bị đề nghị gỡ bỏ; 41 trường hợp không thực hiện các yêu

cầu của cơ quan chức năng sẽ bị xử lý hình sự khi đủ điều kiện [44].

Cùng với các nội dung khác, sinh viên còn chia sẻ lên MXH mọi thứ liên

quan đến cá nhân (ĐTB = 2.30) và chia sẻ những thông tin, status của người thân,

bạn bè lên MXH (ĐTB = 1.93). Tương tự như hành vi đăng tải, các chuyên gia

công nghệ đều khuyên người dùng không nên đăng tải, chia sẻ mọi thông tin liên

quan đến cá nhân lên MXH, bởi có thể sẽ bị kẻ xấu lợi dụng, đánh căp thông tin,

thậm chí đánh cắp tài khoản để thực hiện hành vi lừa đảo. Bên cạnh đó, sinh viên

cũng cần cân nhắc trước khi chia sẻ những thông tin, status của bạn bè người thân

lên MXH bởi vô tình có thể vi phạm quyền riêng tư của người thân, bạn bè mà sinh

viên không biết.

Như vậy, để không bị cuốn vào “rừng” thông tin trên mạng, sinh viên phải

tỉnh táo, kiểm tra cẩn thận mọi nguồn tin, tránh bị mắc lừa, hoang mang vô cớ. Hơn

ai hết sinh viên hãy là người chia sẻ thông tin một cách có trách nhiệm để tự bảo vệ

mình. Mỗi sinh viên tự hình thành các thói quen tốt khi sử dụng MXH, chủ động

giữ gìn các giá trị, chuẩn mực đạo đức và tuân thủ pháp luật. Hãy đăng tải, chia sẻ

có trách nhiệm với bản thân, với cộng đồng.

Cùng với hành vi “đăng tải” và “chia sẻ”, sinh viên sử dụng MXH còn thể

Bảng 2.5. Biểu hiện hành vi SD MXH thông qua nội dung “like” và “comment”

hiện qua nội dung “like” và “comment”. Biểu hiện cụ thể của hành vi này như sau:

Mức độ

Nội dung

Hiếm khi

ĐBT

Thường xuyên N %

Thỉnh thoảng N %

N %

chưa bao giờ N %

“Like” ảnh

351

61.0 192 33.4

32

5.6

0

0.0

3.55

“Like” stastus

292

50.8 204 35.5

72

12.5

7

1.2

3.36

75

13.0

7

1.2

3.31

“Like” fan pape yêu thích

270

47.0 223 38.8

50

8.7

2.60

“Like” commet của người khác

99

17.2 195 33.9 231 40.2

13

2.3

3.19

“Like” video

228

39.7 241 41.9

93

16.2

“Like” dạo: like tất cả những gì

82

14.3 120 20.9 174 30.3 199 34.6 2.15

55

được hiển thị

“Comment” tất cả thông tin liên

57

9.9

308 53.6 178 31.0

32

5.6

2.68

quan đến học tập

Chỉ “comment” về ảnh, stastus

167

29.0 308 53.6

88

15.3

12

2.1

3.10

của bạn bè và người thân

“Comment” tất cả thông tin mình

13

2.3

70

12.2 255 44.3 237 41.2 1.75

đọc được

Không “comment” khi không

348

60.5

83

14.4

69

12.0

75 13.0 3.22

thực sự cần thiết.

Để tăng tính tương tác và bày tỏ cảm xúc của người dùng, các trang MXH

đều có tính năng like hay thả tim, biểu tượng cảm xúc như mặt cười, tức giận, hạnh

phúc… Việc nhấn nút “like” không quá xa lạ với người dùng, là cách người dùng

bày tỏ quan điểm, thái độ của mình khi sử dụng MXH.

Tính năng “like” được Facebook giới thiệu vào năm 2009, và tính năng này

đã dần trở nên phổ biến đến nỗi nó đã trở thành một danh từ đúng nghĩa: một cái

“like”. Cách đây 7 năm, Facebook đã đạt được mức khoảng 1 tỉ “like” một ngày,

chắc chắn con số đó hiện nay lớn hơn rất nhiều.. Về sau, nút “like” trên Facebook

đã không còn đủ để chúng ta thể hiện cảm xúc nữa, chính vì thế vào năm 2015

Facebook đã trình làng các biểu tượng cảm xúc để mọi người có thể dễ dàng thể

hiện tâm tư của mình đến bài đăng như thích, yêu thương, tức giận, ngạc nhiên,

buồn….Chính sự nâng cấp này đã đánh đúng tâm lý của người dùng và tỉ lệ người

dùng nhấn nút like ngày càng nhiều hơn. Sinh viên cũng vậy, số liệu từ bảng 2.5

cho thấy, tỉ lệ sinh viên thường xuyên có hành vi like ở mức độ rất thường xuyên

lớn hơn cả. Nội dung chủ yếu là like ảnh (ĐTB = 3.55) với mức độ thường xuyên

chiếm 61%, thỉnh thoảng chiếm 33,4%, 5,6 % hiếm khi và không có sinh viên nào

chưa bao giờ like ảnh. Có thể nói, đây là tỉ lệ rất lớn sinh viên tham gia MXH thực

hiện hành vi này. Cùng với đó, like status cũng chiếm tỉ lệ lớn với mức độ thường

xuyên 50,8%, thỉnh thoảng 32,5% và 12,5% hiếm khi, chỉ có 1,2% là chưa bao giờ.

Ngoài ra, like fanpage yêu thích và like comment của người khác cũng có mức độ

rất thường xuyên và thường xuyên sử dụng cao, ĐTB lần lượt là 3.31 và 2.60.

56

Bên cạnh đó, số lượng sinh viên có hành vi like “dạo” là không nhỏ. Có đến

14,3% ở mức độ thường xuyên, 20,9% thỉnh thoảng, 30.3% hiếm khi và 34,6%

chưa bao giờ. Chia sẻ vấn đề này, bạn Hoàng Đ.T khóa 19 cho biết: “Em truy cập

MXH rất nhiều và em like tất cả những gì em nhìn thấy, có những nội dung dài em

chưa đọc hết, em chỉ thả like”. Khi được hỏi, các bạn có thường xuyên like các nội

dung trên MXH? Đa số sinh viên đều trả lời “có” và nhiều sinh viên còn hồn nhiên

trả lời rằng: “em cứ like để các bạn biết em có tương tác với các bạn”. Một bạn

khác cho biết: “em like trên tường của bạn để bạn lại like trên tường của em. Bài

viết được nhiều like càng thích”. Khi được hỏi, các bạn có biết ý nghĩa và tác hại

của việc like hay không? Đa số sinh viên đều không nhận thức được tác hại của

việc like mà chỉ biết like để tăng tương tác và ủng hộ ai đó trên MXH.

Như vậy, đa số sinh viên nhận thức rất mơ hồ về tác hại của hành vi like nhầm

hoặc like “dạo”. Tại buổi nói chuyện chuyên đề “Hành vi ứng xử của sinh viên trên

MXH” Nhà báo Ngô Bá Lục đã chia sẻ: “Việc nhấn nút like tưởng chừng là vô hại,

những có thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, bởi vậy trước khi like sinh viên cần

đọc kỹ nội dung hoặc suy nghĩ kỹ để quyết định có like hay không” Diễn giả cũng

chia sẻ những câu chuyện của bản thân về nút like như: có một người bạn đăng một

status rất buồn kể về việc mình vừa mất đi một người thân rất quan trọng nhưng vì

anh (Diễn giả) đang vội nên không đọc hết status nên anh đã nhấn “thả tim” cho

người bạn đó. Mãi lúc sau có người bạn khác thắc mắc thì anh mới mở ra xem lại và

vội vàng xin lỗi bạn mình. Từ đó, anh cho biết không bao giờ vội vàng like với status

hay ảnh..của người khác mà thận trọng hơn khi sử dụng nút like này.

Có thể nói, không ai cấm sinh viên like trên MXH bởi nút like mang lại

nhiều thông điệp như: thể hiện số lượng người tương tác, quan tâm đến bài đăng,

một số khác like để ngầm thông báo rằng mình đã đọc, hay like để nội dung từ trang

đó xuất hiện trên bản tin News Feed nhiều hơn. Mặt khác, chỉ số like để người dùng

nhận biết bài đăng nào chất lượng và cần hiển thị lên bảng tin News Feed của nhiều

người hơn. Với facebook, mỗi cái like là một sự chứng thực về chất lượng bài đăng.

Tuy nhiên, trước khi nhất nút like sinh viên nên cân nhắc kỹ nên hay không nên thả

like hay biểu tượng cho bài viết nào đó. Chia sẻ về vấn đề này, đại diện một khoa

trong trường cho biết: “Mỗi sinh viên, phải nâng cao trách nhiệm khi sử dụng MXH,

57

trong đó chú trọng chia sẻ những thông tin hữu ích, những hành động đẹp trong đời

sống. Bên cạnh đó, sinh viên cũng cần đối chiếu, kiểm chứng thông tin trước khi

đăng tải hay nhấn nút like với các nội dung trên không gian mạng”.

Khác với hành vi nhấn nút like, hành vi comment nhận được sự thận trọng

hơn của sinh viên, trong đó sinh viên “không comment khi không cần thiết” chiếm

tỉ lệ lớn (ĐTB = 3.22), trong đó 60,5% sinh viên “không comment khi không cần

thiết” ở mức độ thường xuyên, 14,4% thỉnh thoảng, 12,0% hiếm khi và 13,0% chưa

bao giờ. Như vậy, có đến 60% sinh viên không comment khi không cần thiết cho

thấy sinh viên đã biết cách nhận định và tiết chế hành vi comment của mình. Tuy

vậy, vẫn có đến 29% sinh viên thường xuyên comment về ảnh và status của bạn bè

và người thân, 53,6% thỉnh thoảng comment, 15,3% hiếm khi và chỉ có 2,1% chưa

bao giờ. Cùng với đó, có 9,9% sinh viên comment tất cả những thông tin liên quan

đến học tập ở mức độ thường xuyên, 53,6% thỉnh thoảng, 31% hiếm khi và 5,6%

chưa bao giờ. Như vậy, cùng với hành vi like và đăng tải, sinh viên Nội vụ rất tích

cực trong việc bình luận liên quan đến các nội dung học tập. Cho thấy sinh viên

không thờ ơ với vấn đề học tập của mình. Khác với tỉ lệ sinh viên like “dạo” còn

nhiều, sinh viên comment có trách nhiệm hơn. Trong đó tỉ lệ sinh viên chưa bao giờ

comment tất cả những thông tin mình đọc được chiếm tỉ lệ lớn 44,3% và chỉ có

2,3% sinh viên rất thường xuyên comment nội dung này. Lý giải về vấn đề này,

sinh viên Nguyễn H khóa 17 cho biết: “Thực ra khi like thì rất nhanh, còn comment

thì phải mất thời gian để viết và suy nghĩ cách diễn đạt nên ngại, trừ những nội dung

cần thiết thôi ạ”. Theo phỏng vấn nhanh của nhóm nghiên cứu, đa số sinh viên được

hỏi cho biết thường comment các nội dung như những status, ảnh, gửi lời chúc mừng

sinh nhật hay ngày kỷ niệm nào đó của bạn bè, người thân hoặc comment để hỏi

những vấn đề liên quan đến học tập, xác nhận thông báo của GV, CVHT…những nội

dung khác sinh viên ít khi comment. Lý do chủ yếu dẫn đến sự e ngại khi comment

trên MXH của sinh viên là mất thời gian và những comment có thể dẫn đến hiểu

nhầm, tranh cãi không cần thiết, nhất là các vấn đề tế nhị hay xung đột cá nhân nào

đó trên MXH. Chính vì thế đa số sinh viên lựa chọn “không comment khi không

thực sự cần thiết” đều có nguyên nhân của nó. Có thể nói, hành vi sử dụng MXH của

sinh viên trên không gian mạng rất đa dạng và phong phú, bên cạnh những nội dung

58

chia sẻ liên quan đến học tập, nghiên cứu, thông báo của GV, CVHT, thông tin tuyển

sinh, tuyển dụng…cho thấy mức độ quan tâm và sử dụng MXH của sinh viên rất lớn.

Tuy nhiên, hành vi sử dụng phong phú, đa dạng cũng có những mặt trái của nó, trong

đó sinh viên cần lưu ý về những hành vi đăng tải, chia sẻ của mình trên MXH. Chia

sẻ về vấn đề này, đại diện lãnh đạo phòng CTSV cho biết thêm: “Về hành vi sử dụng

MXH, đa số sinh viên ý thức được hành vi đăng tải, chia sẻ, like, comment…Tuy

nhiên, một số sinh viên chưa ý thức được hết trách nhiệm sử dụng MXH của mình,

hùa theo những hành vi lệch chuẩn, các trào lưu xấu trên MXH”. Trước những hành

vi thiếu chuẩn mực trên MXH, đại diện phòng CTSVcho biết đã trực tiếp trao đổi với

SV và CVHT, lãnh đạo khoa quản lý để có giải pháp định hướng và giáo dục hành vi

sử dụng MXH đúng đắn cho sinh viên. Mặc dù chưa có sinh viên nào phải chịu hình

thức kỷ luật nhưng cần hạn chế hành vi lệch chuẩn của sinh viên trên MXH.

Cùng với hành vi sử dụng MXH biểu hiện qua nội dung đăng tải, hành vi

nhấn nút like và hành vi comment là thời gian sử dụng MXH xét theo thời điểm.

Bảng 2.6. Thời gian sử dụng mạng xã hội xét theo thời điểm

Cùng xem xét, sinh viên sử dụng MXH vào thời điểm nào là nhiều nhất.

Mức độ sử dụng

Thứ

Hiếm khi Chưa bao

Thời điểm

ĐTB

bậc

Thường xuyên N %

Thỉnh thoảng N

%

N %

giờ N %

Trong giờ học

19

3.3

171

29.7

292

50.8

93

16.2 2.20

9

Nghỉ giải lao giữa các tiết

262 45.6

268

46.6

40

7.0

5

0.9

3.37

2

học

Trên xe (xe máy, xe ô

54

9.4

180

31.3

212

36.9

129 22.4 2.28

7

tô…)

42

Khi đang ăn

7.3

169

29.4

223

38.8

114 19.8 2.15

10

87

Khi ở trong toilet

15.1

200

34.8

166

28.9

122 21.2 2.44

7

Trước khi đi ngủ

427 74.3

115

20.0

25

4.3

8

1.4

3.67

1

Khi vừa thức dậy

204 35.5

230

40.0

109

19.0

32

5.6

3.05

4

Khi gặp gỡ bạn bè

120 20.9

296

51.5

138

24.0

21

3.7

2.90

5

Khi đang làm việc

57

9.9

161

28.0

239

41.6

118 20.5 2.27

8

Khi chờ đợi một việc/một

275 47.8

229

39.8

56

9.7

15

2.6

3.33

3

người nào đó

59

Khi tham gia hoạt động

giải trí (uống café, xem

136 23.7

229

39.8

149

25.9

61

10.6 2.77

6

phim…)

Kết quả từ bảng 2.6 cho thấy thời gian xét theo hoàn cảnh sinh viên sử dụng

MXH mọi lúc, mọi nơi tùy mục đích, nhu cầu và tính cách mà thời điểm sinh viên

sử dụng cũng khác nhau. Để thuận lợi hơn trong quá trình xem xét thời điểm sử

Thường xuyên

450 400 350 300 250 200 150 100 50 0

Biểu đồ 4. Thời gian sử dụng mạng xã hội xét theo thời điểm

dụng MXH, nhóm nghiên cứu thiết kế theo biểu đồ như sau:

Kết quả từ bảng và biểu đồ cho thấy, thời điểm sinh viên thường xuyên sử

dụng là trước khi đi ngủ (ĐTB = 3.67) với 427/575 sinh viên thường xuyên sử dụng

chiếm 74,3%; 20% thỉnh thoảng, 4,3% hiếm khi và chỉ có 1,4% sinh viên chưa bao

giờ sử dụng vào thời điểm này. Điều này cho thấy, MXH trở thành người bạn thân

thiết với sinh viên trước khi đi ngủ. Đa số sinh viên được phỏng vấn đều cho rằng

trước khi ngủ các bạn thường xem thông tin, xem phim hoặc nghe nhạc để dễ ngủ

hơn. Điều này cho thấy lướt MXH trước khi ngủ dường như một thói quen khó từ

bỏ đối với 74,3% sinh viên. Bởi vậy, tình trạng sinh viên sa đà vào MXH dẫn đến

tình trạng mất ngủ, nghiện MXH không phải là điều khó diễn ra trong sinh viên.

Giải lao giữa các tiết học là thời điểm được nhiều sinh viên tranh thủ lướt

sinh viên thường xuyên sử dụng, 46,6% thỉnh thoảng, 7,0% hiếm khi và chỉ có

0,9% chưa bao giờ. Theo quan sát của nhóm nghiên cứu cho thấy chỉ cần GV cho

phép nghỉ giải lao thì dù 5 phút, 10 phút hay nhiều hơn thì việc đầu tiên của đa số

60

MXH nhiều thứ 2 trong số các thời điểm được khảo sát (ĐTB = 3.37), với 45,6%

sinh viên là mở điện thoại và lướt MXH. Trong điều kiện sống như hiện nay, mỗi

sinh viên đều có thiết bị điện thoại thông minh được kết nối 3G, 4G hoặc có địa chỉ

wifi nào đó để kết nối mạng để truy cập MXH. Chỉ một bộ phận nhỏ sinh viên

tranh thủ giải lao để đi ra ngoài theo nhu cầu cá nhân, số còn lại đều đọc tin tức

hoặc tranh thủ xem phim, nghe nhạc. Bởi vậy, sự tương tác giữa sinh viên và sinh

viên ngày càng ít đi. Đa số các em chăm chú vào điện thoại nhiều hơn là để ý bắt

chuyện, nói chuyện với bạn bên cạnh, hoặc có nói chuyện cũng chỉ được dăm ba

câu sau đó lại tiếp tục cắm cúi vào với điện thoại. Một trong những nguyên nhân

dẫn đến tình trạng này là do sinh viên học theo tín chỉ, các em đăng ký theo học phần

chứ không học theo đơn vị lớp niên chế nên tình trạng sinh viên vào lớp nhưng chưa

quen bạn, ngại bắt chuyện, ngại giao tiếp dẫn đến việc sinh viên không chủ động trò

chuyện mỗi lần nghỉ giải lao mà chỉ tập trung vào điện thoại của mình. Chia sẻ về

vấn đề này, cô Nguyễn B. H cho biết thêm: “Tình trạng sinh viên ít giao tiếp trực

tiếp với nhau trên lớp ngày càng nhiều. Sinh viên thời nay chỉ tập trung vào điện

thoại, mỗi bạn một điện thoại và mải mê xem phim, nghe nhạc, trong đó chủ yếu là

lướt facebook… Thậm chí, các bạn ngồi cạnh nhau cả buổi không nói với nhau câu

nào”. Phỏng vấn nhanh sinh viên cho biết thêm: “vì sử dụng điện thoại trong giờ

học bị cấm nên được nghỉ giải lao chúng em phải tranh thủ truy cập MXH xem tin

tức và giải trí”.

Thời điểm được sinh viên sử dụng MXH nhiều thứ 3 là lúc chờ đợi một việc

gì đó hay chờ đợi một ai đó (ĐBT = 3.33) với 47,8% thường xuyên sử dụng, 39,8%

thỉnh thoảng, 9,7% hiếm khi và chỉ có 2,6% chưa bao giờ sử dụng trong thời điểm

nay. Có thể nói, với tính tiện dụng, gọn nhẹ của điện thoại thông minh, sinh viên

truy cập MXH mọi lúc mọi nơi đặc biệt trong khoảng thời gian chờ đợi một việc gì

đó hay chờ đợi một người đa số sinh viên đều tranh thủ lướt MXH vừa cập nhật tin

tức vừa để giết thời gian.

Thời điểm khi vừa thức dậy xếp vị trí thứ 4 trong số các thời điểm sử dụng

MXH của sinh viên (ĐTB = 3.05), có 35,5% sinh viên thường xuyên sử dụng MXH

ở thời điểm này, 40% thỉnh thoảng, 19% hiếm khi và 5,6% chưa bao giờ sử dụng

MXH khi vừa thức dậy. Có thể nói, thời điểm trước lúc ngủ và sau khi thức dậy là

61

2 thời điểm lý tưởng để sử dụng MXH. Trước khi ngủ là lúc đã hết việc trong một

ngày, sinh viên tranh thủ lướt mạng cũng là cách dễ đi vào giấc ngủ khi đọc tin,

nghe nhạc, xem phim…và thời điểm mỗi sáng thức dậy, việc đầu tiên sẽ mở điện

thoại và tranh thủ lướt MXH để cập nhật thông tin cho ngày mới. Đây là thói quen

khó từ bỏ của nhiều người, trong đó có sinh viên. Phỏng vấn sinh viên khóa 19, bạn

Nguyễn P. T cho biết: “Buổi sáng thức dậy, việc đầu tiên là em tìm điện thoại và

xem tin tức trên facebook. Em dành khoảng 30 phút mỗi buổi sáng để truy cập

MXH, sử dụng MXH mỗi buổi sáng trở thành thói quen của em rồi”. Thói quen

này của bạn P.T nhận được đa số tán thành của sinh viên trong lớp. Đa số các em

đều có cùng câu trả lời: “chúng em cũng thế cô ạ”. Như vậy, có thể thấy MXH gắn

với cuộc sống của sinh viên nhiều như thế nào. Hầu như thời điểm nào, sinh viên

cũng tranh thủ truy cập MXH với các mục đích khác nhau. Như kết quả từ biểu đồ

1 cho thấy nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên khá đơn giản nhưng thực tế thời

gian và thời điểm sử dụng MXH của sinh viên rất đa dạng. Gần như truy cập mọi

lúc mọi nơi. Điều này cho thấy sinh viên không chỉ dành nhiều thời gian cho MXH

mà còn lệ thuộc vào MXH và biến việc sử dụng MXH thành thói quen khó từ bỏ.

Đó chính là lý do vì sao, dù hành vi sử dụng MXH trong giờ học là bị cấm với các

mức độ xử phạt khác nhau nhưng tỉ lệ sinh viên lén lút sử dụng vẫn diễn ra (ĐTB =

2.20), cụ thể có 3,3% sinh viên thường xuyên sử dụng, 29,7% thỉnh thoảng, 50,8%

hiếm khi và chỉ có 16,2% chưa bao giờ sử dụng MXH trong giờ học. Trong thực tế

hoạt động giảng dạy nhóm nghiên cứu quan sát thấy một bộ phận không nhỏ sinh

viên lợi dụng lớp đông, giảng viên mải giảng bài để sử dụng điện thoại. Một số sinh

viên bị nhắc nhở đã tự giác tắt điện thoại và không tái phạm, số còn lại vẫn tranh

thủ mọi thời điểm và dùng các thủ đoạn tinh vi như dùng túi, sách vở… che chắn

tầm nhìn của GV để sử dụng điện thoại, lướt facebook... trong giờ học. Bởi vậy, số

sinh viên GV bộ môn bị tịch thu điện thoại, trừ điểm học tập, nhắc nhở trước lớp…

phải viết bản tự kiểm điểm cũng không hiếm gặp. Với khối lượng kiến thức nhiều,

lớp đông sinh viên GV không thể nào kiểm soát hết được hành vi sử dụng điện

thoại trong giờ học của sinh viên. Việc kiểm soát hành vi này vẫn là tùy thuộc vào

ý thức, trách nhiệm của mỗi sinh viên khi tham gia học tập ở môi trường đại học.

Việc ban hành quy chế cấm sử dụng điện thoại trong giờ học với các chế tài xử

62

phạt chính là một trong những biện pháp hạn chế hành vi sử dụng điện thoại trong

giờ học của sinh viên trong thời gian qua tuy nhiên để phát huy hiệu quả, vẫn cần

có những chế tài mạnh tay hơn với hành vi này.

Ý kiến khác

g. Không truy cập mạng công cộng

f. Thường xuyên thay đổi mật khẩu

e. Hạn chế liên kết với các tài khoản khác

d. Khoanh vùng nhóm bạn

c. Để mật khẩu khó nhớ, không chia sẻ mật …

b. Không đưa thông tin về cá nhân trên mạng …

a. Cảnh giác với những tin nhắn, đường link lạ

0

50

100

150

200

250

300

Biểu đồ 5. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân của sinh viên trên MXH

2.1.5. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân trên MXH

Hiểu đơn giản, bảo mật thông tin chính là việc bảo đảm an toàn cho thông

tin của một người, một đơn vị/tổ chức nào đó, để kẻ gian không thể xâm nhập và

lấy cắp những thông tin ấy [43]. Bảo mật thông tin là việc làm cần thiết của mọi

đơn vị và cá nhân, đặc biệt là trong thời đại Internet phát triển như vũ bão như hiện

nay. Internet và mạng xã hội (MXH) phát triển mạnh mẽ, con người chúng ta thì lại

thích dành nhiều thời gian để ở trong “thế giới ảo” này. Sử dụng internet và mạng

xã hội mang lại nhiều lợi ích nhưng nếu người dùng không biết cách bảo vệ thông

tin cá nhân của mình trên các phương tiện đó thì sẽ dẫn đến hậu quả tai hại. Điều

này cho thấy, vấn đề bảo mật thông tin cá nhân trên MXH rất quan trọng. Tình

trạng sinh viên bị đánh cắp tài khoản, đánh cắp thông tin và hình ảnh không còn

hiếm gặp. Chia sẻ về vấn đề này, bạn Hoàng M khóa 18 cho biết: “Em đã từng bị

đánh cắp ảnh trên facebook, sau đó kẻ xấu lập tài khoản giả mạo lấy ảnh của em

làm ảnh đại diện và dùng tài khoản đó kết bạn, đăng ảnh, chia sẻ, bình luận những

nội dung thiếu lành mạnh trên MXH, họ còn mạo danh tài khoản của em đi vay tiền

của mọi người. Biết được việc đó, em phải lên trang cá nhân đính chính và thông

báo cho mọi người biết tài khoản đó là giả mạo để tránh bị lừa”. Ngoài ra, bạn Đào

khoản, họ (người đánh cắp) đi vay tiền khắp nơi, còn dùng lời lẽ thiếu tế nhị để

bình luận trên trang cá nhân của người khác. Có một số bạn đã bị lừa chuyển

khoản vào số tài khoản họ cung cấp. Sau đó, bạn ấy phải nhờ sự can thiệp mới lấy

63

N. P. D khóa 19 cho biết thêm: “Lớp em đợt trước cũng có bạn bị đánh cắp tài

lại được tài khoản cá nhân của mình”. Ngoài ra, qua buổi phỏng vấn nhanh, nhóm

nghiên cứu còn được biết rất nhiều sinh viên gặp hoàn cảnh tương tự. Tuy nhiên,

khi được hỏi “Các em bảo mật thông tin cá nhân trên MXH như thế nào?” thì đa số

sinh viên tỏ ra lúng túng và chỉ có một số cách thức bảo mật thông tin đơn giản.

Kết quả khảo sát cho thấy, cách thức bảo mật thông tin trên MXH của sinh

viên tương đối đơn giản với sự lựa chọn tương đối thấp. Trong đó, cách thức được

lựa chọn nhiều nhất là cảnh giác với những tin nhắn, đường link lạ được 256 sinh

viên lựa chọn (chiếm 44,5%). Có thể nói, các thủ đoạn lừa đảo trên mạng ngày

càng tinh vi, trong đó có việc gửi những tin nhắn, đường link cho người dùng với

các nội dung hấp dẫn, tạo sự tò mò của người dùng, nếu người dùng click chuột vào

đường link đó, ngay lập tức sẽ bị đánh cắp tài khoản, thông tin hoặc những rủi ro

khác có thể vướng phải. Theo các chuyên gia công nghệ thông tin, hàng ngày có tới

hơn 7.000 dòng mã độc ăn cắp thông tin (trojan) trên điện thoại di động mới xuất

hiện, chiếm 35% tổng số dòng mã độc trên điện thoại di động được phát hiện mỗi

ngày, tăng gần gấp 2 lần so với năm 2015. Qua đó biến dòng mã độc ăn cắp thông

tin đã trở thành loại mã độc được phát tán nhiều nhất trên toàn cầu. Chúng thu thập

các thông tin cá nhân như tin nhắn, mật khẩu, tài khoản ngân hàng và các dữ liệu

nhạy cảm khác một cách âm thầm, người dùng không hề hay biết. Không chỉ riêng

trên điện thoại di động, người dùng internet có nguy cơ lộ thông tin cá nhân ở bất

kỳ điểm, thiết bị truy cập nào nếu không biết cách bảo vệ thông tin mật của mình

[42]. Bởi vậy, cảnh giác với những tin nhắn, đường link lạ là cách thức được nhiều

sinh viên lựa chọn để bảo vệ tài khoản của mình.

Cách thức thứ 2 sinh viên lựa chọn để bảo vệ thông tin cá nhân của mình là

không đưa thông tin về cá nhân lên mạng xã hội chiếm 22,4%; Có thể nói, đây là

một trong những thông tin được các chuyên gia khuyến cáo đến người dùng nói

chung và sinh viên nói riêng. Bởi, theo chuyên gia đào tạo về an toàn thông tin mạng

Ngô Việt Khôi chia sẻ: khi bạn sử dụng mạng xã hội càng lâu thì thông tin để vẽ lại

chân dung của bạn càng rõ ràng. Vì đó là cơ sở dữ liệu lớn (Big data) mà những đơn

vị vận hành mạng xã hội có thể thu thập qua từng ngày, từng giờ. Với việc ứng dụng

trí tuệ nhân tạo, các thông tin đã thu thập được xử lý, tạo nên những trường dữ liệu

64

mà ứng dụng xã hội có thể bán thông tin người dùng cho những đơn vị cần mua. Do

vậy, khi chúng ta đã công khai chia sẻ các dữ liệu cá nhân thì việc các dữ liệu này bị

thu thập, bị xử lý và chia sẻ sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát của người sử dụng [41].

Chính vì thế, 129/575 sinh viên lựa chọn cách thức này để bảo mật thông tin cá nhân.

Có thể nói, cách thức này mang tính hiệu quả cao, bởi nếu sinh viên không đưa các

thông tin cá nhân lên MXH thì kẻ xấu không thể nào lợi dụng để đánh cắp hay thực

hiện hành vi xấu. Tuy nhiên, tỉ lệ sinh viên lựa chọn cách thức này là chưa nhiều

thậm chí là thấp so với số lượng sinh viên khảo sát. Tình trạng sinh viên cập nhật và

cập nhật liên tục các hoạt động, thông tin cá nhân bao gồm cả số điện thoại, trường

học, địa chỉ nhà, địa điểm du lịch của bản thân và bạn bè, người thân lên MXH vô

tình trở thành mảnh đất “màu mỡ” cho kẻ xấu xâm nhập, lợi dụng và đánh cắp.

Cách thức để mật khẩu khó nhớ, không chia sẻ mật khẩu với bất kỳ ai chiếm

16% trong tổng số sinh viên được khảo sát. Việc cài password cho các thiết bị cá

nhân là vô cùng cần thiết đối với người dùng. Các chuyên gia MXH khuyến cáo sinh

viên cần phải tự bảo vệ thông tin của cá nhân mình bằng cách đơn giản nhất đó là cài

đặt khóa màn hình bằng mật khẩu đối với tất cả các thiết bị điện tử của chính mình. 1

tip hay ho dành cho sinh viên đó là hãy đặt thời gian khóa màn hình càng ngắn càng

tốt. Điều này sẽ gây khó khăn cho những kẻ muốn tấn công thiết bị của bạn từ xa.

Ngoài ra, những cách thức khác sinh viên sử dụng để bảo vệ thông tin cá

nhân của mình như thường xuyên thay đổi mật khẩu chiếm 6,8%; hạn chế liên kết

với tài khoản khác chiếm 5,6%. Cách thức ít được sinh viên lựa chọn là khoanh

vùng nhóm bạn và không truy cập mạng công cộng. Thực tế quan sát cho thấy, truy

cập mạng công cộng tại trung tâm mua sắm, bệnh viện, công viên… chứa đựng

nhiều rủi ro, bởi vậy sinh viên không tùy tiện kết nối thiết bị của mình vào các loại

mạng wifi công cộng, đặc biệt không sử dụng loại wifi này để vào tài khoản mạng

xã hội, tài khoản ngân hàng hay thanh toán trực tuyến… vì nguy cơ bị đánh cắp

thông tin là rất cao.

Như vậy, tình trạng sinh viên bị đánh cắp thông tin cá nhân, đánh cắp tài

khoản không phải là hiếm gặp và gây ra những hệ lụy phức tạp. Tuy nhiên, cách

thức bảo mật thông tin cá nhân trên MXH tương đối đơn giản. Đa số sinh viên chỉ

lựa chọn một hình thức bảo mật và khá chủ quan về tài khoản của mình. Thậm chí,

65

một số bạn sinh viên còn không chú trọng đến khâu này. Đây chính là một trong

những điểm yếu và điều đáng lưu tâm khi dùng MXH của sinh viên, GV, CVHT có

thể có hướng dẫn cụ thể giúp sinh viên nhận thức tốt hơn tầm quan trọng của việc

bảo mật thông tin trên MXH từ đó lựa chọn cách thức bảo mật an toàn, hiệu quả

tránh “mất bò mới lo làm chuồng”. Trong đó, GV, CVHT nên hướng dẫn cho SV

một số cách thức những cách thức bảo mật hiệu quả, dễ sử dụng như bảo mật 2 lớp

rất thông dụng hiện nay. Thông qua các ứng dụng như google Autheticator để bảo

mật 2 lớp cho các tài khoản đám mây. Ngoài ra, các bước cài đặt bảo mật 2 lớp trên

điện thoại và các trang MXH tương đối đơn giản nhưng tính hiệu quả rất cao. Bởi

vậy, nếu kẻ xấu muốn xâm nhập và đánh cắp tài khoản, sẽ phải qua bước xác minh

qua tin nhắn điện thoại hoặc qua gmail cá nhân. Chính bước xác minh này đã giúp

người dùng nói chung và SV nói riêng bảo vệ được tài khoản của mình.

2.1.6. Lợi ích và tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên

Lợi ích và tác hại của mạng xã hội hiện là vấn đề được nhiều người quan

tâm. Facebook, Twitter hoặc Youtube là những mạng xã hội phổ biến nhất hiện nay

với số lượng người dùng đông đảo. Bên cạnh là nền tảng kết nối mọi người gần

nhau hơn, chia sẽ những khoảnh khắc đẹp thì những MXH này tiềm ẩn nhiều nguy

cơ gây ảnh hưởng đến chính người dùng. MXH mang lại nhiều lợi ích khi người

dùng biết sử dụng đúng cách. Đối với sinh viên trường ĐHNVHN cũng vậy, mức

độ sử dụng MXH là thường xuyên, MXH mang lại cho sinh viên nhiều lợi ích khác

Biểu đồ 6. Lợi ích khi sử dụng mạng xã hội của sinh viên

Kết quả từ biểu đồ cho thấy MXH mang lại cho sinh viên rất nhiều lợi ích

khác nhau. Trong đó, MXH giúp sinh viên cập nhật thông tin nhanh chóng là lợi ích

66

nhau, cụ thể như sau:

được nhiều sinh viên lựa chọn chiếm 38,1%. Điển hình, trang Facebook với tính

năng like trang, người đọc sẽ nhận được ngay những thông tin cập nhật của trang

mạng mình yêu thích hoặc quan tâm về đủ các thể loại và nhà cung cấp hay nhà

quảng cáo cũng có thể nhanh chóng cập nhật xu thế mới nhất của lĩnh vực mình

yêu thích. Sinh viên cũng có thể xem tin tức hay cập nhật những bộ phim, những

video clip nhạc mới nhất trên youtube, facebook hay các trang social network khác

rất nhanh chóng. Đặc biệt, trong thời đại công nghệ và MXH lên ngôi các thông tin

về học tập, tuyển sinh, chế độ chính sách…đều được các khoa, phòng ban chức

năng đăng tải lên fanpage để sinh viên dễ dàng tiếp cận và tiếp cận nhanh chóng. Ví

dụ như phòng Khảo thí và Bảo đảm chất lượng có fanpage “Phòng khảo thí và Bảo

đảm chất lượng – ĐH Nội vụ Hà Nội” để cập nhật thông báo liên quan đến điểm

thi, lịch thi, mẫu đơn và các vấn đề khác. Trang fanpage của phòng nhận được hơn

1,6k người thích và theo dõi trang. Phòng công tác sinh viên có fanpage “Phòng

công tác sinh viên – Đại học Nội vụ Hà Nội” có hơn 5.687 thành viên tham gia.

Fanpage “Tư vấn tuyển sinh – Đại học Nội vụ Hà Nội” có hơn 9.264 người thích

trang. Ngoài ra, các fanpage khác của các khoa, phòng, các câu lạc bộ đều cập nhật

nhanh chóng thông tin đến với sinh viên một cách nhanh nhất. Đây có thể nói là lợi

thế lớn nhất mà MXH mang lại cho người dùng, trong đó có sinh viên. Ngoài ra,

các thông tin về các vấn đề nóng trong xã hội cũng được cập nhật liên tục theo đơn

vị thời gian tính bằng giây là ưu việt của các trang MXH. Là điểm lôi cuốn của

MXH đến với người dùng. Đây cũng chính là lý do vì sao sinh viên nói riêng và

người dùng nói chung dành cho MXH thời gian trong ngày nhiều như thế.

Cũng chính vì lẽ đó, MXH đã giúp sinh viên tìm kiếm và trao đổi tài liệu học

tập, nghiên cứu góp phần nâng cao kết quả học tập và rèn luyện chiếm 19,8%. Giúp

SV học hỏi và phát triển kỹ năng và bày tỏ quan điểm cá nhân về các lĩnh vực liên

quan chiếm 12,0%. Ngoài ra, các lợi ích còn lại nhận được tỉ lệ lựa chọn thấp hơn.

Có thể nói, MXH mang lại cho con người nói chung và sinh viên nói riêng rất

nhiều lợi ích tốt đẹp nếu sinh viên biết khai thác, tận dụng một cách thông minh,

hiệu quả, hiện nay trên các mạng xã hội xuất hiện ngày càng nhiều các trang dạy

ngoại ngữ, nấu ăn, sửa chữa, giao tiếp, tâm lý, thể thao để sinh viên có thể xem

67

tham khảo, tự học mà không cần đến lớp hay đóng lệ phí. Không những thế, MXH

còn mang đến tính kết nối rộng rãi trên khắp thế giới, xóa nhòa khoảng cách địa lý

để con người được giao lưu, học hỏi lẫn nhau. Có không ít trường hợp nhờ MXH

để kết nối tìm lại những người bạn từ thủa hàn vi, cũng nhờ MXH kết nối bác sỹ

trên khắp thế giới để cứu giúp một bệnh nhân không quen biết. Và còn rất nhiều lợi

ích khác mà MXH mang lại như cơ hội kinh doanh, xây dựng hình ảnh và giới

thiệu bản thân trên MXH. Tuy nhiên số lượng sinh viên được khảo sát nhận thức

được các lợi ích của MXH rất thấp. Chỉ có 3,8% sinh viên nhận thấy cơ hội tạo môi

trường kinh doanh và các hoạt động buôn bán mang lại thu nhập cao, tìm kiếm

khách hàng tiềm năng trên MXH, sinh viên Nội vụ, bên cạnh số lượng sinh viên

tham gia kinh doanh như bán đồ ăn tự làm, bán mỹ phẩm, quần áo, bảo hiểm, giày

dép…trên MXH thì tỉ lệ sinh viên tham gia MXH đơn thuần là giải trí vẫn còn

nhiều, dẫn đến việc các bạn chưa nhận thấy lợi ích này của MXH. Ngoài ra, mức

độ sử dụng MXH của sinh viên là rất lớn, hành vi đăng tải cũng được đánh giá ở

mức độ thường xuyên và rất thường xuyên, trong đó tỉ lệ sinh viên đăng tất cả mọi

hoạt động của cá nhân lên MXH không phải là ít, nhưng dường như, sinh viên chưa

nhận thức được rằng tất cả những gì bạn thể hiện trên MXH, trên trang cá nhân của

mình chính là phản ánh con người “thứ 2” của sinh viên. Bởi thế, lợi ích giới thiệu

hình ảnh cá nhân đến mọi người từ đó nâng cao cơ hội phát triển khả năng trên

MXH chưa được sinh viên đánh giá cao, chỉ chiếm 2,4% ý kiến. Các ý kiến khác

chiếm tỉ lệ thấp.

Khảo sát về vấn đề này, GV, CVHT cho thấy, đánh giá của GV,CVHT về lợi

ích MXH mang đến cho sinh viên cũng có những điểm tương đồng nhất định, tuy

nhiên đánh giá của GV,CVHT về lợi ích của MXH đầy đủ và khách quan hơn, cụ

thể đa số GV, CVHT đều cho rằng MXH giúp sinh viên dễ dàng cập nhật thông tin

nhanh chóng, hiệu quả và giúp sinh viên kết nối bạn bè trên khắp thế giới đều

chiếm 85,7%. Giúp sinh viên học hỏi, phát triển kỹ năng và bày tỏ quan điểm cá

nhân trong các lĩnh vực liên quan chiếm 77,1%; MXH giúp SV giới thiệu hình ảnh

cá nhân đến mọi người từ đó nâng cao cơ hội phát triển khả năng của bản

thânchiếm 71,4% trong khi lợi ích này chỉ có 2,4% sinh viên lựa chọn. Ngoài ra,

các lợi ích khác của MXH cũng được GV, CVHT đánh giá cao như tạo môi trường

68

kinh doanh và các hoạt động buôn bán mang lại thu nhập cao, tìm kiếm khách hàng

tiềm năng chiếm 68,8%. Giúp sinh viên nâng cao cảnh giác với các thủ đoạn trên

mạng và ở đời thực chiếm 45,7% [PL bảng số liệu, câu 5]

Như vậy, có thể nói GV, CVHT nhận thấy nhiều lợi ích MXH mang lại cho

sinh viên, nhưng bản thân các em lại chưa nhận thức rõ điều đó. Đây chính là một

trong những bất cập của sinh viên khi sử dụng MXH. Mức độ, thời gian sử dụng rất

thường xuyên, mục đích sử dụng phong phú, hành vi đăng tải nhiều nhưng lại

không nhận thấy và chưa khai thác được lợi ích của MXH. Đây quả là điều đáng

tiếc và đáng lưu ý đối với sinh viên hiện nay.

Cùng với các lợi ích MXH mang lại cho sinh viên khi sử dụng, MXH cũng

có những tác động tiêu cực khi sinh viên sử dụng, cụ thể như sau:

Biểu đồ 7. Tác động tiêu cực khi sử dụng mạng xã hội của sinh viên

Kết quả từ biểu đồ cho thấy, sinh viên đã nhận diện được những tác động

tiêu cực khi sử dụng MXH, tuy nhiên tỉ lệ lựa chọn chưa cao. Cụ thể, có 25,7%

giảm tương tác ngoài đời thực. Đây là một trong những tác động được sinh viên

sinh viên cho rằng việc sử dụng MXH sẽ tạo ra hội chứng nghiện MXH dẫn đến

đánh giá cao nhất trong số những tác động tiêu cưc MXH mang đến cho người

dùng nói chung và sinh viên nói riêng. Thực tế cho thấy, thời gian sử dụng MXH

mỗi ngày của SV là rất lớn, trong đó có 13% sinh viên sử dụng> 8 giờ mỗi ngày

cho thấy tình trạng nghiện MXH cũng không phải là không xảy ra. Nghiện MXH

không chỉ khiến sinh viên dành ít thời gian cho người thật việc thật ở quanh mình,

trước mắt. Theo quan sát của nhóm nghiên cứu, tỉ lệ sinh viên dành thời gian truy

cập MXH là rất lớn, các em truy cập mọi lúc mọi nơi có thể, thậm chí còn lén lút sử

mà còn khiến họ buồn phiền khi sinh viên coi trọng bạn bè “ảo” hơn những gì ở

69

dụng trong giờ học. Chia sẻ về vấn đề này, một sinh viên khóa 19 ngành Quản lý

nhà nước cho biết: “em online MXH 24/24 giờ. Cứ có thời gian rảnh hoặc thuận

tiện là em lướt mạng. em có thể dành hàng giờ đồng hồ chỉ để ngồi xem facebook

hoặc xem phim trên Youtube”. Phỏng vấn nhanh sinh viên với câu hỏi: “Nếu một

ngày không sử dụng MXH, các em sẽ cảm thấy như thế nào?” Đa số sinh viên được

hỏi đều trả lời: “Một ngày không truy cập MXH sẽ thấy thiếu vắng, buồn và sốt

ruột”, số ít sinh viên còn lại cho rằng: “bình thường, có dùng cũng được, không

dùng cũng không sao”. Như đã trình bày ở trên, MXH có rất nhiều tính năng hấp

dẫn, với các ứng dụng được thay đổi liên tục, thú vị thu hút sự tò mò khám khá của

người dùng, kho thông tin được cập nhật nhanh chóng, sự liên kết các trang nhanh

chóng, kho phim khổng lồ, miễn phí, các ứng dụng game phong phú làm cho người

dùng bị cuốn theo các nội dung trên MXH mà quên mất thời gian. Dần dà, MXH

trở thành thói quen không thể thiếu và tạo nên hội chứng “nghiện” MXH ở một bộ

phận không nhỏ người dùng, trong đó có sinh viên.

Một trong những tác động tiêu cực của MXH được 19,5% sinh viên lựa chọn

chính là lãnh phí thời gian và sao nhãnh học hành. Thời gian dành cho MXH quá

nhiều là sự lãng phí thời gian rất lớn của sinh viên. Dẫu biết rằng, nhu cầu và mục

đích sử dụng MXH của sinh viên có phục vụ học tập, tìm kiếm thông tin và trao đổi

tài liệu. Tuy nhiên, tỉ lệ sinh viên khai thác MXH phục vụ mục đích học tập chưa

nhiều. Thực tế, các nội dung học tập, những kiến thức chuyên ngành khi đăng tải

lên MXH vẫn mang tính hàn lâm hoặc khô khan nên chưa thu hút được nhiều sinh

viên chia sẻ hoặc nghiên cứu. Không giống như các thông tin trên mạng, phong

phú, “hót” và lôi cuốn sinh viên đọc, xem hết trang này đến trang khác. Chính

những tiện ích của MXH đã lôi cuốn sinh viên làm cho sinh viên sao nhãng học

hành. Khi được hỏi: “MXH có ảnh hưởng đến kết quả học tập của em không? Đa

số sinh viên được hỏi trả lời “có ảnh hưởng”, số còn lại cho rằng “rất ít ảnh hưởng

hoặc không ảnh hưởng”. Thực tế quan sát cho thấy, việc sinh viên sa đà vào MXH

dẫn đến sao nhãng học hành là có xảy ra. Hoạt động giảng dạy cho thấy mức độ tập

trung vào bài học của một số sinh viên không cao, các bạn dùng các hình thức tinh

vi để sử dụng điện thoại truy cập MXH. Dù đã bị GV nhắc nhở nhưng vẫn có

trường hợp tái diễn buộc GV phải có các biện pháp mạnh hơn như tịch thu điện

70

thoại, thông báo với cố vấn học tập quản lý lớp.

Như đã phân tích ở trên, thời điểm sinh viên sử dụng điện thoại nhiều nhất là

trước khi đi ngủ. Chính vì thế, những nội dung phong phú, đa dạng của MXH lôi

cuốn sinh viên xem liên tục đã ảnh hướng trực tiếp đến thời gian học tập, thời gian

ngủ nghỉ. Tình trạng sinh viên vì mải mê xem MXH dẫn đến mất ngủ cũng không

hiếm gặp. Bởi vậy, tác động tiêu cực khi sử dụng MXH mà sinh viên chịu ảnh

hưởng chính là làm sinh viên mệt mỏi, mất ngủ và lười vận động chiếm 17%.

Chính thời gian xem MXH quá nhiều không ngủ đủ giấc ảnh hưởng đến sức khỏe

là điều hiển nhiên. Chưa kể, khi sử dụng MXH sinh viên phải dùng điện thoại, kết

nối mạng cũng là một trong những tác nhân ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thần kinh

rất lớn. Ánh sáng tỏa ra từ màn hình các thiết bị điện tử sẽ đánh lừa não của bạn,

gây rối loạn nhịp sinh học. Từ đó dẫn đến tình trạng hiếu ngủ, ảnh hưởng nghiêm

trọng cho sức khỏe và tinh thần.Ngoài ra, việc sử dụng nhiều MXH cũng làm cho

sinh viên trở nên lười vận động. Theo quan sát của nhóm nghiên cứu, ngày trước,

khi MXH chưa phổ biến, sau mỗi tiết học sinh viên được nghỉ giải lao đều giao lưu

với nhau, trò chuyện với nhau, thậm chí đùa giỡn với nhau rất vui vẻ. Thế nhưng

giờ đây, khi mỗi bạn có một chiếc điện thoại chăm chú, cắm cúi lướt mạng hoặc

xem phim, nghe nhạc không còn dành thời gian nói chuyện, chia sẻ đùa vui cùng

nhau nữa. Bạn bè xa cách lại càng xa cách thêm. Ngoài ra, chính việc tham gia quá

nhiều trên MXH làm giảm thời gian dành cho các hoạt động thể dục thể thao. Các

hoạt động của sinh viên đa phần trên mạng nhiều hơn là ngoài đời thường. Cũng

chính vì thế, MXH làm cho sinh viên ngày càng lệ thuộc vào MXH và hạn chế tính

sáng tạo chiếm 15% ý kiến lựa chọn. Lướt các trang MXH sẽ làm tê liệt tâm trí của

con người, tương tự như xem truyền hình một cách vô thức, bởi vậy để phát huy

tính sáng tạo và dành thời gian tham gia các hoạt động, sinh viên phải có đủ tỉnh

táo và can đảm thoát khỏi các ứng dụng của MXH, thậm chí đăng xuất hay khóa

các tài khoản không cần thiết tránh việc lạm dụng MXH sẽ ảnh hưởng đến cuộc

sống ngoài đời thật.

Ngoài ra, các tác động như gia tăng nhu cầu sống “ảo” trên MXH chiếm

6,4%; gia tăng các hội chứng nghiện game và phim chiếm 4,9%; gia tăng các hành

vi thiếu văn hóa trên MXH. Trong đó, tác động rất nguy hiểm của MXH chính là

71

làm tăng nguy cơ mắc các bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu ảnh hưởng đến sức khỏe

và kết quả học tập. Theo các nghiên cứu gần đây, những người thường xuyên sử

dụng MXH thường có cảm xúc tiêu cực nhiều hơn, bao gồm cả trầm cảm. Sử dụng

MXH đặc biệt có hại đối với những người có tiền sử mặc bệnh trầm cảm. Bởi vậy,

khi nhận thấy dấu hiệu mệt mỏi, bi quan khi sử dụng MXH, sinh viên cần ngưng sử

dụng MXH ngay.

So sánh nhận thức về tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên và

GV, CVHT cho thấy sự đánh giá của GV, CVHT và sinh viên có sự tương đồng

nhất định. Trong đó, đa số GV, CVHT đồng ý với sinh viên về tác động tiêu cực

của MXH như tạo ra hội chứng “nghiện” MXH dẫn đến giảm tương tác ngoài đời

thực của sinh viên với 85,7% GV, CVHT lựa chọn. Lãng phí thời gian và sao nhãng

học hành cũng là tác động tiêu cực của MXH được 80% GV, CVHT đồng ý. Ngoài

ra, theo 77,1% GV, CVHT cho rằng MXH làm gia tăng các hành vi thiếu văn hóa

của một bộ phận sinh viên trên không gian mạng. Có thể nói, tình trạng sinh viên

có những hành vi, ngôn ngữ thiếu chuẩn mực trên MXH không phải hiếm gặp. Đặc

biệt khi sinh viên có những mâu thuẫn, có những khúc mắc ngoài đời thật thường

mang lên MXH để “xả” bằng những ngôn từ khó nghe, phản cảm. Hành vi này vừa

làm tổn hại uy tín của bản thân sinh viên, vừa làm ảnh hưởng đến thương hiệu

“sinh viên nội vụ” trên không gian mạng. Đây là điều sinh viên phải thật sự lưu ý

khi sử dụng MXH bởi lúc này, sinh viên không chỉ là đại diện cho chính mình mà

còn thực hiện vai trò xã hội của mình trong việc giữ gìn và phát triển hình ảnh,

thương hiệu “sinh viên nội vụ” trên MXH, như chia sẻ của thầy Hiệu trưởng: “mỗi

sinh viên là một đại sứ thương hiệu của Nhà trường”. Ngoài ra, một số tác động

tiêu cực khác khi sinh viên sử dụng MXH cũng được GV, CVHT lựa chọn như:

tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu ảnh hướng đến sức khỏe và kết quả

học tập chiếm 64,3%; gia tăng tỉ lệ sống “ảo” trên MXH chiếm 61,4% [PL bảng số

liệu, câu 6]. Kết quả khảo sát cho thấy SV đã nhận thức được những lợi ích và tác

động tiêu cực của MXH đến với sinh viên. Tuy nhiên, nhận thức về vấn đề này của

sinh viên chưa cao, còn mang tính đơn giản với các tỉ lệ lựa chọn thấp. Ngược lại,

GV, CVHT có sự đánh giá tốt hơn về lợi ích và tác động tiêu cực của MXH đến với

sinh viên. Từ đó, GV, CVHT có thể định hướng, hỗ trợ giúp sinh viên nhận thức tốt

72

hơn, đầy đủ hơn lợi ích cũng như những tác động tiêu cực của MXH đến sinh viên

để sinh viên có hiểu biết toàn diện hơn về MXH.

Như vậy, nhóm nghiên cứu đã phân tích thực trạng sử dụng MXH của SV

biểu hiện qua nhu cầu sử dụng, mức độ sử dụng, mục đích sử dụng, hành vi sử dụng,

cách thức bảo mật thông tin và những lợi ích, tác động tiêu cực khi SV sử dụng

MXH. Các số liệu được phân tích là cơ sở thực tiễn quan trọng để nhóm nghiên cứu

đánh giá thực trạng sử dụng MXH của SV ĐHNVHN trong giai đoạn hiện nay.

2.2. Đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học

Nội vụ Hà Nội

2.2.1. Ưu điểm

Kết quả phân tích thực trạng cho thấy vấn đề sử dụng MXH của sinh viên

trường ĐHNVHN có một số ưu điểm nổi bật sau:

Thứ nhất, sinh viên nhạy bén với các trang MXH rất phổ biến hiện nay. Số

liệu khảo sát cho thấy 100% sinh viên sử dụng MXH trong đó facebook, instagram,

youtube, zalo...là những trang MXH được sinh viên sử dụng nhiều nhất. Điều này

cho thấy SV trường ĐHNVHN bắt kịp với các xu hướng sử dụng MXH trên thế

giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Việc tiếp cận nhanh với các trang MXH

phổ biến với các tính năng ngày càng cập nhật cho thấy sinh viên trường Nội vụ

không bị tụt hậu so với sự phát triển của công nghệ mà còn nắm bắt và hướng việc

sử dụng MXH phục vụ cho các mục đích của mình. Đây cũng chính là cũng là một

trong những bằng chứng cho thấy sinh viên Nội vụ tiếp cận rất nhanh với khoa học

công nghệ trong thời đại công nghiệp 4.0 hiện nay.

Thứ hai, đa số sinh viên năng động trong việc xác định nhu cầu và mục đích

sử dụng MXH của mình. Trong đó, tương tác, kết nối bạn bè; giải trí và học tập là

những nhu cầu lớn khi SV sử dụng MXH, những nhu cầu khác tuy sự lựa chọn

không nhiều những cũng cho thấy sinh viên đã bước đầu nhận diện được nhu cầu

khi sử dụng MXH của mình. Có thể nói, việc xác định được nhu cầu khi sử dụng

MXH rất quan trọng đối với mỗi sinh viên, chính những nhu cầu này sẽ thúc đẩy

hành động sử dụng MXH mỗi ngày của sinh viên. Bởi vậy, xác định đúng nhu cầu

sử dụng MXH sẽ là một trong những yếu tố then chốt giúp sinh viên định hướng

mục đích và hành vi sử dụng MXH của mình. Chính vì thế, mục đích sử dụng

MXH của sinh viên Nội vụ rất phong phú và đa dạng. Các mục đích như kết nối và

73

giữ liên lạc với bạn bè, cập nhật tin tức mới; mục đích học tập, giải trí... được đa số

sinh viên lựa chọn. Ngoài ra, các mục đích khác cũng nhận được nhiều sự lựa chọn

như tìm việc làm thêm; quảng cáo, kinh doanh, bán hành online...cho thấy sự năng

động của SV trường ĐHNVHN trên không gian mạng.

Thứ ba, sinh viên thể hiện trách nhiệm khi sử dụng MXH thông qua các nội

dung đăng tải, chia sẻ, like, bình luận trên không gian mạng. Có thể nói, hành vi sử

dụng MXH của sinh viên rất đa dạng và phong phú, trong đó nội dung về học tập;

thông báo của GV, CVHT, của các phòng khoa... được đa số sinh viên đăng tải và

chia sẻ tạo nên kênh thông tin đáng tin cậy cho những sinh viên khác cùng nắm bắt

và thực hiện. Bên cạnh đó, sự năng động, trẻ trung của sinh viên trường Nội vụ còn

thể hiện ở mức độ thường xuyên like ảnh, like status, like fanpage...của bạn bè,

người thân. Hành vi like trên không gian mạng thể hiện sinh viên không thờ ơ vô

cảm với bạn bè, người thân hay các thông tin hữu ích và những hành động

đẹp....bởi chính hành vi like, đăng tải, chia sẻ, bình luận sẽ góp phần lan tỏa mạnh

mẽ những hành động đẹp, những câu chuyện ý nghĩa trên không gian mạng từ đó

làm cho những cái xấu tự mất đi. Bên cạnh đó, SV trường ĐHNVHN khá thận

trọng khi đăng tải, chia sẻ các thông tin về dịch bệnh covid-19, về kinh tế, chính

trị...trên không gian mạng. Điều này cho thấy sinh viên ý thức được trách nhiệm

với cộng đồng, với xã hội và với bản thân khi sử dụng MXH.

Thứ tư, sinh viên hiểu được những rủi ro khi sử dụng MXH như việc bị đánh

cắp tài khoản, hình ảnh hay các thông tin cá nhân. Bởi vậy, SV bước đầu biết cách bảo

mật thông tin cá nhân trên không gian mạng. Các cách thức bảo mật thông tin cá nhân

trên MXH của SV tuy còn khá đơn giản nhưng cũng cho thấy sinh viên đã nhận thức

được tầm quan trọng của các cách bảo mật thông tin cá nhân trên không gian mạng.

Thứ năm, sinh viên bước đầu nhận thức được lợi ích và tác động tiêu cực khi

sử dụng MXH. Có thể nói, MXH mang đến cho sinh viên rất nhiều lợi ích khác nhau

như giúp sinh viên cập nhật thông tin nhanh chóng; tìm kiếm trao đổi tài liệu học

tập...việc nhận thức được các lợi ích của MXH sẽ giúp SV khai thác những thế mạnh

của MXH phục vụ cho học tập và hoạt động sống của mình để MXH trở thành công

cụ, môi trường thuận lợi phát triển bản thân. Bên cạnh đó, sinh viên cũng nhận thấy

những tác động tiêu cực khi sử dụng MXH như tạo ra hội chứng “nghiện” MXH,

lãng phí thời gian và sao nhãng học hành, mất ngủ, mệt mỏi và lười biếng vận

74

động...Bởi vậy, nhận thức được những tác động tiêu cực khi sử dụng MXH sẽ định

hướng mục đích, hành vi, mức độ sử dụng MXH của sinh viên trong thời gian tới.

Như vậy, vấn đề sử dụng MXH của sinh viên trường ĐHNVHN có rất nhiều

ưu điểm khác nhau, nhóm nghiên cứu đã khái quát thành 5 ưu điểm lớn cho thấy

tính tích cực khi sử dụng MXH của sinh viên. Tuy vậy, phân tích thực trạng cũng

chỉ ra một số hạn chế cần khắc phục trong vấn đề sử dụng MXH của sinh viên.

2.2.2. Hạn chế

Thứ nhất, nhận thức của sinh viên về MXH chưa cao. Trong đó, sinh viên

chưa thấy được vai trò to lớn của MXH đối với hoạt động học tập của mình, bởi

vậy học tập, tìm kiếm tài liệu chưa phải là nhu cầu và mục đích cao nhất khi sinh

viên sử dụng MXH. Không thể phủ nhận rằng, MXH có rất nhiều tính năng hấp dẫn

hướng người dùng đến sự tương tác, kết nối, giải trí...là chủ yếu nhưng MXH cũng

là kho tư liệu khổng lồ về các lĩnh vực khác nhau phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm

thông tin, nội dung học tập phong phú, đa dạng dành cho sinh viên các ngành,

nghề. Bởi vậy, nhận thức được tầm quan trọng của MXH đối với hoạt động học tập

sẽ giúp sinh viên sử dụng MXH hiệu quả hơn.

Thứ hai, sinh viên thiếu kỹ năng sử dụng MXH hiệu quả. Có thể nói, đây là

một trong những hạn chế rất lớn của sinh viên trường ĐHNVHN khi sử dụng

MXH. Điều này thể hiện trong một số nội dung như mục đích sử dụng MXH của

một bộ phận SV “chỉ để giết thời gian”, những hành vi sử dụng MXH thiếu an toàn

như đăng tải mọi thứ về cuộc sống của mình, đăng tải những bức ảnh sexy hoặc

những thông tin gây sốc trên MXH; sinh viên like “dạo” chiếm tỉ lệ lớn. Có thể nói,

việc thiếu các kỹ năng sử dụng MXH làm cho khả năng ứng phó, xử lý các tình

huống trên không gian mạng của SV gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy, tình trạng sinh

viên bị kẻ xấu đánh cắp tài khoản, hình ảnh, thông tin cá nhân đã và đang diễn ra.

Thứ ba, sinh viên ngày càng lệ thuộc vào MXH. Điều này thể hiện ở lượng

thời gian sử dụng MXH của sinh viên là đáng báo động: 5,7 giờ/ngày là lượng thời

gian lớn đối với mỗi SV. Khi SV dành quá nhiều thời gian cho MXH sẽ thu hẹp

thời gian dành cho các hoạt động khác, trong đó có cả hoạt động học tập và trải

nghiệm thực tế. Kết quả khảo sát thực trạng cũng cho thấy, SV sử dụng MXH mọi

lúc mọi nơi, bất kỳ nơi đâu, thời gian nào kể cả trong giờ học. Đây thật sự là điểm

đáng lưu tâm nhất đối với những nhà quản lý, GV, CVHT bởi nếu tình trạng này

75

kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo của Nhà trường nói chung và kết

quả học tập, rèn luyện của SV nói riêng.

Thứ tư, sinh viên hiểu biết chưa đầy đủ tác động tiêu cực khi sử dụng MXH.

Kết quả từ phân tích thực trạng cho thấy SV thường xuyên sử dụng MXH với thời

lượng mỗi ngày rất lớn nhưng hiểu biết những tác động tiêu cực khi sử dụng MXH

còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, những hệ lụy như hội chứng nghiện game; mất ngủ, lo

lắng, gia tăng nhu cầu sống “ảo”...được SV lựa chọn với tỉ lệ không cao thể hiện

SV chưa đánh giá đúng những tác động tiêu cực có thể gặp phải khi sử dụng MXH.

Thứ năm, đánh giá của GV, CVHT và sinh viên về một số nội dung sử dụng

MXH của sinh viên còn có khác biệt. Có thể nói, sự đánh giá của GV, CVHT đối

với vấn đề sử dụng MXH của SV rất quan trọng, là cơ sở để GV, CVHT có những

định hướng, hỗ trợ khi cần thiết. Tuy nhiên, sự đánh giá của GV, CVHT cho thấy có

sự khác biệt với những lựa chọn của sinh viên về nhu cầu, mục đích sử dụng cũng

như đánh giá những lợi ích, tác động khi sử dụng MXH của sinh viên. Đây chính là

một trong những hạn chế mà GV, CVHT cần điều chỉnh, khắc phục để sự thấu hiểu

SV cao hơn, từ đó có những giải pháp phù hợp trong việc nắm bắt, định hướng vấn

đề sử dụng MXH cho sinh viên.

Như vậy, có thể thấy bên cạnh những ưu điểm trong sử dụng MXH của sinh

viên vẫn tồn tại những hạn chế cần khắc phục. Việc tìm ra nguyên nhân các hạn chế

sẽ là cơ sở quan trọng để nhóm nghiên cứu căn cứ đề xuất các giải pháp đảm bảo

hiệu quả sử dụng MXH của sinh viên trường ĐHNVHN thời gian tới.

2.2.3. Nguyên nhân

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong sử dụng MXH của SV

trường ĐHNVHN. Trong đó, nhóm tác giả chỉ ra nguyên nhân chủ quan và nguyên

nhân khách quan dẫn đến những hạn chế trong sử dụng MXH của SV hiện nay.

a. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, đặc điểm tâm lý lứa tuổi của SV tác động đến nhu cầu, mục đích và

hành vi sử dụng MXH của sinh viên. Ở lứa tuổi này sinh viên có sự phát triển tự ý

thức rất mạnh mẽ. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những hiểu biết, thái độ,

có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển theo hướng phù

hợp với xu thế xã hội, đặc biệt là nắm bắt nhanh với các trào lưu, xu thế trên MXH.

Thể hiện tính nhạy bén trong tư duy, nhận thức của sinh viên với các tính năng cập

76

nhật liên tục trên không gian mạng. Tuy nhiên, cũng chính tự ý thức và tính độc lập

muốn khẳng định cái tôi cá nhân trong tư duy, hành động dẫn đến sự quá đà, thiếu

kiểm soát khi sử dụng MXH của sinh viên. Ngoài ra, tâm lý tò mò, thích khám phá

cũng chính là nguyên nhân thúc đẩy mức độ sử dụng MXH rất lớn trong sinh viên.

Thứ hai, sự thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt trong việc

tiếp thu, học hỏi văn hóa mới của SV trường ĐHNVHN. Ngày nay, trong xu thế

phát triển mạnh mẽ của internet và mạng xã hội đã mở ra cho sinh viên cơ hội được

giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa trên thế giới tạo điều kiện cho sinh viên học

hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tuy nhiên, do đặc điểm nhạy cảm, ham

thích những điều mới lạ kết hợp với sự bồng bột, thiếu kinh nghiệm và kỹ năng dẫn

đến sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét văn hoá không phù hợp với chuẩn

mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và không có lợi cho bản thân họ

dẫn đến những hành vi thiếu chuẩn mực trên không gian mạng.

Thứ ba, tâm lý thụ động, ngại giao tiếp, thiếu mục tiêu phấn đấu rõ ràng dẫn

đến sự lệ thuộc vào MXH của một bộ phận không nhỏ SV. Không khó để bắt gặp

tình trạng SV cắm cúi vào điện thoại di động mọi lúc, mọi nơi trong phòng học, cầu

thang, hành lang, căng tin hay bất kỳ nơi đâu. Chính điều này hạn chế cơ hội giao

tiếp, kết bạn, tham gia các hoạt động ngoại khóa, câu lạc bộ của sinh viên ngoài đời

thực. Sinh viên thay vì chủ động tạo lập, xây dựng các mối quan hệ xã hội trong và

ngoài nhà trường để học hỏi, phát triển kỹ năng phục vụ cho nghề nghiệp sau này

thì chỉ chú tâm đến các mối quan hệ trên không gian mạng. Đôi khi chỉ cần một

thao tác click chuột đã có thêm một người trong danh sách bạn bè mà không cần

tốn công, tốn sức.

Cùng với những nguyên nhân chủ quan đến từ chính bản thân sinh viên,

nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy những nguyên nhân khách quan dẫn đến những

hạn chế trong sử dụng MXH của sinh viên.

b. Nguyên nhân khách quan

Chúng tôi nhận thấy rằng, có nhiều nguyên nhân khách quan dẫn đến sự hạn

chế trong vấn đề sử dụng MXH của sinh viên trường ĐHNVHN, cụ thể:

Thứ nhất, thiếu cơ sở vật chất, nhà thi đấu đa năng phục vụ nhu cầu rèn

luyện thể dục thể thao của SV. Có thể nói, SV là lứa tuổi năng động, sáng tạo, nhiều

77

năng lượng với các nhu cầu học tập, rèn luyện, thể dục thể thao rất lớn. Khi SV có

đủ cơ sở vật chất để vui chơi như khu thể thao đa năng, hồ bơi...sẽ thu hút đông đảo

SV tham gia luyện tập. Từ đó giảm thiểu thời gian sử dụng MXH mỗi ngày của SV.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy cơ sở vật chất phục vụ cho nhu cầu rèn luyện, phát triển

kỹ năng của SV trường ĐHNVHN còn nhiều hạn chế. Khuôn viên trường chật hẹp,

cơ sở vật chất thiếu thốn không đáp ứng được nhu cầu vui chơi, giải trí, rèn luyện

thể dục thể thao cho sinh viên. Bởi vậy, ngoài giờ học, giờ làm thêm, SV không có

không gian để vui chơi, luyện tập thể thao dẫn đến việc sử dụng thời gian rỗi để

truy cập MXH mỗi ngày.

Thứ hai, thiếu các hoạt động ngoại khóa hấp dẫn, đa dạng và lôi cuốn để thu

hút đông đảo sinh viên tham gia. Có thể nói, thời gian qua Đoàn Thanh niên, các

liên chi và câu lạc bộ phát triển tương đối rầm rộ tổ chức nhiều hoạt động nhân các

ngày lễ trong năm nhằm nâng cao đời sống văn hóa cho sinh viên. Các hoạt động

ngày càng đa dạng về nội dung, phong phú về hình thức nhưng vẫn chưa lôi cuốn

được số lượng lớn sinh viên tham gia. Nguyên nhân cho vấn đề này nằm ở chỗ đa

số các hoạt động thường được tổ chức ở Hội trường tầng 5 hay trong khuôn viên

sân trường với sức chứa hạn chế nên cơ hội SV được tham gia chưa nhiều, chưa có

nhiều các hoạt động được tổ chức tại các khuôn viên lớn như sân vận động hay nhà

thi đấu đa năng để đông đảo sinh viên tham gia. Bên cạnh những hoạt động của

Đoàn thanh niên, các liên chi hay các câu lạc bộ thì việc thiếu vắng các hoạt động

ngoại khóa của các Khoa, các môn học cũng chính là nguyên nhân làm cho môi

trường vui chơi, học tập của sinh viên bị giới hạn, SV có ít cơ hội được tham gia

trải nghiệm các hoạt động thực tiễn dẫn đến tình trạng SV sử dụng MXH để giết

thời gian vẫn còn nhiều.

Thứ ba, SV chưa được tập huấn sử dụng MXH và chưa được trang bị các kỹ

năng sử dụng MXH hiệu quả. Sự phát triển mạnh mẽ của MXH mang đến cho sinh

viên nhiều lợi ích to lớn, mở ra chân trời mới để sinh viên thỏa sức khám phá, tìm

tòi và thể hiện bản thân. Chưa bao giờ cái tôi của cá nhân của người dùng nói

chung và sinh viên lại được thể hiện mạnh mẽ, rõ nét như vậy. SV có thể đăng tải,

chia sẻ, like hay bình luận những điều mà ngoài đời thực không dám làm, không

dám phát ngôn...thì giờ đây, trên không gian mạng, mọi thứ đều có thể. Tuy nhiên,

bên cạnh những lợi ích to lớn đó, MXH cũng mang đến những hệ lụy khôn lường.

78

Việc truy cập, trải nghiệm các ứng dụng có thể tiềm ẩn những nguy cơ an toàn

thông tin cá nhân trên không gian mạng mà sinh viên không thể ngờ tới. Khi SV bị

kẻ xấu lợi dụng đánh cắp tài khoản, hình ảnh, thông tin cá nhân vì mục đích xấu đa

số SV chưa có cách xử lý hiệu quả. Cùng với đó, khả năng kiểm soát hành vi, cảm

xúc khi tham gia MXH của sinh viên vẫn còn hạn chế. Khi đối diện với có những

hành vi thiếu chuẩn mực như phát ngôn gây sốc, từ ngữ thiếu chuẩn mực thậm chí

mắng chửi nhau trên không gian mạng, đa số sinh viên chưa biết cách xử lý tình

huống như thế nào. Đến thời điểm hiện tại, nhà trường các khoa trung tâm chưa tổ

chức buổi tập huấn nào nhằm hướng dẫn sử dụng MXH cho SV. Các buổi nói

chuyện chuyên đề, chia sẻ các nội dung liên quan đến vấn đề sử dụng MXH vẫn

còn rất ít. Bởi vậy, đây là một trong những nguyên nhân khách quan dẫn đến tỉ lệ

sinh viên nhận thức đầy đủ về MXH chưa nhiều, đa số sinh viên thiếu, yếu các kỹ

năng sử dụng MXH hiệu quả.

Thứ tư, tính năng hấp dẫn, phong phú và nâng cấp liên tục của MXH lôi

cuốn ngày càng nhiều sinh viên tham gia sử dụng với tần suất lớn. Có thể nói,

MXH có sức hút rất lớn đối với người dùng, trong đó có sinh viên. Tính tương tác

nhanh, các ứng dụng được cập nhật, nâng cấp liên tục thu hút SV tham gia trải

nghiệm. Ngoài ra, các nội dung trên MXH, đặc biệt là facebook có sự liên kết, liên

thông với nhau cuốn hút người dùng từ trang này sang trang khác quên cả thời gian.

Ngoài ra, MXH cũng là kho phim, kho thông tin khổng lồ, cập nhật tạo thuận lợi

nhất cho người dùng sử dụng mọi lúc mọi nơi. Chính các tính năng của MXH cũng

là nguyên nhân khách quan thúc đẩy tỉ lệ sinh viên tham gia MXH ngày càng lớn.

Như vậy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong vấn đề sử dụng

MXH của sinh viên trường ĐHNVHN. Trong đó, nguyên nhân chủ quan từ phía sinh

viên là nguyên nhân chính, những nguyên nhân khách quan có tác động lớn đến vấn

đề sử dụng MXH của sinh viên. Với đặc điểm tâm lý lứa tuổi và trình độ nhận thức,

nếu sinh viên chủ động, tích cực nghiên cứu và nâng cao trách nhiệm của bản thân sẽ

tự trang bị cho mình những kỹ năng sử dụng MXH phù hợp nhất, để MXH trở thành

công cụ hỗ trợ đặc lực cho mục đích chính đáng trong học tập và cuộc sống.

Tiểu kết chương 2

Như vậy, trong chương 2, nhóm nghiên cứu đã phân tích thực trạng sử dụng

MXH của SV trường ĐHNVHN qua các nội dung như nhu cầu sử dụng, mức độ sử

79

dụng, mục đích sử dụng, hành vi sử dụng, cách thức bảo mật thông tin và những lợi

ích, tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên. Cùng với đó, nhóm nghiên

cứu đã đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong việc sử dụng

80

MXH của sinh viên làm cơ sở đề xuất các giải pháp trong chương 3.

Chương 3.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ

ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

3.1. Một số giải pháp

3.1.1 Tăng cường nhận thức của sinh viên về mạng xã hội

Mục tiêu của giải pháp: Tăng cường nhận thức cho sinh viên về MXH là

giúp sinh viên hiểu rõ những tác động của mạng xã hội đến đời sống và học tập sẽ

là yếu tố then chốt trong việc định hướng nhu cầu, mục đích và thời gian sử dụng

MXH của sinh viên. Từ đó giúp sinh viên nhận thức được những lợi ích cũng như

những tác động tiêu cực khi sử dụng MXH để sinh viên điều chỉnh hành vi và mức

độ sử dụng MXH, tránh sự sa đà, lệ thuộc vào MXH.

Cách thức thực hiện giải pháp: Kết quả khảo sát thực trạng cho thấy đa số

sinh viên có sử dụng MXH với mức độ thường xuyên, tuy nhiên, nhu cầu sử dụng

MXH tương đối đơn giản và mục đích sử dụng chủ yếu để cập nhật thông tin và

giải trí, kết nối bạn bè, phục vụ học tập chưa phải là mục đích cao nhất khi sử dụng

MXH, cùng với đó, sinh viên chưa nhận thức đầy đủ lợi ích và tác động tiêu cực

khi sử dụng MXH. Bởi vậy, cần tăng cường nhận thức cho sinh viên về MXH như

vai trò, nhu cầu, mục đích sử dụng những lợi ích MXH mang lại để khai thác phục

vụ học tập và cuộc sống, bên cạnh đó sinh viên cũng cần có những hiểu biết về

những tác động tiêu cực của MXH để tránh những hậu quả xấu có thể xảy ra khi sử

dụng MXH không đúng cách. Để đạt được mục tiêu đầy, cần thực hiện đồng bộ các

biện pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, Ban Giám

hiệu, Lãnh đạo các đơn vị, Đoàn thanh viên về vấn đề sử dụng MXH của sinh viên

trong giai đoạn hiện nay. Xem đây là một trong những mối quan tâm hàng đầu

cùng với hoạt động tuyển sinh, hoạt động thiện nguyện, hoạt động đào tạo… trong

nhà trường. Sự quan tâm, chỉ đạo phải được cụ thể hóa bằng các văn bản hướng

dẫn, các chương trình, kế hoạch ưu tiên cho nội dung này. Thực tế, BGH nhà

trường đã có những đôn đốc, nhắc nhở cán bộ, viên chức, người lao động và sinh

81

viên trong toàn trường về về hành vi sử dụng MXH như không chia sẻ, đăng tải,

bình luận những thông tin chưa kiểm chứng trên MXH, chú ý phát ngôn trên

MXH… nhất là trong thời kỳ cả nước phòng, chống dịch Covid – 19. Tuy nhiên,

chưa có văn bản nào được ban hành riêng để hướng dẫn hay quy định vấn đề sử

dụng MXH của sinh viên bởi vậy, để nâng cao nhận thức và định hướng hành vi sử

dụng MXH của sinh viên, cần thiết phải có các văn bản hướng dẫn cụ thể trong đó

chỉ rõ những hành vi nên và không nên khi sử dụng MXH. Thiết nghĩ, MXH không

phải là chủ đề mới nhưng sử dụng MXH như thế nào cho hiệu quả, cho phù hợp,

cho văn hóa đặc biệt đối với hành vi sử dụng MXH của sinh viên cần có sự quan

tâm hơn nữa của BGH nhà trường và các phòng khoa chức năng.

Thứ hai, tích cực tuyên truyền về những lợi ích cũng như những tác động

tiêu cực của MXH đối với SV, giúp sinh viên nâng cao nhận thức và sự hiểu biết

đúng đắn về MXH. Từ đó giúp các bạn xác định đúng mục đích sử dụng MXH và

điều chỉnh thời gian, mức độ sử dụng MXH hợp lý, biết tự đánh giá và lựa chọn các

trang MXH phù hợp nhằm phục vụ tốt nhất cho hoạt động học tập, rèn luyện của

bản thân. Đặc biệt, cần nhấn mạnh đến các tác động tiêu cực khi sử dụng MXH quá

mức của sinh viên như tạo ra hội chứng nghiện MXH, lãng phí thời gian và sao

nhãng học hành, gia tăng sự lệ thuộc vào MXH và hạn chế sự sáng tạo của sinh

viên. Khi sinh viên nhận thức đầy đủ những tác động tiêu cực của MXH sẽ giúp

sinh viên tự điều chỉnh mức độ và hành vi sử dụng MXH của mình.

Thứ ba, tổ chức nhiều hơn các buổi nói chuyện chuyên đề với các nội dung

về sử dụng MXH, các buổi nói chuyện là sự giao lưu, trao đổi giữa các chuyên gia

tâm lý, các chuyên gia về cộng nghệ cũng như những diễn giả có nhiều kinh

nghiệm trong việc sử dụng MXH với sinh viên. Phát huy và nhân rộng các hoạt

động có ý nghĩa của khoa QLXH (tháng 5/2019) với chủ đề “Hành vi ứng xử của

sinh viên trên Mạng xã hội”, tại buổi nói chuyện này sinh viên được chia sẻ những

vấn đề nổi bật như: vai trò của MXH đối với sinh viên, những hành vi thường gặp

và cách ứng xử trên MXH của giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng...với diễn

giả, nhà báo Ngô Bá Lục. Đây là cơ hội rất lớn để sinh viên được lắng nghe và chia

sẻ những khó khăn khi sử dụng MXH để được giải đáp và định hướng cách giải

quyết phù hợp với những rắc rối trên MXH. Tuy nhiên, số chuyên đề dành cho nội

82

dung này chưa nhiều, nếu không nói là quá ít chưa đáp ứng được nhu cầu của sinh

viên. Bởi vậy, thay vì tổ chức quy mô cấp trường, cấp khoa thì CVHT có thể tổ chức ở

cấp lớp như những buổi giao lưu giữa diễn giả với sinh viên trong lớp thông qua các

buổi sinh hoạt lớp, các hoạt động ngoại khóa của lớp. Trong đó, nhấn mạnh đến nâng

cao nhận thức về vai trò, tính năng và lợi ích của MXH đối với đời sống, học tập của

sinh viên; Bên cạnh đó, nâng cao nhận thức của sinh viên về tính bảo mật và tính gây

nghiện của MXH. Đặc biệt cần bồi dưỡng những kiến thức về kỹ năng sử dụng

MXH cho sinh viên ở mọi lĩnh vực coi đó là những kháng thể cần thiết cho bản

thân, kháng thể chống lại những tác động tiêu cực của MXH.

Thứ tư, cần tổ chức các buổi tập huấn sử dụng MXH, các buổi chia sẻ kinh

nghiệm sử dụng MXH từ cấp độ lớp, liên chi đoàn, cấp Khoa và cấp Trường với

các nội dung khác nhau thu hút đông đảo sinh viên tham gia, từ đó không chỉ thay

đổi nhận thức về MXH mà còn hình thành thói quen sử dụng MXH tích cực trong

mỗi sinh viên. Để mỗi sinh viên là một tuyên truyền viên, một nhà truyền thông về

những hành vi đẹp, hành động đẹp của khoa, của Nhà trường trên không gian

mạng. Từ đó, góp phần quảng bá hình ảnh, thương hiệu trường ĐHNVHN đến với

công chúng nhiều hơn, tích cực hơn, hiệu quả hơn.

Thứ năm, cần rèn luyện tính cách mạnh dạn, tự tin cho sinh viên khi sử dụng

MXH. Đặc biệt, sinh viên dám lên tiếng dám đấu tranh với những hành vi lệch

chuẩn trên MXH như nói tục, chửi bậy hoặc những bức xúc, mâu thuẫn cá nhân

trên MXH, tránh hùa theo để tạo nên những trào lưu không tốt trên MXH. Những

hành vi thiếu suy nghĩ, bồng bột nhất thời của một số bạn sẽ vì thế được kiểm soát

tốt hơn nhờ sự can đảm, dám lên tiếng đấu tranh của những sinh viên khác. Sự

dũng cảm trên không gian mạng cần nhận được sự hỗ trợ của các GV, CVHT và

các phòng ban để sinh viên có thêm động lực chống lại những hành vi xấu, những

thông tin chưa đầy đủ về Lớp, về Khoa về Trường trên MXH. Để đạt được điều đó,

trong mỗi ngày lên lớp, GV, CVHT có thể đặt những tình huống giả định để sinh

viên thảo luận cách thức giải quyết, vừa tạo ra những môi trường học tập năng

động hơn, tạo cơ hội để sinh viên thể hiện mình, vừa giúp cho buổi học bớt căng

thẳng nhưng cũng từ đó rèn luyện tính chủ động, linh hoạt và tự tin cho sinh viên

và trang bị kỹ năng sử dụng MXH cho sinh viên.

Thứ sáu, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền nâng cao hiểu biết của sinh viên

83

về các văn bản quy phạm pháp luật như: Luật An ninh số 24/2018/QH14 ngày 12

tháng 6 năm 2018 của Quốc hội; Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03 tháng 02

năm 2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn

thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử...Đặc biệt chú

trọng tuyên truyền cho SV nắm rõ những hành vi bị nghiêm cấm cũng như các mức

phạt đối với các hành vi vi phạm trên không gian mạng. Từ đó giúp sinh viên nâng

cao ý thức trách nhiệm khi sử dụng MXH của mình, hạn chế hành vi vi phạm pháp

luật trên không gian mạng.

Thứ bảy, GV,CVHT phải là tấm gương trong việc sử dụng MXH. Hiện nay

GV, CVHT không chỉ có trang cá nhân trên MXH như facebook, zalo...mà còn là

trực tiếp quản lý các Fanpage của Khoa, của Phòng bởi vậy thầy, cô cũng cần nhận

thức đầy đủ về hành vi sử dụng MXH của mình, cân nhắc thật kỹ lưỡng trước khi

đăng tải, chia sẻ, thích hoặc bình luận các nội dung trên MXH. Ngoài ra, GV,

CVHT cũng sử dụng MXH để theo dõi, động viên và khen ngợi sinh viên bằng

cách chia sẻ, bình luận, thích, thả tim... những những hành động đẹp trên MXH của

các em. Ngoài ra, nhanh chóng nắm bắt những tâm tư, nguyện vọng, những bức

xúc của sinh viên trên MXH để lắng nghe, chia sẻ và định hướng kịp thời cũng là

một trong những vấn đề phải được GV, CVHT chú trọng nhiều hơn. Đặc biệt có

những sinh viên chưa hiểu đúng những chính sách của nhà trường, của các Khoa

phòng đã vội vàng đăng tải những trạng thái thiếu tích cực lên MXH sẽ gây ra

những dư luận tiêu cực và trào lưu xấu trên MXH ảnh hưởng đến uy tín của Nhà

trường. Bởi vậy GV, CVHT cần quan tâm đến sinh viên không chỉ trên lớp mà còn

trên MXH để kịp thời điều chỉnh những hành vi thiếu suy nghĩ của các em. GV,

CVHT hãy sử dụng MXH trở thành công cụ kết nối, duy trì và phát triển mối quan

hệ thân thiện giữa thầy và trò để cùng hiểu, chia sẻ những suy nghĩ, vướng mắc của

sinh viên để có hướng giải quyết phù hợp.

Thứ tám, Nhà trường phải có chiến lược đầu tư, quảng bá trang MXH chính

thống của nhà trường cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, trường ĐHNVHN đã

có trang website với địa chỉ: truongnoivu.edu.vn được đầu tư bài bản nhằm cập

nhật thông tin chính thống và các hoạt động của nhà trường. Tuy nhiên, trong sự

phát triển mạnh mẽ của công nghệ như hiện nay, chỉ trang website là chưa đáp ứng

được nhu cầu tìm kiếm thông tin của người dùng. Bởi vậy, trường ĐHNVHN đã có

84

rất nhiều fanpage chủ yếu trên facebook tuy nhiên, đa số các fanpafe trên facebook

này do sinh viên hoặc do Đoàn thanh niên thiết lập và quản lý. Bởi vậy, Nhà trường

cần nhanh chóng tạo lập trang fanpage giao cho một đơn vị chuyên trách nhằm cập

nhật, chia sẻ những thông tin, thông báo chính thống của nhà trường đáp ứng nhu

cầu tìm hiểu, trao đổi của sinh viên nói riêng và người dùng nói chung. Ngoài ra,

với nhu cầu thông tin tuyển sinh ngày càng mở rộng với các nhóm đối tượng công

chúng khác nhau, BGH nhà trường nên đầu tư kinh phí xây dựng, quản lý các kênh

Youtube, Intasgram…trở thành trang MXH phổ biến trong sinh viên, học sinh và

phụ huynh nhằm quảng bá, xây dựng thương hiệu của trường trên không gian

mạng. Chính sự đầu tư kỹ lưỡng về hình ảnh, chất lượng và khối lượng thông tin

được kiểm chứng, được cập nhật liên tục là kênh tư liệu cho sinh viên tham gia, học

tập và nghiên cứu. Bởi vậy, để nâng cao nhận thức của sinh viên về MXH, trước

hết nhà trường cần có trang MXH chính thống với các hành vi sử dụng mang tính

chuẩn mực để sinh viên học hỏi và nhận thấy được lợi ích của MXH trong cuộc

sống và học tập.

3.1.2. Kết hợp nội dung sử dụng mạng xã hội vào các hoạt động trong nhà

trường

Mục tiêu của giải pháp: Bằng việc lồng ghép nội dung sử dụng mạng xã

hội với nội dung của “tuần sinh hoạt công dân – học sinh, sinh viên”, các buổi đối

thoại giữa nhà trường với sinh viên và các nội dung khác trong học tập, hoạt động

đoàn sẽ góp phần định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi, mức độ sử dụng

MXH của sinh viên trong thời gian tới.

Cách thức thực hiện giải pháp: Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng

MXH của sinh viên cần thiết phải có những giải pháp lồng ghép nội dung sử dụng

MXH với các hoạt động của Nhà trường, của Đoàn thanh viên, các hoạt động khác

trong và ngoài nhà trường. Một số giải pháp lồng ghép cần được chú trọng thực

hiện như sau:

Thứ nhất, lồng ghép nội dung, kỹ năng sử dụng MXH vào “Tuần sinh hoạt

công dân – học sinh sinh viên”. Thực hiện công văn 3383/BGDĐT-GDHSSV ngày

10/8/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tổ chức “Tuần sinh hoạt công dân –

học sinh, sinh viên” trong các trường Đại học, Cao đẳng, TCSP. Trường ĐHNVHN

85

hằng năm đều tổ chức tuần sinh hoạt với các nội dung đa dạng và phong phú nhằm

nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thông tin đầy đủ kịp thời

đến sinh viên một số thông tin cơ bản và cần thiết về tình hình kinh tế, chính trị, xã

hội trong nước và quốc tế; chủ trương chính sách đổi mới về giáo dục và đào tạo.

Giúp sinh viên hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ, ý thức trách nhiệm của công dân – sinh

viên thông qua công tác truyên truyền, phổ biến quy chế, quy định và những vấn đề

về chế độ chính sách khen thưởng, kỷ luật để sinh viên nắm bắt và thực hiện. Có thể

nói, tuần sinh hoạt công dân – Học sinh, sinh viên cung cấp cho sinh viên đầy đủ các

nội dung liên quan đến hoạt động học tập, nghiên cứu, những trách nhiệm và quyền

lợi của mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, sự lên

ngôi của MXH với những tác động tích cực và tiêu cực đến học tập, rèn luyện của

sinh viên, Nhà trường cần dành thời lượng trong các buổi sinh hoạt chuyên đề đầu

khóa cho nội dung sử dụng MXH. Trong đó, chủ động trang bị cho sinh viên những

kiến thức đúng đắn, đầy đủ và kỹ năng sử dụng MXH hiệu quả. Giúp sinh viên vừa

khái thác được những lợi ích của MXH những cũng thấy được mặt trái của MXH từ

đó giúp sinh viên tự kiểm soát hành vi sử dụng MXH của bản thân.

Cùng với “Tuần sinh hoạt công dân – HSSV”, Trường ĐHNVHN tổ chức

hội nghị sinh hoạt chính trị và đối thoại giữa nhà trường với sinh viên, học viên

thường niên mỗi quý một lần trong năm để Nhà trường nắm bắt tâm tư, nguyện

vọng, những vướng mắc của học viên, sinh viên để có phướng án hỗ trợ giải quyết

nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường và tạo

điều kiện tốt nhất để sinh viên được học tập tốt, rèn luyện tốt. Nội dung tại buổi

sinh hoạt chính trị và đối thoại rất phong phú như thông tin về hoạt động của Nhà

trường, của Đoàn thanh viên được thông báo để sinh viên được biết, cùng với đó

Lãnh đạo các phòng ban lắng nghe và giải đáp các câu hỏi của sinh viên trong

phạm vi quản lý. Tuy nhiên, cũng giống như tuần sinh hoạt công dân – HSSV, Nhà

trường nên dành thời lượng để trao đổi, chia sẻ về vấn đề sử dụng MXH của sinh

viên như khen thưởng những hành động đẹp trên MXH của sinh viên; khuyến khích

sinh viên tích cực chia sẻ, đăng tải các thông tin tuyển sinh của Nhà trường trên

MXH cũng như những hoạt động khác của Khoa, của Nhà trường. Bên cạnh đó,

86

cũng cần nghiêm khắc nhắc nhở những hành vi thiếu văn hóa của sinh viên trên

MXH. Đặc biệt, với những sinh viên chưa hiểu đúng những chính sách của Nhà

trường đã có hành vi đăng tải, chia sẻ những phát ngôn thiếu chuẩn mực gây hoang

mang dư luận hoặc tạo ra những trào lưu xấu trên MXH cần phải được xử lý

nghiêm để làm gương cho những sinh viên khác. Từ đó, sinh viên có trách nhiệm

kiểm chứng thông tin trước khi quyết định đăng tải, chia sẻ, like hay bình luận.

Ngoài ra, thông qua các buổi sinh hoạt chính trị và đối thoại, Đoàn thanh viên nên

xây dựng những chuyên đề nhỏ như trang bị cho sinh viên những kỹ năng sử dụng

MXH như kỹ năng nhận diện các chiêu thức lừa đảo trên MXH để sinh viên cảnh

giác tránh bị kẻ xấu lợi dụng hoặc bị đánh cắp thông tin cá nhân; kỹ năng bảo mật

thông tin; kỹ năng xử lý mâu thuẫn cá nhân trên không gian mạng….

Thứ hai, lồng ghép các nội dung sử dụng MXH như vai trò, nhu cầu sử dụng,

mục đích sử dụng, thời gian sử dụng, cách thức bảo mật thông tin cá nhân, hành vi

đăng tải, chia sẻ, like, bình luận trên MXH bằng những tình huống cụ thể, hài hước

vào các hoạt động Đoàn của lớp, của Liên chi để sinh viên cùng nhau thảo luận,

trao đổi là cách thực hiện mang tính khả thi giúp sinh viên nhận diện rõ hơn vấn đề

sử dụng MXH của bản thân. Trong các buổi sinh hoạt đoàn ở các Chi đoàn, Liên

chi đoàn, bên cạnh triển khai những hoạt động cơ bản của Đoàn, cần đan xen

những tình huống cụ thể như: Bạn sẽ làm gì nếu có ai đó nói xấu bạn trên MXH?

Nếu có một fanpage ăn cắp và đăng tải hình ảnh của bạn cho mục đích câu like, câu

view, bạn sẽ xử lý ra sao? Hoặc, nếu bạn bị đánh cắp tài khoản MXH, kẻ xấu dùng

tài khoản của bạn để lừa đảo, bạn sẽ làm thế nào? Khi sinh viên khác đăng tải bức

xúc về một vấn đề nào đó trong nhà trường lên MXH, bạn sẽ làm gì?... v..vv…..

Thông qua việc trao đổi, giải quyết tình huống, sẽ giúp sinh viên có thêm kiến thức,

kỹ năng đương đầu, giải quyết với những khó khăn trên không gian mạng của bản

thân một cách có hiệu quả.

Thứ ba, lồng ghép vấn đề về sử dụng MXH thông qua quá trình học tập và

giảng dạy của học phần liên quan. Một số học phần có thể kết hợp lồng ghép như

học phần Tâm lý quản lý, Kỹ năng giao tiếp, Xã hội học đại cương, Kỹ năng hoạch

định, Kỹ năng làm việc nhóm, Xã hội học văn hóa …. Thông qua nội dung của các

học phần, giảng viên có thể lồng ghép các chủ đề về MXH một cách tinh tế, phù hợp,

87

qua đó giúp sinh viên nâng cao nhận thức về MXH và điều chỉnh những hành vi

chưa đúng trên MXH của bản thân. Ví dụ như trong học phần Xã hội học văn hóa có

nội dung các khái niệm cơ sở, GV có thể lồng ghép nội dung vai trò xã hội của cá

nhân trên MXH, vai trò cúa sinh viên đối với công tác truyền thông tuyển sinh của

nhà trường. Hoặc khi trao đổi về khái niệm ứng xử và khuôn mẫu ứng xử, GV có thể

đặt các vấn đề về ứng xử trên MXH để sinh viên giải quyết, từ đó rút ra bài học cho

sinh viên. Ngoài ra, cũng trong học phần này có nội dung về nhu cầu, giá trị và

chuẩn mực và bản sắc văn hóa Việt Nam, GV cũng có thể lồng ghép các ví dụ, các

câu chuyện trên MXH vào bài học để lắng nghe quan điểm của sinh viên từ đó có

cách thức tác động hiệu quả vào nhận thức và hành vi sử dụng MXH của các em.

Ngoài ra, học phần kỹ năng giao tiếp là học phần rất quan trọng không chỉ

hình thành cho sinh viên các kỹ năng mềm trong giao tiếp cơ bản mà thông qua đó

những Ký năng về sử dụng MXH có thể được xây dựng và lồng ghép như kỹ năng

lắng nghe, kỹ năng thấu cảm, đồng cảm, kỹ năng bảo mật thông tin cá nhân..thông

qua học phần này, giảng viên xây dựng tình huống cụ thể để sinh viên vận dụng kỹ

năng được trang bị để giải quyết, từ đó giúp sinh viên có cách nhìn nhận đúng đắn

hơn về MXH và để sinh viên nhận thấy MXH thực sự rất gần với cuộc sống và cần

thiết đối với mỗi người, tuy nhiên sử dụng MXH quá nhiều sẽ gây tác dụng ngược,

sẽ tạo ra những hệ quả không mong muốn đối với sinh viên. Để mỗi sinh viên,

trước khi sử dụng phải có quá trình tìm hiểu kỹ lưỡng về MXH, trong đó có các

tính năng và lợi ích của MXH để khai khác có hiệu quả phục vụ cho hoạt động học

tập và rèn luyện.

3.1.3. Hướng dẫn cho sinh viên các kỹ năng sử dụng mạng xã hội hiệu quả

Mục tiêu của giải pháp: Để nâng cao hiệu quả sử dụng MXH của sinh viên,

chỉ nâng cao nhận thức về MXH và những tác động khi sử dụng MXH của sinh

viên là chưa đủ, cần phải trang bị, hướng dẫn cho sinh viên những kỹ năng sử dụng

MXH. Khi có kỹ năng sử dụng MXH sinh viên sẽ sử dụng MXH hiệu quả hơn

phục vụ tốt hơn cho hoạt động học tập và rèn luyện cho bản thân.

Cách thức thực hiện giải pháp: MXH bên cạnh việc mang lại cho người

dùng nói chung và sinh viên nói riêng rất nhiều lợi ích thì cũng có những tác động

tiêu cực. Kết quả khảo sát thực trạng cho thấy mức độ sử dụng MXH của sinh viên

88

trường ĐHNVHN là thường xuyên và thời gian sử dụng rất lớn. Tuy nhiên, hành vi

sử dụng vẫn còn nhiều hạn chế, nguyên nhân chủ yếu là do sinh viên thiếu và yếu

kỹ năng sử dụng MXH. Bởi vậy, sinh viên cần có những kỹ năng để khai thác có

hiệu quả những lợi ích mà MXH mang lại và hạn chế tối đa tác động tiêu cực. Việc

trang bị những kỹ năng sử dụng MXH có thể do sinh viên tự nghiên cứu, cũng có

thể thông qua các hoạt động ngoại khóa, các buổi sinh hoạt chuyên đề do lớp, khoa,

trường tổ chức. Một số kỹ năng sử dụng MXH sinh viên cần có như:

Thứ nhất, hướng dẫn kỹ năng bảo mật thông tin cá nhân trên mạng xã hội

Để bảo vệ bản thân trên môi trường trực tuyến, sinh viên cần biết cách bảo

vệ quyền riêng tư của mình và kiểm soát thông tin cá nhân như:Đặt mật khẩu cho

thiết bị cá nhân, Chia sẻ thông tin có chọn lọc; Kích hoạt tính năng xác thực 2

bước; Thường xuyên cập nhật hệ thống; Hạn chế cung cấp các thông tin cá nhân;

Đăng xuất các tài khoản khi đã dùng xong. Bên cạnh đó, nên ẩn thông tin cá nhân,

không gặp gỡ người lạ trên mạng xã hội, không dùng chung password.

Không click vào những thông tin vô bổ, độc hại, bởi MXH khá “khôn

ngoan”, luôn lưu lại những chủ đề sinh viên thường quan tâm để gửi lại. Vì thế, loại

thông tin trên MXH cung cấp, cập nhật là do cách bạn sử dụng mỗi ngày. Ngoài ra,

việc click vào những thông tin vô bổ, những đường link lạ đều chưa đựng mối nguy

hại như virus để đánh cắp các thông tin cá nhân của mình. Bởi vậy, khi nhận được

tin nhắn, đường link lạ, sinh viên cần cân nhắc kỹ trước khi quyết định nhấp chuột.

Chia sẻ quan điểm, đừng chia sẻ thông tin cá nhân. MXH là nơi để chia sẻ

những quan điểm và tìm người đồng cảm. Tuy nhiên, hãy lưu ý để những điều chia

sẻ không gây rắc rối cho bản thân. Ví dụ: Bạn có thể kể về ngôi nhà của bạn nhưng

đừng tiết lộ địa chỉ. Đặc biệt, các thông tin về cuộc sống, bạn bè, những bức xúc

với gia đình có thể dễ dàng bị lợi dụng để lôi kéo vào cạm bẫy.

Trên mạng xã hội, sinh viên cần kiểm soát những thông tin hiển thị trên bảng

tin bằng cách click vào dấu ba chấm phía trên bên phải của bất cứ bài đăng nào:

Nếu không muốn thấy một bài đăng xuất hiện nữa, có thể ẩn nó đi. Nếu không

muốn thấy bài đăng từ một người nào đó, có thể bỏ theo dõi hoặc tạm ẩn họ, cũng

thể phản hồi hoặc báo cáo một bài đăng có nội dung thiếu lành mạnh hoặc vi phạm

quyền riêng tư. Đây là bước đầu tiên cần thực hiện trong việc trang bị sử dụng

89

mạng xã hội an toàn.

Ngoài ra, sinh viên nên tiếp cận, sử dụng các thức bảo mật 2 lớp rất phổ biến

hiện nay. Đây được xem là một trong những cách thức bảo mật an toàn nhất trên

không gian mạng tại thời điểm này. Sinh viên có thể cài đặt ứng dụng Google

Authenticator – quản lý mã xác minh hai nước cho các dịch vụ đám mây [45] để

gia tăng khả năng bảo mật thông tin cá nhân trên không gian mạng.

Thứ hai, kỹ năng quản lý thời gian sử dụng mạng xã hội

Hãy hạn chế thời gian sử dụng MXH. Mọi nghiên cứu đều nói không nên sử

dụng máy tính liên tục quá 45 phút và không vào MXH nhiều hơn 2 giờ/ngày vì sẽ

rơi vào trạng thái không tập trung, mất thăng bằng trong cuộc sống. Rất nhiều sinh

viên cả đi trên đường, vào lớp học, lúc nào cũng nhìn chằm chằm vào chiếc

smartphone, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và học tập. Chúng ta có

thể cài những phần mềm để quản lý thời gian vào mạng, để có thời gian cho cuộc

sống thực.

Thứ ba, kỹ năng kiểm soát cảm xúc khi sử dụng mạng xã hội

Trước khi muốn chia sẻ bất cứ điều gì trên mạng xã hội, nên suy nghĩ kỹ

hoặc nếu cảm thấy cần thiết có thể thảo luận với Thầy cô, bạn bè có những hành vi

đăng tải, chia sẻ phù hợp. Những nội dung chưa được kiểm chứng hoặc nhạy cảm

sinh viên không nên tùy tiện đăng tải, chia sẻ, like, comment tránh những rắc rối có

thể xảy ra.

Sinh viên phải hiểu mạng xã hội là con người thứ hai của mình, đừng nên

chia sẻ khi tâm lý đang không ổn định như giận dữ, thất vọng hoặc bị kích động.

Những khi gặp vấn đề, nên chia sẻ với bạn bè, gia đình, thầy cô để có cách giải

quyết trực tiếp và phù hợp. Chính vì vậy, không chỉ cần kiểm soát thông tin cá

nhân, các nội dung theo dõi mà cũng cần có kỹ năng sống khác là kiểm soát cảm

xúc và cách thể hiện của bản thân.

Chỉ kết bạn với những người mình thực sự biết và tin tưởng. Nhiều sinh viên

có thói quen kết bạn bất kỳ người nào mà mình tò mò và nhận lời kết bạn vì nghĩ

không mất gì và “càng nhiều bạn càng tốt”, chỉ là ảo thôi mà. Nhưng ngay khi có

người ngỏ lời muốn kết bạn, các trang MXH, trong đó có Facebook cũng nhắc nhở

bạn có thật sự biết người ấy không và chỉ nên chấp nhận người bạn tin tưởng,

90

nhưng ít ai để ý.

Thứ tư, kỹ năng nói “không” với thế giới ảo, tích cực tham gia các hoạt

động trải nghiệm thực tế

Mạng xã hội là thế giới ảo những lại có quá nhiều các ứng dụng hấp dẫn và

khối lượng thông tin khổng lồ lôi cuốn người dùng từ nội dung này đến nội dung

khác, liên kết trang này với trang khác. Đây là một trong những ưu việt của MXH

những cũng chính điều đó “gây nghiện” cho người sử dụng, trong đó có sinh viên.

Bởi vậy, tình trạng sinh viên quá sa đà vào MXH ảnh hưởng đến các hoạt động

ngoài đời thực không quá xa lạ.

Để hạn chế sự lệ thuộc vào MXH, sinh viên cần can đảm bước ra khỏi thế

giới ảo bằng cách hạn chế thời gian sử dụng, đăng xuất khỏi các ứng dụng, các

trang MXH không cần thiết để dành thời gian cho các hoạt động như: giao lưu học

tập phát triển kỹ năng, thể dục thể thao và các hoạt động khác...Từ đó, sẽ nhận thức

rõ ràng về bản thân, đồng thời xây dựng được các mối quan hệ lành mạnh trong nhà

trường và xã hội, rèn luyện tính tự lập, có những cảm xúc, trải nghiệm thú vị từ

những trải nghiệm thực tế.

Để hình thành kỹ năng sử dụng MXH cho sinh viên, GV, CVHT, phòng

CTSV và Đoàn thanh niên phải tuyên truyền rộng rãi qua các kênh khác nhau về

các kỹ năng cần có khi sử dụng MXH để sinh viên được biết và rèn luyện. GV,

CVHT có thể thông qua các buổi sinh hoạt lớp, các tiết học để định hướng các kỹ

năng sử dụng MXH cho sinh viên. Phòng CTSV thông qua các buổi đối thoại giữa

nhà trường với sinh viên để trang bị cho SV những kỹ năng này; Đoàn thanh viên

thông qua các hoạt động để giúp sinh viên nắm bắt được các kỹ năng sử dụng

MXH cho sinh viên. Ngoài ra, sử dụng các trang MXH để nói về kỹ năng sử dụng

MXH cũng là một giải pháp tích cực. Thông qua các Fanpage của Trường, Khoa,

các câu lạc bộ và các phòng ban để trang bị kỹ năng sử dụng MXH cho sinh viên

3.1.4. Tổ chức đa dạng các hoạt động ngoại khóa

Mục tiêu của giải pháp: Đa dạng các hoạt động ngoại khóa tạo sân chơi

lành mạnh, bổ ích lôi cuốn sinh viên tham gia là một trong nhưng giải pháp cấp

thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm hạn chế sự lệ thuộc vào MXH của một bộ phận

không nhỏ sinh viên trong nhà trường.

91

Cách thức thực hiện giải pháp: Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, có

nhiều phương tiện hiện đại cho thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng dùng để

trao đổi thông tin, tìm hiểu và học tập, vì thế MXH trở thành phương tiện hữu ích

giúp sinh viên trao đổi tìm kiếm thông tin nhanh chóng và dễ dàng hơn rất nhiều.

Chính vì thế đa số sinh viên cho rằng MXH rất cần thiết cho cuộc sống. Tuy nhiên,

sự phong phú và đa dạng và tiện ích của MXH đã chiếm lĩnh thời gian trong ngày

của sinh viên quá nhiều. Khảo sát thực trạng SV ĐHNVHN cho thấy thời gian sử

dụng MXH mỗi ngày của sinh viên là rất lớn. Trong đó, tỉ lệ sinh viên dành hơn 8

tiếng mỗi ngày là không nhỏ. Điều này cho thấy sinh viên đang ngày càng lệ thuộc

vào MXH, sinh viên sử dụng MXH mọi lúc mọi nơi từ lúc thức dậy cho đến trước

khi đi ngủ, lúc đi gặp bạn bè hay giữa tiết học, thậm chí có sinh viên sử dụng MXH

cả trong giờ học. Tình trạng sử dụng MXH dẫn đến nghiện MXH và sao nhãnh học

hành sẽ không tránh khỏi với tần suất sử dụng nhiều như vậy. Thực trạng này là

đáng báo động và cần phải có các giải pháp cụ thể hạn chế sự lệ thuộc của sinh viên

đối với MXH. Bởi vậy, để ‘kéo’ sinh viên ra khỏi MXH, cần phải đa dạng các hoạt

động ngoại khóa để sinh viên có môi trường tham gia hoạt động, hạn chế sử dụng

MXH mỗi ngày. Các giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, để sinh viên có đủ dũng khí rời khỏi các thiết bị thông minh và rời

xa MXH, tham gia tích cực các hoạt động ngoại khóa, GV, CVHT, Đoàn trường,

liên chi đoàn giúp sinh viên nhận thức đúng đắn và đầy đủ tầm quan trọng của các

hoạt động ngoại khóa. Các hoạt động ngoại khóa tạo điều kiện thuận lợi để mỗi

sinh viên phát triển và sống hạnh phúc. Việc gặp gỡ bạn bè thường xuyên, nói

chuyện một cách thân mật cũng làm tăng khả năng biểu lộ cảm xúc, quen dần với

các tín hiệu xã hội và cải thiện khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi cả ngoài

đời thực lẫn trên MXH. Tham gia các hoạt động thể dục, thể thao giúp sinh viên cải

thiện đáng kể tình trạng sức khỏe và thể lực. Chơi thể thao, tập thể dục nhịp điệu,

hay học khiêu vũ không những giúp giảm cân mà còn làm tăng sức dẻo dai, giảm

bớt căng thẳng, giảm lượng cholesterol, điều hòa huyết áp, giúp bạn ngủ ngon và

giảm nguy cơ mắc một số bệnh. Tham gia các hoạt động nhóm cũng sẽ mang lại

nhiều niềm vui và sự thú vị hơn thay vì chỉ tham gia các hoạt động trên không gian

mạng. Bên cạnh đó, các hoạt động ngoại khóa giúp sinh viên xây dựng các kỹ năng

92

cần thiết cũng như học hỏi được nhiều kinh nghiệm rất bổ ích sau khi ra trường, kể

cả trong quá trình tìm việc làm và những biểu hiện trong công việc của mình. Việc

tham gia vào các hoạt động như thảo luận, vận động, tình nguyện hay thậm chí là

tự mình điều hành một câu lạc bộ sinh hoạt ngoại khóa riêng, sẽ giúp sinh viên phát

triển các kỹ năng như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống và kỹ năng lãnh

đạo, quản lý.

Tham gia các hoạt động có liên quan đến nghề nghiệp tương lai cũng giúp

làm tăng khả năng cạnh tranh và tạo được ấn tượng tốt đối với các nhà tuyển dụng.

Có thể nói, khi sinh viên có hiểu biết đầy đủ về tầm quan trọng của các hoạt động

ngoại khóa sẽ là động lực để sinh viên tích cực hơn, năng động hơn, chủ động hơn

trong việc tham gia các hoạt động ngoại khóa thay vì chỉ ở nhà chăm chú vào chiếc

điện thoại di động và thể hiện “bản lĩnh” trên không gian “ảo”. Chính vì thế, Đoàn

thanh niên nên có các biện pháp tuyên truyền, hướng dẫn và định hướng để sinh

viên nhận thấy sự hấp dẫn của các hoạt động ngoại khóa trong nhà trường sẽ chủ

động tham gia nhiều hơn.

Thứ hai, đoàn thanh niên, liên chi đoàn phát động và tổ chức các giải thể

thao mang tính thường niên cấp Khoa, cấp trường với các môn thể thao khác nhau

thu hút sinh viên tham gia đăng ký và tranh giải. Hằng năm, giải thể thao của Khoa

QLXH vẫn được tổ chức thu hút đông đảo sinh viên tham gia thi đấu và cổ vũ. Tuy

nhiên, các bộ môn thi đấu còn quá ít, chủ yếu là bóng đá Nam, các bộ môn khác

chưa được chú trọng tổ chức như cầu lông, bơi lội, cờ vua, điền kinh...Bởi vậy, dù

các giải thi đấu thể thao đã thu hút sinh viên tham gia nhưng tỉ lệ tham gia vẫn còn

hạn chế. Đoàn trường cũng có tổ chức các hoạt động thể thao nhưng chưa đa dạng

và phong phú, tỉ lệ sinh viên tham gia chưa nhiều. Chính vì thế, thời gian tới, bên

cạnh các hoạt động ngoại khóa thường niên của các khoa, Đoàn thanh viên cần xây

dựng kế hoạch tổ chức các giải thể thao cấp trường như thi đấu cầu lông, cờ vua,

điền kinh, bóng đá nữ, bơi lội, khiêu vũ...với các hình thức đánh đơn, đồng đội để

lôi cuốn sinh viên các lớp, các khóa tham gia tích cực hơn. Cộng với đó, cần có

chính sách khen thưởng xứng đáng để tạo động lực cho sinh viên tham gia như trao

giải và giấy khen cho những bạn đạt thành tích cao; ghi nhận và cộng điểm thưởng

với những sinh viên tham gia thi đấu và sinh viên tham gia cổ vũ cho các hoạt động

93

thể thao.Trên cơ sở đó, Đoàn Thanh niên lựa chọn những sinh viên tiêu biểu đăng

ký thi đấu các giải thể thao cấp cao hơn như cấp Bộ, cấp Trung ương Đoàn thanh

viên...tạo cơ hội sinh viên tham gia học hỏi, trao đổi kinh nghiệm và phát triển kỹ

năng. Hơn nữa, sinh viên sẽ giảm thời gian sử dụng MXH không cần thiết.

Đoàn trường hiện đang quản lý khoảng 8000 đoàn viên sinh hoạt tại 8 Liên

chi đoàn và 2 đoàn Phân hiệu. Trong đó, tại trụ sở chính của Trường tại Hà Nội:

khoảng 6000 đoàn viên sinh viên. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa thu hút được

đa số sinh viên tham gia sẽ là một trong những thách thức rất lớn cần có những kế

hoạch dài hơi, cụ thể và sự đầu tư kinh phí rất lớn từ Nhà trường để có những hoạt

động ngoại khóa bổ ích, hiệu quả thu hút sinh viên rời xa MXH để tham gia các

hoạt động này.

Thứ ba, tổ chức nhiều hơn các hoạt động văn hóa văn nghệ trong Nhà

trường. Không chỉ tạo ra sân chơi bổ ích, lành mạnh, không khí vui tươi, phấn khởi,

gắn kết trong giảng viên, sinh viên hoạt động này còn góp phần quan trọng trong

việc giáo dục toàn diện cho sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.

Đặc biệt, các hoạt động văn hóa văn nghệ vẫn được trường ĐHNVHN tổ chức nhân

các ngày lễ lớn như chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11; ngày thành lập

trường; ngày khai giảng năm học mới… Tuy nhiên, những hoạt động này thường

giới hạn số lượng sinh viên tham sự do không gian hạn hẹp của nhà trường dẫn đến

tỉ lệ sinh viên được tham gia chưa nhiều. Bởi vậy, cần tổ chức đa dạng hơn các hoạt

động văn hóa, văn nghệ trong nhà trường với các quy mô khác nhau để lôi cuốn sinh

viên tham gia. Trong đó, bắt kịp tâm lý của sinh viên thích giao lưu với những ca sỹ

trẻ, những diễn viên nổi tiếng, Đoàn thanh viên cần tổ chức các buổi giao lưu với các

ca sỹ, diễn viên, nghệ sỹ nổi tiếng để sinh viên được gặp gỡ trao đổi chia sẻ những

vấn đề trong cuộc sống và những kinh nghiệm tốt khi sử dụng MXH của các thần

tượng, của nghệ sỹ lớn để SV học hỏi và thay đổi nhận thức, hành vi sử dụng MXH

của mình.

Thứ tư, tổ chức hội trại thanh niên với các chủ đề khác nhau nhân các ngày

lễ lớn trong năm như ngày thành lập Đoàn 26/3, ngày Hiến chương nhà giáo Việt

Nam 20/11 và ngày thành lập trường 18/12 với đa dạng các gian hàng của các Liên

chi đoàn, các câu lạc bộ trong trường. Trong thời gian tổ chức hội trại, Đoàn thanh

94

viên sẽ tổ chức các hoạt động vui chơi như kéo co, nhảy bao bố…diễn văn nghệ,

khiêu vũ tập thể… thu hút sự tham gia đông đảo của các đoàn viên thanh niên giúp

sinh viên có không gian để vui chơi, kết nối bạn bè và rời ra thiết bị điện tử và

mạng xã hội để dành thời gian cho các hoạt động thực tế.

Thứ năm, đa dạng các hoạt động của các câu lạc bộ trong Nhà trường dưới

sự quản lý của Đoàn trường. Hiện nay, Đoàn trường quản lý trực tiếp 07 câu lạc bộ

sinh viên: câu lạc bộ nghệ thuật sinh viên Nội vụ HAC, câu lạc bộ tiếng Anh sinh

viên HEC, câu lạc bộ Sách Nội vụ, câu lạc bộ ASK Nội vụ, Đội thanh niên xung

kích, Đội thanh niên tuyên truyền vận động và hiến máu nhân đạo Trường Đại học

Nội vụ Hà Nội, câu lạc bộ Thiện nguyện Sắc Màu. Tuy nhiên, các hoạt động của

câu lạc bộ thường có quy mô nhỏ, trong mỗi hoạt động thường bị giới hạn là thành

viên câu lạc bộ nên chưa thu hút được sinh viên bên ngoài câu lạc bộ tham gia.

Chính vì thế, thời gian tới các câu lạc bộ cần xây dựng các kế hoạch đa dạng và

phong phú hơn thu hút sinh viên trong và ngoài câu lạc bộ tham gia. Tạo môi

trường sinh hoạt lành mạnh, bổ ích để sinh viên có cơ hội giao lưu, học hỏi, trao

đổi kiến thức và phát triển kỹ năng của bản thân. Từ việc tham gia các hoạt động

thực tiễn trong câu lạc bộ sẽ giúp sinh viên bớt thời gian lướt mạng, chơi game

online hoặc các trò vô bổ trên MXH.

Thứ sáu, có chiến lược sử dụng MXH trở thành công cụ hữu hiệu tác động

đến hành vi sử dụng MXH của sinh viên. Tổ chức cuộc thi về một chủ đề trên

MXH như viết về vai trò của MXH đến sinh viên; MXH đã tác động đến bạn như

thế nào? Bạn biết gì về MXH? Những bài viết của sinh viên sẽ được Ban tổ chức

kiểm duyệt và lựa chọn. Bài viết hay, viết tốt sẽ được vào vòng bình chọn và tranh

giải. Từ đó cho sinh viên tham gia bình chọn bằng cách tính like, chia sẻ, bình

luận….sôi nổi, cũng thông qua các bài viết này sẽ giúp sinh viên hiểu biết nhiều

hơn về MXH, nhận thức đúng đắn hơn về tác động của MXH để tự mình rút ra bài

học trong vấn đề sử dụng MXH của mình. Ngoài ra, các cuộc thi trên trang fanpage

của Nhà trường như thi làm phim về Trường, về Ngành học hay những tấm gương

người tốt việc tốt, những hành động đẹp của sinh viên trong cuộc sống được đăng

tải, chia sẻ để từ đó định hướng hành vi sử dụng MXH tích cực trong sinh viên.

Có thể nói, các hoạt động ngoại khóa đóng vai trò quan trọng trong việc

95

cuốn hút sinh viên tham gia. Hoạt động ngoại khóa càng phong phú, đa dạng bổ

ích, thiết thực thì mức độ tham gia của sinh viên càng lớn. Chính các hoạt động

ngoại khóa sẽ là giải pháp quan trọng trong việc giúp sinh viên có cơ hội trải

nghiệm các hoạt động thực tiễn thay vì chỉ dành cho các hoạt động ảo trên không

gian mạng. Tuy nhiên, để các hoạt động ngoại khóa có thể được triển khai cần phải

có sự đầu tư kinh phí cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng như nhà thi đấu đa năng,

sân thể thao... phục vụ cho nhu cầu vui chơi giải trí của sinh viên từ đó giúp sinh

viên thoát khỏi sự lệ thuộc vào mạng xã hội. Bên cạnh đó, nhà trường cần đầu tư

lắp đặt wifi miễn phí trong toàn trường, giúp sinh viên có kết nối mạng miễn phí

vừa phục vụ học tập, vừa giải trí. Việc truy cập kết nối mạng miễn phí trong nhà

trường sẽ hạn chế tình trạng tối đa tình trạng sinh viên la cà quán nét, cafe đang

mọc lên rất nhiều, đồng thời cần thường xuyên nhắc nhở ý thức sử dụng MXH để

sinh viên nâng cao trách nhiệm khi sử dụng MXH của mình.

3.1.5. Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ GV, CVHT, Đoàn thanh niên

Mục tiêu của giải pháp: Nâng cao trách nhiệm, năng lực cho đội ngũ giảng

viên, cố vấn học tập, cán bộ Đoàn thanh viên và chuyên viên phụ trách công tác

giáo dục chính trị tư tưởng đối với học viên, sinh viên trên môi trường mạng là một

trong những giải pháp quan trọng trong bối cảnh ảnh hưởng mạnh mẽ của MXH và

gia tăng hành vi sử dụng MXH của sinh viên ngày càng phức tạp, khó kiểm soát.

Cách thức thực hiện giải pháp: Trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của

các trang MXH với sự tham gia đông đảo của sinh viên dẫn đến tình trạng khó

kiểm soát đối với những hành vi thiếu chuẩn mực trên mạng. Đặc biệt, năng lực xử

lý các tình huống trên không gian mạng đội ngũ giảng viên, cố vấn học tập, cán bộ

Đoàn Thanh viên còn nhiều hạn chế; chưa có cán bộ, chuyên viên chuyên trách

công tác giáo dục chính trị tư tưởng và xử lý các hành vi vi phạm của học viên, sinh

viên trên môi trường mạng dẫn đến tính giáo dục chưa cao. Đa số GV, CVHT chỉ

mang tính tuyên truyền, định hướng bằng kinh nghiệm cá nhân nên tính hiệu quả

chưa cao. Bởi vậy, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cố vấn học tập, cán bộ

Đoàn thanh viên và chuyên viên phụ trách công tác giáo dục chính trị tư tưởng đối

với học viên, sinh viên trên môi trường mạng là nhiệm vụ cấp bách hiện nay và cần

thực hiện ngay các giải pháp cụ thể như:

96

Thứ nhất, xây dựng tài liệu bồi dưỡng, tập huấn công tác quản lý, giáo dục

chính trị tư tưởng trên môi trường mạng dành cho giảng viên, CVHT, cán bộ Đoàn

Thanh viên, chuyên viên chuyên trách của phòng CTSV; tài liệu hướng dẫnkỹ năng

sử dụng, khai thác, tiếp cận thông tin trên Internet, mạng xã hội dành cho học sinh,

sinh viên; Các buổi tập huấn cần phải được triển khai càng sớm càng tốt để hỗ trợ

phương pháp, cách thức xử lý các tình huống trên MXH giúp GV,CVHT và cán bộ

chuyên trách có thêm các kỹ năng xử lý hiệu quả các vấn đề phát sinh trên MXH

của sinh viên.

Thứ hai, tổ chức bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản lý, viết bài, tuyên

truyền, định hướng cho cho GV, CVHT, cán bộ Đoàn Thanh viên, chuyên viên

chuyên trách của phòng CTSV phụ trách công tác quản lý, giáo dục chính trị tư

tưởng đối với học sinh, sinh viên trên môi trường mạng và đội ngũ quản trị các

Website, diễn đàn, mạng xã hội của các cơ sở giáo dục;

Thứ ba, tổ chức giao lưu, trao đổi kinh nghiệm công tác quản lý, giáo dục

chính trị tư tưởng đối với học viên, sinh viêntrênmôi trường mạng giữa các cơ

quan, đơn vị. Thông quan các buổi giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giúp cho giảng

viên, CVHT, cán bộ Đoàn Thanh viên, chuyên viên chuyên trách của phòng CTSV

có thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm sử dụng hiệu quả MXH và định hướng đúng

hành vi sử dụng MXH cho sinh viên lớp mình quản lý.

3.1.6. Xây dựng quy định sử dụng mạng xã hội dành cho sinh viên trường

Đại học Nội vụ Hà Nội

Mục tiêu của giải pháp: Mạng xã hội đã và đang mang đến cho người dùng

nói chung và sinh viên nói riêng những tiện ích vô cùng to lớn. Tuy nhiên, MXH cũng

mang đến cho sinh viên rất nhiều hệ lụy khó lường, đặc biệt MXH là không gian mở,

người dùng được quyền sử dụng với các mục đích cá nhân khác nhau. Bởi vậy, đăng

tải, chia sẻ hay bình luận như thế nào cho phù hợp với chuẩn mực, với văn hóa luôn là

đề tài được trao đổi trong các cuộc thảo luận về MXH. Những bài viết, những clip

thiếu trách nhiệm, có dụng ý xấu hoặc dùng ngôn từ thiếu văn hóa trên mạng xã hội

của sinh viên cần phải được loại bỏ. Bởi vậy, cần thiết phải xây dựngquy địnhsử dụng

MXH dành cho sinh viên của trường ĐHNVHN trong thời gian tới.

Cách thức thực hiện giải pháp, Theo chia sẻ của đại diện phòng Công tác

97

sinh viên, đã có những biểu hiện hành vi lệch chuẩn của sinh viên trên MXH như

phát ngôn thiếu chuẩn mực, những nội dung đăng tải nhạy cảm chưa đúng mực về

các vấn đề trong nhà trường. Chính vì thế, viên chức, giảng viên của phòng đã phải

trực tiếp gặp gỡ hoặc trao đổi thông qua MXH với SV, qua CVHT để kịp thời lắng

nghe, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của SV để định hướng hành vi chưa đúng mực

trên MXH. Tuy nhiên, những hành vi thiếu chuẩn mực của sinh viên trên MXH rất

khó kiểm soát và chưa có trường hợp nào bị xử lý kỷ luật bởi những hành vi vi

phạm thường không rõ ràng, sinh viên sau khi được thầy cô trao đổi đã gỡ bài hoặc

đính chính những nội dung thiếu chính xác. Hiện nay, chưa có quy định xử phạt cụ

thể, chi tiết bởi thế các hành vi thiếu văn hóa trên MXH chưa được xử lý nghiêm

minh. Chính vì thế, cần thiết phải xây dựng được quy định sử dụng MXH dành cho

sinh viên trong toàn trường để kịp thời khen thưởng, nêu gương những hành động

đẹp trên MXH, đồng thời xử lý, răn đe những hành vi lệch chuẩn của sinh viên trên

không gian mạng, tránh những ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh và uy tín của sinh

viên, của nhà trường. Để xây dựng hướng dẫn sử dụng MXH, cần đảm bảo các nội

dung như:

- Xác định căn cứ pháp lý để xây dựng quy định sử dụng MXH của sinh viên

là: Luật An ninh mạng số 24/2018/QH14 ngày 12 tháng 6 năm 2018 của Quốc

Hội;Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 07 năm 2013 của chính phủ về quản

lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên Mạng; Quyết định số

3296/QĐ-BGDĐT ngày 30/8/2018 của Bộ trưởng Bộ GDĐT phê duyệt Đề án Tăng

cường quản lý, giáo dục chính trị tư tưởng đối với học sinh, sinh viên (HSSV) trên

môi trường mạng đến năm 2025; Quyết định số 1229/QĐ-TTg ngày 3 tháng 10

năm 2018 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Đề án Xây dựng văn hóa ứng

xử trong trường học giai đoạn 2018 – 2025. Với những căn cứ pháp lý này, trường

ĐHNVHN với sự chủ trì của phòng CTSV có đủ cơ sở để xây dựng hướng dẫn sử

dụng MXH dành cho SV trong toàn trường.

- Xác định mục đích, phạm vi và đối tượng áp dụng của hướng dẫn sử dụng

MXH. Hướng dẫn sử dụng MXH nhằm đưa ra quy định cụ thể những điều cần làm/

không cần làm; nên làm/không nên làm; được làm/không được làm khi sử dụng

MXH. Bộ hướng dẫn dùng trong cho sinh viên đang học tập, làm việc tại trường.

98

- Căn cứ cơ sở pháp lý ở trên, bộ hướng dẫn sử dụng MXH sẽ chỉ ra những

điều sinh viên không được làm trên không gian mạng như: Đăng tải, chia sẻ, bình

luận thiếu trong sáng trên mạng xã hội như hạ uy tín người khác, cung cấp thông

tin sai lệch về chế độ chính sách của Nhà trường vì mục đích cá nhân; đăng tải tin,

bài, hình ảnh, âm thanh trên MXH, đưa ra các bình luận, chia sẻ quan điểm cá nhân

hoặc trích đăng lại những bài phát biểu những ý kiến trái chiều chưa được kiểm

chứng về chủ trương, chế độ chính sách của Lớp, của Khoa, của Trường; bình luận

chia sẻ, nhận xét các thông tin có mục đích kích động, lôi kéo sinh viên khác phản

ứng tiêu cực tạo thành các trào lưu xấu trên MXH làm ảnh hưởng đến hình ảnh, uy

tín của cá nhân hay Nhà trường; Đăng tải những phát ngôn thiếu văn hóa trên MXH

và các hành vi gây tổn hại về thể chất, danh dự, nhân phẩm của sinh viên khác;

tuyên truyền, kích động bạo lực, các hành vi phân biệt đối xử về giới, vùng miền,

văn hóa…Căn cứ vào tình hình thực tiễn và cơ sở pháp lý, Trường ĐHNVHN xây

dựng bộ hướng dẫn sử dụng MXH mang tính đầy đủ, toàn diện hơn, quy định rõ

những hành vi không được làm trên MXH dành cho sinh viên.

- Bộ hướng dẫn sử dụng MXH sẽ quy định cụ thể trách nhiệm của các đơn

vị, giảng viên và sinh viên trong việc thực thi quy tắc thống nhất trong toàn trường.

Trong đó, giao phòng CTSV nghiên cứu, hoàn thiện bộ hướng dẫn, trình BGH nhà

trường phê duyệt và ban hành. Các cán bộ, giảng viên ngoài trách nhiệm thực thi

còn có trách nhiệm tuyên truyền rộng rãi bộ quy tắc này đến với người lao động,

học viên sinh viên trong toàn trường để biết và thực hiện có hiệu quả. Học viên,

sinh viên có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc các nội dung được quy định trong bộ

quy tắc nhằm điều khiển, điều chỉnh hành vi sử dụng MXH của bản thân, tránh

những hành vi sai trái sẽ bị xử lý kỷ luật tùy theo mức độ vi phạm.

- Cùng với các điều không được làm trên MXH, bộ hướng dẫn quy định chi

tiết hình thức khen thưởng và kỷ luật đối với việc sử dụng MXH, đặc biệt đối với

sinh viên. Các hình thức khen thưởng như nêu gương người tốt việc tốt trên các

forum, tặng giấy khen tại các buổi đối thoại chính trị hoặc chuyên mục sinh viên tốt

trên fanpage của Nhà trường để nhân rộng hành vi đẹp trên MXH và tạo động lực

cho sinh viên khác cùng thực hiện. Bên cạnh đó, những hành vi sai trái tùy vào

từng mức độ vi phạm và thái độ sửa lỗi của sinh viên để có hình thức kỷ luật phù

hợp. Các hình thức kỷ luật như nhắc nhở từ cấp độ lớp, cấp Khoa và cấp Trường;

những hành vi vi phạm mang tính nghiêm trọng có thể xử lý đình chỉ học 1 tháng, 3

99

tháng, 6 tháng hoặc buộc thôi học. Những hình thức kỷ luật do hội đồng kỷ luật nhà

trường căn cứ tình hình cụ thể để thống nhất ra quyết định. Những sinh viên được

khen thưởng hoặc kỷ luật sẽ được cộng điểm thưởng hoặc trừ điểm khi đánh giá

điểm rèn luyện của kỳ học tương ứng. Ngoài ra, để khuyến khích những hành động

đẹp trên MXH, Nhà trường sẽ đưa tiêu chí sử dụng MXH trở thành một trong

những tiêu chí xét khen thưởng, xét học bổng và xét kết nạp Đảng hằng năm.

Những sinh viên có vi phạm khi sử dụng MXH sẽ bị hạn chế điểm khi xét các nội

dung trên. Bên cạnh đó, bộ quy tắc có thể đề xuất các mức phạt tiền đối với những

hành vi lệch chuẩn trên MXH để răn đe sinh viên, giúp sinh viên cẩn trọng và

chuẩn mực hơn với các hành vi trên MXH của mình.

Tuy nhiên, bộ hướng dẫn không vì thế mà ảnh hưởng đến quyền tự do cá

nhân của sinh viên trong nhà trường trên không gian mạng. Bộ hướng dẫn tôn trọng

quyền tự do sử dụng MXH của người dùng nhưng những nội dung đăng tải, chia sẻ,

bình luận…trái với chuẩn mực đạo đức, trái với thuần phong mỹ tục và ảnh hưởng

trực tiếp đến uy tín, danh dự của sinh viên khác, của Nhà trường phải được nghiêm

khắc xử lý. Để MXH trở thành môi trường “sống” lành mạnh, bổ ích góp phần vào

sự hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên và nâng cao chất lượng giáo

dục, đào tạo của Nhà trường.

3.2. Khuyến nghị

Trên cơ sở kết quả đã được nghiên cứu, để góp phần đảm bảo hiệu quả sử

dụng MXH của sinh viên nhóm tác giả đề xuất một số khuyến nghị như sau:

3.2.1. Đối với Nhà trường và các phòng, khoa

Nhà trường cần tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa như hoạt động thể dục

thể thao, văn hóa văn nghệ, hội trại, các câu lạc bộ, các hoạt động cộng đồng tạo

sân chơi lành mạnh bổ ích cho sinh viên. Giúp sinh viên có cơ hội được giao lưu,

học hỏi, kết bạn và phát triển các kỹ năng của bản thân, xây dựng và phát triển các

mối quan hệ ngoài đời thực với bạn bè, thầy cô. Các hoạt động ngoại khóa phong

phú, bổ ích sẽ thu hút đông đảo sinh viên tham gia giảm bớt tình trạng sinh viên

thiếu sân chơi nên tiêu tốn thời gian vào những trò giải trí vô bổ trên mạng ảnh

hưởng đến sức khỏe và học tập.

Đầu tư nâng cấp và xây dựng các thiết chế văn hóa như nhà thi đấu đa năng,

sân bóng, hồ bơi…tạo điều kiện cho sinh viên có cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu

100

vui chơi giải trí, rèn luyện thân thể. Khi sinh viên có điều kiện, môi trường để tham

gia rèn luyện, vui chơi sẽ hạn chế thời gian sử dụng mạng xã hội.

Tổ chức các lớp bồi dưỡng, các buổi tập huấn về sử dụng, quản lý MXH cho

cán bộ, giảng viên, học viên và sinh viên trong toàn trường nhằm giúp cán bộ,

giảng viên, học viên và sinh viên có những hiểu biết đầy đủ về mạng xã hội, những

tác động của MXH mang đến và cả những cách thức bảo mật thông tin; kỹ năng sử

dụng MXH hiệu quả. Từ đó nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi sử dụng MXH

tích cực hơn, hiệu quả hơn cho cán bộ, giảng viên và sinh viên trường ĐHNVHN.

Nhà trường cần đầu tư thiết lập trang MXH của trường ĐHNVHN trên các

trang facebook, Youtube, zalo…giao cho một đơn vị cụ thể quản lý, duy trì để cập

nhật thông tin hoạt động, tuyển sinh, truyền thông và các văn bản, thông báo từ nhà

trường đến sinh viên nhanh chóng, hiệu quả. Ngoài ra, sử dụng MXH đa dạng,

phong phú từ hình thức đến nội dung phục vụ cho hoạt động truyền thông tuyển

sinh cho nhà trường trong đó chú trong đăng tải, chia sẻ, bình luận những nội dung

lành mạnh, tuyên dương những hành động đẹp của sinh viên trên không gian mạng

và ngoài đời thực để khuyến khích sinh viên sử dụng MXH có trách nhiệm hơn.

Nhà trường cần chỉ đạo nghiên cứu xây dựng và ban hành bộ quy tắc sử

dụng MXH dành cho cán bộ, giảng viên, người lao động, học viên và sinh viên

trong toàn trường. Bộ quy tắc là cơ sở pháp lý quan trọng để khen thưởng những

hành động đẹp và những đóng góp của sinh viên cho sự phát triển của nhà trường

ngoài đời thực cũng như trên không gian mạng. Ngoài ra, những hành vi thiếu

chuẩn mực, thiếu văn hóa của sinh viên cần có biện pháp nhắc nhở, răn đe và kỷ

luật thích đáng. Đặc biệt, những hành vi gây tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy

tín của giảng viên, sinh viên và của nhà trường cần phải xử lý ngay để làm gương

cho những sinh viên khác.

Các phòng khoa, trung tâm cần có sự quan tâm nhiều hơn, sát sao hơn đến

đời sống, nhu cầu của sinh viên để kịp thời nắm bắt những tâm tư nguyện vọng của

sinh viên, kịp thời giải đáp những vướng mắc sinh viên gặp phải để sinh viên có

hiểu biết đầy đủ, đúng đắn về các vấn đề trong nhà trường. Tránh trường hợp sinh

viên không được giải đáp thấu đáo đã đưa thông tin, những bức xúc cá nhân lên

không gian mạng tạo nên những trào lưu không tốt ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh

101

của Nhà trường.

Các Khoa cần chủ động tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục và các

hoạt động khác như nói chuyện chuyên đề, các cuộc thi nhỏ trong các liên chi đoàn

về các nội dung sử dụng MXH của sinh viên. Từ những hoạt động như vậy, sẽ nắm

bắt, định hướng hành vi sử dụng MXH của sinh viên. Kịp thời điều chỉnh những

hành vi lệch chuẩn như nói tục, chửi bậy trên không gian mạng ảnh hưởng không

tốt đến hình ảnh, nhân cách sinh viên Nội vụ.

Phòng Công tác sinh viên cần tham mưu cho Lãnh đạo Nhà trường đưa nội

dung sử dụng MXH thành một trong các tiêu chí đánh giá điểm rèn luyện theo từng

kỳ. Cộng điểm thưởng cho những sinh viên thường xuyên tham gia đăng bài, chia

sẻ những hành động đẹp, những tài liệu học tập có giá trị và các hoạt động trong

nhà trường phục vụ cho công tác truyền thông của nhà trường, đồng thời giáo dục,

uống nắn, răn đe, trừ điểm rèn luyện đối với những hành vi lệch chuẩn trên MXH

của sinh viên. Ngoài ra, đưa tiêu chí sử dụng MXH vào các nội dung xét học bổng,

xét kết nạp đảng và các danh hiệu khác trong nhà trường, nhằm thúc đẩy tính trách

nhiệm cao khi sử dụng MXH của sinh viên.

3.2.2. Đối với giảng viên, cố vấn học tập

Giảng viên, cố vấn học tập cần sát sao hơn với sinh viên lớp mình quản lý,

đặc biệt là những phát ngôn, hình ảnh, clip các em đăng tải trên MXH. Thường

xuyên nhắc nhở về hành vi sử dụng MXH trong các buổi sinh hoạt lớp để sinh viên

tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Cùng với đó, trang bị cho sinh viên

các kỹ năng sử dụng mạng xã hội hiệu quả để hạn chế sự lệ thuộc vào MXH dẫn

đến xa rời các mục tiêu trong cuộc sống.

Lồng ghép các nội dung sử dụng MXH vào các tiết học một cách nhẹ nhàng,

hài hước và bổ ích. Những tình huống gắn với sử dụng MXH nên được thiết kế và

lồng ghép vào các buổi học để sinh viên cùng nhau trao đổi, xử lý từ đó hình thành

kỹ năng sử dụng MXH cho sinh viên.

Mỗi giảng viên, CVHT phải là tấm gương về sử dụng MXH cho sinh viên

học tập và noi theo. GV, CVHT sử dụng MXH để đăng tải, chia sẻ những nội dung

học tập, học liệu, những thông báo thông tin của nhà trường một cách chính thống

sẽ là kênh thông tin đáng tin cậy để sinh viên theo dõi và thực hiện. GV, CVHT

102

tránh sa đà vào các chủ đề nhạy cảm, chưa kiểm chứng, những tranh luận không

cần thiết trên MXH sẽ ảnh hưởng đến uy tín của GV, CVHT trong sinh viên.

Mỗi GV, CVHT không ngừng nâng cao hiểu biết về MXH, trang bị cho mình

kỹ năng sử dụng MXH và kỹ năng xử lý những tình huống trên không gian mạng để

kịp thời xử lý, điều chỉnh những phát sinh trên MXH của sinh viên mình quản lý.

3.2.3. Đối với sinh viên

Cần nâng cao hiểu biết về mạng xã hội. Trước khi quyết định sử dụng MXH

hãy dành thời gian tìm hiểu về MXH như nguồn gốc ra đời, những lợi ích và tác

hại, cách thức bảo mật thông tin để có sự lựa chọn phù hợp với nhu cầu của mình.

Cần chọn lọc những thông tin, hình ảnh khi đăng tải, chia sẻ trên không gian

mạng, tránh bị lợi dụng vào mục đích xấu.

Tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các câu lạc bộ, các hoạt động

thiện nguyện nhằm hạn chế thời gian sử dụng MXH mỗi ngày. Chú trọng mở rộng,

xây dựng các mối quan hệ xã hội tích cực ngoài đời thực thay vì kết thật nhiều bạn

trên thế giới ảo.

Cẩn trọng với những phát ngôn, bình luận, chia sẻ trên MXH tránh làm tổn

thương người khác và bị người khác hiểu sai về mình. Những hành vi đăng tải thiếu

thận trọng có thể kéo sinh viên vào những rắc rối không đáng có, thậm chí vi phạm

pháp luật.

Xác định thật chính xác mục đích sử dụng MXH của bản thân, trong đó định

hướng học tập là mục đích chính khi sử dụng MXH. Để MXH trở thành công cụ

hữu hiệu cho học tập và rèn luyện, tránh lệ thuộc, sa đà vào MXH ảnh hưởng đến

chất lượng học tập và cuộc sống.

Khi có những bức xúc, những vướng mắc về các vấn đề trong nhà trường,

cần nhanh chóng chủ động trao đổi thẳng thắn với GV, CVHT hoặc các phòng khoa

chức năng. Tránh hành vi sử dụng MXH thiếu suy nghĩ, những phát ngôn gây sốc,

thiếu văn hóa trên không gian mạng ảnh hưởng đến bản thân và Nhà trường.

Tham gia các buổi đối thoại giữa sinh viên với nhà trường để lắng nghe

những giải đáp, những hoạt động, những thông tin chính thức của nhà trường, từ đó

giúp sinh viên có cách nhìn nhận, đánh giá đầy đủ hơn về các nội dung trong nhà

trường. Từ đó, đồng hành, tin tưởng vào chủ trương, chính sách và mục tiêu phát

103

triển của nhà trường.

Tiểu kết chương 3

Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài, nhóm nghiên cứu mạnh

dạn đề xuất 6 nhóm giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng MXH của

sinh viên trong thời gian tới, đó là: tăng cường nhận thức của SV về mạng xã hội;

trang bị kỹ năng sử dụng MXH hiệu quả cho sinh viên; xây dựng bộ hướng dẫn sử

dụng MXH của sinh viên; nâng cao trách nhiệm của GV, CVHT, cán bộ Đoàn thanh

niên; tổ chức phong phú các hoạt động ngoại khóa cho sinh viên, kết hợp nội dung

sử dụng MXH của sinh viên với các nội dung khác trong Nhà trường. Các giải pháp

cần được triển khai càng sớm càng tốt nhằm tạo sân chơi lành mạnh bổ ích cho sinh

viên cũng như có căn cứ pháp lý để điều chỉnh, định hướng hành vi sử dụng MXH

cho sinh viên mang tính hiệu quả. Cùng với đó, nhóm nghiên cứu cũng đưa ra một

số khuyến nghị đối với Nhà trường, các phòng khoa; đối với GV, CVHT và đối với

SV. Tuy nhiên, khuyến nghị và giải pháp phải được tiến hành đồng bộ, linh hoạt và

nhanh chóng, nó không chỉ góp phần đảm bảo hiệu quả sử dụng MXH cho sinh

viên mà còn thể hiện sự quan tâm của Lãnh đạo Nhà trường, là yếu tố tạo ra sự

khác biệt trong các chính sách dành cho sinh viên, khẳng định thương hiệu của

104

trường ĐHNVHN trong hệ thống các trường Đại học hiện nay.

KẾT LUẬN

Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng

người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và

trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân,

diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các

hình thức dịch vụ tương tự khác. Do vậy, MXH đã thu hút nhiều người tham gia

đặc biệt là giới trẻ và sinh viên sử dụng nó như một tiện ích được ưa chuộng nhất.

Với những chức năng đa dạng kéo theo sự gia tăng ngày càng đông đảo các thành

viên, MXH ở một khía cạnh nào đó đã làm thay đổi thói quen, tư duy, lối sống, văn

hóa… của một bộ phận thanh niên, sinh viên nói chung và sinh viên trường

ĐHNVHN nói riêng, bằng những nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng nhóm

nghiên cứu đưa ra một số kết luận như sau:

Đa số sinh viên trường ĐHNVHN đều sử dụng MXH, các trang mạng được

sử dụng nhiều như facebook, Intagsram, Youtube với mức độ thường xuyên sử

dụng. Sinh viên dành trung bình 5,7 giờ mỗi ngày để sử dụng MXH, trong đó tỉ lệ

sinh viên dành từ 3 đến 5 giờ, 5 đến 8 giờ và hơn 8 giờ mỗi ngày cho MXH chiếm

tỉ lệ lớn. Phương tiện chủ yếu sinh viên sử dụng để truy cập MXH là điện thoại

thông minh.

Trung bình thời gian sử dụng MXH mỗi ngày của sinh viên rất lớn, nhưng

nhu cầu sử dụng MXH tương đối đơn giản, trong đó, học tập không phải là nhu cầu

và mục đích sử dụng cao nhất của sinh viên. Một trong những nguyên nhân dẫn đến

tình trạng này là bởi những tính năng của MXH thường hướng người dùng nói

chung, sinh viên nói riêng đến với các mục đích giải trí, kết nối tương tác với các

tính năng đa dạng, hấp dẫn hơn như nghe nhạc, xem phim, chơi game trực truyến,

checkin, livestream, chỉnh sửa ảnh nhiều hơn là các tính năng phục vụ cho hoạt

động học tập, nghiên cứu.

Thông qua nội dung “đăng tải”, “chia sẻ”, “like”, “comment” cho thấy hành

vi sử dụng MXH của sinh viên tương đối đa dạng và phong phú. Dù học tập không

phải là nhu cầu và mục đích cao nhất khi sử dụng MXH nhưng những nội dung liên

quan đến học tập, nghiên cứu, những thông báo, thông tin từ GV, CVHT, từ các

105

phòng khoa được sinh viên chia sẻ nhiều hơn các nội dung khác. Bên cạnh đó, bộ

phận sinh viên đăng tải tất cả mọi thứ của cá nhân lên MXH và chia sẻ tất cả thông

tin của bản thân, bạn bè lên MXH là rất đang được quan tâm. Chính hành vi sử

dụng thiếu thận trọng này có thể gây ra những hệ lụy khôn lường cho sinh viên.

Đặc biệt, sinh viên sử dụng MXH mọi lúc mọi nơi từ lúc thức dậy, trước khi

đi ngủ, đi gặp gỡ bạn bè, trên xe bus, uống café, nghỉ giải lao giữa giờ, trong WC

và ngay cả trong giờ học. Điều này cho thấy tình trạng lệ thuộc, nghiện MXH đã

xảy ra đối với một số sinh viên khi mà sinh viên rất khó để rời xa thiết bị điện

thoại, rời xa MXH dẫn đến hành vi sử dụng MXH trong giờ học, dù biết rằng đó là

điều không được làm.

Đa số sinh viên chưa biết cách bảo mật thông tin cá nhân trên không gian

mạng, dẫn đến tình trạng bị kẻ xấu lợi dụng hình ảnh, bị đánh cắp thông tin cá

nhân, đánh cắp tài khoản để thực hiện những hành vi xấu tổn hại đến hình ảnh và

uy tín của SV.

Sinh viên chưa nhận thức được hết những lợi ích mà MXH mang lại cho sinh

viên khi sử dụng cũng như những tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh

viên. Mạng xã hội đóng vai trò rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn tới sinh viên

trường ĐHNVHN, nó không chỉ ảnh hưởng đối với đời sống hàng ngày mà nó còn

ảnh hưởng tới việc học tập, nó là phương tiện giúp sinh viên học tập và phát triển

bản thân hơn nếu sinh viên biết tận dụng những lợi thế của MXH nhưng chính

MXH cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đến sinh viên trong học tập và cuộc sống.

Tóm lại, sử dụng MXH của sinh viên là một vấn đề rộng với nhiều nội dung

nghiên cứu khác nhau. Trong phạm vi thời gian và khả năng nghiên cứu, nhóm tác

giả chỉ đề cập được những khía cạnh cơ bản nhất về vấn đề sử dụng MXH của sinh

viên như nhu cầu sử dụng; mục đích sử dụng; mức độ sử dụng; hành vi sử dụng;

cách thức bảo mật thông tin và những tác động khi sử dụng MXH của sinh viên. Đây

sẽ là một trong những công trình nghiên cứu tiền đề cho những công trình tiếp theo

với các quy mô khác nhau để tiếp tục nghiên cứu, khai thác và có những giải pháp

khả thi nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng MXH của sinh viên trường

106

ĐHNVHN trong thời gian tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Lê Hòa An (2013), “Nghiên cứu về hành vi sử dụng Facebook của

con người- một thách thức cho tâm lí học hiện đại”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư

phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu, Nguyễn Thạc (2007), Hoạt động Giao tiếp

Nhân cách, Nxb Đại Học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh.

3. Nguyễn Thị Bắc (2018), Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên

trường Đại học Hải Dương, Luận văn thạc sĩ Tâm lý học, Viện Hàn lâm khoa học

xã hội Việt Nam.

4. H.Kent Baker and Jonh R.Nofsinger (2012), Tài chính hành vi, Nxb Kinh

tế TP. HCM.

5. Lê Minh Công (2011), Tác động của Internet đến nhận thức và hành vi

giới tính, tình dục ở thanh thiếu niên, Luận văn thạc sĩ ngành Tâm lý học.

6. Chính phủ (2013), Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ về quản

lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet.

7.Vũ Dũng (2008), Từ điển tâm lý học, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện

Tâm lý học, NXB từ điển bách khoa Tr259

8. Trần Thị Minh Đức (2014), Sử dụng mạng xã hội trong sinh viên Việt

Nam, Tạp chí khoa học Việt Nam.

9. Bùi Hương Giang, Ngô Minh Hường (2008), Tìm hiểu ngôn ngữ trên mạng

xã hội Facebook, QH-2008-X-NN, Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội.

10. Phạm Minh Hạc (1989) Hành vi và hoạt động, Nxb Giáo dục.

11. Phạm Minh Hạc (chủ biên) Thái Duy Tuyên ( 20012) Định hướng giá trị

con người Việt Nam -Thời kì đổi mới và hội nhập, Nxb Chính trị Quốc gia

12. Phạm Minh Hạc (2003), biên dịch và giới thiệu Một số công trình Tâm lý

học của A.N.Leonchiev, Nxb Giáo dục

13. Bùi Thị Hân (2013), Nhận thức và thái độ của học sinh truờng Trung

cấp Đông Duơng về mạng xã hội, Luận văn thạc sĩ, ĐH Sư phạm Thành phố Hồ

Chí Minh.

14. Nguyễn Thị Hậu (2013), “Mạng xã hội với giới trẻ Thành phố Hồ Chí

Minh”, Viện nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn Hóa.

15. Nguyễn Thị Kim Hoa, Nguyễn Lan Nguyên 2016), “Tác động của

mạng xã hội Facebook đối với sinh viên hiện nay”, tạp chí Khoa học Đại học quốc

107

gia Hà Nội

16. Bùi Thu Hoài (2014) Tác động của mạng xã hội đến giới trẻ, luận văn

thạc sỹ, Trường Đại học KHXHNV.

17. Tống Thị Thu Hương (2014), Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh

viên trường Đại học FPT, luận văn thạc sĩ trường Đại học khoa học xã hội và nhân

văn – Đại học quốc gia Hà Nội.

18. Bạch Huyết (2008), Định nghĩa Hành vi, Nxb Hà Nội.

19. Uyên Huynh (2013), Có quá nhiều bạn trên Facebook, bao nhiêu là đủ,

Nxb Hà Nội.

20. B.R.Hergenhahn (2003), Nhập môn lịch sử Tâm lý học, Nxb Thống kê.

21. A.N. Leeonchiev (1987), Hoạt động – ý thức- nhân cách”, Nxb Giáo dục.

22. Đỗ Long (2007), Những nghiên cứu Tâm lý học, Nxb Chính trị Quốc gia.

23. Lê Tuyết Mai (2016), Báo cáo chuyên đề các cách phân loại hành vi của

con người, Trường Đại học Hồng Đức.

24. Lưu Bá Lộc (2013), Tác động của mạng xã hội với sinh viên Đại học

Văn Lang, Khóa luận tốt nghiệp.

25. Đặng Thị Nga (2013), nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên cao

đẳng su phạm Thái Bình, Luận văn thạc sỹ, Cao đẳng SP Thái Bình.

26. Nguyễn Thị Hồng Nga (2010), Hành vi con người và môi trường, Nxb

Lao động - Xã hội, Hà Nội Tr 19.

27. Đặng Thanh Nga (2006), Từ khái niệm hành vi đến khái niệm hành vi

phạm tội, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 6, tr 75-77.

28. Hoàng Phê (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr 860

29. Lê Thị Linh Trang (2013), Nghiên cứu hành vi văn minh đô thị của thanh

niên Thành phố Hồ Chí Minh, luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.

30. Nguyễn Thị Tứ (2012), Giáo trình Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư

phạm, Nxb Đại học Sư phạm Tp. HCM.

31. Nguyễn Quan Uẩn (2013), Giáo trình tâm lý học đại cương, Nxb Đại

học sư phạm Hà Nội.

TÀI LIỆU TIẾNG ANH

32. Ana M.Martinez Aleman and Catherine Lynk Wartman (2009), Online

Social Networking on Campus: Understanding What Matters in Student Culture,

Routledge Taylor and Francise.

33. John Scott and Peter J. Carrington (1996), The Sage handbook of Social

108

Network Analysis, Forest Stewardship Council A.C

34. Peter J. Carrington, John Scott, Stanley Wasserman (2005), Models and

Methods in Social Network Analysis, Cambridge University Press

35. Xiaoming Fu, Jar-Der Luo and Margarete Boos (2017), Social Network

Analysis: Interdisciplinary Approaches and Case studies, CRC Press.

MỘT SỐ TRANG WEBSITE

36.https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/22-trieu-hoc-sinh-sinh-vien-viet-

nam-su-dung-mang-xa-hoi-post203870.gd.

37.https://vnetwork.vn/news/cac-so-lieu-thong-ke-internet-viet-nam-2019.

38.https://tailieu.vn/doc/su-dung-mang-xa-hoi-trong-sinh-vien-viet-nam-

2009696.html.

39.https://luatvietnam.vn/an-ninh-quoc-gia/luat-an-ninh-mang-2018-164904-

d1.html.

40.https://thuvienphapluat.vn/van-ban/cong-nghe-thong-tin/Nghi-dinh-15-

2020-ND-CP-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-linh-vuc-buu-chinh-vien-thong-tan-so-

vo-tuyen-dien-350499.aspx.

41.https://cand.com.vn/Cong-nghe/Nguy-hiem-tu-viec-lot-lo-thong-tin-ca-

nhan-tren-mang-Internet-555131/

42.https://thanhtra.com.vn/xa-hoi/doi-song/Can-trong-khi-quan-ly-thong-tin-

ca-nhan-tren-mang-xa-hoi-153671.html

43.https://news.timviec.com.vn/bao-mat-thong-tin-la-gi-cach-bao-ve-thong-

tin-ca-nhan-tren-mang-51079.html

44.https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/thoi

su/27313/quyet-liet-xu-ly-nan-tin-gia-ve-dich-ncov

45.https://www.khoahocphothong.com.vn/google-authenticator-qua-n-ly-ma-

xa-c-minh-hai-buo-c-cho-ca-c-di-ch-vu-da-m-may-36655.html

46.https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/17446/bao-cao-ket-qua-tu-danh-gia-

nhiem-vu-khcn-cap-quoc-gia--mang-xa-hoi-trong-boi-canh-phat-trien-xa-hoi-

thong-tin-o-viet-nam--ma-so--kx01-10-16-20.aspx

47.https://baoquocte.vn/chung-ta-da-su-dung-mang-xa-hoi-mot-cach-thong-

109

thai-65014.html

PHỤ LỤC

110

Phụ lục 01

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

(Dành cho Sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội)

Để góp phần đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên, chúng tôi

tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Nội vụ

Hà Nội, thực trạng và giải pháp” Rất mong bạn tham gia bằng cách tích “V” hoặc

khoanh tròn vào các phương án phù hợp với suy nghĩ của bạn trong các câu hỏi dưới đây.

(mọi thông tin chỉ phục vụ quá trình nghiên cứu).

Câu 1. Bạn có sử dụng mạng xã hội không?

a. Có b. Không

Câu 2. Bạn thường sử dụng những trang mạng xã hội nào sau đây?

Mạng xã hội

Mức độ sử dụng

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Hiếm khi

Chưa bao giờ

Facebook

Youtube

Zalo

Instagram

Viber

Twitter

Zing me

Myspace

Mạng khác

Câu 3. Trung bình mỗi ngày bạn dành bao nhiêu thời gian online mạng xã hội?

a. Dưới 30 phút

b. Từ 30 phút đến 1 giờ

c. 1 – 3 giờ

d. 3 – 5 giờ

e. 5 – 8 giờ

f. Nhiều hơn 8 giờ

g. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)…………………………………………….

111

Câu 4. Bạn sử dụng mạng xã hội vào thời điểm nào?

Nội dung

Mức độ sử dụng

Thường

Thỉnh

Hiếm

Chưa

xuyên

thoảng

khi

bao giờ

Trong giờ học

Nghỉ giải lao giữa các tiết học

Trên xe (xe máy, xe ô tô…)

Khi đang ăn

Khi ở trong toilet

Trước khi đi ngủ

Khi vừa thức dậy

Khi gặp gỡ bạn bè

Khi đang làm việc

Khi chờ đợi một việc/một người nào đó

Khi tham gia hoạt động giải trí (uống café, xem

phim…)

Thời gian khác

Câu 5. Bạn truy cập mạng xã hội bằng thiết bị nào?

a. Máy tính để bàn

b. Máy tính xách tay (laptop)

c. Máy tính bảng

d. Điện thoại thông minh

e. Thiết bị khác (vui lòng ghi rõ) …………………………………………..

Câu 6. Xin vui lòng cho biết, Mục đích sử dụng mạng xã hội của bạn là?

(có thể chọn nhiều đáp án)

a. Cập nhật tin tức mới

b. Mục đích học tập (tìm kiếm, chia sẻ tài liệu với thầy cô và nhóm học tập)

c. Kết nối và giữ liên lạc với bạn bè

d. Tham gia các nhóm trên mạng xã hội

e. Xây dựng và quảng bá hình ảnh của bản thân

f. Giải trí (chơi game, xem phim, đọc báo, đọc truyện…)

i. Quảng cáo, kinh doanh, bán hàng online

k. Tìm việc làm thêm

112

l. Chỉ để giết thời gian

l. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)………………………………………………….

Câu 7. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của bạn là:

a. Nhu cầu chia sẻ (bày tỏ cảm xúc, gửi quà tặng, đăng status, comment...)

b. Nhu cầu thể hiện bản thân (chia sẻ hình ảnh cá nhân...)

c. Nhu cầu học tập (tìm kiếm, trao đổi thông tin học tập, nghiên cứu…)

d. Nhu cầu tìm kiếm việc làm (thông tin tuyển dụng, việc làm thêm…)

e. Nhu cầu giải trí (chơi game, nghe nhạc, xem phim, đọc sách, truyện…)

f. Nhu cầu kinh doanh (quảng cáo, mua, bán hàng online…)

g. Nhu cầu tương tác (giao lưu, kết bạn, tìm kiếm người thân, trò chuyện…)

h. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)……………………………………………. …

Câu 8. Những hành vi khi sử dụng mạng xã hội của bạn là?

Nội dung

Mức độ sử dụng

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Hiếm khi

Chưa bao giờ

1. Hành vi “đăng tải”

Đăng tải tất cả mọi thứ về cuộc sống của mình

Đăng tải bài viết, video liên quan đến học tập của mình

Đăng các group bán hàng online

Đăng các bức ảnh “sexy” hoặc thông tin gây sốc để câu

like

Đăng tải bài báo nhằm kêu gọi sự giúp đỡ đối với những

hoàn cảnh khó khăn

Đăng thông tin chính thống về dịch bệnh

Đăng tải thông báo từ giảng viên, cố vấn học tập, đoàn

thanh niên…liên quan đến học tập, nghiên cứu khoa học

2. Hành vi “chia sẻ”

Chia sẻ mọi thứ liên quan đến cá nhân

Chia sẻ kiến thức liên quan đến học tập

Chia sẻ những vấn đề về dịch bệnh

Chia sẻ thông tin về kinh tế, chính trị

Chia sẻ công tác tình nguyện, thiện nguyện của đoàn

trường

113

Chia sẻ thông báo từ giảng viên, cố vấn học tập, đoàn

thanh niên hoặc các phòng ban trong nhà trường

Chia sẻ các trang bán hàng online

Chia sẻ tất cả những thông tin, status của người thân, bạn

3. Hành vi “Like”

“Like” ảnh

“Like” stastus

“Like” fan pape yêu thích

“Like” commet của người khác

“Like” video

“Like” dạo: like tất cả những gì được hiển thị

4. Hành vi “commet”

“Commet” tất cả thông tin liên quan đến học tập

Chỉ “commet” về ảnh, stastus của bạn bè và người thân

“Commet” tất cả thông tin mình đọc được

Không “commet” khi không thực sự cần thiết.

Câu 9. Mạng xã hội mang đến cho sinh viên lợi ích gì là?

a. Giúp SV cập nhật thông tin nhanh chóng, hiệu quả. b. Giúp Sv tìm kiếm và trao đổi tài liệu học tập, nghiên cứu góp phần nâng cao

kết quả học tập và rèn luyện

c. Giúp SV kết nối nhanh chóng, thuận lợi với Giảng viên, cố vấn học tập và

các phòng khoa khi cần thiết

d. Giúp SV học hỏi và phát triển kỹ năng và bày tỏ quan điểm cá nhân về các

lĩnh vực liên quan.

e. Giúp SV giới thiệu hình ảnh cá nhân đến mọi người từ đó nâng cao cơ hội

phát triển khả năng của bản thân

f. Giúp SV kết nối bạn bè trên khắp thế giới g. Tạo môi trường kinh doanh và các hoạt động buôn bán mang lại thu nhập

cao, tìm kiếm khách hàng tiềm năng.

h. Giúp SV nhận biết và cảnh giác với các thủ đoạn lừa đảo trên mạng xã hội

và ở đời sống thực.

i. Giúp SVdễ dàng tiếp cận các thông tin tuyển dụng việc làm j. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)…………………………………………….

Câu 10. Mạng xã hội tác động tiêu cực đến sinh viên như thế nào?

a. Tạo ra hội chứng “nghiện” mạng xã hội

114

b. Lãng phí thời gian và sao nhãng học hành c. Tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu ảnh hưởng đến kết quả học tập d. Lệ thuộc vào mạng xã hội và hạn chế sự sáng tạo e. Gia tăng các hành vi thiếu văn hóa (nói tục, chửi bậy…) trên không gian

mạng

f. Gia tăng nhu cầu sống “ảo” trên mạng xã hội. g. Làm bạn mất ngủ, mệt mỏi và lười biếng vận động h. Gia tăng hội chứng nghiện game và phim trên mạng xã hội i. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)………………………………………………

Câu 11. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân trên mạng xã hội của bạn là?

a. Cảnh giác với những tin nhắn, đường link lạ b. Không đưa thông tin về cá nhân trên mạng xã hội c. Để mật khẩu khó nhớ, không chia sẻ mật khẩu với bất kỳ ai d. Khoanh vùng nhóm bạn e. Hạn chế liên kết với các tài khoản khác f. Thường xuyên thay đổi mật khẩu g. Không truy cập mạng công cộng h. Cách thức khác………………………………………………………. …

Chân thành cảm ơn bạn.

115

Phụ lục 02

(Dành cho Giảng viên, Cố vấn học tập của trường Đại học Nội vụ Hà Nội)

Để góp phần đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên, chúng tôi

tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Nội

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

vụ Hà Nội, thực trạng và giải pháp” Rất mong Thầy/cô tham gia bằng cách khoanh

tròn vào các phương án phù hợp trong các câu hỏi dưới đây.

(mọi thông tin chỉ phục vụ quá trình nghiên cứu).

Câu 1. Theo Thầy/cô, mức độ sử dụng mạng xã hội của sinh viên hiện nay là:

a. Rất thường xuyên b. Thường xuyên c. Thỉnh thoảng d. Chưa bao giờ

Câu 2. Theo Thầy/cô, sinh viên sử dụng mạng xã hội để làm gì?

a. Cập nhật tin tức mới b. Tìm kiếm, chia sẻ tài liệu hoặc thông tin liên quan đến học tập, nghiên cứu c. Kết nối và giữ liên lạc với bạn bè d. Tham gia các nhóm trên mạng xã hội e. Xây dựng và quảng bá hình ảnh của bản thân f. Chơi game i. Quảng cáo, kinh doanh, bán hàng online k. Tìm việc làm thêm h. Chỉ để giết thời gian k. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)…………………………………………

Câu 3. Theo Thầy/cô, nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên là:

a. Nhu cầu chia sẻ (bài tỏ cảm xúc, gửi quà tặng, đăng status, comment…) b. Nhu cầu thể hiện bản thân (đăng tải hình ảnh cuộc sống cá nhân…) c. Nhu cầu học tập (tìm kiếm, trao đổi thông tin học tập, nghiên cứu…) d. Nhu cầu tìm kiếm việc làm (thông tin tuyển dụng, việc làm thêm…) e. Nhu cầu giải trí (chơi game, nghe nhạc, xem phim, đọc sách, truyện…) f. Nhu cầu kinh doanh (quảng cáo, mua, bán hàng online…) g. Nhu cầu tương tác (giao lưu, kết bạn, tìm kiếm người thân, trò chuyện…) h. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)…………………………………………. …

Câu 4. Theo Thầy/cô, mạng xã hội mang đến cho sinh viên những lợi ích gì?

a. Giúp sinh viên dễ dàng cập nhật thông tin nhanh chóng, hiệu quả. b. Giúp sinh viên học hỏi và phát triển kỹ năng và bày tỏ quan điểm cá nhân về

các lĩnh vực liên quan.

c. Giúp sinh viên giới thiệu hình ảnh cá nhân đến mọi người từ đó nâng cao cơ

hội phát triển khả năng của bản thân

116

d. Giúp sinh viên kết nối bạn bè trên khắp thế giới e. Tạo môi trường kinh doanh và các hoạt động buôn bán mang lại thu nhập

cao, tìm kiếm khách hàng tiềm năng.

f. Giúp sinh viên nâng cao cảnh giác với các thủ đoạn lừa đảo trên mạng xã

hội và ở đời sống thực.

g. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)…………………………………………….

Câu 5. Theo Thầy/cô, MXH tác động tiêu cực đến sinh viên như thế nào?

a. Tạo ra hội chứng “nghiện” mạng xã hội dẫn đến giảm tương tác trong các mối

quan hệ xã hội ngoài đời thực của sinh viên.

b. Lãng phí thời gian và sao nhãng học hành c. Tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu ảnh hướng đến sức khỏe và

kết quả học tập

d. Sinh viên lệ thuộc vào mạng xã hội và hạn chế sự sáng tạo e. Gia tăng các hành vi thiếu văn hóa của một bộ phận sinh viên trên không gian

mạng

f. Gia tăng tỉ lệ sinh viên sống “ảo” trên mạng xã hội. g. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)…………………………….……………………

Xin cảm ơn Thầy/cô.

117

Phụ lục 03

(Dành cho Đại diện Ban giám hiệu trường ĐHNVHN)

Để góp phần đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên, chúng tôi

tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Nội

PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU

vụ Hà Nội, thực trạng và giải pháp” Rất mong Thầy/cô vui lòng cho biết ý kiến của

mình với một số câu hỏi sau.

(mọi thông tin chỉ phục vụ quá trình nghiên cứu).

Câu 1. Theo Thầy/Cô, sinh viên trường ĐHNVHN sử dụng MXH ở mức độ nào?

Câu 2. Theo Thầy/Cô, MXH đã tác động đến cho SV ĐHVNHV như thế nào?

Câu 3. Theo Thầy/Cô, mục đích sử dụng MXH của SV trường ĐHNVHN là gì?

Câu 4. Thầy/Cô đánh giá như thế nào về việc sử dụng MXH trong công tác truyền

thông và tuyển sinh của trường ĐHNVHN?

Câu 5. Xin Thầy/Cô chia sẻ một số lời khuyên trong việc sử dụng MXH của sinh viên

trường ĐHNVHN hiện nay?

Câu 6. Xin Thầy/Cô cho biết, Nhà trường đã và sẽ có những giải pháp nào để định

hướng cho sinh viên trong việc sử dụng MXH hiệu quả hơn?

Xin chân thành cảm ơn Thầy/Cô.

118

Phụ lục 04

(Dành cho Đại diện Lãnh đạo các đơn vị)

Để góp phần đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên, chúng tôi

tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Nội

PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU

vụ Hà Nội, thực trạng và giải pháp” Thầy/cô vui lòng cho biết ý kiến của mình với

một số câu hỏi sau. (mọi thông tin chỉ phục vụ quá trình nghiên cứu).

Câu 1. Theo Thầy/cô sinh viên trường ĐHNVHN sử dụng MXH ở mức độ nào?

Câu 2. Theo Thầy/cô, mục đích sử dụng MXH của SV trường ĐHNVHN là gì?

Câu 3. Theo Thầy/cô, MXH đã tác động đến cho SV ĐHVNHV như thế nào?

Câu 4. Nếu có lời khuyên dành cho sinh viên trong vấn đề sử dụng MXH hiện nay,

Thầy/cô sẽ chia sẻ lời khuyên gì với các em?

Câu 5. Thầy/Cô đánh giá như thế nào về hành vi sử dụng MXH của sinh viên trường

ĐHNVHN hiện nay?

Câu 6. Theo Thầy/cô, các Khoa, đơn vị cần có những giải pháp gì để nâng cao hiệu

quả sử dụng MXH của sinh viên trong thời gian tới?

Xin cảm ơn Thầy/cô.

119

Phụ lục 05

(Dành cho Giảng viên, cố vấn học tập)

Để góp phần đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên, chúng tôi

tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Nội

PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU

vụ Hà Nội, thực trạng và giải pháp” Thầy, cô vui lòng cho biết ý kiến của mình với

một số câu hỏi sau. (mọi thông tin chỉ phục vụ quá trình nghiên cứu).

Câu 1. Theo Thầy/cô nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên là gì?

Câu 2. Theo Thầy/cô mục đích chính khi sử dụng MXH của sinh viên là gì?

Câu 3. Thầy/cô đánh giá như thế nào về việc sinh viên sử dụng điện thoại truy cập

MXH trong giờ học?

Câu 4. Thầy/cô đánh giá như thế nào về mức độ sử dụng MXH của sinh viên?

Câu 5. Theo thầy/cô MXH đã tác động đến sinh viên như thế nào?

Chân thành cảm ơn Thầy/cô.

120

Phụ lục 06

(Dành cho sinh viên trường ĐHNVHN)

Để góp phần đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên, chúng tôi

tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Nội

PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU

vụ Hà Nội, thực trạng và giải pháp” Các bạn vui lòng cho biết ý kiến của mình với

một số câu hỏi sau. (mọi thông tin chỉ phục vụ quá trình nghiên cứu).

Câu 1. Bạn có sử dụng MXH không? Bạn thường sử dụng MXH nào?

Câu 2. Thời điểm sử dụng MXH chủ yếu vào lúc nào?

Câu 3. Bạn dành bao nhiêu thời gian mỗi ngày cho MXH?

Câu 4. MXH mang lại cho bạn những lợi ích và tác hại gì?

Câu 5. Nếu một ngày bạn không sử dụng MXH, bạn sẽ cảm thấy như thế nào?

Câu 6. MXH có ảnh hưởng đến kết quả học tập của bạn không?

Câu 7. Bạn thường đăng tải, chia sẻ, like, comment điều gì trên không gian mạng?

Câu 8. Cách thức bảo mật thông tin của bạn trên MXH là gì?

Chân thành cảm ơn bạn.

121

Phụ lục Bảng số liệu

Câu 1. Theo Thầy/cô, mức độ sử dụng mạng xã hội của sinh viên hiện nay là:

Mức độ sử dụng MXH của sinh viên

N

%

70

100

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

0

0

Hiếm khi

0

0

Chưa bao giờ

0

0

Câu 2. Theo Thầy/cô, sinh viên sử dụng mạng xã hội để làm gì?

Mục đích sử dụng MXH

N

%

Cập nhật tin tức mới

67

95.7

Mục đích học tập (tìm kiếm, chia sẻ tài liệu với thầy cô và nhóm học tập)

54

77.1

Kết nối và giữ liên lạc với bạn bè

50

71.4

Tham gia các nhóm trên mạng xã hội

32

45.7

Xây dựng và quảng bá hình ảnh của bản thân

45

64.3

Giải trí (chơi game, xem phim, đọc báo, đọc truyện…)

48

68.6

Quảng cáo, kinh doanh, bán hàng online

43

61.4

Tìm việc làm thêm

38

54.3

Chỉ để giết thời gian

41

58.6

Ý kiến khác

0

0

Câu 3. Theo Thầy/cô, nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên là:

Nhu cầu sử dụng MXH

N

%

Thứ bậc

a. Nhu cầu chia sẻ (bày tỏ cảm xúc, gửi quà tặng, đăng status, comment...)

3

57 81.4

b. Nhu cầu thể hiện bản thân (chia sẻ hình ảnh cá nhân…)

5

49 70.0

c. Nhu cầu học tập (tìm kiếm, trao đổi thông tin học tập, nghiên cứu…)

2

59 84.3

d.Nhu cầu tìm kiếm việc làm (thông tin tuyển dụng, việc làm thêm…)

7

37 52.9

e. Nhu cầu giải trí (chơi game, nghe nhạc, xem phim, đọc sách, truyện…)

1

68 97.1

f. Nhu cầu kinh doanh (quảng cáo, mua, bán hàng online…)

6

46 65.7

122

52 74.3

4

g. Nhu cầu tương tác (giao lưu, kết bạn, tìm kiếm người thân, bạn bè, trò chuyện…)

Ý kiến khác

0

0

Câu 4. Theo Thầy/cô, mạng xã hội mang đến cho sinh viên những lợi ích gì? Lợi ích khi sử dụng MXH

N

%

Giúp sinh viên dễ dàng cập nhật thông tin nhanh chóng, hiệu quả.

60

85.7

Giúp sinh viên học hỏi và phát triển kỹ năng và bày tỏ quan điểm cá nhân về các lĩnh vực liên quan.

54

77.1

Giúp sinh viên giới thiệu hình ảnh cá nhân đến mọi người từ đó nâng cao cơ hội phát triển khả năng của bản thân

50

71.4

Giúp sinh viên kết nối bạn bè trên khắp thế giới

60

85.7

48

68.6

Tạo môi trường kinh doanh và các hoạt động buôn bán mang lại thu nhập cao, tìm kiếm khách hàng tiềm năng. Giúp sinh viên nâng cao cảnh giác với các thủ đoạn lừa đảo trên mạng xã hội và ở đời sống thực.

32

45.7

N

%

60 56

85.7 80.0

45

64.3

42

60.0

Sinh viên lệ thuộc vào mạng xã hội và hạn chế sự sáng tạo Gia tăng các hành vi thiếu văn hóa của một bộ phận sinh viên trên không gian mạng Gia tăng tỉ lệ sinh viên sống “ảo” trên mạng xã hội.

54 43

77.1 61.4

123

Câu 5. Theo Thầy/cô, mạng xã hội tác động tiêu cực đến SV như thế nào? Tác động tiêu cực của MXH Tạo ra hội chứng “nghiện” mạng xã hội dẫn đến giảm tương tác trong các mối quan hệ xã hội ngoài đời thực của sinh viên. Lãng phí thời gian và sao nhãng học hành Tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu ảnh hướng đến sức khỏe và kết quả học tập