BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Mã đề tài: ĐTCT.2020.114
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Quỳnh
Hà Nội, 2020
BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Mã đề tài: ĐTCT.2020.114
Chủ nhiệm đề tài:
ThS. Nguyễn Thị Quỳnh
Thư ký đề tài: ThS. Trần Thị Phương Thúy
Thành viên tham gia: ThS. Lê Vĩnh Hoàng Linh
Hà Nội, 2020
LỜI CẢM ƠN
Nhóm nghiên cứu xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, phòng Quản lý đào tạo Sau đại học, khoa Quản
lý xã hội, phòng Công tác sinh viên đã tạo điều kiện thuận lợi để nhóm nghiên
cứu triển khai và hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này.
Xin chân thành cảm ơn các anh chị em đồng nghiệp, các bạn sinh viên
trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã hợp tác, giúp đỡ nhóm nghiên cứu trong quá
trình thực hiện đề tài.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
TM. Nhóm nghiên cứu Chủ nhiệm đề tài
Nguyễn Thị Quỳnh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CTSV
CVHT
ĐHNVHN
ĐTB
GV
MXH
SV
: Công tác sinh viên : Cố vấn học tập : Đại học Nội vụ Hà Nội : Điểm trung bình : Giảng viên : Mạng xã hội : Sinh viên
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 8
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 8
6. Đóng góp mới của đề tài ........................................................................... 9
7. Kết cấu của đề tài .................................................................................... 11
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN12
1.1. Một số khái niệm cơ bản ..................................................................... 12
1.2. Đặc điểm, vai trò và tác động của mạng xã hội .................................... 18
1.3. Vấn đề sử dụng mạng xã hội của sinh viên .......................................... 23
1.3.1. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên ..................................... 23
1.3.2. Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên ................................... 25
1.3.3. Thời gian, phương tiện sử dụng mạng xã hội của sinh viên .............. 27
1.3.4. Một số hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên ........................... 28
1.3.5. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân của SV trên không gian mạng ....... 30
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng mạng xã hội của sinh viên ............ 33
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 36
Chương 2. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI ......................................................................... 37
2.1. Phân tích thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học
Nội vụ Hà Nội ............................................................................................ 37
2.1.1. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên ..................................... 37
2.1.2. Mức độ sử dụng mạng xã hội của sinh viên ...................................... 39
2.1.3. Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên ................................... 45
2.1.4. Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên ...................................... 48
2.1.5. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân trên MXH ............................... 63
2.1.6. Lợi ích và tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên ........... 66
2.2. Đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học
Nội vụ Hà Nội ............................................................................................ 73
2.2.1. Ưu điểm............................................................................................ 73
2.2.2. Hạn chế . .......................................................................................... 76
2.2.3. Nguyên nhân .................................................................................... 76
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 79
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ
NỘI ......................................................................................................................................... 81
3.1. Một số giải pháp ...................................................................................................... 81
3.1.1 Tăng cường nhận thức của sinh viên về mạng xã hội .......................................... 81
3.1.2. Kết hợp nội dung sử dụng MXH vào các hoạt động trong nhà trường ....... 85
3.1.3. Hướng dẫn cho sinh viên các kỹ năng sử dụng mạng xã hội hiệu quả ....... 88
3.1.4. Tổ chức đa dạng các hoạt động ngoại khóa ....................................... 91
3.1.5. Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ GV, CVHT, Đoàn thanh niên ...... 96
3.2. Khuyến Nghị .......................................................................................................... 100
3.2.1. Đối với Nhà trường và các phòng, khoa ........................................... 100
3.2.2. Đối với giảng viên, cố vấn học tập ................................................... 102
3.2.3. Đối với sinh viên .............................................................................. 103
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 107
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 110
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Mức độ sử dụng các trang mạng xã hội của sinh viên ...................... 39
Bảng 2.2. Mục đích sử dụng MXH của sinh viên ............................................. 45
Bảng 2.3. Biểu hiện hành vi sử dụng MXH của sinh viên qua nội dung “đăng tải” 48
Bảng 2.4. Biểu hiện hành vi sử dụng MXH thông qua nội dung “chia sẻ” ....... 52
Bảng 2.5. Biểu hiện hành vi sử dụng MXH thông qua nội dung “like” và
“comment” ....................................................................................................... 58
Bảng 2.6. Thời gian sử dụng MXH xét theo thời điểm ..................................... 69
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1. Nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên ............................................. 37
Biểu đồ 2. Thời gian sử dụng MXH mỗi ngày của sinh viên ............................ 43
Biểu đồ 3. Phương tiện truy cập MXH của sinh viên ....................................... 44
Biểu đồ 4. Thời gian sử dụng MXH xét theo thời điểm .................................... 60
Biểu đồ 5. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân của sinh viên trên MXH ....... 63
Biểu đồ 6. Lợi ích khi sử dụng MXH của sinh viên ......................................... 66
Biểu đồ 7. Tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên ......................... 69
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 làm thế giới thay đổi nhanh chóng
từng ngày, đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống internet, mạng xã hội
đã và đang chiếm lĩnh các kênh thông tin, giải trí, giao lưu phong phú với mọi đối
tượng. Việc tham gia MXH đưa con người đến với thế giới rộng lớn, hấp dẫn, nhiều
màu sắc, nơi mà ở đó những khoảng cách về địa lý, màu da, sắc tộc, ngôn ngữ, tôn
giáo không còn quá nhiều ý nghĩa khi con người có cùng những mối quan tâm
chung. Sự tương tác và kết nối trên không gian mạng kéo gần con người lại với
nhau trên phạm vi toàn cầu. Với những tính năng đa dạng, nguồn thông tin phong
phú cho phép người dùng tiếp nhận, chia sẻ và chọn lọc thông tin một cách có hiệu
quả. Mạng xã hội và thời đại kỹ thuật số đã đem lại những lợi thế to lớn và nâng
cao chất lượng cuộc sống đối với người dùng nói chung và sinh viên nói riêng.
Sinh viên trường ĐHNVHN là những người trẻ, năng động và sáng tạo việc
tiếp cận, sử dụng MXH là điều tất yếu. MXH mang đến cho sinh viên nói chung và
sinh viên trường ĐHNVHN nói riêng cơ hội được giao lưu, học học phát triển khả
năng và thể hiện bản thân, SV được bày tỏ quan điểm cá nhân đối với các vấn đề
của cộng đồng, của xã hội, của cuộc sống. Việc tham gia các diễn đàn khởi nghiệp,
diễn đàn học tập và các hội nhóm trên không gian mạng giúp sinh viên mở mang tri
thức và rèn luyện kỹ năng cho bản thân như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình,
kỹ năng đàm phán, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng giải quyết vấn đề và các kỹ năng
khác phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp trong tương lai.
Có thể nói, MXH không chỉ mang lại cho sinh viên cơ hội lớn kết nối bạn bè
trên khắp thể giới để học hỏi, để phát triển mà còn thể hiện trách nhiệm của SV đối
với các vấn đề của xã hội. Tuy vậy, MXH cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với sinh
viên trường ĐHNVHN. Việc liên tục cập nhật những tính năng mới, ứng dụng đa
dạng, phong phú phù hợp với đặc điểm tâm lý, nhu cầu và mục đích sử dụng đã lôi
cuốn sinh viên tham gia MXH ngày càng nhiều với lượng thời gian sử dụng MXH
mỗi ngày rất lớn. Sinh viên thay vì chú tâm vào học tập, rèn luyện thì ngày càng bị
cuốn vào “rừng” thông tin, kho phim và kho game trên các trang mạng xã hội dẫn
1
đến sao nhãng học hành, rời xa các mục tiêu chính trong cuộc sống. Ngoài ra, việc
sử dụng MXH của sinh viên đa phần là tự phát, ngẫu nhiên theo các trào lưu trên
không gian mạng mà chưa đầu tư tìm hiểu kỹ những ứng dụng hay các trang MXH
mà mình sử dụng. Bởi vậy, việc sử dụng MXH của sinh viên là “ảo” nhưng hệ lụy
của nó lại là “thật”, tình trạng sinh viên bị kẻ xấu đánh cắp tài khoản, hình ảnh,
thông tin cá nhân sử dụng vào mục đích xấu như lừa đảo, quấy rối không phải là
hiếm gặp. Có thể nói, nhận thức của sinh viên trường ĐHNVHN về MXH còn
nhiều hạn chế, sinh viên chưa có kỹ năng chắt lọc, kiểm chứng thông tin dẫn đến
việc SV chưa nhận biết được dấu hiệu của tin giả đã tác động đến hành vi đăng tải,
chia sẻ thiếu chuẩn mực của SV trên không gian mạng. Chính vì lẽ đó, sinh viên
trường ĐHNVHN cần phải được trang bị những kiến thức cơ bản về mạng xã hội,
cách sử dụng mạng xã hội an toàn và những hiểu biết về Luật An ninh mạng. Mỗi
sinh viên cần phải được trang bị kỹ năng sử dụng MXH hiệu quả để biết chọn lọc
những thông tin chính xác và nhận biết các trang mạng chính thống để tránh bị tin
giả dẫn dắt cảm xúc, tư duy và hành động sai trái. Xuất phát từ những lý do đó thúc
đẩy nhóm nghiên cứu lựa chọn vấn đề: “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường
Đại học Nội vụ Hà Nội, thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Các công trình nghiên cứu về mạng xã hội
Thời gian qua những vấn đề về “mạng xã hội” đã và đang nhận được nhiều
sự quan tâm rất lớn không chỉ từ các nhà kinh doanh, các nhà chính trị mà còn đặc
biệt từ các nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục vì tính mục đích và vai trò của nó
trong mọi mặt đời sống hiện nay.
Tác giả John Scott and Peter J. Carrington đã xuất bản cuốn “Cẩm nang về
Mạng xã hội” đã cung cấp nguồn tư liệu phong phú, đa dạng cho những người
tham gia lĩnh vực phân tích MXH. Tác giả đã giới thiệu cho người đọc các khái
niệm chính, chủ thể thực chất, phương pháp trung tâm và các cuộc tranh luận
chính. Các nội dung được đề cập đến như lý thuyết mạng, ứng dụng liên ngành,
mạng trực tuyến, mạng lưới vận động hành lang, mạng công ty...là kho tư liệu
phong phú cho những người quan tâm đến phân tích MXH có thể tham khảo [33].
Tác giả Peter J. Carrington, John Scott, Stanley Wasserman đã viết và xuất
2
bản cuốn“Mô hình và phương pháp phân tích mạng xã hội”. Đây là cuốn sách đi
sâu phân tích mạng xã hội với sự tăng trưởng ồ ạt. Sự tăng trưởng này đã được kết
hợp bởi sự tinh tế ngày càng tăng trong một công cụ kỹ thuật có sẵn cho người
dùng [34].
Tác giả Xiaoming Fu, Jar-Der Luo and Margarete Boos đã xuất bản cuốn
“Phân tích mạng xã hội, phương pháp tiếp cận liên ngành và nghiên cứu trường
hợp” đã đưa ra các nhận định về sự tương tác của con người với gia đình, đồng
nghiệp, bạn bè, các cá nhân và các tổ chức khác. Mạng xã hội liên kết mọi người
với nhau theo sở thích chung hoặc các loại phụ thuộc lẫn nhau. Ngày nay sự năng
động của mạng lưới xã hội. ngày nay, sự năng động của mạng xã hội thường được
thúc đẩy bởi việc truy cập vào các nền tảng trực tuyến hiện đại và địa lý cao, dẫn
đến tương tác giữa các cá nhân lớn hơn [35].
Đây là những công trình nghiên cứu đã đưa ra các vấn đề lý luận và phương
pháp nghiên cứu các vấn đề liên quan đến mạng xã hội mà đề tài có thể kế thừa và
phát huy trong quá trình nghiên cứu.
2.2. Các nghiên cứu về sử dụng mạng xã hội
* Về các tác động và ảnh hưởng từ việc sử dụng mạng xã hội
Nhiều nhà khoa học hàng đầu của Anh đã có nhiều công trình nghiên cứu
đưa ra các cảnh báo về hiện tượng: “Các trang web cộng đồng đang gây nên nhiều
thay đổi tiêu cực đối với não của trẻ em tại xứ sở sương mù”. Trong đó, phải kể đến
các nhà nghiên cứu tiêu biểu như: Susan Greenfield - chuyên gia thần kinh nổi tiếng
của Anh đã với những nghiên cứu khẳng định:“Các mạng xã hội như Facebook,
Twitter và Bebo khiến trẻ em trở nên ích kỷ hơn, đồng thời làm giảm khả năng tập
trung và làm tăng tính tự mãn”; Baroness Greenfield - nhà thần kinh học của Đại
học Oxford, hiện giữ chức giám đốc Viện Hoàng gia Anh, cho rằng việc tiếp xúc liên
tục với mạng xã hội sẽ đảo ngược mọi hoạt động của não: “Các mạng xã hội, trò
chơi điện tử bạo lực, chương trình truyền hình sẽ làm chậm tốc độ phát triển của não
trẻ, vì chúng rất dễ bị thu hút bởi âm thanh và ánh sáng mạnh”; Baroness cũng
khẳng định việc việc chơi game, chat và tham gia mạng xã hội có thể khiến cả một
thế hệ mất đi khả năng tập trung trí óc: “Một ngày nào đó, cách giao tiếp truyền
thống sẽ bị thay thế bởi những hộp thoại trên màn hình máy tính” [20].
3
Nhiều nhà tâm lý học cũng cho rằng công nghệ số đang thay đổi cách tư duy
của con người. Họ chỉ ra rằng học sinh ngày nay không cần phải lập dàn ý trước
khi viết bài luận vì sự phổ biến của các chương trình xử lý văn bản trên mạng. Điển
hình: Sue Palmer - tác giả của cuốn sách nổi tiếng Toxic Childhood đã đưa ra nhận
định: “Sự phát triển trí óc của trẻ em ngày nay đang bị cản trở vì chúng không
tham gia vào những hoạt động mà loài người đã thực hiện từ hàng nghìn năm nay.
Tôi không phản đối việc cho trẻ tiếp cận với công nghệ số và máy tính, nhưng trước
khi tham gia vào xã hội ảo, chúng cần phải biết cách tạo mối quan hệ với người
thực”; Nhà nghiên cứu Turkle trong cuốn Alone Togethervừa xuất bản mới đây đã
bày tỏ mong muốn kêu gọi “Người dân nên bớt thời gian dành cho các trang mạng
xã hội như Twitter hay Facebook. Thay vào đó, chúng ta nên tăng cường các hoạt
động giao tiếp trong xã hội thực” [30].
Tại Việt Nam, trong thời gian vừa qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu về
mạng xã hội và đã đưa ra những kết quả nghiên cứu sau: Theo một thống kê toàn
cầu của Google công bố tháng 8/2010, MXH lớn nhất ở Việt Nam là Zingme của
công ty VNG (Tập đoàn Vinagame), nơi phần đông người sử dụng là những thanh
thiếu niên từ độ tuổi 15 – 22 [37]. Với thế hệ này, internet đã trở thành một phần
không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của họ. Học hành, giao tiếp, đọc thông
tin… tất cả đều qua internet. Đây là thế hệ không ngại chia sẻ trên internet - mức
độ thông tin mà họ không ngại ngần bày tỏ qua internet thật là đáng ngạc nhiên đối
với thế hệ già hơn. Như nhận xét của tạp chí Time trong bài viết về nhân vật của
năm: “Ý thức về bản thân của chúng ta thay đổi nhiều hơn, trong khi ý thức về sự
riêng tư mở rộng hơn. Những gì đã từng được coi là thầm kín thì nay được chia sẻ
với hàng triệu người chỉ bằng một cú nhấp chuột” [37].
Tác giả Nguyễn Thị Hậu (2010), với bài viết MXH với lối sống của giới trẻ
Thành phố Hồ Chí Minh. MXH với sự xuất hiện với những tính năng đa dạng, nguồn
thông tin phong phú đã cho phép người dùng hiện nay có thể tiếp nhận, cũng như
chia sẻ và chọn lọc thông tin một cách dễ dàng không phân biệt khó khăn về không
gian cũng như thời gian. Nó giúp nâng cao vai trò của mỗi người công dân trong việc
tạo lập quan hệ và tự tổ chức xoay quanh những mối quan tâm chung trong những
cộng đồng thúc đẩy sự liên kết các tổ chức xã hội. Tác giả đã nêu rõ ảnh hưởng của
4
mạng xã hội đến lối sống giới trẻ Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thông qua việc
tìm hiểu nhu cầu, mục đích và hình thức sử dụng MXH góp phần giúp các bạn trẻ
có thể cải thiện được việc sử dụng MXH của mình [14].
Đặc biệt, trong đề tài Cấp Nhà nước KX.01.10/16-20“Mạng xã hội trong bối
cảnh phát triển xã hội thông tin ở Việt Nam” đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
mạng xã hội và kinh nghiệm quản lý mạng xã hội ở Việt Nam và một số quốc gia
trên thế giới; nhận diện thực trạng, vấn đề của mạng xã hội và quản lý thông tin,
truyền thông trên mạng xã hội, từ đó đề xuất mô hình và giải pháp quản lý thông
tin, truyền thông ở Việt Nam đáp ứng đòi hỏi của tiến trình hội nhập, phù hợp với
xu thế và bối cảnh phát triển xã hội thông tin ở Việt Nam [46].
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trên đã đưa ra được các tác động và
ảnh hưởng của việc sử dụng mạng xã hội đến sự phát triển cảu não bộ và các mối
quan hệ xã hội của con người đặc biệt là trẻ em. Tuy nhiên, các công trình này lại
chưa đưa đánh giá sâu về mức độ sử dụng mạng xã hội và ảnh hưởng lâu dài đến
học tập và sự phát triển sự nghiệp cá nhân của người trưởng thành. Đây chính là
những khoảng trống nghiên cứu mà nhóm tác giả có thể xây dựng định hướng
nghiên cứu mới cho đề tài nhưng cũng đồng thời kế thừa các kết quả nghiên cứu đi
trước để làm sáng tỏ hơn các kết quả nghiên cứu của đề tài.
* Về việc sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Tác giả Ana M.Martinez Aleman and Catherine Lynk Wartman (2009) đã
tiến hành nghiên cứu “Mạng xã hội trực tuyến trong khuôn viên trường: hiểu những
vấn đề trong văn hóa sinh viên” đã chỉ ra bất kỳ tiến bộ công nghệ nào cũng mang
đến cho các nhà khoa học xã hội cơ hội hiểu biết sâu sắc về hành vi của con người
và sự đổi mới của mạng xã hội trực tuyến đã mang đến cho những người trong
chúng ta quan tâm tìm hiểu văn hóa đại học với một nền văn hóa đặc biệt phong
phú. Với nghiên cứu của mình, nhóm nghiên cứu mong muốn biết thế hệ sinh viên
đại học và đại học thế kỷ 21 đánh giá cao giá trị, xây dựng và phân biệt văn hóa
sinh viên trực tuyến như thế nào [32].
Tại Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã có những nghiên cứu về những tác
động của internet đến hoạt động học tập của sinh viên. Tiêu biểu là các công trình
nghiên cứu sau:
5
Đề tài “Mối quan hệ của việc sử dụng internet và hoạt động học tập của
sinh viên” Mã số Q.CL.05.01 [25] của Nguyễn Quý Thanh cùng nhóm tác giả
Nguyễn Vân Anh, Nguyễn Khánh Hòa, Nguyễn An Ni. Đề tài đã tiến hành khảo sát
640 sinh viên của 10 trường đại học, trong đó 5 trường ở Hà Nội và 5 trường ở
Thành phố Hồ Chí Minh;
Đề tài “Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên Cao đẳng Sư phạm Thái
Bình”, luận văn Thạc sỹ Tâm lý học của Đặng Thị Nga (2013) đã khái quát chung
về tình hình sử dụng MXH của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình. Qua
nghiên cứu đề tài đã chỉ ra rằng, MXH trong xã hội ngày nay đóng một vai trò to
lớn trong đời sống của mỗi người và có ảnh hưởng lớn đối với hoạt động sống và
học tập của sinh viên [25];
Tác giả Trần Thị Minh Đức, Bùi Thị Hồng Thái (2014), với bài viết: “Sử
dụng mạng xã hội trong sinh viên Việt Nam” chỉ ra trong các MXH sinh viên
thường dùng thì Facebook được sử dụng nhiều nhất (chiếm 86,6%), với thời gian
sử dụng trải dài từ 1 giờ đến dưới 5 giờ/ngày. Sinh viên sử dụng mạng xã hội chủ
yếu cho nhu cầu tương tác và giải trí, mặc dù mức độ chịu áp lực từ việc sử dụng
mạng xã hội ở sinh viên chưa đáng báo động, nhưng khi sinh viên càng có nhu cầu
sử dụng mạng xã hội cao thì họ càng dễ có nguy cơ chịu áp lực từ MXH [8].
Tác giả Nguyễn Hoàng Ánh (2018), với bài viết: “Chúng ta sử dụng mạng
xã hội một cách thông thái?” đã chỉ ra những tiềm năng khổng lồ của mạng xã hội
đối với người sử dụng nhưng cũng chỉ ra những mối nguy hại từ mạng xã hội mà
con người cần phải lưu ý khi sử dụng mạng xã hội. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra
một số nguyên tắc mà người dùng mạng xã hội phải tuân thủ để tránh những rủi ro
đáng tiếc có thể xảy ra. Như vậy, bài viết gợi mở cho nhóm nghiên cứu những ý
tưởng tiếp cận dưới góc độ hành vi sử dụng MXH của sinh viên hiện nay [47].
Tác giả Nguyễn Thị Lan Hương (2018), với bài viết: “Sử dụng mạng xã hội
của thanh, thiếu niên ở Việt Nam hiện nay” đã thống kê một số trang mạng xã hội
phổ biến ở Việt Nam hiện nay như Facebook, Instagram, Youtube, Twitter,
Myspace... và một số mạng nội địa như Zingme, Go.vn, Yume.vn… với nhiều tiện
ích đáp ứng được các nhu cầu hết sức đa dạng: kết nối - giao tiếp, tìm kiếm thông
tin, học tập, giải trí, kinh doanh... của thanh, thiếu niên. Bài viết đã điều tra thực
6
trạng sử dụng mạng xã hội của thanh, thiếu niên Việt Nam với một số nội dung như:
mục đích sử dụng mạng xã hội; đối tượng kết nối; địa điểm và phương tiện sử dụng;
ngôn ngữsử dụng trên mạng xã hội…Những kết quả nghiên cứu được trình bày trong
bài viết sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị đối với nhóm nghiên cứu trong quá trình
điều tra, thu thập và xử lý thông tin liên quan đến các nội dung đề tài của mình [17].
Đây cũng là định hướng của nhóm nghiên cứu khi thực hiện đề tài, nghiên cứu việc
sử dụng Facebook dưới góc độ tâm lý học để có những cái nhìn tổng quan hơn về
hoạt động sử dụng mạng xã hội của sinh viên [8].
Đề tài “Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Hải
Dương”, luận văn thạc sĩ Tâm lý học của Nguyễn Thị Bắc (2018) đã khảo sát và
đánh giá hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên đại học Hải Dương. Tác giả
đánh giá cao tác động của mạng xã hội đối với sinh viên, nhưng cũng chỉ ra những
biểu hiệnhành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên như: Thời gian sử dụng; nội
dung chia sẻ; nội dung đăng tải; mục đích khi nhấn nút like...Những số liệu và
phântích trong đề tài là nguồn tư liệu để nhóm nghiên cứu tham khảo và có những
đối chứng so sánh khi đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên
trường đại học Nội vụ Hà Nội [7].
Tóm lại, vấn đề sử dụng MXH được nhiều tác giả trong và ngoài nước tiếp
cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới những góc độ tiếp cận, các tác giả chỉ ra
thực trạng và biện pháp khác nhau để đạt được mục đích nghiên cứu của vấn đề.
Tuy có rất nhiều công trình nghiên cứu về MXH nhưng chưa có tác giả nào nghiên
cứu vấn đề sử dụng MXH của sinh viên trường ĐHNVHN. Vì vậy, nghiên cứu vấn
đề sử dụng MXH của sinh viên trường ĐHNVHN là nội dung mới cần được khai
thác trên nhiều khía cạnh khác nhau.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp đảm bảo hiệu quả sử dụng mạng xã hội của sinh viên
trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về sử dụng mạng xã hội của SV
- Đánh giá thực trạng sử dụng MXH của SV trường ĐHNVHN.
- Đề xuất các giải pháp đảm bảo hiệu quả sử dụng mạng xã hội của sinh viên
7
trường ĐHNVHN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Sử dụng mạng xã hội của sinh viên
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung các nội dung sau:
./ Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên
./ Mức độ sử dụng MXH của sinh viên
./ Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên
./ Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên
./ Cách thức bảo mật thông tin cá nhân trên MXH của sinh viên
./ Lợi ích và tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên.
+ Phạm vi về thời gian: Khảo sát việc sử dụng MXH của sinh viên năm học
2019 - 2020
+ Phạm vi về khách thể : Khách thể chính: 575 sinh viên đại học, hệ chính quy;
khánh thể phụ: 70 Giảng viên, Cố vấn học tập (GV,CVHT) tại trường Đại học Nội vụ,
cơ sở Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thu thập, tổng hợp và phân tích đánh giá
các tài liệu và các nghiên cứu trước để kế thừa có chọn lọc xây dựng tổng quan và
lịch sử vấn đề nghiên cứu góp phần bổ sung hệ thống lý luận cho đề tài.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi (Anket): Đây là phương pháp chính của đề
tài nhằm thu thập những thông tin về nhu cầu sử dụng mạng xã hội, mức độ sử
dụng mạng xã hội (thời gian sử dụng và thiết bị vào mạng...), mục đích, hành vi sử
dụng MXH của sinh viên, cách thức bảo mật thông tin, những lợi ích và tác động
tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên. Với đề tài này chúng tôi sử dụng thiết kế
nghiên cứu điều tra một lần theo lát cắt ngang và sử dụng phương pháp điều tra
bằng bảng hỏi với 02 loại phiếu: phiếu dành cho SV và phiếu dành cho GV, CVHT
(Phụ lục 1 và 2); Chúng tôi sử dụng các hình thức khảo sát phát phiếu trực tiếp và
khảo sát bằng phiếu online thông qua các trang mạng xã hội facebook, zalo, các
forum.... Trước khi gửi phiếu và sau khi nhận phiếu trả lời của nghiệm thể, nhóm
nghiên cứu đều tiến hành bước làm sạch phiếu. Kết quả 575 phiếu thu về đều đạt
8
yêu cầu, đảm bảo tính khách quan trong kết quả nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát: để thu thập thông tin phục vụ đánh giá thực trạng sử
dụng MXH của sinh viên, nhóm nghiên cứu quan sát hành vi sử dụng MXH của
sinh viên trong mỗi giờ lên lớp và quan sát các hoạt động sử dụng MXH trên các
trang cá nhân của sinh viên. Để từ đó làm cơ sở đánh giá thực trạng sử dụng MXH
của sinh viên.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: để thu thập thêm thông tin về thực trạng sử
dụng mạng xã hội của sinh viên, nhóm nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu đối với:
Đại diện Ban Giám hiệu Nhà trường (Phụ lục 03); Đại diện Lãnh đạo các đơn vị
(Phụ lục 04); Giảng viên, cố vấn học tập (Phụ lục 05) và sinh viên (Phụ lục 06).
- Phương pháp thống kê toán học: Thông qua quá trình khảo sát, chúng tôi
thu thập được những dữ liệu mà sinh viên cung cấp, đưa ý kiến. Để thống kê và
khái quát hóa thành những con số có ý nghĩa chúng tôi sử dụng PP thống kê toán
học để tính phần trăm cho các câu hỏi và phần trăm cho các lựa chọn, tính điểm
trung bình cho các item.
+ Tỷ lệ %:
./ Câu hỏi mang tính kiểm chứng (câu 1)
./ Trong các câu hỏi có hai phương án: Lựa chọn và không lựa chọn (câu 3,
câu 5, câu 6, câu 7, câu 9, câu 10, câu 11)
./ Đối với các câu hỏi có thanh đo, phép thống kê này sẽ được sử dụng khi
cần thiết:
Giá trị trung bình (Mean): Dùng để tính điểm trung bình của các item trong
câu hỏi và tính giá trị trung bình của các thang đo trong toàn bộ bảng hỏi.
Đối với các câu hỏi dạng thang đo (câu 2, Câu 4, Câu 8) chúng tôi sẽ xếp thứ
tự theo thang đo của từng câu hỏi tuỳ thuộc vào số lượng item của từng thang. Trong
một thang có n item thì tương đương n thứ tự. Việc xếp thứ tự này chỉ có ý nghĩa
trong tương quan với các item của thang và trong tổng mẫu của nghiên cứu. Ví dụ:
Câu 2 có 8 item các điểm trung bình (ĐTB) của từng item xếp thứ tự từ 1 đến 8.
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài đã khảo sát và đưa ra những số liệu thực tế về vấn đề sử dụng MXH
của sinh viên trường ĐHNVHN, trong đó chỉ ra thời gian sử dụng MXH trung bình
9
mỗi ngày, nhu cầu, mục đích sử dụng MXH của sinh viên làm cơ sở đánh giá mức
độ lệ thuộc vào MXH của sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, đề tài
cũng chỉ ra những hành vi sử dụng trên không gian mạng làm căn cứ để nhà trường
nắm bắt, định hướng hành vi sử dụng MXH của sinh viên trong thời gian tới. Với
phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, PP quan sát, PP phỏng vấn sâu với nhiều
nhóm đối tượng khác nhau, đề tài cung cấp số liệu đáng tin cậy về mức độ tương
đồng và khác biệt trong đánh giá vấn đề sử dụng MXH của sinh viên dưới góc độ
các góc độ khác nhau. Là căn cứ để đề xuất các khuyến nghị đối với Nhà trường,
các phòng khoa, GV, CVHT và sinh viên về vấn đề này.
Ngoài ra, đề tài đã làm rõ nhận thức chưa đầy đủ của sinh viên về lợi ích và
tác động tiêu cực khi sử dụng MXH cũng như cách thức bảo mật thông tin cá nhân
trên không gian mạng. Đây chính là cơ sở thực tiễn đáng tin cậy để phòng CTSV,
các khoa trung tâm nghiên cứu đề xuất các hoạt động, các chuyên đề, các tọa đàm
nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên về MXH. Thông qua số liệu thực tiễn của
đề tài, đoàn thanh niên sẽ có cơ sở xây dựng và tổ chức những hoạt động ngoại
khóa bổ ích lôi cuốn sinh viên tham gia nhiều hơn, tích cực hơn, hiệu quả hơn
nhằm hạn chế sự lệ thuộc vào mạng xã hội do thiếu sân chơi dành cho sinh viên
trong nhà trường.
Đồng thời, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần giúp nhà trường có cách
nhìn nhận tổng quan về vấn đề sử dụng mạng xã hội của sinh viên, từ đó có những giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng mạng xã hội sinh viên trường ĐHNVHN
trong thời gian tới. Trên cơ sở khái quát thực trạng, nhóm nghiên cứu đã đề xuất được
các nhóm giải pháp mang tính khả thi như tăng cường nhận thức của sinh viên về
mạng xã hội; hướng dẫn các kỹ năng sử dụng MXH hiệu quả; kết hợp các nội dung sử
dụng MXH vào các hoạt động khác trong nhà trường; tổ chức đa dạng các hoạt động
ngoại khóa; nâng cao trách nhiệm của GV, CVHT, chuyên viên chuyên trách và sinh
viên trên không gian mạng; Thiết lập bộ hướng dẫn sử dụng MXH cho sinh viên trong
thời gian tới. Các giải pháp được trình bày chi tiết với các biện pháp thực hiện được
trình bày cụ thể đảm bảo triển khai có hiệu quả vào thực tiễn.
Cùng với đó, nhóm nghiên cứu đã có những đề xuất cụ thể đối với BGH nhà
trường, các phòng khoa; với GV,CVHT và sinh viên để các giải pháp nâng cao hiệu
10
quả sử dụng MXH được sớm triển khai trong thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài có kết cấu
3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Chương 2. Thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học
Nội vụ Hà Nội
Chương 3. Một số giải pháp và khuyến nghị đảm bảo hiệu quả sử dụng mạng
11
xã hội của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm mạng xã hội
Khái niệm MXH nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu với
các góc nhìn khác nhau, mỗi tác giả đưa ra khái niệm mạng xã hội dựa trên hướng
nghiên cứu của mình.
Tác giả Nguyễn Hải Nguyên đưa ra khái niệm về MXH: mạng xã hội là dịch
vụ kết nối các thành viên cùng sở thích trên internet lại với nhau với nhiều mục
đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian. Tác giả giải thích thêm,
mạng xã hội được hình thành khi một nhóm người khởi xướng gửi đi thông điệp
mời những người chưa quen gia nhập và thành bạn bè trong website của mình. Các
thành viên khác sẽ lặp lại quá trình trên và tạo nên một trang mạng liên kết rộng lớn
không phân biệt không gian địa lý của các thành viên [23].
Tác giả Đặng Thị Nga trong luận văn thạc sỹ “Nhu cầu sử dụng Mạng xã hội
của sinh viên cao đẳng sư phạm Thái Bình” đã đưa ra khái niệm: Mạng xã hội là
một xã hội ảo với hai thành tố chính tạo nên đó là các thành viên và liên kết giữa
các thành viên đó. Mạng xã hội là dịch vụ internet cho phép kết nối các thành viên
cùng sở thích không phân biệt không gian và thời gian [25].
Tác giả Tống Thị Thu Hương trong luận văn thạc sĩ “Nhu cầu sử dụng MXH
của sinh viên trường Đại học FPT đưa ra khái niệm: Mạng xã hội là một dịch vụ
kết nối những thành viên là người sử dụng dịch vụ đó tạo thành một cộng đồng ảo
trên Internet, thông qua tương tác của các thành viên và cùng kết nối. Mỗi người là
một mắt xích trong mạng lưới truyền tải thông tin đó, tạo nên một xã hội online, có
những điểm tương tự và khác riêng đặc trưng so với xã hội thực ngoài đời [17].
Tác giả Nguyễn Thị Bắc trong luận văn thạc sỹ của mình đã đưa ra khái niệm:
“MXH là một website mở trong đó người dùng có thể tự xây dựng nội dung nhằm kết
nối và tương tác với mọi người thông qua các tính năng riêng biệt của MXH” [3].
Như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về MXH cho thấy sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu là rất lớn. Bởi vậy, để thống nhất một cách hiểu, một khái
12
niệm về mạng xã hội là điều không dễ dàng. Điều này dẫn đến có những cách hiểu
chưa đúng, đầy đủ về khái niệm MXH đã gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan
quản lý nhà nước về lĩnh vực này ở Việt Nam.
Nhận thức được điều đó, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm
2013 của Thủ tướng chính phủ về việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet
và thông tin trên mạng. Tại Khoản 22, Điều 3 Chương 1. Những quy định chung
nêu rõ: “Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng
đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ
và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân,
diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các
hình thức dịch vụ tương tự khác”[6].
Có thể nói, MXH là khái niệm nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu ở các khía cạnh khác nhau. Hiện nay, số lượng các trang mạng xã hội ngày
càng gia tăng, các tính năng được cập nhật và nâng cấp liên tục nhằm thỏa mãn nhu
cầu, mục đích sử dụng của người dùng trên khắp thế giới với các độ tuổi khác nhau.
Một số trang MXH có thể kể đến như:
Facebook: là một mạng xã hội được thành lập bởi Mark Zuckerberg với
những người bạn học tại trường Đại học Harvard là sinh viên Eduardo Saverin,
Dustin Moskovitz và Chris Hughes. Thành viên được quyền sử dụng trang Facebook
ban đầu được giới hạn bởi những người sáng lập cho sinh viên Harvard, nhưng sau
đó đã được mở rộng đến các trường đại học khác trong khu vực như đại học Boston,
Ivy League, và Đại học Stanford. Về sau Facebook dần dần được nâng cấp để hỗ trợ
cho tất cả các sinh viên tại các trường đại học trước khi trở thành một trang mở dành
cho học sinh trung học, và cuối cùng là cho bất cứ ai ở độ tuổi 13 trở lên.
Facebook là một website mạng xã hội truy cập miễn phí do công ty Facebook, Inc
điều hành và sở hữu tư nhân. Người dùng có thể tham gia các mạng lưới được tổ
chức theo thành phố, nơi làm việc, trường học và khu vực để liên kết và giao tiếp
với người khác.
YouTube: là nền tảng video phổ biến nhất hiện nay. Sự đơn giản của
YouTube là một trong nhiều lý do khiến nó bùng nổ về mức độ phổ biến trong
những năm qua. YouTube giúp tạo nội dung dễ dàng, chia sẻ với một lượng lớn
13
khán giả. Các nội dung được chia sẻ rất đa dạng. Chẳng hạn như hướng dẫn làm
đẹp, đánh giá sản phẩm, kênh chơi trò chơi, phim, giải trí….Youtube là một nền
tảng truyền thông xã hội liên tục phát triển. Một trong những lý do chính khiến
Youtube giữ vị trí thống lĩnh trong ngành là bởi mức độ truy cập. Youtube giúp dễ
dàng bắt đầu và chia sẻ nội dung của bạn với một lượng lớn khán giả. Sự đơn giản
mà mọi người có thể bắt đầu trên Youtube đã góp phần to lớn vào việc thu hút hàng
triệu người sáng tạo nội dung trên toàn thế giới.
Zalo: được phát hành bởi VNG từ năm 2012, mạng xã hội “Made in
Vietnam” này đã có hơn 100 triệu người dùng trên toàn thế giới. Zalo vốn là ứng
dụng nhắn tin và gọi điện thoại miễn phí nhưng đang dần chuyển thành một mạng
xã hội với nhiều tính năng chia sẻ. Công cụ này ngày càng được hoàn thiện với
nhiều dịch vụ tiện ích như trợ lý ảo, xử lý các thủ tục hành chính, mua sắm, phương
tiện trao đổi thông tin và liên lạc nhanh chóng, tiện dụng.
Instagram: là nền tảng chia sẻ hình ảnh phổ biến nhất hiện nay với hơn 500
triệu người dùng hoạt động mỗi ngày. Instagram là nền tảng top đầu về số lượng
người dùng hoạt động với hơn 500 triệu người, bỏ xa Twiter (326 triệu người),
Snapchat (150 triệu người), Pinterest (250 triệu người).
Viber: là một ứng dụng cho phép nhắn tin, gọi điện miễn phí. Nó là phần mềm
nghe gọi miễn phí được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Với chất lượng cuộc gọi
rất tốt. Ở Việt Nam, viber đã có thời gian được sử dụng rất mạnh mẽ. Và hiện tại, thị
phần của nó đứng thứ 2, sau Zalo trong lĩnh vực nghe gọi miễn phí. Viber có phiên
bản tiếng Việt cho người dùng nên chúng ta có thể dễ dàng sử dụng.
Twitter: là dịch vụ MXH miễn phí cho phép người sử dụng đọc, nhắn và cập
nhật các mẩu tin nhỏ gọi là tweet. Những mẩu tweet được giới hạn tối đa 140 ký tự
được lan truyền nhanh chóng trong phạm vi nhóm bạn của người nhắn hoặc có thể
được trưng rộng rãi cho mọi người. Thành lập từ năm 2006, Twitter đã trở thành
một hiện tượng phố biến toàn cầu.
Myspace: là một trang MXH nổi tiếng, cung cấp một mạng lưới thông tin
giữa người dùng với bạn bè của họ, cho phép người dụng tạo những hồ sơ cá nhân,
viết blog, lập nhóm, tải hình ảnh lên, lưu trữ nhạc và video cho giới trẻ cũng như
người lớn trên khắp thế giới. Trụ sở của nó đặt tại Beverly Hills, California, Hoa
14
Kỳ, được chia sẻ cùng với công ty Fox Interactive Media. Tuy nhiên, do chậm chạp
trong việc cải tiến và nâng cấp tính năng nên Myspace đang bị cạnh tranh từ các
đối thủ khác như Facebook, Twitter…
Zing Me: là mạng xã hội của công ty Vinagame. Zing me chú trọng tới các
tính năng đặc trưng của một mạng xã hội như kết bạn, chat trực tuyến, viết blog,
lập câu lạc bộ. Bên cạnh đó các thành viên có thể tham gia diễn đàn, nghe nhạc,
xem phim, chia sẻ ảnh và tham gia các trò chơi trực tuyến. Ngoài việc xây dựng thế
giới ảo, Zing me còn thường xuyên tổ chức các sự kiện đối với người sử dụng của
mình nói riêng hay cộng đồng nói chung và nhận được nhiều phản hồi tích cực.
Các trang MXH vẫn không ngừng gia tăng về số lượng và cải tiến các tính
năng để thu hút người dùng trên phạm vi toàn cầu. Tham gia MXH giúp người
dùng có những trải nghiệm thú vị trên không gian mạng, giải tỏa căng thẳng, mệt
mỏi trong đời thực. Hiện nay, có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về
mạng xã hội, nhóm nghiên cứu đã khái quát và kế thừa những quan điểm của các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước về mạng xã hội. Đó thực sự là nguồn tư liệu có giá
trị đối với nhóm tác giả khi triển khai nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, trong khuôn khổ
đề tài này, nhóm nghiên cứu lựa chọn khái niệm được quy định tại Khoản 22, Điều 3
Chương 1 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2013 của Thủ tướng
chính phủ về việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng
làm khái niệm công cụ trong nghiên cứu của mình. Theo đó, Mạng xã hội (social
networks) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các
dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau,
bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện
(chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác.
1.1.2. Khái niệm sinh viên
Theo quy chế công tác học sinh sinh viên trong các trường đào tạo: Sinh viên
là những người đang học trong hệ đại học và cao đẳng.
Trong cuốn tâm lý học sư phạm của Phạm Minh Hạc: sinh viên có nguồn
gốc tiếng La tinh “Students” là những người làm việc nhiệt tình, người tìm hiểu và
khai thác tri thức.
Trong từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê: “Thuật ngữ này được dùng để chỉ
15
những người đang theo học ở bậc Đại học. Theo chúng tôi, sinh viên là những
người trưởng thành về thể chất, xã hội và tâm lý, đó là những người ở độ tuổi
khoảng 18 – 25 và đang theo học tại các trường Cao đẳng, Đại học”. [28]
Có thể nói, khái niệm sinh viên được hiểu ở các khía cạnh khác nhau nhưng
đều có những điểm chung về lứa tuổi, môi trường học tập tại các trường Đại học,
cao đẳng. Ở độ tuổi này, sinh viên có một số đặc điểm tâm lý cơ bản như sau:
Sự phát triển về nhận thức, trí tuệ, sinh viên khác với các giai đoạn trước khi
vào học ở các trường đại học, do đã có những kiến thức về xã hội, lịch sử, lại chịu tác
động rõ nét của dư luận xã hội và môi trường giáo dục đại học, trong đó đề cao khả
năng tự đánh giá và biểu thị ý kiến cá nhân, nên có cơ hội để khẳng định và định
hình rõ nét hệ thống thái độ và định hướng giá trị, từ đó hình thành thế giới quan,
nhân sinh quan, niềm tin và lý tưởng. Sự hình thành và điều chỉnh để hoàn thiện các
thuộc tính của nhân cách diễn ra với tốc độ nhanh, cường độ mạnh cùng với tác động
mạnh mẽ của cảm xúc có sự phân cực rõ ràng. Khả năng chịu sự tác động bên ngoài
một cách nhanh nhạy có thẩm định và tự điều chỉnh để quá trình hoàn thiện của SV
diễn ra liên tục, có tốc độ cao.
Với sinh viên, việc hình thành các chuẩn mực giá trị, các đặc điểm nhân cách
không bắt nguồn từ sự nhận thức một cách bị động, theo những công thức xác định,
mà nó bắt nguồn từ sự nhận thức một cách chủ động, sâu sắc, trên cơ sở có sự đánh
giá và kiểm nghiệm một cách nhạy bén và toàn diện. Chính điều đó tạo ra sự định
hình bền vững, đồng thời sự hoàn thiện nhân cách được diễn ra nhanh hơn, chất
lượng hơn. Sự tìm tòi, vươn đến mức thúc đẩy SV muốn thử nghiệm và có những
quan điểm mới, tính cách mới và sự khám phá cá nhân. Tuy nhiên, khi sự kiểm
nghiệm, thử nghiệm đó được thực hiện trên nền của những hiểu biết còn chưa đầy
đủ cộng với tính bồng bột và lãng mạn của tuổi trẻ có thể gây ra những hậu quả
khôn lường.
Sự phát triển xúc cảm – tình cảm, ở tuổi sinh viên, mọi tình cảm đạo đức
cũng thường được gắn liền với những nguyên tắc và tiêu chuẩn đạo đức trong nhận
thức. Do đó sinh viên có khả năng tự phân tích, đánh giá những tình cảm của mình.
Đó là một điều kiện tốt để tiến hành tu dưỡng đạo đức. Sinh viên có nhu cầu muốn
hiểu biết, muốn phân tích những tình cảm của mình và tìm cách thể hiện những tình
16
cảm đó. Bên cạnh đó, tình cảm trách nhiệm và tình cảm nghĩa vụ cũng phát triển
mạnh. Một điểm đáng chú ý về tình cảm của sinh viên là sự phát triển tình cảm bạn bè
và tình yêu nam nữ, tình bạn giúp đỡ nhau trong học tập, lao động và sinh hoạt. Sinh
viên cảm thấy vui khi hoàn thành những công việc khó khăn trong học tập và nhiều
sinh viên có xu hướng muốn đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu những điều mà mình
thích, trăn trở khi công việc không hoàn thành. Nói chung những tình cảm đã nói trên
của sinh viên phát triển cao độ, đặc biệt là tình cảm đạo đức và tình cảm trí tuệ.
Do đây là lứa tuổi cần được giao lưu, trò chuyện và kết nối với bạn bè, tìm
hiểu những người bạn khác giới, tìm hiểu những điều mới mẻ thì MXH đúng là nơi
có thể đáp ứng được nhu cầu này cho giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng. Tạo
ra một sân chơi bổ ích mà gắn kết được khắp nơi trên thế giới.
Như vậy, sinh viên là những người trẻ, năng động và có đặc điểm tâm lý
phong phú và đa dạng, khái niệm sinh viên đã được nhiều tác giả đề cập đến là cơ
sở quan trọng để nhóm nghiên cứu kế thừa và phát triển khái niệm sinh viên của
mình. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm như sau:
“Sinh viên là những người trẻ có độ tuổi khoảng từ 18 – 25 tuổi, là những người
trưởng thành về thể chất, xã hội và tâm lý, đang theo học tại các trường cao đẳng,
đại học để tìm hiểu, khai thác tri thức và làm chủ công nghệ”.
1.1.3. Khái niệm sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Trong thời đại bùng nổ công nghệ số 4.0, các MXH trở nên phổ biến hơn
bao giờ hết. MXH khiến mọi thứ chuyển dịch dần từ offline sang online. Hầu hết
các thống kê đều cho rằng giới trẻ là thành phần chính sử dụng mạng xã hội, hoặc
thậm chí là thực trạng nghiện mạng xã hội, sống ảo của những người trẻ. Hầu hết
người Việt tham gia mạng xã hội đều có thái độ, tình cảm, trách nhiệm đúng mực với
cộng đồng xã hội. Không những vậy, một bộ phận cộng đồng mạng rất có trách
nhiệm trong phản biện, phát hiện và đấu tranh phê phán tình trạng vi phạm pháp luật;
vi phạm đạo đức lối sống, thuần phong mỹ tục; thói hư tật xấu trong xã hội;… Tuy
nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận tham gia mạng xã hội có ý đồ xấu; thiếu
trách nhiệm với đất nước, với cộng đồng; cố tình làm hại lợi ích, xúc phạm danh dự
của người khác; vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục … một bộ phận người tham
gia mạng xã hội có bài viết, video, clip, ảnh trái với đạo đức, thiếu chuẩn mực trong
17
một số lĩnh vực của đời sống xã hội gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến
cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và kinh tế của người dân.
Khi tham gia MXH, mỗi người cần có ý thức mình phải là người có trách
nhiệm chính mình, với cộng đồng, với đất nước; biết tôn trọng nhân phẩm, danh dự,
quyền lợi của người khác; và nhất là biết tôn trọng danh dự bản thân thì mới có trách
nhiệm với mỗi bài viết, mỗi hình ảnh, mỗi comment khi đăng lên mạng xã hội. Với
những người cố tình sử dụng mạng xã hội để bịa đặt, xuyên tạc sự thật, làm hại
người khác cần phải xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Như vậy, sử dụng mạng xã hội là hoạt động của mỗi cá nhân dùng mạng xã
hội làm công cụ, phương tiện nhằm thỏa mãn các nhu cầu, mục đích khác nhau
trong cuộc sống.
Việc sử dụng MXH trong sinh viên hiện nay là phổ biến. Có khoảng 22 triệu
học sinh, sinh viên Việt Nam sử dụng mạng xã hội [36]. Mục đích sử dụng MXH
của sinh viên đa số là khai thác sử dụng thông tin hữu ích phục vụ cho việc học tập,
nghiên cứu khoa học, trao đổi thông tin và giải trí lành mạnh. Bên cạnh đó tăng
việc tương tác trong học tập, hoạt động nhà trường và người thân bạn bè. Theo
đánh giá các chuyên gia, người học đang bị ảnh hưởng bởi MXH, một số bộ phận
sinh viên đang thiếu kỹ năng, kiến thức, chưa được trang bị đầy đủ dẫn đến việc
không ứng phó với những thông tin xấu độc về tư tưởng, đạo đức, bị lệ thuộc vào
cảm xúc, giá trị ảo trên MXH. Điều đó đặt ra cho giảng viên, nhà trường và Bộ giáo
dục cần trang bị kiến thức, kỹ năng cho sinh viên khi tham gia sử dụng MXH.
Như vậy, MXH là công cụ phương tiện luôn đồng hành cùng với hoạt động
của sinh viên hiện nay. Để sử dụng MXH có hiệu quả mỗi sinh viên phải trang bị
những kiến thức, kỹ năng sử dụng sao cho đúng với văn hóa, đạo đức xã hội và
pháp luật. Từ đó, có thể hiểu: Sử dụng MXH của sinh viên là hoạt động của mỗi
sinh viên dùng mạng xã hội làm công cụ, phương tiện nhằm thỏa mãn các nhu cầu,
mục đích khác nhau trong học tập và cuộc sống.
1.2. Đặc điểm, vai trò và tác động của mạng xã hội
1.2.1. Đặc điểm và vai trò của mạng xã hội
Hiện nay, có rất nhiều tài liệu, bài báo viết về các đặc điểm của mạng xã hội,
trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đã khái quát một số đặc điểm nổi bật của MXH
18
như sau:
Thứ nhất, là website mở, nội dung được xây dựng bởi các thành viên tham gia.
Các trang mạng xã hội ra đời sớm hay muộn, lớn hay nhỏ đều không tự tạo nên nội
dung mà chính những thành viên tham gia (gọi chung là cư dân mạng) mới tạo ra nó.
Tất cả những gì cư dân mạng chia sẻ, like, commet, đăng tải... đều tạo nên sự phong phú
cho trang mạng và đó chính là nội dung của MXH. Những tính năng của MXH cho
phép cư dân mạng chia sẻ, đăng tải, thể hiện quan điểm cá nhân dễ dàng hơn.
Thứ hai, sự tham gia trực tiếp của nhiều cá nhân (hoặc doanh nghiệp nhưng
với vai trò như những cá nhân). MXH là không gian mở cho phép các cá nhân đủ
điều kiện như độ tuổi...được tạo tài khoản và tham gia cộng đồng cư dân mạng. Sự
tham gia trực tiếp của cá nhân không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính, sắc
tộc đã tạo nên mạng lưới phong phú, đa dạng trên không gian mạng.
Thứ ba, độ tương tác cao, khả năng truyền tải và lưu trữ khổng lồ. MXH cung
cấp các công cụ cho phép cư dân mạng chia sẻ thông tin và thể hiện quan điểm cá
nhân bằng cách tag ảnh, bình luận, chia sẻ, chát, gọi video, gửi tin nhắn và các ứng
dụng giải trí khác. Nhờ vậy, cư dân mạng có thể cùng chia sẻ, bày tỏ quan điểm cá
nhân, tương tác trực tiếp với bạn bè, người thân, nhóm sở thích ở bất kỳ đâu.
Thứ tư, khả năng lan truyền không biên giới dựa trên những mối quan hệ có
sẵn. Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi các mạng xã hội phát triển một cách
nhanh chóng về mặt số lượng người dùng. Với các tính năng trên, mạng xã hội đã
duy trì mối quan hệ sẵn có và phát triển thêm những mối quan hệ xã hội mới, dễ
dàng kết bạn với người lạ bất cứ nơi đâu và dễ dàng quản lý nhóm bạn bè...
Với các đặc điểm trên thì mạng xã hội có những vai trò rất tích cực trong đời
sống xã hội, nhóm nghiên cứu khái quát một số vai trò cơ bản của MXH là:
Giúp giao lưu, trao đổi thông tin giữa các thành viên dễ dàng. Giao tiếp là vai
trò cơ bản, truyền thống của các MXH. Tương lai việc giao tiếp sẽ ngày càng dễ dàng
hơn không chỉ giới hạn bằng những văn bản, biểu tượng hay hình ảnh.
Tích hợp và hỗ trợ phát triển thương mại điện tử. Xu hướng tích hợp thương
mại điện tử vào các trang mạng xã hội cũng là tất yếu và ngày càng nở rộ. Thương
mại điện tử ngày càng phát triển và điều tất yếu là sự hợp tác giữa những doanh
nghiệp thương mại điện tử với mạng xã hội để tiếp cận dễ dàng một lượng khách
19
hàng khổng lồ và ổn định.
Tích hợp quảng bá thương hiệu, sản phẩm, công cụ quảng bá hữu hiệu của
doanh nghiệp trong thời đại internet. Một số quốc gia sử dụng mạng xã hội như công
cụ chính trị, kinh tế: MXH là công cụ quảng bá văn hóa (quốc gia, tổ chức, doanh
nghiệp...). Hầu hết các quốc gia đang phát triển đều cố gắng xây dựng cho mình
một MXH với đặc điểm riêng của quốc gia mình.
Mạng xã hội đóng vai trò quan trong trong xu thế phát triển của các trường
Đại học hiện nay, bất cứ trường Đại học nào cũng xây dựng cho mình những trang
fanpage riêng nhằm nhằm quảng bá hình ảnh của trường, cung cấp cho sinh nhưng
những thông tin cơ bản như: các danh mục ngành đào tạo; hướng dẫn quy chế
tuyển sinh; cổng thông tin tuyển sinh của trường; cổng thông tin tuyển sinh của Bộ
giáo dục và đào tạo; ngoài ra hàng tuần, hàng tháng, hàng năm trên website của
trường đăng tải những thông tin liên quan đến hoạt động của nhà trường, lịch thi,
thời khóa biểu, chỉ tiêu tuyển sinh, điểm thi.
MXH đóng vai trò vô cùng to lớn đối với giảng viên trong hoạt động giảng
dạy. Thông qua MXH, GV khái thác những thông tin hữu ích trên không gian mạng
bổ sung những kiến thức mới, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ để hướng
dẫn sinh viên học tập những kiến thức mới theo kịp sự thay đổi và phát triển của xã
hội. Đối với sinh viên, MXH giúp các em hình thành kỹ năng tự học, rèn luyện khả
năng tự nghiên cứu mọi lúc, mọi nơi để phát triển vốn kiến thức của bản thân.
1.2.2. Tác động của mạng xã hội
Ngày nay, chúng ta có thể dễ dàng nắm bắt được các thông tin từ rất nhiều
nguồn khác nhau trên internet và đặc biệt là thông qua MXH với tốc độ lan truyền
nhanh chóng. Mục đích của MXH là tạo ra một hệ thống trên nền Internet cho
phép người dùng giao lưu và chia sẻ thông tin một cách có hiệu quả, vượt ra ngoài
những giới hạn về địa lý và thời gian.
1.2.2.1. Tác động tích cực của mạng xã hội
Với tính năng đa dạng, nguồn thông tin khổng lồ, phong phú về tất cả các
lĩnh vực đời sống xã hội, SV có thể tra cứu những thông tin liên quan trên mọi lĩnh
vực: khoa học, kĩ thuật, công nghệ, văn học, nghệ thuật… MXH cho phép sinh viên
tiếp nhận, chia sẻ và chọn lọc thông tin một cách có hiệu quả. Thông tin được
20
truyền tải trên không gian mạng vượt qua trở ngại về không gian và thời gian, vượt
qua khoảng cách giữa các thế hệ, mở ra cho người dùng nói chung và SV nói riêng
cơ hội tiếp cận, chia sẻ và sử dụng khối lượng thông tin khổng lồ này theo nhu cầu
của từng người. Internet còn là một trường học không giới hạn về thời gian, không
gian, tại môi trường đó ai cũng có thể cung cấp, chia sẻ thông tin vào bất cứ thời
gian nào và chỉ cần một thao tác đơn giản thì ai cũng có thể tìm thấy những thông
tin cập nhật kịp thời về lĩnh vực, vấn đề mà mình quan tâm theo dõi.
Đối với SV, những tiện ích mà MXH mang lại như: sử dụng MXH trong học
tập, giao tiếp và tìm kiếm cơ hội nghề nghiệp. Thông qua MXH liên kết hợp tác với
nhau thành các nhóm người có cùng sở thích, cùng sự quan tâm, cùng ý nguyện có
thể gặp gỡ, trao đổi trên mạng rồi tiến tới sinh thực hiện những hành động có ý nghĩa
tích cực như tổ chức các hoạt động từ thiện nhân, giúp đỡ trẻ đường phố, tổ chức
những sinh hoạt văn hóa lành mạnh; nhiều nhóm chia sẻ sở thích du lịch kết hợp việc
làm từ thiện ở vùng cao biên giới hẻo lánh…không chỉ vậy, rất nhiều sinh viên từ các
trường đại học khác nhau trên mọi miền tổ quốc đã lập ra những forum (diễn đàn)
giúp đỡ nhau học tập tiếng anh hoặc các môn học chuyên ngành. Đây là một trong
những kênh giúp các bạn chia sẻ kiến thức và tài liệu, nâng cao hiệu quả học tập.
Thông qua MXH sinh viên giới thiệu bản thân mình với mọi người về tính
cách, sở thích, quan điểm của bản thân trên MXH và giúp gia tăng khả năng kết nối
với bạn bè trên khắp thế giới. MXH không chỉ giúp người dùng biết được nhiều
thông tin về bạn bè, người thân mà còn có thể giúp thu hẹp lại khoảng cách về mặt
địa lý giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ với nhau. Hơn nữa MXH còn là môi trường
kinh doanh lý tưởng cho các bạn sinh viên thử sức với khả năng kinh doanh online.
Từ đó góp phần rèn luyện kỹ năng giao tiếp, khả năng tài chính và nâng cao chất
lượng cuộc sống và học tập
1.2.2.2. Tác động tiêu cực của mạng xã hội
Bên cạnh những mặt tích cực thì việc sử dụng MXH cũng gây ra những tác
động không tốt đối với sinh viên. Mạng xã hội đã khiến nhiều sinh viên sao nhãng
việc học tập cũng như tham gia các hoạt động ngoại khóa. Quỹ thời gian tự học của
các bạn giảm đi do dành quá nhiều thời gian cho các hoạt động trên các trang
mạng. Thay vì chú tâm vào việc học tập, tìm kiếm công việc trong tương lai bằng
21
cách học hỏi những kỹ năng cần thiết, một bộ phận sinh viên lại dành thời gian cho
hoạt động không cần thiết trên MXH.
Mạng xã hội được coi là kho giải trí với muôn vàn nội dung phong phú, đa
dạng, tuy nhiên nếu sinh viên sử dụng quỹ thời gian vào MXH không hợp lý sẽ tạo
ra hội chứng “nghiện” mạng xã hội. Nghiện mạng xã hội không chỉ khiến sinh viên
dành ít thời gian cho việc học tập, giao lưu với các mối quan hệ thực tế mà còn
khiến các em buồn phiền khi bạn coi trọng bạn bè “ảo” từ những mối quan hệ ảo
hơn những gì ở thực tế cuộc sống. Nghiện MXH ảnh hưởng xấu đến sức khỏe về cả
về thể chất lẫn tình thần, tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu ảnh
hưởng đến kết quả học tập. Các nghiên cứu gần đây cho thấy những ai sử dụng
mạng xã hội càng nhiều thì càng cảm thấy tiêu cực hơn, thậm chí có thể dẫn đến trầm
cảm. Điều này đặc biệt nguy hiểm với những ai đã được chẩn đoán mắc bệnh trầm
cảm từ trước. Có những trường hợp người nghiện MXH mắc hội chứng “tâm thần”
và những hành vi lệch chuẩn, thậm chí là những hành vi vi phạm pháp luật. Sử dụng
MXH thường xuyên tiếp xúc với những tin giả, tin độc hại gây ra tâm lý lo lắng, sợ
hãi, hoang mang ảnh hưởng đến mặt tinh thần, tâm lý của người dùng, đặc biệt là
giới trẻ chưa có đầy đủ kinh nghiệm sống, cũng như vốn tri thức để nhận thức và
đánh giá các thông tin đó.
Sinh viên là thế hệ trẻ năng động, sáng tạo trong học tập và các hoạt động xã
hội. Những phẩm chất đó sẽ được phát huy hơn nữa khi sinh viên tham gia vào các
hoạt động nghiên cứu khoa học và các hoạt động thực tế vì cộng đồng cùng với sự
trợ giúp từ MXH. Tuy nhiên, nếu quá lệ thuộc vào mạng xã hội thì sẽ hạn chế sự
sáng tạo, làm cho sinh viên lười suy nghĩ, tìm kiếm cái mới, thường lấy những cái
có sẵn trên MXH mà không không có sự đầu tư, sáng tạo, dần dần sẽ phụ thuộc vào
những điều có sẵn. Người dùng cảm thấy thoải mái trên mạng nên thường có những
lời nói mà ngoài đời không dám phát biểu hoặc không có thực. Điều đó tác động
không nhỏ đến tâm lý, suy nghĩ của cá nhân tham gia môi trường mạng.
MXH còn tiềm ẩn nguy cơ khi những thông tin, nội dung, hình ảnh riêng tư
được đưa lên mạng để chia sẻ với người thân, bạn bè… nhưng vô tình bị những đối
tượng có mục đích xấu lợi dụng hoặc là người sử dụng mạng xã hội chưa có ý thức,
vô trách nhiệm trong việc đưa thông tin xấu lên mạng gây ảnh hưởng không tốt đến
22
suy nghĩ của sinh viên. Tất cả những vấn đề này có tác động tiêu cực đến đời sống
và việc học của sinh viên.
Cũng như nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật khác, mạng xã hội được sáng
tạo và phát triển là nhằm phục vụ lợi ích của xã hội, tuy nhiên sử dụng nó như thế
nào thì sẽ chịu tác động tích cực hay tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào mỗi con
người. Không thể phủ phận những mặt tích cực mà MXH đã mang lại, nó giúp sinh
viên hiểu biết, tiếp thu, nâng cao được tầm hiểu biết, tri thức, kiến thức cũng như
tìm hiểu được nhiều hơn ngoài các kiến thức trên ghế nhà trường. Trong xã hội
thông tin này, nếu sinh viên nắm vững được công cụ hữu ích này sẽ trở thành chủ
nhân của một đất nước vững bước hội nhập vào thế giới.
1.3. Vấn đề sử dụng mạng xã hội của sinh viên
1.3.1. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Hiện nay MXH là công cụ hữu ích đối với mọi người nói chung và đối với
sinh viên nói riêng trong việc chia sẻ cảm xúc, thông tin, sự quan tâm và kiến
thức... với mọi người trong cộng đồng mạng. Đối với sinh viên nhu cầu chia sẻ
thường là những nội dung liên quan đến sự quan tâm đến bạn bè, người thân trong
gia đình thể hiện qua những lời chúc mừng sinh nhật, chúc mừng thành công hay
chia sẻ những câu chuyện buồn. Một trong những trào lưu hiện nay của sinh viên là
chia sẻ ảnh và video trên mạng xã hội, có thể là ảnh, video cá nhân hoặc những
người nổi tiếng, thần tượng... để thu hút sự quan tâm của mọi người về nội dung
mình chia sẻ. Mạng xã hội là phương tiện để sinh viên có thể lan tỏa một cách
nhanh chóng những hành động tử tế đến cộng đồng, truyền cảm hứng đến các thế
hệ trẻ ra sức học tập, trau dồi đạo đức, cố gắng hoàn thiện bản thân và xây dựng,
bảo vệ tổ quốc.
Cùng với đó, sử dụng MXH đáp ứng nhu cầu thể hiện bản thân của sinh
viên. Đây là nhu cầu mà mỗi con người muốn được người khác tôn trọng và mong
muốn khẳng định bản thân mình. Biểu hiện của nhu cầu này là trên các ứng dụng
của các trang mạng xã hội sinh viên thiết lập một tài khoản riêng của mình như: tài
khoản facebook, tài khoản google, kênh youtube... với những nội dung mà cá nhân
chia sẻ sẽ có nhiều người đăng kí theo dõi, nhiều lượt chia sẻ. Thông qua những tài
khoản trên các ứng dụng MXH mỗi cá nhân thể hiện phong cách, quan điểm, xu
23
hướng và nội dung quan tâm riêng của mình. Nhu cầu thể hiện bản thân của sinh
viên còn được thể hiện thông qua những hành động cụ thể như tham gia các cuộc
thi tìm hiểu hay sáng tạo được tổ chức trên các trang web của nhà trường hay do cơ
quan tổ chức chính thống phát động.
Nhu cầu học tập trên mạng xã hội là đòi hỏi của người học đối với sự lĩnh hội
nội dung kiến thức, phương pháp học tập, nhằm làm giàu vốn kinh nghiệm, phát
triển và hoàn thiện nhân cách của bản thân. Nhu cầu học tập trên mạng xã hội là thành
phần cơ bản của động cơ học tập, là nguồn gốc giúp sinh viên phát huy tính tích cực và
óc sáng tạo. Với mong muốn học tập và trao đổi bài vở một cách thường xuyên và liên
tục, khối lượng bài tập nhiều và cần tìm hiểu thêm kiến thức về xã hội, học thuật, khảo
sát nên MXH đã đáp ứng được về phần giới hạn về không gian và thời gian để bổ sung
cho sinh viên những thiếu hụt về thông tin, kiến thức. Như vậy, MXH đã đáp ứng
được phần nào đó về nhu cầu học tập, nhu cầu tìm hiểu tri thức, biểu hiện được thể
hiện qua một số yếu tố và sé được làm rõ trong khuôn khổ của đề tài.
Không những đáp ứng nhu cầu học tâp, MXH được mệnh danh là kho cung cấp
thông tin, vì vậy, nếu như sinh viên có nhu cầu tìm kiếm việc làm thì chỉ cần gõ cụm
từ cần tìm kiếm việc làm sẽ có hàng nghìn kết quả liên quan. Trong thời đại cách mạng
công nghiệp 4.0 mỗi sinh viên đều có thể vừa học, vừa tìm kiếm việc làm thêm một
cách dễ dàng.
Giải trí là nhu cầu của con người vì nó đáp ứng những đòi hỏi của cá nhân,
nếu thiếu nó thì sự phát triển của cá nhân không thể đầy đủ và toàn diện. Sau thời
gian học tập, làm việc mệt mỏi và căng thẳng, các hoạt động giải trí là trở nên vô
cùng cần thiết. Nhu cầu giải trí là động cơ của hoạt động giải trí. Khi sinh viên
tham gia mạng xã hội với mục đích giải trí, mạng xã hội đã đem lại cho sinh viên
không ít lợi ích như được giao tiếp, thể hiện mình, kết bạn, chia sẻ cảm xúc. Với
công cụ giải trí có thể truy cập ở khắp mọi nơi, đã khiến cho sinh viên vơi bớt đi
những căng thẳng trong học tập. MXH đã mang lại cho đời sống tính thần của sinh
viên thêm sự phong phú và đa dạng, giờ đây không chỉ bó hẹp là đi chơi, đi dã
ngoại, gặp nhau ngoài hàng quán, hoặc một địa điểm nào đó thì ngay trên MXH
luôn có người lắng nghe và chia sẻ.
Sử dụng MXH không chỉ để học tập, giải trí, sinh viên sử dụng MXH còn
24
đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Mạng xã hội nói chung và Facebook nói riêng đang ở
vào thời kỳ hoàng kim hơn bao giờ hết. Và đồng hành cùng với nó, các hình thức
quảng cáo và bán hàng trên hệ thống mạng xã hội cũng đang ngày một phát triển
rực rỡ với cơ số hình thức và phương pháp cực kỳ đa dạng. Sức mạnh của MXH
trong lĩnh vực kinh doanh và quảng cáo online là vô cùng lớn. Nắm bắt được xu
hướng và trào lưu của kinh doanh trên mạng xã hội các bạn sinh viên có thể kiếm
thêm thu nhập bằng hình thức kinh doanh này. Không phải tốn tiền cho quảng bá
truyền thông, hay những nội dung quảng cáo đắt đỏ và không mất tiền thuê mặt
bằng nhưng hiệu quả của nó đem lại thiết thực gấp nhiều lần so với những hình
thức kinh doanh cổ điển.
Một trong những nhu cầu giao tiếp xã hội giữa người với người, giữa cá
nhân với nhóm thông qua MXH, mọi người có thể hiểu nhau nhiều hơn và tâm sự,
chia sẻ thông qua sự tương tác. Ở bất cứ thời đại nào con người nói chung và sinh
viên nói riêng đều có nhu cầu tương tác, tuy nhiên trong thời kì công nghệ 4.0 nhu
cầu tương tác của sinh viên cao hơn, không đơn thuần giữa các cá nhân ở tập trung
trong địa điểm nhất định. Thông qua MXH sinh viên dễ dàng tương tác với nhau,
không giới hạn về mặt không gian, thời gian, vị trí địa lý, mà còn là sự tương tác
trên toàn cầu thông qua các ứng dụng như facebook, zalo, viber...kết nối sinh viên
trên khắp thế giới.
1.3.2. Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Mạng xã hội là kho tin tức khổng lồ được cập nhật thường xuyên, liên tục,
từng giờ, từng phút về tất cả các lĩnh vực đời sống, xã hội, khoa học, giáo dục...
MXH không chỉ là kho tin tức giới hạn ở Việt Nam mà còn là tin tức trên toàn thế
giới. Chính vì vậy, những người dùng MXH nói chung và sinh viên dùng MXH nói
riêng có thể cập nhật được những tin tức mới nhất từng giờ trong ngày mà không
cần đến tận nơi nhận tin tức.
Thông qua MXH sinh viên có thể học ở mọi lúc, mọi nơi, có thể tìm kiếm,
chia sẻ kiến thức, tài liệu học tập với thầy cô, bạn bè. Bên cạnh đó sinh viên thường
xuyên cập nhật kiến thức mới để không bị lỗi thời, lạc hậu so với sự phát triển của
xã hội và có cơ hội học tập thường xuyên. Mục đích học tập của sinh viên hiện nay
ngày càng phong phú, đa dạng hơn nhờ vào sự phát triển của mạng internet và các
25
ứng dụng công nghệ 4.0 vào quá trình học tập. Ngoài mục đích học tập để nâng cao
kiến thức chuyên môn để sau nay có công việc theo mong muốn của bản thân sinh
viên còn có thể học thêm nhiều kỹ năng nghề nghiệp, giao tiếp ứng xử, xây dựng
hình ảnh của thân và tìm kiếm cơ hội việc làm trong tương lai.
Đa số sinh viên đều xa gia đình, bạn bè nên việc kết nối với mọi người thông
qua MXH trở nên dễ dàng hơn. Không được gặp gỡ trực tiếp nhưng sinh viên vẫn
nghe được giọng nói, thấy hình ảnh và trao đổi thông tin, chia sẻ mọi chuyện một
cách thường xuyên. Các trang mạng như facebook, zalo... cho phép thành lập các hội
nhóm như: hội bạn học cùng lớp; hội cùng đam mê sở thích; hội kinh doanh online.
Với sự dịch chuyển của thế giới đi đến khái niệm “thế giới phẳng”, thì việc
thể hiện tốt bản thân mình trên Internet là một điều rất quan trọng. Với tính năng
kết nối cao, lượt người theo dõi nhiều thì facebook, zalo, youtube … là những
phương tiện hỗ trợ đắc lực cho xây dựng hình ảnh của bản thân. Việc xuất hiện và
tồn tại được trong môi trường internet cũng là một xu hướng tất yếu, được nhiều
người thành công sử dụng như một bước đệm cho cuộc sống và tương lai.
Đầu tiên, chúng ta phải xác định thế giới Internet là thế giới thứ hai, tồn tại
song song với xã hội thực tế. Trong đó, mỗi cá nhân được phép bộc lộ những cá
tính, năng lực, quan điểm… giống hệt như thực tế bên ngoài. Không ít người trở
nên nổi tiếng trên các trang mạng tìm kiếm, tuy nhiên cũng không ít “nạn nhân” bị
phiền nhiễu vì những thông tin cá nhân không chọn lọc. Điều này đòi hỏi những
kiến thức nhất định về internet, cũng như quyết định chia sẻ những giá trị nào trong
môi trường này, đó là những giá trị thật hay giá trị ảo… Chính vì internet là một
môi trường rất khó để kiểm định độ chính xác của thông tin, nên chúng ta phải định
hướng và bảo vệ mình. Thể hiện bản thân mình một cách thông minh trên Internet
cũng là một kỹ năng quan trọng giúp sinh viên có thể tạo sự ảnh hưởng tích cực
nhất định trên MXH hiện nay.
MXH đã trở nên gần gũi và phổ biến, thậm chí đã trở thành một phần tất yếu
trong cuộc sống hiện đại của giới trẻ. MXH giúp sinh viên trong việc xả stress sau
những giờ học, làm thêm căng thẳng, là nơi để giới trẻ có thể nghe nhạc, xem phim
hay chơi game, kết nối, chia sẻ với bạn bè. Cuộc sống trở nên thực sự đầy màu sắc
một phần là nhờ MXH. Như vậy, gần như tất cả mọi thứ đều có trên MXH, nào là
26
nghe nhạc miễn phí, xem phim online, chơi trò chơi điện tử trực tuyến, quá nhiều thứ
để giải trí đang luôn sẵn sàng chờ bạn đăng ký làm thành viên và tham gia chơi trong
mạng lưới rộng thậm chí trên toàn quốc hay toàn thế giới tùy thuộc vào mục giải trí mà
sinh viên lựa chọn.
Ngày nay, MXH đang trở thành chân trời tìm việc làm vô cùng hot. Nhà tuyển
dụng không chỉ nhìn đơn xin việc mà còn sẽ xem xét và đánh giá sinh viên qua các
MXH mà sinh viên tham gia. Vì vậy, để tăng cơ hội được tuyển chọn của nhà tuyển
dụng, sinh viên cần đảm bảo rằng các trang MXH mà mình sử dụng mang tính
nghiêm túc, tích cực. MXH có thể biến ước mơ mở một cửa hàng nhỏ hay một kênh
bán hàng đã không còn quá xa vời nhờ vào tốc độ truyền hình ảnh và thông tin qua
Twitter, Zalo, Viber hay Facebook. Sinh viên chỉ cần tạo một trang miễn phí, mời gia
đình, bạn bè tham gia và ghé thăm online là đã có thể thường xuyên cập nhật và
quảng cáo các sản phẩm của mình và chăm sóc khách hàng qua mạng.
MXH đang trở nên vô cùng phổ biến với nhiều ứng dụng, nội dung vô cùng
phong phú và đa dạng cho nên chỉ cần có một chiếc điện thoại thông minh, hay một
cái máy laptop để truy cập là có thể ngồi hàng giờ, hàng ngày để truy cập. Sinh
viên ngoài việc học tập có những bạn tìm việc làm thêm, có bạn kinh doanh online,
tuy nhiên, có những bạn lại có rất nhiều thời gian rảnh nhưng không biết làm gì chỉ
biết vào MXH để giết thời gian. Điều đó đã làm cho một bộ phận sinh viên quá lạm
dụng MXH và nó mang lại những tác hại không mong muốn đối với sức khỏe và
các hoạt động khác. Nguy cơ nghiện MXH là một trong những hệ lụy của việc sử
dụng MXH quá nhiều để giết thời gian, nó có thể tạo ra cảm giác cô lập, nguy cơ
trầm cảm, xao nhãng mục tiêu cá nhân, giết chết sự sáng tạo, giảm tương tác giữa
người với người.
1.3.3. Thời gian, phương tiện sử dụng mạng xã hội của sinh viên
1.3.3.1. Thời gian sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Theo thống kê của Vnetwork, tần suất người dùng internet tại Việt Nam
2019: người dùng Việt Nam dành trung bình tới 6 giờ 42 phút mỗi ngày để tham
gia các hoạt động liên quan tới mạng Internet. Báo cáo cũng đề cập thêm, người
dùng Việt Nam dùng trung bình 2 giờ 32 phút để dùng mạng xã hội, 2 giờ 31 phút
để xem các stream hoặc các video trực tuyến và dùng 1 giờ 11 phút để nghe nhạc.
27
94% là tỷ lệ người dùng Internet ở Việt Nam sử dụng Internet hàng ngày. Và 6% là
số người sử dụng Internet ít nhất một lần trong tuần [37]. Nhìn vào số liệu thống kê
ta có thể thấy, người dùng Internet ở Việt Nam không tách rời các hoạt động liên
quan đến Internet quá một tuần.
Theo nghiên cứu của Trần Thị Minh Đức – Bùi Hồng Thái thì tỉ lệ sinh viên
thường sử dụng mạng xã hội từ 1 giờ đến dưới 3 giờ/ ngày là cao nhất (chiếm
43,5%) và từ 3 giờ đến dưới 5 giờ/ ngày (chiếm 31,5%). Đáng lưu ý là có 7,2%
sinh viên bỏ ra 8 giờ/ ngày để truy cập mạng xạ hội [8]. Lượng thời gian này là
đáng báo động về một trong những dấu hiệu của nghiện mạng xã hội trong sinh
viên. Khi các nhu cầu của sinh viên không được đáp ứng một cách toàn diện thì việc
ngồi nhiều thời gian trên MXH để học tập, tán gẫu, giải trí, tìm cảm giác mạnh thông
qua các trò chơi điện tử là điều dễ hiểu.
1.3.3.2. Phương tiện sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Thống kê của Vnetwork, trong số 64 triệu người dùng internet tại Việt Nam,
thì số lượng người dùng truy cập bằng thiết bị di động là 61.73 triệu người (chiếm
96% số người sử dụng internet). Trong số 143.3 triệu số thuê bao được đăng ký thì
có tới 45% đã đăng ký 3G&4G. Theo thống kê năm 2019, có tới hơn 2.7 tỷ lượt tải
về các ứng dụng trên điện thoại và số tiền người tiêu dùng chi ra cho những ứng
dụng này là 161.6 triệu $, trung bình một ngày mỗi người chạm vào điện thoại hơn
150 lần, và chỉ từ năm 2018 đến 2019, số lượng người dùng mạng xã hội trên thiết bị
di động đã tăng đến 16% [37]. Đối với sinh viên sử dụng smartphone truy cập vào
MXH gần như tuyệt đối. Bởi lẽ smartphone là thiết bị gọn nhẹ, phù hợp với túi tiền
của sinh viên và có thể sử dụng mọi lúc, mọi nơi chỉ cần có 3G, 4G hoặc có wifi.
Sinh viên lựa chọn laptop để truy cập MXH đứng vị trí thứ hai, bởi lẽ hầu hết
mỗi sinh viên đều trang bị cho mình 1 chiếc laptop ngoài việc phục vụ học tập hàng
ngày, tìm kiếm thông tin, tài liệu, giải trí và kinh doanh...
Máy tính bảng cũng là một trong số thiết bị được sinh viên sử dụng nhiều để
truy cập MXH, nó chiếm khoảng 13%, tuy nhiên, lượt truy cập máy tính bảng tiếp
tục giảm mạnh cho thấy dấu hiệu của sự tăng trưởng mạnh mẽ trong việc sử dụng
điện thoại thông minh thay vì sử dụng máy tính bảng.
1.3.4. Một số hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên
28
Hành vi sử dụng MXH là hành vi thể hiện ý chí của cá nhân trong việc bộc
lộ giá trị của bản thân, là hành những động được xã hội đánh giá, nó phản ánh văn
hóa của cộng đồng, mức độ hiểu biết và trình độ hiểu biết của chính cá nhân đó.
Hành vi sử dụng MXH là một hành vi có ý thức, do đó để hình thành hành vi sử
dụng MXH việc xem xét cấu trúc hành vi ý thức là điều cần thiết dựa trên các đặc
điểm tâm lý, mối liên hệ giữa ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi. Thông thường
các hành vi ý chí gắn liền với quá trình tư duy vì điều quan trọng nhất trong các
hành vi là phải nhận thức được vấn đề mà mình quan tâm thông qua các hành động
cụ thể. Con người khi sử dụng một hành vi nào đó nếu không có tư duy sẽ không có
được những hành vi có ý chí tự giác thật sự. Ở một khía cạnh khác thì việc truyền
thụ kiến thức từ xã hội đến cá nhân không chỉ đơn giản là sự nhồi nhét những kiến
thức vào đầu của con người mà việc tiếp thu kiến thức chính là khả năng chiếm lĩnh
được những phương thức hành động mang tính lịch sử xã hội. Như vậy hành động
của con người là hành động đã được nhận thức từ trước.
Hành vi sử dụng MXH của sinh viên được biểu hiện thông qua các hành vi
cụ thể nó phản ánh nhận thức, thái độ cũng như động cơ ý chí của sinh viên. Trong
giới hạn của đề tài chỉ nghiên cứu những hành vi biểu hiện ra bên ngoài thông qua
các hành động cụ thể trong những hoàn cảnh khác nhau. Hành vi sử dụng MXH
của sinh viên là những hành vi được biểu hiện qua các hành động bên ngoài như
nội dung đăng tải, chia sẻ, like, comment trên không gian mạng. Thông qua những
hành vi để có ứng xử phù hợp với chuẩn mực mà bộ thông tin đã quy định đối đối
với người sử dụng MXH để có những ứng xử phù hợp giữa sinh viên với chính bản
thân mình và giữa sinh viên với người khác, với những người xung quanh. Với
cách đặt vấn đề như trên, khái niệm được xác định rõ: Hành vi sử dụng MXH của
sinh viên là cách ứng xử của con người với những phương tiện nhằm đạt được mục
đích của chủ thể và con người và hành vi này phải được thể hiện qua bên ngoài của
cá nhân. Như chúng ta biết hành vi là một quá trình lâu dài và quá trình này chịu
ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhất đinh, trong đó có các yếu tố chủ quan (bên trong
chủ thể: nhận thức, thái độ, đặc điểm tâm lý - xã hội cá nhân,…) và yếu tố khách
quan (bên ngoài chủ thể: môi trường, điều kiện sinh hoạt, hoàn cảnh xã hội,…).
Như vậy hành vi sử dụng MXH của sinh viên bao gồm hành vi đăng tải, chia sẻ,
29
like, comment trên không gian mạng. Hành vi sử dụng MXH của sinh viên cũng
chịu tác động của các yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan.
1.3.5. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân của SV trên không gian mạng
Việt Nam là một trong nhữngquốc gia có số lượng người dùng bị ảnh hưởng
nhiều nhất từ vụ bê bối lộ thông tin trên Facebook - đây là cảnh báo đáng lo ngại
đối với những người có thói quen dùng mạng xã hội thiếu an toàn. Chính vì thế, có
rất nhiều tài liệu, nhiều nghiên cứu hướng dẫn cách thức bảo mật thông tin cá nhân
trên không gian mạng nhằm nâng cao cảnh giác cho người dùng nói chung và sinh
viên nói riêng. Trên cơ sở tổng hợp và kế thừa kết quả từ nghiên cứu của GS.TS
Trần Thị Minh Đức trong bài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên Việt Nam” đăng
trên tạp chí Khoa học Giáo dục [8], nhóm tác giả có sự phân tích, đánh giá các cách
thức bảo mật thông tin cá nhân của sinh viên trên không gian mạng như sau,
Thứ nhất, cảnh giác với những tin nhắn, đường link lạ trên không gian mạng.
Hiện nay, hình thức lừa đảo ngày càng tinh vi nhằm đánh cắp thông tin cá nhân,
thông tin tài khoản ngân hàng, chiếm đoạt tiền trong tài khoản của người dùng ngày
càng nhiều. Mục đích của đối tượng lừa đảo là thông qua các website này để lấy
cắp thông tin sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, từ đó chiếm đoạt tiền trong tài
khoản ngân hàng của khách hàng. Chiêu thức thường dùng của những đối tượng
này là gửi những tin nhắn đề nghị giúp đỡ về một vấn đề nào đó hoặc yêu cầu truy
cập vào đường link (giả mạo) như bình chọn (like) cho một người bạn trong cuộc
thi hay một fanpege cụ thể. Để tiến hành bình chọn kẻ xấu sẽ yêu cầu sinh viên
cung cấp các thông tin về: tên truy cập, mật khẩu truy cập, mã OTP, thông tin thẻ
hoặc các thông tin cá nhân khác để xác nhận. Ngoài ra, đối tượng lừa đảo có thể sử
dụng các chiêu thức lừa đảo trên để yêu cầu sinh viên cài đặt ứng dụng hay mở file
có chứa virus... sinh viên cần cảnh giác, không nhắn tin phản hồi hoặc làm theo
hướng dẫn đối với các tin nhắn không rõ nguồn gốc, có nội dung quảng cáo, mời
chào hoặc mạo danh các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Tội phạm gửi tin nhắn văn
bản hoặc tin nhắn đa phương tiện có chứa đường link liên kết đến trang website giả
mạo có tên địa chỉ truy cập và hình thức gần giống với website chính thức của các
ngân hàng, tổ chức tài chính, trung gian thanh toán... và yêu cầu sinh viên thực hiện
cung cấp thông tin trên website giả mạo, từ đó tội phạm đánh cắp thông tin này để
30
thực hiện các giao dịch chiếm đoạt tài sản. Bởi vậy, sinh viên phải nâng cao cảnh
giác với các tin nhắn, đường link lạ được đăng tải hoặc gửi trực tiếp vào ứng dụng
của mình. Hãy cân nhắc kỹ trước khi quyết định nhấp chuột vào những tin nhắn,
đường link mà mình nhận được.
Thứ hai, hạn chế cập nhật thông tin cá nhân trên mạng xã hội. Đặc biệt,
những lộ trình hay kế hoạch cá nhân như đi du lịch, địa chỉ trường học, câu lạc
bộ…nên hạn chế cập nhật bởi chính những thông tin này là tư liệu cho kẻ xấu theo
dõi và thực hiện các ý đồ không tốt đối với sinh viên. Bởi vậy, khi sử dụng MXH,
việc cung cấp hình ảnh, clip, lộ trình di chuyển, các hoạt động cá nhân… đã vẽ nên
chân dung của SV càng rõ ràng hơn. Điều này tạo thuận lợi cho những kẻ xấu có
những hành vi không tốt như đánh cắp tài khoản, dữ liệu, hình ảnh, thậm chí theo
dõi sinh viên ngoài đời thực với mục đích xấu mà sinh viên không hề hay biết.
Chưa kể, do thói quen tương tác như nhấn like, bình luận hay sở thích đăng ảnh,
check in… mà sinh viên vô tình để lại các thông tin khá chi tiết về hoạt động của
mình mỗi ngày. Tương tự, sinh viên có thể điền thông tin trên các trang web mua
bán, các cửa hàng nhỏ lẻ, để mong nhận được khuyến mãi. Đó chính là những nơi
mà thông tin bị thu thập mà người khác có thể dùng vào mục đích thiếu lành mạnh,
ảnh hưởng đến quyền riêng tư của của sinh viên. Vì vậy, bản thân sinh viên phải
nhận thức được việc giữ bí mật thông tin cá nhân và hạn chế đăng những thông tin
nhạy cảm để tự bảo vệ mình trên không gian mạng cũng như ngoài đời thực.
Thứ 3, nâng cấp độ khó của mật khẩu và không chia sẻ mật khẩu với bất kỳ
ai. Đây là một trong những cách thức đơn giản nhưng hiệu quả nhưng không phải
sinh viên nào cũng nhận thức được hết tầm quan trọng của nó. Mọi thiết bị cần phải
được bảo vệ bằng mật khẩu, từ điện thoại di động đến máy tính xách tay cá nhân.
Điều này cũng được sử dụng với các tài khoản trực tuyến bao gồm email, mạng xã
hội và ngân hàng trực tuyến. Để tăng tính bảo mật cho tài khoản trên không gian
mạng, sinh viên nên sử dụng mật khẩu có độ bảo mật mạnh bằng cách kết hợp các
ký tự ngẫu nhiên, số và ký hiệu đặc biệt. Tuyệt đối không nên đặt mật khẩu có liên
quan đến thông tin cá nhân như ngày tháng năm sinh, số nhà… Cũng không nên sử
dụng cùng một mật khẩu cho hai hoặc nhiều tài khoản. Ngoài ra, sinh viên không
nên chia sẻ mật khẩu với bất kỳ ai, kể cả là những người thân thiết. Trong trường
31
hợp cần thiết phải chia sẻ mật khẩu tại thời điểm nào đó, sinh viên phải thay đổi
mật khẩu ngay lập tức. Tránh những rủi ro có thể xảy ra.
Thứ 4, cảnh giác và khoanh vùng nhóm bạn trên các forum. Có rất nhiều
người tham gia, tạo tài khoản trên MXH trong đó có các nhóm bạn, nhóm học tập,
nhóm cùng sở thích, nhóm mua bán hàng online hay các forum khác nhau…tuy
nhiên chúng ta không chắc chắn về những thông tin cá nhân của họ. Để tránh việc
những thông tin cá nhân bị lộ lọt vào tay đối tượng xấu sinh viên cần nâng cao cảnh
giác, không nên kết bạn với người lạ hay tham gia vào các nhóm, các forum trên
MXH mà có nhiều thành viên không quen biết. Không trả lời tin nhắn từ người lạ
có dấu hiệu đáng ngờ gửi đến trên facebook, zalo... Cần rà soát các nhóm, groups
đã tham gia và rời nhóm không cần thiết. Hạn chế tham gia các trò chơi trên MXH
có yêu cầu xác thực hay kiểm tra thông tin cá nhân nhiều lần.
Thứ 5, hạn chế liên kết với các tài khoản khác và kiểm tra https. Khi sinh
viên tham gia trình duyệt, hãy đảm bảo rằng trang web bắt đầu bằng https. Https có
nghĩa là trang web đang cung cấp kết nối được mã hóa cho người dùng cuối. Vì
vậy, dữ liệu ai đó chia sẻ với trang web này chỉ hiển thị với những người có quyền
truy cập được phép đọc. Ngoài ra, cũng có thể tải tiện ích bổ sung cho trình duyệt
giúp mã hóa trình duyệt web của cá nhân. Tuyệt đối không click, nhấp vào đường
dẫn lạ có nguy cơ ăn cắp mã độc.
Thứ 6, thường xuyên thay đổi mật khẩu, bật tính năng xác thực hai yếu tố.
Khi thay đổi mật khẩu, một số mã thông báo sẽ bị vô hiệu hóa ngay lập tức, yêu cầu
đăng nhập lại và phê duyệt lại mã thông báo gmail và facebook sẽ vô hiệu hóa các
mã thông báo khi sinh viên thay đổi mật khẩu của mình. Tính năng xác thực hai
bước hiện rất phổ biến và được sử dụng rộng rãi ở cả các dịch vụ của các hãng công
nghệ lớn. Đây được xem là một phương pháp hiệu quả để bảo vệ tài khoản của người
dùng nói chung và sinh viên nói riêng.Việc sử dụng xác thực hai yếu tố cho phép các
cá nhân bảo vệ mật khẩu của mình lên cấp độ cao hơn. Sinh viên cần lưu ý thường
xuyên thay đổi mật khẩu và bật các tính năng xác thức hai yếu tố để đảm bảo các
thông tin cá nhân trên không gian mạng của mình được an toàn.
Thứ 7, hạn chế truy cập và cảnh giác cao với wifi miễn phí. Việc sử dụng kết
nối wifi công cộng tại các sân bay, nhà ga, trạm xe bus và quán cà phê có vẻ hấp
32
dẫn và tiện lợi. Đặc biệt sinh viên là đối tượng thường xuyên đến các điểm công
cộng như khu mua sắm, café, trạm xe bus…việc kết nối wifi công cộng như là thói
quen và nhu cầu của sinh viên.Tuy nhiên, những kết nối này không an toàn, vì hacker
dễ dàng chiếm đoạt thông tin cá nhân qua wifi miễn phí. Nếu phải sử dụng wifi công
cộng, sinh viên nên tránh trao đổi những công việc riêng tư hay thực hiện các giao
dịch tài chính khi đang sử dụng wifi công cộng. Sau khi kết nối wifi công cộng, sinh
viên nên nhanh chóng thay đổi mật khẩu để hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra.
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các trang MXH với sự tham gia
ngày càng gia tăng số lượng người dùng nói chung và sinh viên nói riêng. Đây
cũng chính là mảnh đất “màu mỡ” cho những hacker trên không gian mạng với các
thủ đoạn ngày càng tinh vi đã đặt ra các yêu cầu cấp thiết về nâng cấp các cách
thức bảo mật thông tin cá nhân trên MXH. Đến nay, cách thức bảo mật thông tin
nhanh chóng, hiệu quả đã được các nhà mạng cập nhật, nâng cấp, hướng dẫn cho
người dùng nhằm bảo vệ an toàn thông tin trên không gian mạng. Với những cách
thức bảo mật này SV cài đặt, sử dụng sẽ nâng cao tính bảo mật thông tin cá nhân,
hạn chế tối đa những rủi ro khi sử dụng MXH.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng mạng xã hội của sinh viên
1.4.1. Yếu tố chủ quan
Yếu tố chủ quan đầu tiên là thái độ của sinh viên khi sử dụng MXH. Có thể
xem xét thái độ là một thuộc tính trọn vẹn của ý thức, thái độ cũng thể hiện ra biểu
hiện bên ngoài thông qua các hành động của con người đối với đối tượng theo một
hướng nhất định như thông qua các hành vi, cử chỉ, nét mặt cũng như cách thức
ứng xử và lời nói của người đó trong những tình huống, điều kiện cụ thể. Có rất
nhiều quan điểm khác nhau nhưng đa phần các nhà nghiên cứu đều cho rằng thái độ
là môi trường để cá nhân hình thành hành vi. Điều này thể hiện việc con người sẽ
lựa chọn cách thức hành động như thế nào trước. Thái độ là những đánh giá tốt,
xấu, đồng tình hoặc không đồng tình là những xu hướng mang tình nhất quán của
cá nhân thể hiện bằng việc ủng hộ hay không ủng hộ về một vấ đề nào đó. Thái độ
của sinh viên khi sử dụng MXH là những đánh giá về ý thức của họ khi sử dụng
các trang MXH. Như vậy cần hiểu rằng để hình thành được ý thức khi sử dụng
MXH của người dùng nói chung và sinh viên nói riêng cần làm cho họ nhận thức
33
được MXH là gì, vai trò của MXH từ đó để có những hành vi cụ thể, những hành vi
được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ trở thành hành vi ý thức.
Yếu tố chủ quan thứ 2 là động cơ của sinh viên khi sử dụng MXH. Khi nói
đến động cơ là động lực thúc đẩy con người hành động giúp con người thỏa mãn các
nhu cầu về cả tinh thần lẫn vật chất. Có nhiều quan niệm về động cơ nhưng có thể
hiểu động cơ là tổng hợp các yếu tố thúc đẩy con người hành động như: mong muốn,
tình cảm, niềm tin, khát vọng tư duy và thói quen... Động cơ là sức mạnh thúc đẩy
hành động. Để đánh giá được khách quan bản chất hành vi của mỗi người cần xem
xét động cơ xuất phát bên trong của họ là rất quan trọng, nó là tiền đề để đánh giá
hành vi của họ. Vì vậy mà trong thực tế, có rất nhiều người có hành vi tương tự
giống nhau nhưng với động cơ khác nhau, thì mỗi người lại có cách thức hành động
khác nhau và rõ ràng là kết quả sẽ khác nhau Từ những phân tích trên cho thấy khi
sử dụng MXH, yếu tố bên trong là động cơ thúc đẩy sinh viên quyết định cách thức
sử dụng MXH như thế nào cho phù hợp với yêu cầu chuẩn mực của xã hội.
Yếu tố chủ quan thứ 3 chính là đặc điểm tâm lý lứa tuổi ảnh hưởng đến sử
dụng MXH của sinh viên. Sinh viên là những người trẻ tuổi với lòng nhiệt huyết
cao, họ luôn có nhu cầu được chinh phục cái mới thông qua MXH, sinh viên có thể
trao đổi những tư tưởng tình cảm cũng như công việc học tập của bản thân. Vì vậy
MXH thực sự là công cụ không thể thiếu đối với giới trẻ đặc biệt là sinh viên. Sinh
viên với lứa tuổi còn rất trẻ, khi rời khỏi trường ghế nhà trường phổ thông, việc lựa
chọn cho mình ngôi trường phù hợp để học tập và theo đuổi ngành nghề mà mình yêu
thích, đây là bước ngoặt lớn và có những thay đổi nhất định. Việc tìm kiếm bạn bè
trong môi trường mới bước đầu gặp khó khăn vì phải đi làm quen, trò chuyện, giao
lưu, nhưng với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay thì việc này vô cùng
đơn giản chỉ với hành động “like” hay một click chuột, thì bạn đã kết nối với cả thế
giới thay bất kể về không gian hay thời gian thay vì việc phải đi gặp mặt trực tiếp.
1.4.2. Yếu tố khách quan
Mỗi sinh viên là thành viên của cộng đồng, tùy thuộc vào đặc điểm tính
cách của từng sinh viên, cá nhân sẽ bị tác động đến việc thể hiện hành vi khác
nhau. Sinh viên trường ĐHNVHN đa số đến từ các vùng miền khác nhau sau khi
nhập học cùng sống trong một môi trường như cùng kí túc xá, xóm trọ, những sở
34
thích, nhu cầu khác nhau. Tuy nhiên, khi cùng tham gia vào môi trường chung SV
có những những mong muốn tìm đến nhau để được cùng chia sẻ sở thích, cùng giúp
nhau những lúc khó khăn trong học tập và cuộc sống. Vì vậy, MXH được xem là
một nơi có tính cộng đồng cao có thể giúp sinh viên kết nối được những điều này.
Là tầng lớp tri thức của xã hội, với sự tìm tòinhạy bén SV đã tự tìm ra những trang
MXH hay và bổ ích không chỉ phục vụ cho nhu cầu học tập mà còn giúp bản thân
giải trí sau những giờ học tập căng thẳng. Trong quá trình sử dụng sinh viên trao đổi
kinh nghiệm của bản thân từ đó giới thiệu cho bạn bè những trang MXH có lợi với
tính năng sử dụng dễ và thân thiện với mọi người dùng đặc biệt là các bạn trẻ.
Như chúng ta biết nhu cầu của con người được hình thành theo cơ chế từ
thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp. Khi nhu cầu thấp đạt được sẽ hướng đến
một nhu cầu cao hơn. Trong hành vi cũng vậy cũng theo cơ chế đó chỉ khi đạt được
những hành vi đơn giản con người mong muốn chinh phục những hành vi phức tạp.
Việc sử dụng một cách lâu dài sẽ tạo thành các thói quen, điều này có ý nghĩa hết
sức quan trọng để hình thành hành vi có ý thức. Việc hình hành các thói quen sẽ
được thực hiện tương đối dễ dàng khi có những điều kiện sinh hoạt phù hợp. Hơn
nữa sinh viên đa phần sống xa gia đình không có sự quản lý chặt chẽ của gia đình,
thời gian nhiều không biết làm gì? nên họ truy cập mạng MXH thường xuyên. Đây
được coi là niềm vui để các bạn giải trí sau những giờ học căng thẳng.
Việc hình thành và tạo thói quen là một quá trình và sẽ được thực hiện tương
đối nhanh khi có phương tiện vật chất đáp ứng yêu cầu của bản thân. Xã hội phát
triển không ngừng đặc biệt khi công nghệ phát triển mạnh như hiện nay thì đời
sống của sinh viên cũng được nâng cao, sinh viên đa phần đều có máy tính và điện
thoại công nghệ cao kết nối internet tạo là môi trường thuận lợi để SV truy cập
MXH một cách nhanh chóng và dễ dàng. Như vậy trong các yếu tố chủ quan và
khách quan ảnh hưởng đến hành vi sử dụng MXH của sinh viên, yếu tố khách quan
như môi trường sống, phương tiện kỹ thuật là điều kiện quan trọng trong viêc hình
thành hành vi sử dụng MXH. Đây được xem là yếu tố khó kiểm soát trong điều
kiện hiện nay. Yếu tố chủ quan: nhận thức, thái độ có mối quan hệ gắn bó tác động
qua lại với nhau tạo nên đặc điểm tính cách riêng của mỗi cá nhân. Đây là những
yếu tố bên trong khó tác động, muốn thay đổi cần có thời gian thay đổi nhận thức
35
cũng như thái độ của họ.
Tiểu kết chương 1
Tóm lại, trong chương 1 nhóm tác giả đã khái quát các nội dung về mạng xã
hội và sử dụng MXH của sinh viên. Nhóm nghiên cứu trên cơ sở kế thừa các nghiên
cứu đi trước đã khái quát và đưa ra một số khái niệm cơ bản như: khái niệm mạng xã
hội, khái niệm sinh viên và sử dụng mạng xã hội của sinh viên; đặc điểm, vai trò vá
tác động của mạng xã hội. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đề cập đến vấn đề sử
dụng mạng xã hội của sinh viên với các khía cạnh như: nhu cầu sử dụng, mục đích
sử dụng, thời gian, phương tiện sử dụng MXH cũng như một số hành vi sử dụng
MXH cơ bản của sinh viên. Nhóm nghiên cứu đã khái quát những yếu tố chủ quan
và khách quan ảnh hưởng đến sử dụng mạng xã hội của sinh viên cũng như cách
36
thức bảo mật thông tin cá nhân trên không gian mạng.
Chương 2.
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
2.1. Phân tích thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại
học Nội vụ Hà Nội
Để tiến hành phân tích thực trạng vấn đề sử dụng MXH của sinh viên, nhóm
nghiên cứu đã đưa ra câu hỏi: Bạn có sử dụng MXH không? Kết quả cho thấy
100% sinh viên lựa chọn “có” sử dụng MXH, điều này cho thấy MXH đã rất phổ
biến với sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, chính sự phong phú, đa dạng,
tiện ích của các trang MXH đã mở ra cơ hội cho sinh viên tiếp cập và sử dụng ngày
càng dễ dàng hơn, chính vì thế kết quả khảo sát 100% sinh viên sử dụng MXH là
điều dễ hiểu.
Chúng tôi tiến hành phân tích thực trạng sử dụng MXH của sinh viên trên
các khía cạnh: Nhu cầu sử dụng, mức độ sử dụng, mục đích sử dụng, hành vi sử
dụng MXH, cách thức bảo mật thông tin cá nhân trên không gian mạng, những lợi
ích và tác động khi sử dụng MXH của sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
Biểu đồ 1. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên
2.1.1. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên
MXH xuất hiện mở ra cho sinh viên những cơ hội được tiếp cận, sử dụng
những tiện ích đa dạng. Đặc biệt, đa số MXH đều cho người dùng sử dụng miễn
có thể tham gia rất nhiều mạng và mỗi trang mạng lại có thêm nhiều tài khoản truy
cập khác nhau. Sở dĩ MXH được sử dụng ngày càng nhiều bởi nó đáp ứng rất tốt
nhu cầu của người dùng, trong đó có sinh viên nói chung và sinh viên ĐHNVHN
37
phí đã thúc đẩy cư dân mạng sử dụng MXH ngày càng nhiều. Thậm chí, một người
nói riêng. Kết quả từ biểu đồ 1 cho thấy, có 33% sinh viên có nhu cầu tương tác
trên MXHxếp vị trí số 1; 23,5% sinh viên có nhu cầu giải trí và 21,6% sinh viên có
nhu cầu học tập. Đây là 3 nhu cầu được sinh viên lựa chọn nhiều nhất, cũng chính
là những tính năng ưu việt mà MXH mang đến cho người dùng. Tương tác và giải
trí trên MXH là một trong những xu thế khi sử dụng MXH, với kết nối nhanh
chóng, thông tin cập nhật, nội dung phong phú đã thu hút sinh viên tham gia MXH
ngày càng đông. 33% SV có nhu cầu tương tác với bạn bè, người thân, trò chuyện
cho thấy MXH đã lôi cuốn người dùng bởi những tiện ích như gọi điện miễn phí,
chát massege, lập các hội nhóm, các forum ngày càng phong phú cả về số lượng và
chất lượng...trong đó có những trang MXH đáp ứng tốt nhu cầu này của sinh viên
như facebook, zalo, youtube....Ngoài ra, với nguồn thông tin khổng lồ và tính cập
nhật liên tục, MXH là kênh tư liệu để sinh viên sử dụng đáp ứng nhu cầu học tập
ngày càng gia tăng.
Bên cạnh đó, các nhu cầu có tỉ lệ lựa chọn thấp như nhu cầu như nhu cầu
chia sẻ (chiếm 8%); nhu cầu kinh doanh (chiếm 4,2%); nhu cầu tìm kiếm việc làm
thêm (chiếm 4.3%) thậm chí tỉ lệ sinh viên có nhu cầu rất thấp như nhu cầu thể hiện
bản thân chỉ chiếm 1,7%. Các nhu cầu khác chiếm tỉ lệ rất thấp. Sở dĩ những nhóm
nhu cầu này ở mức độ thấp cho thấy kinh doanh qua MXH chưa phải là mối bận
tâm của nhiều sinh viên. Cùng với đó, sinh viên được khảo sát đang là sinh viên
năm nhất, năm thứ 2, năm thứ 3 nên áp lực tìm kiếm công việc trên MXH chưa
phải ưu tiên khi sử dụng MXH. Ngoài ra, nhu cầu thể hiện bản thân của sinh viên
trên MXH rất thấp cho thấy sinh viên chưa nhận thấy vai trò của MXH trong việc
xây dựng, quảng bá hình ảnh, uy tín cá nhân của bản thân trong giai đoạn bùng nổ
công nghệ như hiện nay.
Như vậy, có thể nói nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên Trường ĐHNVHN
tương đối đơn giản, tập trung chủ yếu nhóm 3 nhu cầu như nhu cầu tương tác, nhu
cầu giải trí và nhu cầu học tập. Những nhu cầu còn lại chiếm tỉ lệ rất thấp. Ngược
lại với lựa chọn của sinh viên về nhu cầu sử dụng MXH của bản thân, GV, CVHT
có sự nhận định về nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên đa dạng hơn so với lựa
chọn của sinh viên. Cụ thể, có đến 68/70 GV, CVHT cho rằng nhu cầu sử dụng
MXH của sinh viên là để giải trí chiếm 97,1% và 59/70 ý kiến của GV, CVHT cho
38
rằng sinh viên sử dụng MXH vì có nhu cầu học tập chiếm vị trí thứ 2 với 84,3%. Vị
trí thứ 3 dành cho nhu cầu chia sẻ với 81,4% và đứng vị trí cuối cùng là nhu cầu
tìm kiếm việc làm chiếm 52,9%. Có một điều đáng lưu ý rằng sinh viên lựa chọn
nhu cầu tương tác có tỉ lệ cao nhất, đứng vị trí số 1 trong nhóm 7 nhu cầu được
khảo sát thì với GV, CVHT nhu cầu này chỉ đứng vị trí thứ 4 với 74,3% ý kiến GV,
CVHT lựa chọn. [PL bảng số liệu, câu 3]. Điều này cho thấy, GV, CVHT chưa nắm
bắt được chính xác nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên. Vẫn biết rằng, để hiểu
được nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên là điều không dễ dàng, GV, CVHT cần
có nhiều thời gian quan sát, lắng nghe, chia sẻ để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
sinh viên để từ đó có những tác động, những định hướng phù hợp cho vấn đề sử
dụng MXH của sinh viên lớp mình phụ trách, hướng cho sinh viên đạt đến những
nhu cầu sử dụng tích cực, phục vụ hoạt động học tập và rèn luyện trong nhà trường.
Như vậy, dù nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên còn khá đơn giản nhưng
theo quan sát của nhóm nghiên cứu, mức độ sử dụng MXH của sinh viên là rất
thường xuyên và thời gian dành cho MXH mỗi ngày cũng không hề nhỏ. Để tìm
hiểu rõ hơn về thực trạng này, chúng tôi tiến hành khảo sát mức độ sử dụng MXH
của sinh viên thông qua các trang MXH, thời gian sử dụng, phương tiện truy cập
MXH mỗi ngày của sinh viên.
Bảng 2.1. Mức độ sử dụng các trang mạng xã hội của sinh viên
2.1.2. Mức độ sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Mức độ sử dụng
Mạng xã hội
Thường
Thỉnh thoảng
Hiếm khi
Chưa bao giờ ĐTB
xuyên
%
N
%
N
N
%
N
%
0
0
0
0
93
16.2
3.94
497
86.4
0
3.54
15
2.6
0
232
Youtube
40.3
327
56.9
0.9
2.95
134
23.3
5
115
20.0
Zalo
321
55.8
13.7
2.83
131
22.8
79
191
33.2
174
30.3
81.0
1.25
79
13.7
466
7
1.2
23
Viber
4.0
72.0
1.42
97
16.9
414
16
2.8
48
8.3
43.3
1.94
28.7
249
53
9.2
Zing me
108
18.8
165
43
7.5
0
0
6
Myspace
1.0
91.0
1.09
523
0
0.00
0
0
0
0
0
0
Mạng khác
0
39
Kết quả từ bảng 2.1 cho thấy, mức độ sử dụng các trang MXH của sinh viên
rất khác nhau. Facebook là trang MXH được sinh viên sử dụng nhiều nhất (ĐTB =
3,94), đứng thứ 2 là Youtube (ĐTB = 3.54), đứng thứ 3 là Zalo (ĐTB = 2.93), đứng
thứ 4 là Instagram (ĐTB = 2.83), các trang mạng ít được sử dụng hơn như Zing me
(ĐTB = 1.94), Twitter (ĐTB = 1.42), Viber (ĐTB = 1.25) và mạng ít sử dụng nhất
là Myspace (ĐTB = 1.09)
Trong nhóm các trang MXH nhóm nghiên cứu đã khảo sát, Facebook là trang
mạng được sinh viên sử dụng nhiều nhất (ĐTB = 3,94), 497 ý kiến (chiếm 86.4%)
sinh viên thường xuyên và 93 ý kiến (chiếm 16.2%) sinh viên thỉnh thoảng sử dụng.
Không có sinh viên nào không sử dụng facebook. Sở dĩ đa số sinh viên lựa chọn sử
dụng facbook vì tiện ích mà facebook mang lại cho người dùng là rất lớn. Facebook
không ngừng nâng cấp, hoàn thiện các tính năng hiện đại, nhanh chóng và đa dạng,
đáp ứng cao nhất nhu cầu của người dùng như: Tạo cuộc khảo sát ngay trên tường cá
nhân; sử dụng hình ảnh Panorama 360 độ làm ảnh bìa; xem thông tin các cuộc khủng
hoảng, tai nạn, thiên tai; chơi game giải trí không cần tải app và tạo ảnh cực chất với
các hiệu ứng sẵn có...chính những tiện ích này là điểm mạnh giúp facebook luôn có tỉ
lệ người người sử dụng cao trên toàn thế giới và ở Việt Nam.
Ngoài ra, các forum trên không gian mạng nói chung và facebook nói riêng
được tạo lập ngày càng nhiều đã thu hút đông đảo thành viên là sinh viên tham dự
như các diễn đàn thanh niên, diễn đàn khởi nghiệp, diễn đàn sinh viên Nội vụ mở ra
cơ hội giao lưu, kết nối, tương tác của SV trên mọi miền đất nước...Thông qua các
fanpage của Đoàn trường, của các phòng khoa để SV được thể hiện bản thân cũng
như bày tỏ tâm tư nguyện vọng, những vướng mắc trong học tập và cuộc sống. Đây
cũng chính là một trong những lý do lý giải vì sao SV sử dụng MXH facebook
ngày càng nhiều.
Cùng với facebook, Youtube là trang mạng được sinh viên sử dụng nhiều thứ
2 (ĐTB = 3.54), cụ thể có 56,9% sinh viên sử dụng thường xuyên, 40,3% thỉnh
thoảng sử dụng và chỉ có 2,6% sinh viên hiếm khi sử dụng, không có sinh viên nào
không sử dụng mạng này. Có thể nói, Youtube nền tảng video phổ biến nhất hiện
nay, sự đơn giản của Youtube là một trong nhiều lý do khiến nó bùng nổ về mức độ
phổ biến trong những năm qua. Đặc biệt, theo số liệu thống kê của Google, Việt
40
Nam đứng trong top 5 các nước xem Youtube nhiều nhất trên thế giới, vượt trội hơn
cả các nước có công nghệ tiên tiến như Nhật, Hàn, Đài Loan [37]. Có thể nhận
thấy, điểm mạnh của Youtube chính là việc tạo nội dung dễ dàng, chia sẻ với một
lượng lớn khán giả, các nội dung được chia sẻ đa dạng như hướng dẫn làm đẹp,
đánh giá sản phẩm, kênh chơi trò chơi, phim, giải trí …đây cũng chính là lý do sinh
viên lựa chọn sử dụng trang mạng này với số lượng lớn. Ngoài ra, với sự năng
động, sáng tạo sinh viên nội vụ không chỉ thụ động sử dụng mạng youtube mà còn
tích cực xây dựng và chia sẻ các youtube nhằm phục vụ cho nhiệm vụ học tập hoặc
các sở thích cá nhân. Bạn Trần V. D sinh viên khóa 18 cho biết: “em đam mê âm
nhạc nên em lập trang youtube để thỏa mãn sở thích của mình. Những bài hát hay
đoạn nhạc của em trên youtube được các bạn, thầy cô theo dõi, chia sẻ, like em
cảm thấy rất vui. Điều đó giúp em có thêm động lực để học tập và theo đuổi ước
mơ”. Ngoài ra, các đoạn phim ngắn về nội dung học tập cũng được sinh viên chia
sẻ rộng rãi. Đó chính là lý do tại sao youtube là một trong những trang MXH được
đa số sinh viên Nội vụ thường xuyên sử dụng.
Cùng với facebook và youtube, trang MXH được sinh viên sử dụng nhiều
thứ 3 là Instagram, với 33,2% sinh viên sử dụng thường xuyên, 30,3% thỉnh thoảng
sử dụng và có 13,7% không sử dụng. Instagram là một phần mềm chia sẻ ảnh miễn
phí cho phép người dùng chụp ảnh trên điện thoại của mình, thêm các bộ lọc hình
ảnh, và sau đó chia sẻ trên nhiều mạng xã hội khác nhau, kể cả instagram. Những
bức ảnh chụp được sẽ có dạng hình vuông với tỉ lệ 4:3 thường được dùng trong các
thiết bị di động. 33,2 % sinh viên Nội vụ sử dụng instagram thường xuyên, cho
thấy sự năng động và tiếp cận nhanh của một bộ phận sinh viên với công nghệ, đặc
biệt các trang MXH mang tính ứng dụng cao. Tuy nhiên, tỉ lệ SV hiếm khi và chưa
bao giờ sử dụng vẫn chiếm tỉ lệ lớn, cho thấy tính phổ biến của instagram còn thua
xa facebook và youtube.
Trong bối cảnh nghỉ tránh dịch covid – 19, đa số sinh viên tham gia học trực
tuyến và lập các hội nhóm trên các MXH ngày càng nhiều với các loại nhóm khác
nhau như nhóm lớn, nhóm nhỏ, nhóm cố vấn học tập, nhóm học phần…là yếu tố
thúc đẩy mức độ sử dụng MXH tăng cao. Trong đó có trang mạng Zalo được nhiều
sinh viên, giảng viên lựa chọn sử dụng. So với facebook, youtube, instagram, zalo
được sinh viên sử dụng ít hơn nhưng vẫn cho thấy tính tiện ích và ưu thế của trang
41
mạng này so với các trang mạng còn lại chưa được sinh viên sử dụng hoặc sử dụng
rất ít như Myspace, Twitter, Zing me…Trong đó, có thể nhận thấy Zing me là trang
mạng của Việt Nam do công ty cổ phần VNG tập trung sản xuất và phát hành game
trực tuyến. Tỉ lệ 9.2%, sinh viên sử dụng Zing methường xuyên và có đến 43.3%
sinh viên không sử dụng trang này. Điều này cho thấy dù là trang mạng nội địa
nhưng độ phủ sóng của trang với sinh viên chưa cao.
Trang MXH ít được sinh viên sử dụng nhất là Myspace (ĐTB = 1.09), trong
đó 91% sinh viên chưa bao giờ sử dụng, 1,0% sinh viên thỉnh thoảng sử dụngvà
7.5% sinh viên hiếm khi sử dụng, không có sinh viên nào sử dụng ở mức độ thường
xuyên. Myspace là một trang MXH cung cấp mạng lưới thông tin tương tác giữa
người dùng với bạn bè của họ, cho phép người dùng tạo những hồ sơ cá nhân, viết
blog, lập nhóm, tải hình ảnh lên, lưu trữ nhạc và video cho giới trẻ cũng như người
lớn trên khắp thế giới. Mạng này được khởi tạo từ năm 2003 có trụ sở tại
California, Hoa Kỳ. Mạng xã hội này từng có lịch sử lẫy lừng, vượt qua cả Google
về số lượng người truy cập. Ở Việt Nam, Myspace không phổ biến, có khá ít người
dùng lựa chọn mạng xã hội này để sử dụng. Bởi vậy, tỉ lệ sinh viên Nội vụ chưa
bao giờ sử dụng mạng này cũng là điều dễ hiểu.
Có thể thấy mức độ sử dụng các trang MXH của sinh viên không giống
nhau, đa số sinh viên thường xuyên sử dụng các trang MXH mang tính phổ biến
như facebook, youtube… những trang MXH chưa mang tính phổ biến tỉ lệ sinh
viên sử dụng thấp. Đánh giá về mức độ sử dụng MXH của sinh viên, 70/70 (100%)
GV, CVHT được khảo sát đều cho rằng mức độ sử dụng MXH nói chung của sinh
viên là rất thường xuyên [PL bảng số liệu, câu 1]. Chia sẻ về vấn đề này, đại diện
Ban giám hiệu (BGH) Nhà trường cho biết: “Trong bối cảnh bùng nổ mạng mẽ của
công nghệ 4.0, các mạng xã hội mang đến cho sinh viên rất nhiều tiện ích. Sinh
viên tiếp nhận các thông tin về thời khóa biểu, thông báo của lớp, của phòng ban,
của CVHT, thông tin tuyển sinh, hoạt động truyền thông từ các fanpage của Nhà
trường, của các đơn vị phòng, khoa, của lớp rất nhanh chóng, đầy đủ.. bởi vậy,
mức độ sử dụng MXH của sinh viên là rất thường xuyên. Tuy nhiên, thời gian sử
dụng MXH của mỗi sinh viên là khác nhau”.
Như vậy, việc sử dụng MXH trong học tập, sinh hoạt của sinh viên hiện nay
là tất yếu, tuy nhiên thời gian sử dụng MXH của mỗi sinh viên là không giống
42
nhau. Để làm rõ vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã khảo sát thời gian sử dụng MXH
1%
6%
13%
16%
32%
a. Dưới 30 phút b. c. d. e. f.
30 phút - 1 giờ /ngày 1 – 3 giờ 3 – 5 giờ 5 – 8 giờ Nhiều hơn 8 giờ
32%
Biểu đồ 2. Thời gian sử dụng mạng xã hội mỗi ngày của sinh viên
mỗi ngày của sinh viên, kết quả như sau:
Theo thống kê của Vnetwork, tần suất người dùng internet tại Việt Nam
2019: người dùng Việt Nam dành trung bình tới 6 giờ 42 phút mỗi ngày để tham
gia các hoạt động liên quan tới mạng Internet. Báo cáo cũng đề cập thêm, người
dùng Việt Nam dùng trung bình 2 giờ 32 phút để dùng mạng xã hội, 2 giờ 31 phút
để xem các stream hoặc các video trực tuyến và dùng 1 giờ 11 phút để nghe nhạc.
94% là tỷ lệ người dùng Internet ở Việt Nam sử dụng Internet hàng ngày [37]. Điều
này chứng minh rằng người Việt Nam nói chung và sinh viên nói riêng đã dành thời
gian đáng kể cho các hoạt động trên không gian mạng để phục vụ các nhu cầu khác
nhau. Kết quả từ biểu đồ cho thấy, thời gian sinh viên sử dụng MXH mỗi ngày là rất
lớn, trung bình mỗi SV dành 5,7 giờ/ngày để sử dụng MXH. Lượng thời gian dành
cho MXH quá nhiều, bởi SV còn phải học tập trên lớp, tự học, tự nghiên cứu và các
hoạt động khác. Cụ thể, có186 sinh viên sử dụng MXH từ 3 - 5 giờ/ngày chiếm 32%.
Tương tự, có 186 sinh viên dành từ 1 – 3 giờ/ngày để sử dụng MXH. Cùng với đó,
16% sinh viên sử dụng từ 5 – 8 giờ/ngày. Đáng lưu ý có đến 13% sinh viên sử dụng
> 8 giờ/ngày. Lượng thời gian sử dụng MXH là rất đáng báo động về nguy cơ lệ
thuộc MXH ngày càng gia tăng trong SV Nội vụ hiện nay. Điều này đặt ra yêu cầu
cấp thiết phải có sự quan tâm nhiều hơn, sát sao hơn của Nhà trường, GV, CVHT
nhằm định hướng thời gian hợp lý khi sử dụng MXH hạn chế tối đa sự sa đà, lệ thuộc
vào MXH trong một bộ phận SV hiện nay. Trao đổi về vấn đề này, sinh viên Trần T.
ra xem tin, nói chuyện với bạn bè. Ngoài ra, em cũng xem phim, nghe nhạc youtube
liên tục. Mỗi ngày không truy cập facebook là không chịu được”.
Như vậy, dù rằng số trang MXH sinh viên lựa chọn sử dụng không nhiều,
nhưng thời gian online mỗi ngày lại rất lớn. Thời gian sử dụng MXH của sinh viên
43
H khóa 19 cho biết: “em sử dụng MXH rất nhiều, ngày nào cũng phải mở facebook
Nội vụ quả thật đáng lo ngại. Đây là vấn đề cần được lưu ý, nghiên cứu kỹ lưỡng
và tìm hướng giải quyết phù hợp tránh tình trạng lệ thuộc vào MXH sẽ ảnh hướng
đển học tập và các hoạt động xã hội khác.
Hỗ trợ cho việc sử dụng MXH của sinh viên chính là các thiết bị truy cập
MXH. Hiện nay, thiết bị để truy cập MXH của sinh viên tương đối phong phú, cụ
Biểu đồ 3. Phương tiện truy cập mạng xã hội của sinh viên
thể như sau:
Kết quả từ biểu đồ 2 cho thấy điện thoại thông minh là phương tiện sinh viên
dùng để truy cập MXH nhiều nhất với 570 ý kiến lựa chọn chiếm 99,1%. Tiếp theo
là máy tính xách tay chiếm 48,9%; máy tính để bàn chiếm 16,2% và máy tính bảng
chiếm 10,1%. Có thể thấy, cùng với sự phát triển của công nghệ, các dòng điện
thoại phân khúc tầm trung – thấp liên tục được ra đời giúp cho người dùng dễ dàng
sở hữu những chiếc điện thoại thông minh để tiếp cận Internet. Trong số 64 triệu
người dùng internet tại Việt Nam năm 2019, có 61,73 triệu sử dụng thiết bị di động
để truy cập MXH chiếm 96% số lượng người dùng [37]. Điều này cho thấy điện
thoại di động là thiết bị được ưu tiên sử dụng khi truy cập Internet nói chung và
MXH nói riêng. Sinh viên Nội vụ cũng không ngoại lệ, thậm chí số lượng sinh viên
sử dụng hơn 2 điện thoại để truy cập MXH cũng không ít. Cùng với đó, máy tính
xách tay cũng là phương tiện được sử dụng nhiều để truy cập MXH. Thực tế cho
thấy sinh viên Nội vụ có rất nhiều bài tập phải hoàn thiện cần đến máy tính xách
tay, chính vì thế, máy tính xách tay được kết nối mạng cũng chính là thiết bị được
tính bảng ít hơn do tính cơ động và thuận lợi của 2 thiết bị này không cao.
Chính sự nhỏ gọn tiện dụng, nhanh chóng của các thiết bị điện thoại thông
minh cũng là tác nhân thúc đẩy thời gian sử dụng MXH nhiều hơn ở sinh viên. Bởi,
44
sinh viên sử dụng để truy cập MXH. Tỉ lệ sinh viên sử dụng máy tính bàn và máy
nếu không có thiết bị hoặc thiết bị lỗi thời, sinh viên sẽ không có công cụ để truy
cập các trang MXH nhanh chóng dẫn đến thời gian sử dụng sẽ ít hơn. Tuy nhiên,
trong xu thế phát triển, việc sử dụng điện thoại thông minh như vật “bất li thân”
cũng là điều dễ hiểu.
2.1.3. Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Từ kết quả bảng 2.1 và các biểu đồ 1 cho thấy, mức độ và thời gian sử dụng
MXH của sinh viên là rất lớn, vậy sinh viên sử dụng MXH vì mục đích gì? Kết quả
Bảng 2.2. Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên
khảo sát như sau:
Mục đích sử dụng MXH
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Thứ bậc
Cập nhật tin tức mới
495
86.1
2
Mục đích học tập (tìm kiếm, chia sẻ tài liệu với thầy cô và nhóm học tập)
463
80.5
3
Kết nối và giữ liên lạc với bạn bè
509
88.5
1
Tham gia các nhóm trên mạng xã hội
306
53.2
5
Xây dựng và quảng bá hình ảnh của bản thân
17.9
9
103
Giải trí (chơi game, xem phim, đọc báo, đọc truyện…)
454
79.0
4
Quảng cáo, kinh doanh, bán hàng online
128
22.3
8
Tìm việc làm thêm
151
26.3
6
Chỉ để giết thời gian
7
146
25.4
0
0
0
Ý kiến khác
Kết quả khảo sát từ bảng 2.2 cho thấy cho thấy mục đích sử dụng MXH của
sinh viên rất đa dạng, cụ thể có 509 ý kiến chiếm 88,5% sinh viên lựa chọn mục
đích kết nối và giữ liên lạc với bạn bè xếp vị trí số 1. 495 ý kiến chiếm 86,1% cho
rằng mục đích sử dụng MXH là để cập nhật thông tin mới xếp vị trí thứ 2. Trong
khi đó, có 463 sinh viên sử dụng MXH vì mục đích học tập đứng thứ 3 và 454 sinh
viên có mục đích giải trí xếp thứ 4. Những mục đích còn lại nhận được ít hơn sử
lựa chọn của sinh viên như tìm việc làm thêm (chiếm 26.3%), quảng cáo, kinh
doanh, bán hàng online (chiếm 22,3%), chỉ có 17,9 % sinh viên lựa chọn mục đích
xây dựng và quảng bá hình ảnh bản thân. Cùng với đó, có đến 146 sinh viên chiếm
45
25,4% sử dụng MXH chỉ để giết thời gian. Như vậy có thể nói MXH với tính năng
đa dạng, nguồn thông tin phong phú, cập nhật hằng ngày, hàng giờ đáp ứng rất tốt
mục đích kết nối và giữ liên lạc với bạn bè và cập nhật tin tức của sinh viên. Đặc
biệt, trong giai đoạn cả nước phòng, chống dịch Covid – 19 đã hạn chế sự tiếp xúc
trực tiếp thì sự trao đổi thông tin trên không gian mạng thể hiện rõ ưu thế. Cùng với
đó, trong giai đoạn phòng chống dịch Covid – 19, SV dù không đến lớp, không trực
tiếp làm việc với nhau, với thầy cô, với CVHT nhưng vẫn nắm bắt thông tin nhanh
chóng, kịp thời. Trường ĐHNVHN hiện nay có các fanpage của Đoàn trường, của
các khoa, các phòng dùng để cập nhật các thông tin, thông báo, thời khóa biểu, lịch
học lại hay các chế độ của sinh viên. Nhờ vậy, sinh viên chỉ cần ở nhà, kết nối
mạng đều có thể nắm bắt thông tin cần thiết.
Đặc biệt, trong khoảng thời gian nghỉ tránh dịch theo chỉ thị số 16 của Thủ
tướng Chính phủ, trường ĐHNVHN đã tổ chức học trực tuyến trên phần mềm
Zoom từ tháng 3/2020 đến tháng 5/2020 bởi vậy, việc sử dụng MXH vào mục đích
học tập được SV chú trọng hơn. Việc tạo lập và tham gia các forum học tập được đẩy
mạnh. Ngoài ra, bằng phương pháp quan sát thực tế giảng dạy, nhóm nghiên cứu
nhận thấy tính tích cực của sinh viên khi chủ động tạo lập, gia nhập các nhóm học
tập trên facebook, zalo của lớp, của nhóm. Thậm chí, một SV tham gia rất nhiều
nhóm học tập khác nhau trên MXH. Thông qua các diễn đàn, các nhóm học tập trên
không gian mạng SV chủ động tiếp cận, bày tỏ quan điểm cá nhân, thảo luận sôi nổi
các nhiệm vụ học tập. Bởi vậy, có 80,5% SV sử dụng MXH với mục đích học tập
(xếp vị trí thứ 3) tỉ lệ này cho thấy SV đã biết sử dụng MXH một cách có ích, phục
vụ cho hoạt động học tập của mình. Tuy nhiên, đối với sinh viên học tập vẫn là
nhiệm vụ quan trọng nhất, bởi vậy, học tập nên là mục đích ưu tiên hàng đầu khi sử
dụng MXH sau đó mới đến các mục đích khác. Trao đổi về vấn đề này, Đại diện lãnh
đạo phòng CTSV cho biết: “Mục đích sử dụng MXH của sinh viên ĐHNVHN đa số
là tích cực, các em dùng MXH phục vụ mục đích giải trí, kết nối bạn bè, kinh doanh,
học tập và một số mục đích khác. Trong đó, học tập chưa phải là mục đích cao nhất
khi sử dụng MXH của sinh viên, đa số sinh viên sử dụng MXH để giải trí, kết nối bạn
bè nhiều hơn là để học”. Đúng vậy, kết quả khảo sát cho thấy, tỉ lệ SV sử dụng MXH
với các mục đích ngoài học tập rất lớn. Chính vì thế, GV, CVHT cũng cần có những
46
định hướng về mục đích sử dụng MXH cho sinh viên, hướng SV vào những mục
đích ưu tiên cho học học tập, phát triển kỹ năng nhiều hơn.
Bên cạnh đó, SV sử dụng MXH để giải trí như xem phim, chơi game, nghe
nhạc chiếm 79% là tỉ lệ rất lớn. Tỉ lệ lớn SV sử dụng MXH để giải trí cũng là điều
dễ hiểu từ chính các tính năng của MXH, điều này cho thấy sinh viên đã biết tiếp
cận, sử dụng các tính năng, ứng dụng trên không gian mạng phục vụ cho mục đích
giải trí của mình. Tuy nhiên, nếu thiếu kỹ năng sử dụng, SV sẽ bị cuốn vào các tính
năng giải trí dẫn đến thời gian dành cho MXH quá nhiều ảnh hướng đến kết quả
học tập, rèn luyện. Thực tế cho thấy, thời gian SV dành cho xem phim, nghe nhạc,
chơi game trên MXH còn nhiều hơn thời gian các bạn dành cho các hoạt động
khác. Việc chiếm dụng nhiều thời gian cho mục đích giải trí sẽ thu hẹp thời gian
dành cho học tập, tham gia các câu lạc bộ, hoạt động cộng đồng hoặc tham gia các
khóa học phát triển kỹ năng.
Cùng với đó, 25,4% sinh viên dùng MXH chỉ vì mục đích là để giết thời
gian. Đây là vấn đề đáng lo ngại khi SV lãng phí thời gian sử dụng MXH của mìn.
Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này chính là tâm lý thụ động, lười vận động, ngại
giao tiếp từ phía SV, đồng thời việc thiếu cơ sở hạ tầng, khuôn viên vui chơi, thể
dục, thể thao và các hoạt động ngoại khóa lôi cuốn đã hạn chế cơ hội tham gia hoạt
động của SV, dẫn đến tình trạng SV sử dụng MXH để giết thời gian rỗi của mình.
Bởi vậy, cần đầu tư cơ sở hạ tầng, khu thể thao tích hợp đáp ứng nhu cầu thể dục
thể thao của SV và phải định hướng mục đích sử dụng MXH cho sinh viên hợp lý
hơn, hiệu quả hơn, trong đó học tập nên là mục đích ưu tiên khi sử dụng MXH của
sinh viên.
So sánh đánh giá của GV, CVTH và SV trong bảng 2.2 cho thấy giữa GV,
CVTH và SV có sự khác biệt nhất định trong lựa chọn mục đích sử dụng MXH của
sinh viên. Trong đó, nếu đa số sinh viên lựa chọn mục đích kết nối và giữ liên lạc
với bạn bè thì đa số GV, CVTH lại cho rằng mục đích sử dụng MXH của sinh viên
là để cập nhật thông tin mới và mục đích học tập chiếm tỉ lệ theo thứ tự là 95,6% và
77,1%. Ngoài ra, mục đích giải trí; xây dựng và quảng bá thương hiệu cũng được
GV, CVHT đánh giá cao với tỉ lệ 68,6% và 64,3% [phụ lục bảng số liệu câu 3].
Những mục đích khác giữa GV, CVHT và SV có sự lựa chọn tương đồng nhau.
47
Chia sẻ về vấn đề này, cô Trần Thị D. T. GV, CVHT cho biết: “MXH có rất nhiều
tính năng hữu ích sinh viên có thể khai thác. Bởi vậy, mục đích sử dụng MXH của
sinh viên rất phong phú, đa dạng. Trong đó, mục đích học tập, kết nối bạn bè, mua
bán hàng online và tìm kiếm cơ hội làm thêm là chủ yếu, ngoài ra, tỉ lệ sinh viên sử
dụng MXH không có mục đích cụ thể cũng không phải ít”.
Như vậy, có thể thấy dù sự đánh giá của GV, CVHT và sự lựa chọn của sinh
viên vẫn còn có sự khác biệt, nhưng về cơ bản, GV, CVHT đã nắm được mục đích
sử dụng MXH của sinh viên. Đây sẽ là một trong những thuận lợi để GV, CVHT
định hướng mục đích sử dụng MXH phục vụ cho hoạt động học tập nhiều hơn cho
SV, trong đó, GV, CVHT cần có những giải pháp cụ thể đối với nhóm 25,4%SV sử
dụng MXH “chỉ để giết thời gian” để các em xác định lại mục đích sử dụng MXH
phù hợp hơntrong thời gian tới.
2.1.4. Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Kết quả khảo sát sinh viên cho thấy dù nhu cầu sử dụng MXH là tương đối
đơn giản nhưng mức độ sử dụng lại rất lớn và mục đích sử dụng cũng có sự phân
hóa rõ rệt. Tuy nhiên, vấn đề sử dụng MXH của sinh viên chủ yếu được biểu hiện
thông qua hành vi sử dụng MXH. Bởi vậy, khảo sát hành vi sử dụng MXH thông
qua thời gian sử dụng theo hoàn cảnh, nội dung chia sẻ và đăng tải; hành vi nhấn
Bảng 2.3. Biểu hiện hành vi sử dụng MXH của sinh viên qua nội dung “đăng tải”
nút like (yêu, thích) và hành vi bình luận trên MXH của SV, kết quả như sau:
Mức độ
Hiếm khi
Nội dung “đăng tải”
ĐBT
Thường xuyên N %
Thỉnh thoảng N %
N %
chưa bao giờ N %
Đăng tải tất cả mọi thứ về
20
3.5
203 35.3 269 46.8
83
14.4
2.28
cuộc sống của mình
Đăng tải bài viết, video liên
24
4.2
65
11.3
244 42.4 242 42.1
2.39
quan đến học tập của mình
Đăng các group bán hàng
17
3.0
66
11.5 164 28.5 328 57.0
1.60
online
Đăng các bức ảnh “sexy”
hoặc thông tin gây sốc để
0
0.0
11
1.9
37
6.4
527 91.7
1.10
câu like
48
Đăng tải bài báo nhằm kêu
gọi sự giúp đỡ đối với
42
7.3
242 42.1 182 31.7 109 19.0
2.38
những hoàn cảnh khó khăn
Đăng thông tin chính thống
2.23
59
10.3 199 34.6 133 23.1 184 32.0
về dịch bệnh
Đăng tải thông báo từ giảng
viên, cố vấn học tập, đoàn
thanh niên…liên quan đến
58
10.1 225 39.1 169 29.4 123 21.4
2.38
học tập, nghiên cứu khoa
học
Kết quả từ bảng số liệu 2.3 cho thấy, hành vi đăng tải các nội dung lên MXH
của sinh viên trường Nội vụ ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào các nội dung cụ
thể. Trong đó, nội dung được đăng tải nhiều nhất là “các bài viết, video liên quan
đến học tập của mình” (ĐTB = 2.39) với 4,2% thường xuyên, 42,4% thỉnh thoảng,
42,1% hiếm khi và 11,3% chưa bao giờ. Khi được hỏi về vấn đề này sinh viên Đỗ
C. A. khóa 17 cho biết: “Em rất ít khi đăng các nội dung học tập lên MXH, chỉ lúc
nào ở lớp có những hoạt động nhóm học tập vui nhộn hoặc những bài tập nhóm
làm tốt, được điểm cao hay các video clip học tập hài hước em mới đăng tải lên
MXH”. Bạn Đoàn Đức Đ khóa 19 cho biết thêm: “vì em là cán bộ lớp, nên em
thường xuyên thường xuyên đăng tải các nội dung liên quan học tập của mình để
các bạn khác cùng theo dõi, như nội dung ôn tập, phân chia nhóm, nguồn tài
liệu...thỉnh thoảng, em cũng cập nhật nguồn tài liệu mới cho các bạn cùng tham
khảo”. Có thể nói, việc đăng tải các nội dung học tập của cá nhân lên MXH không
phải là quy định hay yêu cầu bắt buộc chủ yếu xuất phát từ nhu cầu hay mục đích
sử dụng của sinh viên. Việc chia sẻ nội dung học tập lên MXH cũng là một kênh
thông tin quan trọng để sinh viên học tập, trao đổi cùng nhau. Lúc này, việc sử
dụng MXH không còn là vô bổ hay chỉ để giết thời gian nữa.
Nội dung đăng tải bài báo nhằm kêu gọi sự giúp đỡ đối với những hoàn cảnh
khó khăn (ĐTB = 2.38) và đăng tải thông báo từ giảng viên, cố vấn học tập, đoàn
thanh niên… liên quan đến học tập, nghiên cứu khoa học (ĐTB = 2.38), cùng xếp
49
vị trí thứ 2. Có thể nhận thấy những tín hiệu tích cực trong việc sử dụng MXH thể
hiện qua các nội dung đăng tải. Sinh viên trường Nội vụ cùng với hoạt động học
tập, rèn luyện chính là sự chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn. Hằng năm, Đoàn
trường ĐHNVHN, các liên chi đoàn, các câu lạc bộ đều có các chương trình thiện
nguyện như chương trình “Cùng em tới trường” tại thôn Co Loi, xã Mẫu Sơn,
huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, năm 2020 của Khoa Khoa học Chính trị; chương
trình thiện nguyện “Tết yêu thương mùa 5” của CLB Văn phòng trẻ - Khoa Quản
trị văn phòng năm 2019; Chương trình “Áo ấm cho em” do Đoàn trường tổ chức
năm 2019 và nhiều chương trình thiện nguyện khác đã được tổ chức. Truyền thống
và tinh thần tương thân tương ái trong nhà trường đã lan tỏa đến đông đảo sinh viên
Nội vụ. Bởi vậy, để góp công sức của mình chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn
trong xã hội, sinh viên đã đăng tải lên MXH các bài báo nhằm kêu gọi sự giúp đỡ
đối với những hoàn cảnh khó khăn với 7,3% Thường xuyên; 42,1% thỉnh thoảng,
31,7% hiếm khi và 19% chưa bao giờ.
Cùng với đó, sinh viên cũng thường xuyên chia sẻ các thông báo từ giảng
viên, cố vấn học tập, đoàn thanh niên, các phòng khoa chức năng… liên quan đến
học tập, nghiên cứu khoa học với tỉ lệ thường xuyên 10,1%, thỉnh thoảng 39,1%,
hiếm khi 29,4% và chưa bao giờ 21,4%. Có thể nói, một trong những tính năng ưu
việt của MXH là khả năng cập nhật thông tin nhanh chóng, tính tương tác cao bởi
vậy, đây là một trong những kênh liên lạc quan trọng giữa GV, CVHT, các phòng
khoa chức năng với SV và ngược lại. Hiện tại, các GV, CVHT các Khoa, phòng
đều có trang cá nhân, fanpage, nhóm lớp, nhóm học phần trên facebook hoặc zalo
để cập nhật thông tin nhanh nhất đến sinh viên. Đặc biệt là những thông báo của cố
vấn học tập về lịch họp lớp, thông báo điểm rèn luyện, học phí, lịch học lại, học cải
thiện, thời khóa biểu… đều được cập nhật trên MXH là điều kiện thuận lợi nhất để
sinh viên, dù bất kỳ đâu chỉ cần có kết nối mạng và phương tiện phù hợp đều có thể
nhận thông tin và phản hồi ngay khi cần thiết.
Một điều đáng lưu ý hành vi đăng tải của sinh viên lên MXH là đăng tải tất
cả mọi thứ về cuộc sống của mình (ĐTB = 2,28) với mức độ thường xuyên chiếm
3,5%, thỉnh thoảng chiếm 35,3%; hiếm khi chiếm 46,8% và 14,4% chưa bao giờ.
Có thể nói, với nhu cầu sử dụng MXH để tăng tương tác và kết nối bạn bè thì tỉ lệ
50
sinh viên đăng tải tất cả mọi thứ về cuộc sống của mình ở mức độ thường xuyên
cao cũng không quá khó hiểu. Sinh viên có thể đăng tải tất cả những cảm xúc, suy
nghĩ, thông tin, hình ảnh, hoạt động…về cuộc sống của mình lên MXH mà gặp cản
trở nào. Tuy nhiên, các chuyên gia MXH cũng có những cảnh báo đối với những
người thường xuyên sử dụng MXH cần cân nhắc trước khi đăng tải các thông tin cá
nhân hay hoạt động riêng tư của mình lên MXH tránh bị đối tượng xấu lợi dụng
hình ảnh, thông tin cá nhân vào mục đích xấu. Theo ông Nguyễn Minh Đức, Giám
đốc điều hành Công ty cổ phần An toàn thông tin CyRadar cho biết: Hầu hết các
thông tin cá nhân của người sử dụng hiện nay ở Việt Nam đều do chính người sử
dụng tự đưa lên. Thông tin về ngày tháng năm sinh, trường học, nơi làm việc, nơi
ở... kê khai trong các ứng dụng mạng xã hội được để ở chế độ mở. Thêm vào đó,
nhiều người có thói quen cập nhật rất nhiều hoạt động trong ngày lên mạng xã hội.
Điều này đồng nghĩa với việc ai cũng có thể thu thập được thông tin của họ, có thể
dễ dàng lập tài khoản giả mạo và tiến hành các hành vi lừa đảo [41].
Thảo luận về vấn đề này trong buổi nói chuyện chuyên đề “Hành vi ứng xử
MXH của sinh viên” do Khoa QLXH tổ chức tháng 5/2019 do diễn giả Ngô Bá Lục
trình bày, một bạn sinh viên chia sẻ câu chuyện của mình như sau: “trong một lần
em đi tập văn nghệ, em đã nghịch ngợm chụp một bức ảnh đóng giả một người
mang bầu sau đó đăng lên trang cá nhân facebook. Không ngờ sau đó một số
fanpage lấy hình của em đăng lên trang của họ để câu like, câu view… làm em bị
hiểu nhầm. Bạn bè ai cũng hỏi thăm rồi comment làm em không thể giải thích
được. Em còn bị bố mẹ ở quê gọi điện tra khảo, mắng rất nhiều. Sau đó, em có liên
hệ trang fanpage gỡ ảnh của em xuống nhưng họ không gỡ làm em không biết làm
thế nào. Sau đó, em phải chụp bức ảnh đính chính là em không mang bầu nhưng
cộng đồng mạng cũng không tin, họ còn nói em đã phá thai nên mới thế….” Chia
sẻ của bạn sinh viên đã làm cho cả khán phòng cười ồ lên. Tuy nhiên, nhà báo Ngô
Bá Lục cho rằng “tai nạn” của bạn không phải hiếm gặp. Rất nhiều sinh viên gặp
vấn đề như bạn và nguyên nhân chủ yếu là sinh viên đăng tải lên MXH quá nhiều
hình ảnh, thông tin cá nhân của mình trong khi chưa có kỹ năng và công cụ nào
kiểm soát tính an toàn của thông tin đăng tải. Ngoài ra, nhà báo chia sẻ thêm sinh
viên có thể bị đánh cắp tài khoản và các đối tượng xấu dùng tài khoản của sinh viên
để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của bạn bè, người thân. Khi được phỏng vấn về vấn
51
đề này, đại diện Lãnh đạo khoa Quản lý xã hội chia sẻ: “Mạng xã hội là công cụ kết
nối hiệu quả với các tính năng phong phú và đa dạng, tuy nhiên kỹ năng sử dụng
MXH đối với sinh viên còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, sinh viên cần có quá trình sàng
lọc, kiểm chứng, đăng tải thông tin một cách hiệu quả. Tránh sa đà vào MXH, ảnh
hướng đến hoạt động sống và sức khỏe”.
Nội dung được ít sinh viên đăng tải nhất là “đăng các bức ảnh “sexy” hoặc
thông tin gây sốc để câu like” (ĐTB = 1.10). trong đó có 91,7% sinh viên chưa bao
giờ sử dụng, 6,4% hiếm khi, 1,9% thỉnh thoảng và không có sinh viên nào đăng tải
nội dung này ở mức độ thường xuyên. Thực tế, việc sử dụng MXH chủ yếu mang
tính cá nhân của người dùng. Việc đăng tải các nội dung lên MXH cũng là lựa chọn
của mỗi người. Tuy nhiên, với sinh viên,việc đăng tải các bức ảnh “sexy” lên MXH
tiềm ẩn nhiều rủi ro như thu hút sự chú ý của các đối tượng xấu như buôn người
hoặc các dịch vụ giải trí trá hình có thể có những chiêu thức mời gọi, quấy nhiễu
sinh viên, ăn cắp hình ảnh phục vụ cho mục đích thiếu lành mạnh…Bởi vậy, đại
diện BGH Nhà trường đã đưa ra lời khuyên dành cho SV: “Sử dụng MXH, sinh viên
cần biết cách khai thác mặt tích cực của MXH, cần thận trọng khi chia sẻ các vấn
đề riêng tư để tránh những sự cố đáng tiếc có thể xảy ra”.
Cùng với nội dung đăng tải, hành vi sử dụng MXH của sinh viên còn biểu
Bảng 2.4. Biểu hiện hành vi sử dụng MXH thông qua nội dung “chia sẻ”
hiện thông qua các nội dung “chia sẻ”.
Mức độ sử dụng
Nội dung “chia sẻ”
Hiếm khi
ĐBT
Thường xuyên N %
Thỉnh thoảng N %
N %
chưa bao giờ N %
Chia sẻ mọi thứ liên quan đến cá
32
5.6
208 36.2
101 17.6 2.30
234
40.7
nhân
Chia sẻ kiến thức liên quan đến học
56
9.7
164
28.5
45
7.8
310 53.9
2.66
tập
Chia sẻ những vấn đề về dịch bệnh
153
26.6
121 21.0 2.42
59
10.3 242 42.1
Chia sẻ thông tin về kinh tế, chính
16
2.8
135 23.5
229
39.8
195 33.9 1.95
trị
Chia sẻ công tác tình nguyện, thiện
57
9.9
178
31.0
84
256 44.5
14.6 2.50
nguyện của đoàn trường
52
Chia sẻ thông báo từ giảng viên, cố
vấn học tập, đoàn thanh niên hoặc
183
31.8
94
16.3 2.47
64
11.1 234 40.7
các phòng ban trong nhà trường
Chia sẻ các trang bán hàng online
14
2.4
54
9.4
167
29.0
340 59.1 1.55
Chia sẻ tất cả những thông tin,
18
3.1
117 20.3
247
43.0
193 33.6 1.93
status của người thân, bạn bè
Nếu như đăng tải là hành vi SV chủ động đưa các nội dung lên trang cá nhân
của mình, thì “chia sẻ” là tính năng giúp SV “kéo” các nội dung mình quan tâm về
trang cá nhân của mình. Có thể nói, tính năng này giúp người dùng tiết kiệm thời
gian khi sử dụng MXH. Chỉ cần cú click chuột, sinh viên có thể chia sẻ những
thông tin cần thiết lên trang cá nhân, đây cũng chính là hình thức lưu tin rất hiệu
quả đối với các thông tin quan trọng hoặc những lĩnh vực mà sinh viên cảm thấy
quan trọng. Ngoài ra, tính năng này còn giúp sinh viên chia sẻ thông tin đến các
hội, nhóm với số lượng thành viên lớn để thông tin đến được với số lượng người
dùng đông đảo nhất. Đối với sinh viên trường ĐHNVHN, khảo sát cho thấy nội
dung chia sẻ của sinh viên mang tính đa dạng, phong phú như các thông tin học tập
đến thông tin mang tính kinh tế, chính trị, dịch bệnh và cả các trang bán hàng
Online. Tuy nhiên, hành vi chia sẻ của sinh viên trên MXH ở mức độ thỉnh thoảng
và hiếm khi. Tỉ lệ thường xuyên chia sẻ không nhiều. Cụ thể, nội dung được nhiều
sinh viên lựa chọn chia sẻ là “chia sẻ những kiến thức liên quan đến học tập” (ĐTB
= 2.66) trong đó có 9.7% chia sẻ ở mức độ thường xuyên, 53,9% thỉnh thoảng,
28,5% hiếm khi và 7,8% chưa bao giờ. Có thể nói, đây là nội dụng có điểm trung
bình cao nhất nhưng cho thấy mức độ chia sẻ chưa nhiều, chủ yếu là thỉnh thoảng
mới chia sẻ. MXH là kho thông tin khổng lồ về các lĩnh vực mang tính toàn diện,
trong đó có kiến thức liên quan đến học tập của sinh viên. Tuy nhiên, những kiến
thức liên quan đến học tập như các bài viết, các nghiên cứu chuyên sâuvới các thuật
ngữ chuyên ngành hoặc chỉ dành cho nhóm đối tượng nhất định nên “kén” người
đọc. So với xem một trích đoạn phim, xem một MV ca nhạc hấp dẫn thì đọc một
bài nghiên cứu chuyên sâu quả là khó khăn hơn rất nhiều. Chính vì thế tỉ lệ sinh
viên thường xuyên chia sẻ những kiến thức liên quan đến học tập chưa nhiều, tỉ lệ
53
thỉnh thoảng, hiếm khi và chưa bao giờ cao hơn gấp nhiều lần. Cùng với đó, nội
dung được chia sẻ đứng vị trí thứ 2 là chia sẻ công tác tình nguyện, thiện nguyện
của Đoàn trường (ĐTB = 2.50) với 9,9% thường xuyên chia sẻ, 44,5% thỉnh
thoảng, 31,3% hiếm khi và 14.6% chưa bao giờ; Hằng năm, Đoàn trường
ĐHNVHN đều tổ chức những chương trình thiện nguyện đến với các hoàn cảnh
khó khăn trên mọi miền đất nước. Các chương trình này thu hút sự tham gia đông
đảo của GV, SV trong toàn trường, tuy nhiên công tác truyền thông cho các chương
trình, hoạt động của đoàn trường chưa được đầu tư đúng cách, dẫn đến sự tiếp cận
đến sinh viên chưa nhiều. Bởi vậy, thông qua tính năng chia sẻ trên MXH, SV và
các nhóm công chúng sẽ biết nhiều hơn đến hoạt động của đoàn trường. Đây chính
là cách thức truyền thông hiệu quả mà Đoàn trường cần đầu tư xây dựng và hoàn
thiện, trong đó, xây dựng một đội ngũ đoàn viên, thanh viên thành lập các fanfage
và chia sẻ mạnh mẽ trên MXH để nâng cao hình ảnh và nhân rộng những hành
động đẹp trong cuôc sống. Ngoài ra, 11,1% sinh viên còn thường xuyên chia sẻ các
thông báo từ GV, CVHT, các phòng ban, đơn vị trong Nhà trường. 10,3% sinh viên
thường xuyên chia sẻ những vấn đề về dịch bệnh, 42,1% thỉnh thoảng chia sẻ về
nội dung này. Có thể nói, năm 2020 là năm chịu ảnh hưởng của dịch bệnh Covid –
19 trên mọi mặt đời sống, trong đó có hoạt động học tập của sinh viên. Thay vì đến
trường học tập, sinh viên tham gia học trực tuyến qua phần mềm Zoom. Cùng với
đó, các kênh truyền thông về dịch bệnh được phổ biến rộng rãi, tất cả các kênh báo
đài, truyền hình, MXH đều chia sẻ rộng rãi thông tin về dịch bệnh nguy hiểm này.
Từ đó, giúp mọi người nâng cao cảnh giác, chủ động thực hiện và thực hiện có hiệu
quả các biện pháp phòng dịch theo hướng dẫn của cơ quan chức năng. Công cụ
truyền thông nhanh chóng và hiệu quả chính là tuyên truyền qua MXH, chính vì
thế, đăng tải hay chia sẻ các thông tin về dịch bệnh cũng được sinh viên thực hiện
với 10,1% sinh viên thường xuyên chia sẻ và có 21,0% sinh viên chưa bao giờ chia
sẻ. Lý giải về vấn đề này, sinh viên Quang Thị H. khóa 19 cho biết: “em rất thận
trọng khi chia sẻ những thông tin liên quan đến dịch bệnh lên MXH. Chỉ lúc nào có
những thông tin chính xác từ các trang chính thống em cảm thấy cần thiết mới chia
sẻ lên trang cá nhân. Em sợ mình có thể chia sẻ những thông tin sai, tin giả sẽ làm
mọi người hoang mang hơn”. Cùng suy nghĩ với bạn Quang Thị H, đa số sinh viên
54
được hỏi đều thận trọng khi chia sẻ thông tin về nội dung này trên MXH vì sợ
vướng phải tin giả. Sự thận trọng này của sinh viên là có cơ sở. Mới đây, thông tin
từ Bộ Công an cho biết đã có 170 cá nhân tung tin sai lệch về dịch Covid 19 bị triệu
tập, xử lý, thông tin sai bị đề nghị gỡ bỏ; 41 trường hợp không thực hiện các yêu
cầu của cơ quan chức năng sẽ bị xử lý hình sự khi đủ điều kiện [44].
Cùng với các nội dung khác, sinh viên còn chia sẻ lên MXH mọi thứ liên
quan đến cá nhân (ĐTB = 2.30) và chia sẻ những thông tin, status của người thân,
bạn bè lên MXH (ĐTB = 1.93). Tương tự như hành vi đăng tải, các chuyên gia
công nghệ đều khuyên người dùng không nên đăng tải, chia sẻ mọi thông tin liên
quan đến cá nhân lên MXH, bởi có thể sẽ bị kẻ xấu lợi dụng, đánh căp thông tin,
thậm chí đánh cắp tài khoản để thực hiện hành vi lừa đảo. Bên cạnh đó, sinh viên
cũng cần cân nhắc trước khi chia sẻ những thông tin, status của bạn bè người thân
lên MXH bởi vô tình có thể vi phạm quyền riêng tư của người thân, bạn bè mà sinh
viên không biết.
Như vậy, để không bị cuốn vào “rừng” thông tin trên mạng, sinh viên phải
tỉnh táo, kiểm tra cẩn thận mọi nguồn tin, tránh bị mắc lừa, hoang mang vô cớ. Hơn
ai hết sinh viên hãy là người chia sẻ thông tin một cách có trách nhiệm để tự bảo vệ
mình. Mỗi sinh viên tự hình thành các thói quen tốt khi sử dụng MXH, chủ động
giữ gìn các giá trị, chuẩn mực đạo đức và tuân thủ pháp luật. Hãy đăng tải, chia sẻ
có trách nhiệm với bản thân, với cộng đồng.
Cùng với hành vi “đăng tải” và “chia sẻ”, sinh viên sử dụng MXH còn thể
Bảng 2.5. Biểu hiện hành vi SD MXH thông qua nội dung “like” và “comment”
hiện qua nội dung “like” và “comment”. Biểu hiện cụ thể của hành vi này như sau:
Mức độ
Nội dung
Hiếm khi
ĐBT
Thường xuyên N %
Thỉnh thoảng N %
N %
chưa bao giờ N %
“Like” ảnh
351
61.0 192 33.4
32
5.6
0
0.0
3.55
“Like” stastus
292
50.8 204 35.5
72
12.5
7
1.2
3.36
75
13.0
7
1.2
3.31
“Like” fan pape yêu thích
270
47.0 223 38.8
50
8.7
2.60
“Like” commet của người khác
99
17.2 195 33.9 231 40.2
13
2.3
3.19
“Like” video
228
39.7 241 41.9
93
16.2
“Like” dạo: like tất cả những gì
82
14.3 120 20.9 174 30.3 199 34.6 2.15
55
được hiển thị
“Comment” tất cả thông tin liên
57
9.9
308 53.6 178 31.0
32
5.6
2.68
quan đến học tập
Chỉ “comment” về ảnh, stastus
167
29.0 308 53.6
88
15.3
12
2.1
3.10
của bạn bè và người thân
“Comment” tất cả thông tin mình
13
2.3
70
12.2 255 44.3 237 41.2 1.75
đọc được
Không “comment” khi không
348
60.5
83
14.4
69
12.0
75 13.0 3.22
thực sự cần thiết.
Để tăng tính tương tác và bày tỏ cảm xúc của người dùng, các trang MXH
đều có tính năng like hay thả tim, biểu tượng cảm xúc như mặt cười, tức giận, hạnh
phúc… Việc nhấn nút “like” không quá xa lạ với người dùng, là cách người dùng
bày tỏ quan điểm, thái độ của mình khi sử dụng MXH.
Tính năng “like” được Facebook giới thiệu vào năm 2009, và tính năng này
đã dần trở nên phổ biến đến nỗi nó đã trở thành một danh từ đúng nghĩa: một cái
“like”. Cách đây 7 năm, Facebook đã đạt được mức khoảng 1 tỉ “like” một ngày,
chắc chắn con số đó hiện nay lớn hơn rất nhiều.. Về sau, nút “like” trên Facebook
đã không còn đủ để chúng ta thể hiện cảm xúc nữa, chính vì thế vào năm 2015
Facebook đã trình làng các biểu tượng cảm xúc để mọi người có thể dễ dàng thể
hiện tâm tư của mình đến bài đăng như thích, yêu thương, tức giận, ngạc nhiên,
buồn….Chính sự nâng cấp này đã đánh đúng tâm lý của người dùng và tỉ lệ người
dùng nhấn nút like ngày càng nhiều hơn. Sinh viên cũng vậy, số liệu từ bảng 2.5
cho thấy, tỉ lệ sinh viên thường xuyên có hành vi like ở mức độ rất thường xuyên
lớn hơn cả. Nội dung chủ yếu là like ảnh (ĐTB = 3.55) với mức độ thường xuyên
chiếm 61%, thỉnh thoảng chiếm 33,4%, 5,6 % hiếm khi và không có sinh viên nào
chưa bao giờ like ảnh. Có thể nói, đây là tỉ lệ rất lớn sinh viên tham gia MXH thực
hiện hành vi này. Cùng với đó, like status cũng chiếm tỉ lệ lớn với mức độ thường
xuyên 50,8%, thỉnh thoảng 32,5% và 12,5% hiếm khi, chỉ có 1,2% là chưa bao giờ.
Ngoài ra, like fanpage yêu thích và like comment của người khác cũng có mức độ
rất thường xuyên và thường xuyên sử dụng cao, ĐTB lần lượt là 3.31 và 2.60.
56
Bên cạnh đó, số lượng sinh viên có hành vi like “dạo” là không nhỏ. Có đến
14,3% ở mức độ thường xuyên, 20,9% thỉnh thoảng, 30.3% hiếm khi và 34,6%
chưa bao giờ. Chia sẻ vấn đề này, bạn Hoàng Đ.T khóa 19 cho biết: “Em truy cập
MXH rất nhiều và em like tất cả những gì em nhìn thấy, có những nội dung dài em
chưa đọc hết, em chỉ thả like”. Khi được hỏi, các bạn có thường xuyên like các nội
dung trên MXH? Đa số sinh viên đều trả lời “có” và nhiều sinh viên còn hồn nhiên
trả lời rằng: “em cứ like để các bạn biết em có tương tác với các bạn”. Một bạn
khác cho biết: “em like trên tường của bạn để bạn lại like trên tường của em. Bài
viết được nhiều like càng thích”. Khi được hỏi, các bạn có biết ý nghĩa và tác hại
của việc like hay không? Đa số sinh viên đều không nhận thức được tác hại của
việc like mà chỉ biết like để tăng tương tác và ủng hộ ai đó trên MXH.
Như vậy, đa số sinh viên nhận thức rất mơ hồ về tác hại của hành vi like nhầm
hoặc like “dạo”. Tại buổi nói chuyện chuyên đề “Hành vi ứng xử của sinh viên trên
MXH” Nhà báo Ngô Bá Lục đã chia sẻ: “Việc nhấn nút like tưởng chừng là vô hại,
những có thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, bởi vậy trước khi like sinh viên cần
đọc kỹ nội dung hoặc suy nghĩ kỹ để quyết định có like hay không” Diễn giả cũng
chia sẻ những câu chuyện của bản thân về nút like như: có một người bạn đăng một
status rất buồn kể về việc mình vừa mất đi một người thân rất quan trọng nhưng vì
anh (Diễn giả) đang vội nên không đọc hết status nên anh đã nhấn “thả tim” cho
người bạn đó. Mãi lúc sau có người bạn khác thắc mắc thì anh mới mở ra xem lại và
vội vàng xin lỗi bạn mình. Từ đó, anh cho biết không bao giờ vội vàng like với status
hay ảnh..của người khác mà thận trọng hơn khi sử dụng nút like này.
Có thể nói, không ai cấm sinh viên like trên MXH bởi nút like mang lại
nhiều thông điệp như: thể hiện số lượng người tương tác, quan tâm đến bài đăng,
một số khác like để ngầm thông báo rằng mình đã đọc, hay like để nội dung từ trang
đó xuất hiện trên bản tin News Feed nhiều hơn. Mặt khác, chỉ số like để người dùng
nhận biết bài đăng nào chất lượng và cần hiển thị lên bảng tin News Feed của nhiều
người hơn. Với facebook, mỗi cái like là một sự chứng thực về chất lượng bài đăng.
Tuy nhiên, trước khi nhất nút like sinh viên nên cân nhắc kỹ nên hay không nên thả
like hay biểu tượng cho bài viết nào đó. Chia sẻ về vấn đề này, đại diện một khoa
trong trường cho biết: “Mỗi sinh viên, phải nâng cao trách nhiệm khi sử dụng MXH,
57
trong đó chú trọng chia sẻ những thông tin hữu ích, những hành động đẹp trong đời
sống. Bên cạnh đó, sinh viên cũng cần đối chiếu, kiểm chứng thông tin trước khi
đăng tải hay nhấn nút like với các nội dung trên không gian mạng”.
Khác với hành vi nhấn nút like, hành vi comment nhận được sự thận trọng
hơn của sinh viên, trong đó sinh viên “không comment khi không cần thiết” chiếm
tỉ lệ lớn (ĐTB = 3.22), trong đó 60,5% sinh viên “không comment khi không cần
thiết” ở mức độ thường xuyên, 14,4% thỉnh thoảng, 12,0% hiếm khi và 13,0% chưa
bao giờ. Như vậy, có đến 60% sinh viên không comment khi không cần thiết cho
thấy sinh viên đã biết cách nhận định và tiết chế hành vi comment của mình. Tuy
vậy, vẫn có đến 29% sinh viên thường xuyên comment về ảnh và status của bạn bè
và người thân, 53,6% thỉnh thoảng comment, 15,3% hiếm khi và chỉ có 2,1% chưa
bao giờ. Cùng với đó, có 9,9% sinh viên comment tất cả những thông tin liên quan
đến học tập ở mức độ thường xuyên, 53,6% thỉnh thoảng, 31% hiếm khi và 5,6%
chưa bao giờ. Như vậy, cùng với hành vi like và đăng tải, sinh viên Nội vụ rất tích
cực trong việc bình luận liên quan đến các nội dung học tập. Cho thấy sinh viên
không thờ ơ với vấn đề học tập của mình. Khác với tỉ lệ sinh viên like “dạo” còn
nhiều, sinh viên comment có trách nhiệm hơn. Trong đó tỉ lệ sinh viên chưa bao giờ
comment tất cả những thông tin mình đọc được chiếm tỉ lệ lớn 44,3% và chỉ có
2,3% sinh viên rất thường xuyên comment nội dung này. Lý giải về vấn đề này,
sinh viên Nguyễn H khóa 17 cho biết: “Thực ra khi like thì rất nhanh, còn comment
thì phải mất thời gian để viết và suy nghĩ cách diễn đạt nên ngại, trừ những nội dung
cần thiết thôi ạ”. Theo phỏng vấn nhanh của nhóm nghiên cứu, đa số sinh viên được
hỏi cho biết thường comment các nội dung như những status, ảnh, gửi lời chúc mừng
sinh nhật hay ngày kỷ niệm nào đó của bạn bè, người thân hoặc comment để hỏi
những vấn đề liên quan đến học tập, xác nhận thông báo của GV, CVHT…những nội
dung khác sinh viên ít khi comment. Lý do chủ yếu dẫn đến sự e ngại khi comment
trên MXH của sinh viên là mất thời gian và những comment có thể dẫn đến hiểu
nhầm, tranh cãi không cần thiết, nhất là các vấn đề tế nhị hay xung đột cá nhân nào
đó trên MXH. Chính vì thế đa số sinh viên lựa chọn “không comment khi không
thực sự cần thiết” đều có nguyên nhân của nó. Có thể nói, hành vi sử dụng MXH của
sinh viên trên không gian mạng rất đa dạng và phong phú, bên cạnh những nội dung
58
chia sẻ liên quan đến học tập, nghiên cứu, thông báo của GV, CVHT, thông tin tuyển
sinh, tuyển dụng…cho thấy mức độ quan tâm và sử dụng MXH của sinh viên rất lớn.
Tuy nhiên, hành vi sử dụng phong phú, đa dạng cũng có những mặt trái của nó, trong
đó sinh viên cần lưu ý về những hành vi đăng tải, chia sẻ của mình trên MXH. Chia
sẻ về vấn đề này, đại diện lãnh đạo phòng CTSV cho biết thêm: “Về hành vi sử dụng
MXH, đa số sinh viên ý thức được hành vi đăng tải, chia sẻ, like, comment…Tuy
nhiên, một số sinh viên chưa ý thức được hết trách nhiệm sử dụng MXH của mình,
hùa theo những hành vi lệch chuẩn, các trào lưu xấu trên MXH”. Trước những hành
vi thiếu chuẩn mực trên MXH, đại diện phòng CTSVcho biết đã trực tiếp trao đổi với
SV và CVHT, lãnh đạo khoa quản lý để có giải pháp định hướng và giáo dục hành vi
sử dụng MXH đúng đắn cho sinh viên. Mặc dù chưa có sinh viên nào phải chịu hình
thức kỷ luật nhưng cần hạn chế hành vi lệch chuẩn của sinh viên trên MXH.
Cùng với hành vi sử dụng MXH biểu hiện qua nội dung đăng tải, hành vi
nhấn nút like và hành vi comment là thời gian sử dụng MXH xét theo thời điểm.
Bảng 2.6. Thời gian sử dụng mạng xã hội xét theo thời điểm
Cùng xem xét, sinh viên sử dụng MXH vào thời điểm nào là nhiều nhất.
Mức độ sử dụng
Thứ
Hiếm khi Chưa bao
Thời điểm
ĐTB
bậc
Thường xuyên N %
Thỉnh thoảng N
%
N %
giờ N %
Trong giờ học
19
3.3
171
29.7
292
50.8
93
16.2 2.20
9
Nghỉ giải lao giữa các tiết
262 45.6
268
46.6
40
7.0
5
0.9
3.37
2
học
Trên xe (xe máy, xe ô
54
9.4
180
31.3
212
36.9
129 22.4 2.28
7
tô…)
42
Khi đang ăn
7.3
169
29.4
223
38.8
114 19.8 2.15
10
87
Khi ở trong toilet
15.1
200
34.8
166
28.9
122 21.2 2.44
7
Trước khi đi ngủ
427 74.3
115
20.0
25
4.3
8
1.4
3.67
1
Khi vừa thức dậy
204 35.5
230
40.0
109
19.0
32
5.6
3.05
4
Khi gặp gỡ bạn bè
120 20.9
296
51.5
138
24.0
21
3.7
2.90
5
Khi đang làm việc
57
9.9
161
28.0
239
41.6
118 20.5 2.27
8
Khi chờ đợi một việc/một
275 47.8
229
39.8
56
9.7
15
2.6
3.33
3
người nào đó
59
Khi tham gia hoạt động
giải trí (uống café, xem
136 23.7
229
39.8
149
25.9
61
10.6 2.77
6
phim…)
Kết quả từ bảng 2.6 cho thấy thời gian xét theo hoàn cảnh sinh viên sử dụng
MXH mọi lúc, mọi nơi tùy mục đích, nhu cầu và tính cách mà thời điểm sinh viên
sử dụng cũng khác nhau. Để thuận lợi hơn trong quá trình xem xét thời điểm sử
Thường xuyên
450 400 350 300 250 200 150 100 50 0
Biểu đồ 4. Thời gian sử dụng mạng xã hội xét theo thời điểm
dụng MXH, nhóm nghiên cứu thiết kế theo biểu đồ như sau:
Kết quả từ bảng và biểu đồ cho thấy, thời điểm sinh viên thường xuyên sử
dụng là trước khi đi ngủ (ĐTB = 3.67) với 427/575 sinh viên thường xuyên sử dụng
chiếm 74,3%; 20% thỉnh thoảng, 4,3% hiếm khi và chỉ có 1,4% sinh viên chưa bao
giờ sử dụng vào thời điểm này. Điều này cho thấy, MXH trở thành người bạn thân
thiết với sinh viên trước khi đi ngủ. Đa số sinh viên được phỏng vấn đều cho rằng
trước khi ngủ các bạn thường xem thông tin, xem phim hoặc nghe nhạc để dễ ngủ
hơn. Điều này cho thấy lướt MXH trước khi ngủ dường như một thói quen khó từ
bỏ đối với 74,3% sinh viên. Bởi vậy, tình trạng sinh viên sa đà vào MXH dẫn đến
tình trạng mất ngủ, nghiện MXH không phải là điều khó diễn ra trong sinh viên.
Giải lao giữa các tiết học là thời điểm được nhiều sinh viên tranh thủ lướt
sinh viên thường xuyên sử dụng, 46,6% thỉnh thoảng, 7,0% hiếm khi và chỉ có
0,9% chưa bao giờ. Theo quan sát của nhóm nghiên cứu cho thấy chỉ cần GV cho
phép nghỉ giải lao thì dù 5 phút, 10 phút hay nhiều hơn thì việc đầu tiên của đa số
60
MXH nhiều thứ 2 trong số các thời điểm được khảo sát (ĐTB = 3.37), với 45,6%
sinh viên là mở điện thoại và lướt MXH. Trong điều kiện sống như hiện nay, mỗi
sinh viên đều có thiết bị điện thoại thông minh được kết nối 3G, 4G hoặc có địa chỉ
wifi nào đó để kết nối mạng để truy cập MXH. Chỉ một bộ phận nhỏ sinh viên
tranh thủ giải lao để đi ra ngoài theo nhu cầu cá nhân, số còn lại đều đọc tin tức
hoặc tranh thủ xem phim, nghe nhạc. Bởi vậy, sự tương tác giữa sinh viên và sinh
viên ngày càng ít đi. Đa số các em chăm chú vào điện thoại nhiều hơn là để ý bắt
chuyện, nói chuyện với bạn bên cạnh, hoặc có nói chuyện cũng chỉ được dăm ba
câu sau đó lại tiếp tục cắm cúi vào với điện thoại. Một trong những nguyên nhân
dẫn đến tình trạng này là do sinh viên học theo tín chỉ, các em đăng ký theo học phần
chứ không học theo đơn vị lớp niên chế nên tình trạng sinh viên vào lớp nhưng chưa
quen bạn, ngại bắt chuyện, ngại giao tiếp dẫn đến việc sinh viên không chủ động trò
chuyện mỗi lần nghỉ giải lao mà chỉ tập trung vào điện thoại của mình. Chia sẻ về
vấn đề này, cô Nguyễn B. H cho biết thêm: “Tình trạng sinh viên ít giao tiếp trực
tiếp với nhau trên lớp ngày càng nhiều. Sinh viên thời nay chỉ tập trung vào điện
thoại, mỗi bạn một điện thoại và mải mê xem phim, nghe nhạc, trong đó chủ yếu là
lướt facebook… Thậm chí, các bạn ngồi cạnh nhau cả buổi không nói với nhau câu
nào”. Phỏng vấn nhanh sinh viên cho biết thêm: “vì sử dụng điện thoại trong giờ
học bị cấm nên được nghỉ giải lao chúng em phải tranh thủ truy cập MXH xem tin
tức và giải trí”.
Thời điểm được sinh viên sử dụng MXH nhiều thứ 3 là lúc chờ đợi một việc
gì đó hay chờ đợi một ai đó (ĐBT = 3.33) với 47,8% thường xuyên sử dụng, 39,8%
thỉnh thoảng, 9,7% hiếm khi và chỉ có 2,6% chưa bao giờ sử dụng trong thời điểm
nay. Có thể nói, với tính tiện dụng, gọn nhẹ của điện thoại thông minh, sinh viên
truy cập MXH mọi lúc mọi nơi đặc biệt trong khoảng thời gian chờ đợi một việc gì
đó hay chờ đợi một người đa số sinh viên đều tranh thủ lướt MXH vừa cập nhật tin
tức vừa để giết thời gian.
Thời điểm khi vừa thức dậy xếp vị trí thứ 4 trong số các thời điểm sử dụng
MXH của sinh viên (ĐTB = 3.05), có 35,5% sinh viên thường xuyên sử dụng MXH
ở thời điểm này, 40% thỉnh thoảng, 19% hiếm khi và 5,6% chưa bao giờ sử dụng
MXH khi vừa thức dậy. Có thể nói, thời điểm trước lúc ngủ và sau khi thức dậy là
61
2 thời điểm lý tưởng để sử dụng MXH. Trước khi ngủ là lúc đã hết việc trong một
ngày, sinh viên tranh thủ lướt mạng cũng là cách dễ đi vào giấc ngủ khi đọc tin,
nghe nhạc, xem phim…và thời điểm mỗi sáng thức dậy, việc đầu tiên sẽ mở điện
thoại và tranh thủ lướt MXH để cập nhật thông tin cho ngày mới. Đây là thói quen
khó từ bỏ của nhiều người, trong đó có sinh viên. Phỏng vấn sinh viên khóa 19, bạn
Nguyễn P. T cho biết: “Buổi sáng thức dậy, việc đầu tiên là em tìm điện thoại và
xem tin tức trên facebook. Em dành khoảng 30 phút mỗi buổi sáng để truy cập
MXH, sử dụng MXH mỗi buổi sáng trở thành thói quen của em rồi”. Thói quen
này của bạn P.T nhận được đa số tán thành của sinh viên trong lớp. Đa số các em
đều có cùng câu trả lời: “chúng em cũng thế cô ạ”. Như vậy, có thể thấy MXH gắn
với cuộc sống của sinh viên nhiều như thế nào. Hầu như thời điểm nào, sinh viên
cũng tranh thủ truy cập MXH với các mục đích khác nhau. Như kết quả từ biểu đồ
1 cho thấy nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên khá đơn giản nhưng thực tế thời
gian và thời điểm sử dụng MXH của sinh viên rất đa dạng. Gần như truy cập mọi
lúc mọi nơi. Điều này cho thấy sinh viên không chỉ dành nhiều thời gian cho MXH
mà còn lệ thuộc vào MXH và biến việc sử dụng MXH thành thói quen khó từ bỏ.
Đó chính là lý do vì sao, dù hành vi sử dụng MXH trong giờ học là bị cấm với các
mức độ xử phạt khác nhau nhưng tỉ lệ sinh viên lén lút sử dụng vẫn diễn ra (ĐTB =
2.20), cụ thể có 3,3% sinh viên thường xuyên sử dụng, 29,7% thỉnh thoảng, 50,8%
hiếm khi và chỉ có 16,2% chưa bao giờ sử dụng MXH trong giờ học. Trong thực tế
hoạt động giảng dạy nhóm nghiên cứu quan sát thấy một bộ phận không nhỏ sinh
viên lợi dụng lớp đông, giảng viên mải giảng bài để sử dụng điện thoại. Một số sinh
viên bị nhắc nhở đã tự giác tắt điện thoại và không tái phạm, số còn lại vẫn tranh
thủ mọi thời điểm và dùng các thủ đoạn tinh vi như dùng túi, sách vở… che chắn
tầm nhìn của GV để sử dụng điện thoại, lướt facebook... trong giờ học. Bởi vậy, số
sinh viên GV bộ môn bị tịch thu điện thoại, trừ điểm học tập, nhắc nhở trước lớp…
phải viết bản tự kiểm điểm cũng không hiếm gặp. Với khối lượng kiến thức nhiều,
lớp đông sinh viên GV không thể nào kiểm soát hết được hành vi sử dụng điện
thoại trong giờ học của sinh viên. Việc kiểm soát hành vi này vẫn là tùy thuộc vào
ý thức, trách nhiệm của mỗi sinh viên khi tham gia học tập ở môi trường đại học.
Việc ban hành quy chế cấm sử dụng điện thoại trong giờ học với các chế tài xử
62
phạt chính là một trong những biện pháp hạn chế hành vi sử dụng điện thoại trong
giờ học của sinh viên trong thời gian qua tuy nhiên để phát huy hiệu quả, vẫn cần
có những chế tài mạnh tay hơn với hành vi này.
Ý kiến khác
g. Không truy cập mạng công cộng
f. Thường xuyên thay đổi mật khẩu
e. Hạn chế liên kết với các tài khoản khác
d. Khoanh vùng nhóm bạn
c. Để mật khẩu khó nhớ, không chia sẻ mật …
b. Không đưa thông tin về cá nhân trên mạng …
a. Cảnh giác với những tin nhắn, đường link lạ
0
50
100
150
200
250
300
Biểu đồ 5. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân của sinh viên trên MXH
2.1.5. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân trên MXH
Hiểu đơn giản, bảo mật thông tin chính là việc bảo đảm an toàn cho thông
tin của một người, một đơn vị/tổ chức nào đó, để kẻ gian không thể xâm nhập và
lấy cắp những thông tin ấy [43]. Bảo mật thông tin là việc làm cần thiết của mọi
đơn vị và cá nhân, đặc biệt là trong thời đại Internet phát triển như vũ bão như hiện
nay. Internet và mạng xã hội (MXH) phát triển mạnh mẽ, con người chúng ta thì lại
thích dành nhiều thời gian để ở trong “thế giới ảo” này. Sử dụng internet và mạng
xã hội mang lại nhiều lợi ích nhưng nếu người dùng không biết cách bảo vệ thông
tin cá nhân của mình trên các phương tiện đó thì sẽ dẫn đến hậu quả tai hại. Điều
này cho thấy, vấn đề bảo mật thông tin cá nhân trên MXH rất quan trọng. Tình
trạng sinh viên bị đánh cắp tài khoản, đánh cắp thông tin và hình ảnh không còn
hiếm gặp. Chia sẻ về vấn đề này, bạn Hoàng M khóa 18 cho biết: “Em đã từng bị
đánh cắp ảnh trên facebook, sau đó kẻ xấu lập tài khoản giả mạo lấy ảnh của em
làm ảnh đại diện và dùng tài khoản đó kết bạn, đăng ảnh, chia sẻ, bình luận những
nội dung thiếu lành mạnh trên MXH, họ còn mạo danh tài khoản của em đi vay tiền
của mọi người. Biết được việc đó, em phải lên trang cá nhân đính chính và thông
báo cho mọi người biết tài khoản đó là giả mạo để tránh bị lừa”. Ngoài ra, bạn Đào
khoản, họ (người đánh cắp) đi vay tiền khắp nơi, còn dùng lời lẽ thiếu tế nhị để
bình luận trên trang cá nhân của người khác. Có một số bạn đã bị lừa chuyển
khoản vào số tài khoản họ cung cấp. Sau đó, bạn ấy phải nhờ sự can thiệp mới lấy
63
N. P. D khóa 19 cho biết thêm: “Lớp em đợt trước cũng có bạn bị đánh cắp tài
lại được tài khoản cá nhân của mình”. Ngoài ra, qua buổi phỏng vấn nhanh, nhóm
nghiên cứu còn được biết rất nhiều sinh viên gặp hoàn cảnh tương tự. Tuy nhiên,
khi được hỏi “Các em bảo mật thông tin cá nhân trên MXH như thế nào?” thì đa số
sinh viên tỏ ra lúng túng và chỉ có một số cách thức bảo mật thông tin đơn giản.
Kết quả khảo sát cho thấy, cách thức bảo mật thông tin trên MXH của sinh
viên tương đối đơn giản với sự lựa chọn tương đối thấp. Trong đó, cách thức được
lựa chọn nhiều nhất là cảnh giác với những tin nhắn, đường link lạ được 256 sinh
viên lựa chọn (chiếm 44,5%). Có thể nói, các thủ đoạn lừa đảo trên mạng ngày
càng tinh vi, trong đó có việc gửi những tin nhắn, đường link cho người dùng với
các nội dung hấp dẫn, tạo sự tò mò của người dùng, nếu người dùng click chuột vào
đường link đó, ngay lập tức sẽ bị đánh cắp tài khoản, thông tin hoặc những rủi ro
khác có thể vướng phải. Theo các chuyên gia công nghệ thông tin, hàng ngày có tới
hơn 7.000 dòng mã độc ăn cắp thông tin (trojan) trên điện thoại di động mới xuất
hiện, chiếm 35% tổng số dòng mã độc trên điện thoại di động được phát hiện mỗi
ngày, tăng gần gấp 2 lần so với năm 2015. Qua đó biến dòng mã độc ăn cắp thông
tin đã trở thành loại mã độc được phát tán nhiều nhất trên toàn cầu. Chúng thu thập
các thông tin cá nhân như tin nhắn, mật khẩu, tài khoản ngân hàng và các dữ liệu
nhạy cảm khác một cách âm thầm, người dùng không hề hay biết. Không chỉ riêng
trên điện thoại di động, người dùng internet có nguy cơ lộ thông tin cá nhân ở bất
kỳ điểm, thiết bị truy cập nào nếu không biết cách bảo vệ thông tin mật của mình
[42]. Bởi vậy, cảnh giác với những tin nhắn, đường link lạ là cách thức được nhiều
sinh viên lựa chọn để bảo vệ tài khoản của mình.
Cách thức thứ 2 sinh viên lựa chọn để bảo vệ thông tin cá nhân của mình là
không đưa thông tin về cá nhân lên mạng xã hội chiếm 22,4%; Có thể nói, đây là
một trong những thông tin được các chuyên gia khuyến cáo đến người dùng nói
chung và sinh viên nói riêng. Bởi, theo chuyên gia đào tạo về an toàn thông tin mạng
Ngô Việt Khôi chia sẻ: khi bạn sử dụng mạng xã hội càng lâu thì thông tin để vẽ lại
chân dung của bạn càng rõ ràng. Vì đó là cơ sở dữ liệu lớn (Big data) mà những đơn
vị vận hành mạng xã hội có thể thu thập qua từng ngày, từng giờ. Với việc ứng dụng
trí tuệ nhân tạo, các thông tin đã thu thập được xử lý, tạo nên những trường dữ liệu
64
mà ứng dụng xã hội có thể bán thông tin người dùng cho những đơn vị cần mua. Do
vậy, khi chúng ta đã công khai chia sẻ các dữ liệu cá nhân thì việc các dữ liệu này bị
thu thập, bị xử lý và chia sẻ sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát của người sử dụng [41].
Chính vì thế, 129/575 sinh viên lựa chọn cách thức này để bảo mật thông tin cá nhân.
Có thể nói, cách thức này mang tính hiệu quả cao, bởi nếu sinh viên không đưa các
thông tin cá nhân lên MXH thì kẻ xấu không thể nào lợi dụng để đánh cắp hay thực
hiện hành vi xấu. Tuy nhiên, tỉ lệ sinh viên lựa chọn cách thức này là chưa nhiều
thậm chí là thấp so với số lượng sinh viên khảo sát. Tình trạng sinh viên cập nhật và
cập nhật liên tục các hoạt động, thông tin cá nhân bao gồm cả số điện thoại, trường
học, địa chỉ nhà, địa điểm du lịch của bản thân và bạn bè, người thân lên MXH vô
tình trở thành mảnh đất “màu mỡ” cho kẻ xấu xâm nhập, lợi dụng và đánh cắp.
Cách thức để mật khẩu khó nhớ, không chia sẻ mật khẩu với bất kỳ ai chiếm
16% trong tổng số sinh viên được khảo sát. Việc cài password cho các thiết bị cá
nhân là vô cùng cần thiết đối với người dùng. Các chuyên gia MXH khuyến cáo sinh
viên cần phải tự bảo vệ thông tin của cá nhân mình bằng cách đơn giản nhất đó là cài
đặt khóa màn hình bằng mật khẩu đối với tất cả các thiết bị điện tử của chính mình. 1
tip hay ho dành cho sinh viên đó là hãy đặt thời gian khóa màn hình càng ngắn càng
tốt. Điều này sẽ gây khó khăn cho những kẻ muốn tấn công thiết bị của bạn từ xa.
Ngoài ra, những cách thức khác sinh viên sử dụng để bảo vệ thông tin cá
nhân của mình như thường xuyên thay đổi mật khẩu chiếm 6,8%; hạn chế liên kết
với tài khoản khác chiếm 5,6%. Cách thức ít được sinh viên lựa chọn là khoanh
vùng nhóm bạn và không truy cập mạng công cộng. Thực tế quan sát cho thấy, truy
cập mạng công cộng tại trung tâm mua sắm, bệnh viện, công viên… chứa đựng
nhiều rủi ro, bởi vậy sinh viên không tùy tiện kết nối thiết bị của mình vào các loại
mạng wifi công cộng, đặc biệt không sử dụng loại wifi này để vào tài khoản mạng
xã hội, tài khoản ngân hàng hay thanh toán trực tuyến… vì nguy cơ bị đánh cắp
thông tin là rất cao.
Như vậy, tình trạng sinh viên bị đánh cắp thông tin cá nhân, đánh cắp tài
khoản không phải là hiếm gặp và gây ra những hệ lụy phức tạp. Tuy nhiên, cách
thức bảo mật thông tin cá nhân trên MXH tương đối đơn giản. Đa số sinh viên chỉ
lựa chọn một hình thức bảo mật và khá chủ quan về tài khoản của mình. Thậm chí,
65
một số bạn sinh viên còn không chú trọng đến khâu này. Đây chính là một trong
những điểm yếu và điều đáng lưu tâm khi dùng MXH của sinh viên, GV, CVHT có
thể có hướng dẫn cụ thể giúp sinh viên nhận thức tốt hơn tầm quan trọng của việc
bảo mật thông tin trên MXH từ đó lựa chọn cách thức bảo mật an toàn, hiệu quả
tránh “mất bò mới lo làm chuồng”. Trong đó, GV, CVHT nên hướng dẫn cho SV
một số cách thức những cách thức bảo mật hiệu quả, dễ sử dụng như bảo mật 2 lớp
rất thông dụng hiện nay. Thông qua các ứng dụng như google Autheticator để bảo
mật 2 lớp cho các tài khoản đám mây. Ngoài ra, các bước cài đặt bảo mật 2 lớp trên
điện thoại và các trang MXH tương đối đơn giản nhưng tính hiệu quả rất cao. Bởi
vậy, nếu kẻ xấu muốn xâm nhập và đánh cắp tài khoản, sẽ phải qua bước xác minh
qua tin nhắn điện thoại hoặc qua gmail cá nhân. Chính bước xác minh này đã giúp
người dùng nói chung và SV nói riêng bảo vệ được tài khoản của mình.
2.1.6. Lợi ích và tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên
Lợi ích và tác hại của mạng xã hội hiện là vấn đề được nhiều người quan
tâm. Facebook, Twitter hoặc Youtube là những mạng xã hội phổ biến nhất hiện nay
với số lượng người dùng đông đảo. Bên cạnh là nền tảng kết nối mọi người gần
nhau hơn, chia sẽ những khoảnh khắc đẹp thì những MXH này tiềm ẩn nhiều nguy
cơ gây ảnh hưởng đến chính người dùng. MXH mang lại nhiều lợi ích khi người
dùng biết sử dụng đúng cách. Đối với sinh viên trường ĐHNVHN cũng vậy, mức
độ sử dụng MXH là thường xuyên, MXH mang lại cho sinh viên nhiều lợi ích khác
Biểu đồ 6. Lợi ích khi sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Kết quả từ biểu đồ cho thấy MXH mang lại cho sinh viên rất nhiều lợi ích
khác nhau. Trong đó, MXH giúp sinh viên cập nhật thông tin nhanh chóng là lợi ích
66
nhau, cụ thể như sau:
được nhiều sinh viên lựa chọn chiếm 38,1%. Điển hình, trang Facebook với tính
năng like trang, người đọc sẽ nhận được ngay những thông tin cập nhật của trang
mạng mình yêu thích hoặc quan tâm về đủ các thể loại và nhà cung cấp hay nhà
quảng cáo cũng có thể nhanh chóng cập nhật xu thế mới nhất của lĩnh vực mình
yêu thích. Sinh viên cũng có thể xem tin tức hay cập nhật những bộ phim, những
video clip nhạc mới nhất trên youtube, facebook hay các trang social network khác
rất nhanh chóng. Đặc biệt, trong thời đại công nghệ và MXH lên ngôi các thông tin
về học tập, tuyển sinh, chế độ chính sách…đều được các khoa, phòng ban chức
năng đăng tải lên fanpage để sinh viên dễ dàng tiếp cận và tiếp cận nhanh chóng. Ví
dụ như phòng Khảo thí và Bảo đảm chất lượng có fanpage “Phòng khảo thí và Bảo
đảm chất lượng – ĐH Nội vụ Hà Nội” để cập nhật thông báo liên quan đến điểm
thi, lịch thi, mẫu đơn và các vấn đề khác. Trang fanpage của phòng nhận được hơn
1,6k người thích và theo dõi trang. Phòng công tác sinh viên có fanpage “Phòng
công tác sinh viên – Đại học Nội vụ Hà Nội” có hơn 5.687 thành viên tham gia.
Fanpage “Tư vấn tuyển sinh – Đại học Nội vụ Hà Nội” có hơn 9.264 người thích
trang. Ngoài ra, các fanpage khác của các khoa, phòng, các câu lạc bộ đều cập nhật
nhanh chóng thông tin đến với sinh viên một cách nhanh nhất. Đây có thể nói là lợi
thế lớn nhất mà MXH mang lại cho người dùng, trong đó có sinh viên. Ngoài ra,
các thông tin về các vấn đề nóng trong xã hội cũng được cập nhật liên tục theo đơn
vị thời gian tính bằng giây là ưu việt của các trang MXH. Là điểm lôi cuốn của
MXH đến với người dùng. Đây cũng chính là lý do vì sao sinh viên nói riêng và
người dùng nói chung dành cho MXH thời gian trong ngày nhiều như thế.
Cũng chính vì lẽ đó, MXH đã giúp sinh viên tìm kiếm và trao đổi tài liệu học
tập, nghiên cứu góp phần nâng cao kết quả học tập và rèn luyện chiếm 19,8%. Giúp
SV học hỏi và phát triển kỹ năng và bày tỏ quan điểm cá nhân về các lĩnh vực liên
quan chiếm 12,0%. Ngoài ra, các lợi ích còn lại nhận được tỉ lệ lựa chọn thấp hơn.
Có thể nói, MXH mang lại cho con người nói chung và sinh viên nói riêng rất
nhiều lợi ích tốt đẹp nếu sinh viên biết khai thác, tận dụng một cách thông minh,
hiệu quả, hiện nay trên các mạng xã hội xuất hiện ngày càng nhiều các trang dạy
ngoại ngữ, nấu ăn, sửa chữa, giao tiếp, tâm lý, thể thao để sinh viên có thể xem
67
tham khảo, tự học mà không cần đến lớp hay đóng lệ phí. Không những thế, MXH
còn mang đến tính kết nối rộng rãi trên khắp thế giới, xóa nhòa khoảng cách địa lý
để con người được giao lưu, học hỏi lẫn nhau. Có không ít trường hợp nhờ MXH
để kết nối tìm lại những người bạn từ thủa hàn vi, cũng nhờ MXH kết nối bác sỹ
trên khắp thế giới để cứu giúp một bệnh nhân không quen biết. Và còn rất nhiều lợi
ích khác mà MXH mang lại như cơ hội kinh doanh, xây dựng hình ảnh và giới
thiệu bản thân trên MXH. Tuy nhiên số lượng sinh viên được khảo sát nhận thức
được các lợi ích của MXH rất thấp. Chỉ có 3,8% sinh viên nhận thấy cơ hội tạo môi
trường kinh doanh và các hoạt động buôn bán mang lại thu nhập cao, tìm kiếm
khách hàng tiềm năng trên MXH, sinh viên Nội vụ, bên cạnh số lượng sinh viên
tham gia kinh doanh như bán đồ ăn tự làm, bán mỹ phẩm, quần áo, bảo hiểm, giày
dép…trên MXH thì tỉ lệ sinh viên tham gia MXH đơn thuần là giải trí vẫn còn
nhiều, dẫn đến việc các bạn chưa nhận thấy lợi ích này của MXH. Ngoài ra, mức
độ sử dụng MXH của sinh viên là rất lớn, hành vi đăng tải cũng được đánh giá ở
mức độ thường xuyên và rất thường xuyên, trong đó tỉ lệ sinh viên đăng tất cả mọi
hoạt động của cá nhân lên MXH không phải là ít, nhưng dường như, sinh viên chưa
nhận thức được rằng tất cả những gì bạn thể hiện trên MXH, trên trang cá nhân của
mình chính là phản ánh con người “thứ 2” của sinh viên. Bởi thế, lợi ích giới thiệu
hình ảnh cá nhân đến mọi người từ đó nâng cao cơ hội phát triển khả năng trên
MXH chưa được sinh viên đánh giá cao, chỉ chiếm 2,4% ý kiến. Các ý kiến khác
chiếm tỉ lệ thấp.
Khảo sát về vấn đề này, GV, CVHT cho thấy, đánh giá của GV,CVHT về lợi
ích MXH mang đến cho sinh viên cũng có những điểm tương đồng nhất định, tuy
nhiên đánh giá của GV,CVHT về lợi ích của MXH đầy đủ và khách quan hơn, cụ
thể đa số GV, CVHT đều cho rằng MXH giúp sinh viên dễ dàng cập nhật thông tin
nhanh chóng, hiệu quả và giúp sinh viên kết nối bạn bè trên khắp thế giới đều
chiếm 85,7%. Giúp sinh viên học hỏi, phát triển kỹ năng và bày tỏ quan điểm cá
nhân trong các lĩnh vực liên quan chiếm 77,1%; MXH giúp SV giới thiệu hình ảnh
cá nhân đến mọi người từ đó nâng cao cơ hội phát triển khả năng của bản
thânchiếm 71,4% trong khi lợi ích này chỉ có 2,4% sinh viên lựa chọn. Ngoài ra,
các lợi ích khác của MXH cũng được GV, CVHT đánh giá cao như tạo môi trường
68
kinh doanh và các hoạt động buôn bán mang lại thu nhập cao, tìm kiếm khách hàng
tiềm năng chiếm 68,8%. Giúp sinh viên nâng cao cảnh giác với các thủ đoạn trên
mạng và ở đời thực chiếm 45,7% [PL bảng số liệu, câu 5]
Như vậy, có thể nói GV, CVHT nhận thấy nhiều lợi ích MXH mang lại cho
sinh viên, nhưng bản thân các em lại chưa nhận thức rõ điều đó. Đây chính là một
trong những bất cập của sinh viên khi sử dụng MXH. Mức độ, thời gian sử dụng rất
thường xuyên, mục đích sử dụng phong phú, hành vi đăng tải nhiều nhưng lại
không nhận thấy và chưa khai thác được lợi ích của MXH. Đây quả là điều đáng
tiếc và đáng lưu ý đối với sinh viên hiện nay.
Cùng với các lợi ích MXH mang lại cho sinh viên khi sử dụng, MXH cũng
có những tác động tiêu cực khi sinh viên sử dụng, cụ thể như sau:
Biểu đồ 7. Tác động tiêu cực khi sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Kết quả từ biểu đồ cho thấy, sinh viên đã nhận diện được những tác động
tiêu cực khi sử dụng MXH, tuy nhiên tỉ lệ lựa chọn chưa cao. Cụ thể, có 25,7%
giảm tương tác ngoài đời thực. Đây là một trong những tác động được sinh viên
sinh viên cho rằng việc sử dụng MXH sẽ tạo ra hội chứng nghiện MXH dẫn đến
đánh giá cao nhất trong số những tác động tiêu cưc MXH mang đến cho người
dùng nói chung và sinh viên nói riêng. Thực tế cho thấy, thời gian sử dụng MXH
mỗi ngày của SV là rất lớn, trong đó có 13% sinh viên sử dụng> 8 giờ mỗi ngày
cho thấy tình trạng nghiện MXH cũng không phải là không xảy ra. Nghiện MXH
không chỉ khiến sinh viên dành ít thời gian cho người thật việc thật ở quanh mình,
trước mắt. Theo quan sát của nhóm nghiên cứu, tỉ lệ sinh viên dành thời gian truy
cập MXH là rất lớn, các em truy cập mọi lúc mọi nơi có thể, thậm chí còn lén lút sử
mà còn khiến họ buồn phiền khi sinh viên coi trọng bạn bè “ảo” hơn những gì ở
69
dụng trong giờ học. Chia sẻ về vấn đề này, một sinh viên khóa 19 ngành Quản lý
nhà nước cho biết: “em online MXH 24/24 giờ. Cứ có thời gian rảnh hoặc thuận
tiện là em lướt mạng. em có thể dành hàng giờ đồng hồ chỉ để ngồi xem facebook
hoặc xem phim trên Youtube”. Phỏng vấn nhanh sinh viên với câu hỏi: “Nếu một
ngày không sử dụng MXH, các em sẽ cảm thấy như thế nào?” Đa số sinh viên được
hỏi đều trả lời: “Một ngày không truy cập MXH sẽ thấy thiếu vắng, buồn và sốt
ruột”, số ít sinh viên còn lại cho rằng: “bình thường, có dùng cũng được, không
dùng cũng không sao”. Như đã trình bày ở trên, MXH có rất nhiều tính năng hấp
dẫn, với các ứng dụng được thay đổi liên tục, thú vị thu hút sự tò mò khám khá của
người dùng, kho thông tin được cập nhật nhanh chóng, sự liên kết các trang nhanh
chóng, kho phim khổng lồ, miễn phí, các ứng dụng game phong phú làm cho người
dùng bị cuốn theo các nội dung trên MXH mà quên mất thời gian. Dần dà, MXH
trở thành thói quen không thể thiếu và tạo nên hội chứng “nghiện” MXH ở một bộ
phận không nhỏ người dùng, trong đó có sinh viên.
Một trong những tác động tiêu cực của MXH được 19,5% sinh viên lựa chọn
chính là lãnh phí thời gian và sao nhãnh học hành. Thời gian dành cho MXH quá
nhiều là sự lãng phí thời gian rất lớn của sinh viên. Dẫu biết rằng, nhu cầu và mục
đích sử dụng MXH của sinh viên có phục vụ học tập, tìm kiếm thông tin và trao đổi
tài liệu. Tuy nhiên, tỉ lệ sinh viên khai thác MXH phục vụ mục đích học tập chưa
nhiều. Thực tế, các nội dung học tập, những kiến thức chuyên ngành khi đăng tải
lên MXH vẫn mang tính hàn lâm hoặc khô khan nên chưa thu hút được nhiều sinh
viên chia sẻ hoặc nghiên cứu. Không giống như các thông tin trên mạng, phong
phú, “hót” và lôi cuốn sinh viên đọc, xem hết trang này đến trang khác. Chính
những tiện ích của MXH đã lôi cuốn sinh viên làm cho sinh viên sao nhãng học
hành. Khi được hỏi: “MXH có ảnh hưởng đến kết quả học tập của em không? Đa
số sinh viên được hỏi trả lời “có ảnh hưởng”, số còn lại cho rằng “rất ít ảnh hưởng
hoặc không ảnh hưởng”. Thực tế quan sát cho thấy, việc sinh viên sa đà vào MXH
dẫn đến sao nhãng học hành là có xảy ra. Hoạt động giảng dạy cho thấy mức độ tập
trung vào bài học của một số sinh viên không cao, các bạn dùng các hình thức tinh
vi để sử dụng điện thoại truy cập MXH. Dù đã bị GV nhắc nhở nhưng vẫn có
trường hợp tái diễn buộc GV phải có các biện pháp mạnh hơn như tịch thu điện
70
thoại, thông báo với cố vấn học tập quản lý lớp.
Như đã phân tích ở trên, thời điểm sinh viên sử dụng điện thoại nhiều nhất là
trước khi đi ngủ. Chính vì thế, những nội dung phong phú, đa dạng của MXH lôi
cuốn sinh viên xem liên tục đã ảnh hướng trực tiếp đến thời gian học tập, thời gian
ngủ nghỉ. Tình trạng sinh viên vì mải mê xem MXH dẫn đến mất ngủ cũng không
hiếm gặp. Bởi vậy, tác động tiêu cực khi sử dụng MXH mà sinh viên chịu ảnh
hưởng chính là làm sinh viên mệt mỏi, mất ngủ và lười vận động chiếm 17%.
Chính thời gian xem MXH quá nhiều không ngủ đủ giấc ảnh hưởng đến sức khỏe
là điều hiển nhiên. Chưa kể, khi sử dụng MXH sinh viên phải dùng điện thoại, kết
nối mạng cũng là một trong những tác nhân ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thần kinh
rất lớn. Ánh sáng tỏa ra từ màn hình các thiết bị điện tử sẽ đánh lừa não của bạn,
gây rối loạn nhịp sinh học. Từ đó dẫn đến tình trạng hiếu ngủ, ảnh hưởng nghiêm
trọng cho sức khỏe và tinh thần.Ngoài ra, việc sử dụng nhiều MXH cũng làm cho
sinh viên trở nên lười vận động. Theo quan sát của nhóm nghiên cứu, ngày trước,
khi MXH chưa phổ biến, sau mỗi tiết học sinh viên được nghỉ giải lao đều giao lưu
với nhau, trò chuyện với nhau, thậm chí đùa giỡn với nhau rất vui vẻ. Thế nhưng
giờ đây, khi mỗi bạn có một chiếc điện thoại chăm chú, cắm cúi lướt mạng hoặc
xem phim, nghe nhạc không còn dành thời gian nói chuyện, chia sẻ đùa vui cùng
nhau nữa. Bạn bè xa cách lại càng xa cách thêm. Ngoài ra, chính việc tham gia quá
nhiều trên MXH làm giảm thời gian dành cho các hoạt động thể dục thể thao. Các
hoạt động của sinh viên đa phần trên mạng nhiều hơn là ngoài đời thường. Cũng
chính vì thế, MXH làm cho sinh viên ngày càng lệ thuộc vào MXH và hạn chế tính
sáng tạo chiếm 15% ý kiến lựa chọn. Lướt các trang MXH sẽ làm tê liệt tâm trí của
con người, tương tự như xem truyền hình một cách vô thức, bởi vậy để phát huy
tính sáng tạo và dành thời gian tham gia các hoạt động, sinh viên phải có đủ tỉnh
táo và can đảm thoát khỏi các ứng dụng của MXH, thậm chí đăng xuất hay khóa
các tài khoản không cần thiết tránh việc lạm dụng MXH sẽ ảnh hưởng đến cuộc
sống ngoài đời thật.
Ngoài ra, các tác động như gia tăng nhu cầu sống “ảo” trên MXH chiếm
6,4%; gia tăng các hội chứng nghiện game và phim chiếm 4,9%; gia tăng các hành
vi thiếu văn hóa trên MXH. Trong đó, tác động rất nguy hiểm của MXH chính là
71
làm tăng nguy cơ mắc các bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu ảnh hưởng đến sức khỏe
và kết quả học tập. Theo các nghiên cứu gần đây, những người thường xuyên sử
dụng MXH thường có cảm xúc tiêu cực nhiều hơn, bao gồm cả trầm cảm. Sử dụng
MXH đặc biệt có hại đối với những người có tiền sử mặc bệnh trầm cảm. Bởi vậy,
khi nhận thấy dấu hiệu mệt mỏi, bi quan khi sử dụng MXH, sinh viên cần ngưng sử
dụng MXH ngay.
So sánh nhận thức về tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên và
GV, CVHT cho thấy sự đánh giá của GV, CVHT và sinh viên có sự tương đồng
nhất định. Trong đó, đa số GV, CVHT đồng ý với sinh viên về tác động tiêu cực
của MXH như tạo ra hội chứng “nghiện” MXH dẫn đến giảm tương tác ngoài đời
thực của sinh viên với 85,7% GV, CVHT lựa chọn. Lãng phí thời gian và sao nhãng
học hành cũng là tác động tiêu cực của MXH được 80% GV, CVHT đồng ý. Ngoài
ra, theo 77,1% GV, CVHT cho rằng MXH làm gia tăng các hành vi thiếu văn hóa
của một bộ phận sinh viên trên không gian mạng. Có thể nói, tình trạng sinh viên
có những hành vi, ngôn ngữ thiếu chuẩn mực trên MXH không phải hiếm gặp. Đặc
biệt khi sinh viên có những mâu thuẫn, có những khúc mắc ngoài đời thật thường
mang lên MXH để “xả” bằng những ngôn từ khó nghe, phản cảm. Hành vi này vừa
làm tổn hại uy tín của bản thân sinh viên, vừa làm ảnh hưởng đến thương hiệu
“sinh viên nội vụ” trên không gian mạng. Đây là điều sinh viên phải thật sự lưu ý
khi sử dụng MXH bởi lúc này, sinh viên không chỉ là đại diện cho chính mình mà
còn thực hiện vai trò xã hội của mình trong việc giữ gìn và phát triển hình ảnh,
thương hiệu “sinh viên nội vụ” trên MXH, như chia sẻ của thầy Hiệu trưởng: “mỗi
sinh viên là một đại sứ thương hiệu của Nhà trường”. Ngoài ra, một số tác động
tiêu cực khác khi sinh viên sử dụng MXH cũng được GV, CVHT lựa chọn như:
tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu ảnh hướng đến sức khỏe và kết quả
học tập chiếm 64,3%; gia tăng tỉ lệ sống “ảo” trên MXH chiếm 61,4% [PL bảng số
liệu, câu 6]. Kết quả khảo sát cho thấy SV đã nhận thức được những lợi ích và tác
động tiêu cực của MXH đến với sinh viên. Tuy nhiên, nhận thức về vấn đề này của
sinh viên chưa cao, còn mang tính đơn giản với các tỉ lệ lựa chọn thấp. Ngược lại,
GV, CVHT có sự đánh giá tốt hơn về lợi ích và tác động tiêu cực của MXH đến với
sinh viên. Từ đó, GV, CVHT có thể định hướng, hỗ trợ giúp sinh viên nhận thức tốt
72
hơn, đầy đủ hơn lợi ích cũng như những tác động tiêu cực của MXH đến sinh viên
để sinh viên có hiểu biết toàn diện hơn về MXH.
Như vậy, nhóm nghiên cứu đã phân tích thực trạng sử dụng MXH của SV
biểu hiện qua nhu cầu sử dụng, mức độ sử dụng, mục đích sử dụng, hành vi sử dụng,
cách thức bảo mật thông tin và những lợi ích, tác động tiêu cực khi SV sử dụng
MXH. Các số liệu được phân tích là cơ sở thực tiễn quan trọng để nhóm nghiên cứu
đánh giá thực trạng sử dụng MXH của SV ĐHNVHN trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học
Nội vụ Hà Nội
2.2.1. Ưu điểm
Kết quả phân tích thực trạng cho thấy vấn đề sử dụng MXH của sinh viên
trường ĐHNVHN có một số ưu điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, sinh viên nhạy bén với các trang MXH rất phổ biến hiện nay. Số
liệu khảo sát cho thấy 100% sinh viên sử dụng MXH trong đó facebook, instagram,
youtube, zalo...là những trang MXH được sinh viên sử dụng nhiều nhất. Điều này
cho thấy SV trường ĐHNVHN bắt kịp với các xu hướng sử dụng MXH trên thế
giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Việc tiếp cận nhanh với các trang MXH
phổ biến với các tính năng ngày càng cập nhật cho thấy sinh viên trường Nội vụ
không bị tụt hậu so với sự phát triển của công nghệ mà còn nắm bắt và hướng việc
sử dụng MXH phục vụ cho các mục đích của mình. Đây cũng chính là cũng là một
trong những bằng chứng cho thấy sinh viên Nội vụ tiếp cận rất nhanh với khoa học
công nghệ trong thời đại công nghiệp 4.0 hiện nay.
Thứ hai, đa số sinh viên năng động trong việc xác định nhu cầu và mục đích
sử dụng MXH của mình. Trong đó, tương tác, kết nối bạn bè; giải trí và học tập là
những nhu cầu lớn khi SV sử dụng MXH, những nhu cầu khác tuy sự lựa chọn
không nhiều những cũng cho thấy sinh viên đã bước đầu nhận diện được nhu cầu
khi sử dụng MXH của mình. Có thể nói, việc xác định được nhu cầu khi sử dụng
MXH rất quan trọng đối với mỗi sinh viên, chính những nhu cầu này sẽ thúc đẩy
hành động sử dụng MXH mỗi ngày của sinh viên. Bởi vậy, xác định đúng nhu cầu
sử dụng MXH sẽ là một trong những yếu tố then chốt giúp sinh viên định hướng
mục đích và hành vi sử dụng MXH của mình. Chính vì thế, mục đích sử dụng
MXH của sinh viên Nội vụ rất phong phú và đa dạng. Các mục đích như kết nối và
73
giữ liên lạc với bạn bè, cập nhật tin tức mới; mục đích học tập, giải trí... được đa số
sinh viên lựa chọn. Ngoài ra, các mục đích khác cũng nhận được nhiều sự lựa chọn
như tìm việc làm thêm; quảng cáo, kinh doanh, bán hành online...cho thấy sự năng
động của SV trường ĐHNVHN trên không gian mạng.
Thứ ba, sinh viên thể hiện trách nhiệm khi sử dụng MXH thông qua các nội
dung đăng tải, chia sẻ, like, bình luận trên không gian mạng. Có thể nói, hành vi sử
dụng MXH của sinh viên rất đa dạng và phong phú, trong đó nội dung về học tập;
thông báo của GV, CVHT, của các phòng khoa... được đa số sinh viên đăng tải và
chia sẻ tạo nên kênh thông tin đáng tin cậy cho những sinh viên khác cùng nắm bắt
và thực hiện. Bên cạnh đó, sự năng động, trẻ trung của sinh viên trường Nội vụ còn
thể hiện ở mức độ thường xuyên like ảnh, like status, like fanpage...của bạn bè,
người thân. Hành vi like trên không gian mạng thể hiện sinh viên không thờ ơ vô
cảm với bạn bè, người thân hay các thông tin hữu ích và những hành động
đẹp....bởi chính hành vi like, đăng tải, chia sẻ, bình luận sẽ góp phần lan tỏa mạnh
mẽ những hành động đẹp, những câu chuyện ý nghĩa trên không gian mạng từ đó
làm cho những cái xấu tự mất đi. Bên cạnh đó, SV trường ĐHNVHN khá thận
trọng khi đăng tải, chia sẻ các thông tin về dịch bệnh covid-19, về kinh tế, chính
trị...trên không gian mạng. Điều này cho thấy sinh viên ý thức được trách nhiệm
với cộng đồng, với xã hội và với bản thân khi sử dụng MXH.
Thứ tư, sinh viên hiểu được những rủi ro khi sử dụng MXH như việc bị đánh
cắp tài khoản, hình ảnh hay các thông tin cá nhân. Bởi vậy, SV bước đầu biết cách bảo
mật thông tin cá nhân trên không gian mạng. Các cách thức bảo mật thông tin cá nhân
trên MXH của SV tuy còn khá đơn giản nhưng cũng cho thấy sinh viên đã nhận thức
được tầm quan trọng của các cách bảo mật thông tin cá nhân trên không gian mạng.
Thứ năm, sinh viên bước đầu nhận thức được lợi ích và tác động tiêu cực khi
sử dụng MXH. Có thể nói, MXH mang đến cho sinh viên rất nhiều lợi ích khác nhau
như giúp sinh viên cập nhật thông tin nhanh chóng; tìm kiếm trao đổi tài liệu học
tập...việc nhận thức được các lợi ích của MXH sẽ giúp SV khai thác những thế mạnh
của MXH phục vụ cho học tập và hoạt động sống của mình để MXH trở thành công
cụ, môi trường thuận lợi phát triển bản thân. Bên cạnh đó, sinh viên cũng nhận thấy
những tác động tiêu cực khi sử dụng MXH như tạo ra hội chứng “nghiện” MXH,
lãng phí thời gian và sao nhãng học hành, mất ngủ, mệt mỏi và lười biếng vận
74
động...Bởi vậy, nhận thức được những tác động tiêu cực khi sử dụng MXH sẽ định
hướng mục đích, hành vi, mức độ sử dụng MXH của sinh viên trong thời gian tới.
Như vậy, vấn đề sử dụng MXH của sinh viên trường ĐHNVHN có rất nhiều
ưu điểm khác nhau, nhóm nghiên cứu đã khái quát thành 5 ưu điểm lớn cho thấy
tính tích cực khi sử dụng MXH của sinh viên. Tuy vậy, phân tích thực trạng cũng
chỉ ra một số hạn chế cần khắc phục trong vấn đề sử dụng MXH của sinh viên.
2.2.2. Hạn chế
Thứ nhất, nhận thức của sinh viên về MXH chưa cao. Trong đó, sinh viên
chưa thấy được vai trò to lớn của MXH đối với hoạt động học tập của mình, bởi
vậy học tập, tìm kiếm tài liệu chưa phải là nhu cầu và mục đích cao nhất khi sinh
viên sử dụng MXH. Không thể phủ nhận rằng, MXH có rất nhiều tính năng hấp dẫn
hướng người dùng đến sự tương tác, kết nối, giải trí...là chủ yếu nhưng MXH cũng
là kho tư liệu khổng lồ về các lĩnh vực khác nhau phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm
thông tin, nội dung học tập phong phú, đa dạng dành cho sinh viên các ngành,
nghề. Bởi vậy, nhận thức được tầm quan trọng của MXH đối với hoạt động học tập
sẽ giúp sinh viên sử dụng MXH hiệu quả hơn.
Thứ hai, sinh viên thiếu kỹ năng sử dụng MXH hiệu quả. Có thể nói, đây là
một trong những hạn chế rất lớn của sinh viên trường ĐHNVHN khi sử dụng
MXH. Điều này thể hiện trong một số nội dung như mục đích sử dụng MXH của
một bộ phận SV “chỉ để giết thời gian”, những hành vi sử dụng MXH thiếu an toàn
như đăng tải mọi thứ về cuộc sống của mình, đăng tải những bức ảnh sexy hoặc
những thông tin gây sốc trên MXH; sinh viên like “dạo” chiếm tỉ lệ lớn. Có thể nói,
việc thiếu các kỹ năng sử dụng MXH làm cho khả năng ứng phó, xử lý các tình
huống trên không gian mạng của SV gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy, tình trạng sinh
viên bị kẻ xấu đánh cắp tài khoản, hình ảnh, thông tin cá nhân đã và đang diễn ra.
Thứ ba, sinh viên ngày càng lệ thuộc vào MXH. Điều này thể hiện ở lượng
thời gian sử dụng MXH của sinh viên là đáng báo động: 5,7 giờ/ngày là lượng thời
gian lớn đối với mỗi SV. Khi SV dành quá nhiều thời gian cho MXH sẽ thu hẹp
thời gian dành cho các hoạt động khác, trong đó có cả hoạt động học tập và trải
nghiệm thực tế. Kết quả khảo sát thực trạng cũng cho thấy, SV sử dụng MXH mọi
lúc mọi nơi, bất kỳ nơi đâu, thời gian nào kể cả trong giờ học. Đây thật sự là điểm
đáng lưu tâm nhất đối với những nhà quản lý, GV, CVHT bởi nếu tình trạng này
75
kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo của Nhà trường nói chung và kết
quả học tập, rèn luyện của SV nói riêng.
Thứ tư, sinh viên hiểu biết chưa đầy đủ tác động tiêu cực khi sử dụng MXH.
Kết quả từ phân tích thực trạng cho thấy SV thường xuyên sử dụng MXH với thời
lượng mỗi ngày rất lớn nhưng hiểu biết những tác động tiêu cực khi sử dụng MXH
còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, những hệ lụy như hội chứng nghiện game; mất ngủ, lo
lắng, gia tăng nhu cầu sống “ảo”...được SV lựa chọn với tỉ lệ không cao thể hiện
SV chưa đánh giá đúng những tác động tiêu cực có thể gặp phải khi sử dụng MXH.
Thứ năm, đánh giá của GV, CVHT và sinh viên về một số nội dung sử dụng
MXH của sinh viên còn có khác biệt. Có thể nói, sự đánh giá của GV, CVHT đối
với vấn đề sử dụng MXH của SV rất quan trọng, là cơ sở để GV, CVHT có những
định hướng, hỗ trợ khi cần thiết. Tuy nhiên, sự đánh giá của GV, CVHT cho thấy có
sự khác biệt với những lựa chọn của sinh viên về nhu cầu, mục đích sử dụng cũng
như đánh giá những lợi ích, tác động khi sử dụng MXH của sinh viên. Đây chính là
một trong những hạn chế mà GV, CVHT cần điều chỉnh, khắc phục để sự thấu hiểu
SV cao hơn, từ đó có những giải pháp phù hợp trong việc nắm bắt, định hướng vấn
đề sử dụng MXH cho sinh viên.
Như vậy, có thể thấy bên cạnh những ưu điểm trong sử dụng MXH của sinh
viên vẫn tồn tại những hạn chế cần khắc phục. Việc tìm ra nguyên nhân các hạn chế
sẽ là cơ sở quan trọng để nhóm nghiên cứu căn cứ đề xuất các giải pháp đảm bảo
hiệu quả sử dụng MXH của sinh viên trường ĐHNVHN thời gian tới.
2.2.3. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong sử dụng MXH của SV
trường ĐHNVHN. Trong đó, nhóm tác giả chỉ ra nguyên nhân chủ quan và nguyên
nhân khách quan dẫn đến những hạn chế trong sử dụng MXH của SV hiện nay.
a. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, đặc điểm tâm lý lứa tuổi của SV tác động đến nhu cầu, mục đích và
hành vi sử dụng MXH của sinh viên. Ở lứa tuổi này sinh viên có sự phát triển tự ý
thức rất mạnh mẽ. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những hiểu biết, thái độ,
có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển theo hướng phù
hợp với xu thế xã hội, đặc biệt là nắm bắt nhanh với các trào lưu, xu thế trên MXH.
Thể hiện tính nhạy bén trong tư duy, nhận thức của sinh viên với các tính năng cập
76
nhật liên tục trên không gian mạng. Tuy nhiên, cũng chính tự ý thức và tính độc lập
muốn khẳng định cái tôi cá nhân trong tư duy, hành động dẫn đến sự quá đà, thiếu
kiểm soát khi sử dụng MXH của sinh viên. Ngoài ra, tâm lý tò mò, thích khám phá
cũng chính là nguyên nhân thúc đẩy mức độ sử dụng MXH rất lớn trong sinh viên.
Thứ hai, sự thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt trong việc
tiếp thu, học hỏi văn hóa mới của SV trường ĐHNVHN. Ngày nay, trong xu thế
phát triển mạnh mẽ của internet và mạng xã hội đã mở ra cho sinh viên cơ hội được
giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa trên thế giới tạo điều kiện cho sinh viên học
hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tuy nhiên, do đặc điểm nhạy cảm, ham
thích những điều mới lạ kết hợp với sự bồng bột, thiếu kinh nghiệm và kỹ năng dẫn
đến sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét văn hoá không phù hợp với chuẩn
mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và không có lợi cho bản thân họ
dẫn đến những hành vi thiếu chuẩn mực trên không gian mạng.
Thứ ba, tâm lý thụ động, ngại giao tiếp, thiếu mục tiêu phấn đấu rõ ràng dẫn
đến sự lệ thuộc vào MXH của một bộ phận không nhỏ SV. Không khó để bắt gặp
tình trạng SV cắm cúi vào điện thoại di động mọi lúc, mọi nơi trong phòng học, cầu
thang, hành lang, căng tin hay bất kỳ nơi đâu. Chính điều này hạn chế cơ hội giao
tiếp, kết bạn, tham gia các hoạt động ngoại khóa, câu lạc bộ của sinh viên ngoài đời
thực. Sinh viên thay vì chủ động tạo lập, xây dựng các mối quan hệ xã hội trong và
ngoài nhà trường để học hỏi, phát triển kỹ năng phục vụ cho nghề nghiệp sau này
thì chỉ chú tâm đến các mối quan hệ trên không gian mạng. Đôi khi chỉ cần một
thao tác click chuột đã có thêm một người trong danh sách bạn bè mà không cần
tốn công, tốn sức.
Cùng với những nguyên nhân chủ quan đến từ chính bản thân sinh viên,
nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy những nguyên nhân khách quan dẫn đến những
hạn chế trong sử dụng MXH của sinh viên.
b. Nguyên nhân khách quan
Chúng tôi nhận thấy rằng, có nhiều nguyên nhân khách quan dẫn đến sự hạn
chế trong vấn đề sử dụng MXH của sinh viên trường ĐHNVHN, cụ thể:
Thứ nhất, thiếu cơ sở vật chất, nhà thi đấu đa năng phục vụ nhu cầu rèn
luyện thể dục thể thao của SV. Có thể nói, SV là lứa tuổi năng động, sáng tạo, nhiều
77
năng lượng với các nhu cầu học tập, rèn luyện, thể dục thể thao rất lớn. Khi SV có
đủ cơ sở vật chất để vui chơi như khu thể thao đa năng, hồ bơi...sẽ thu hút đông đảo
SV tham gia luyện tập. Từ đó giảm thiểu thời gian sử dụng MXH mỗi ngày của SV.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy cơ sở vật chất phục vụ cho nhu cầu rèn luyện, phát triển
kỹ năng của SV trường ĐHNVHN còn nhiều hạn chế. Khuôn viên trường chật hẹp,
cơ sở vật chất thiếu thốn không đáp ứng được nhu cầu vui chơi, giải trí, rèn luyện
thể dục thể thao cho sinh viên. Bởi vậy, ngoài giờ học, giờ làm thêm, SV không có
không gian để vui chơi, luyện tập thể thao dẫn đến việc sử dụng thời gian rỗi để
truy cập MXH mỗi ngày.
Thứ hai, thiếu các hoạt động ngoại khóa hấp dẫn, đa dạng và lôi cuốn để thu
hút đông đảo sinh viên tham gia. Có thể nói, thời gian qua Đoàn Thanh niên, các
liên chi và câu lạc bộ phát triển tương đối rầm rộ tổ chức nhiều hoạt động nhân các
ngày lễ trong năm nhằm nâng cao đời sống văn hóa cho sinh viên. Các hoạt động
ngày càng đa dạng về nội dung, phong phú về hình thức nhưng vẫn chưa lôi cuốn
được số lượng lớn sinh viên tham gia. Nguyên nhân cho vấn đề này nằm ở chỗ đa
số các hoạt động thường được tổ chức ở Hội trường tầng 5 hay trong khuôn viên
sân trường với sức chứa hạn chế nên cơ hội SV được tham gia chưa nhiều, chưa có
nhiều các hoạt động được tổ chức tại các khuôn viên lớn như sân vận động hay nhà
thi đấu đa năng để đông đảo sinh viên tham gia. Bên cạnh những hoạt động của
Đoàn thanh niên, các liên chi hay các câu lạc bộ thì việc thiếu vắng các hoạt động
ngoại khóa của các Khoa, các môn học cũng chính là nguyên nhân làm cho môi
trường vui chơi, học tập của sinh viên bị giới hạn, SV có ít cơ hội được tham gia
trải nghiệm các hoạt động thực tiễn dẫn đến tình trạng SV sử dụng MXH để giết
thời gian vẫn còn nhiều.
Thứ ba, SV chưa được tập huấn sử dụng MXH và chưa được trang bị các kỹ
năng sử dụng MXH hiệu quả. Sự phát triển mạnh mẽ của MXH mang đến cho sinh
viên nhiều lợi ích to lớn, mở ra chân trời mới để sinh viên thỏa sức khám phá, tìm
tòi và thể hiện bản thân. Chưa bao giờ cái tôi của cá nhân của người dùng nói
chung và sinh viên lại được thể hiện mạnh mẽ, rõ nét như vậy. SV có thể đăng tải,
chia sẻ, like hay bình luận những điều mà ngoài đời thực không dám làm, không
dám phát ngôn...thì giờ đây, trên không gian mạng, mọi thứ đều có thể. Tuy nhiên,
bên cạnh những lợi ích to lớn đó, MXH cũng mang đến những hệ lụy khôn lường.
78
Việc truy cập, trải nghiệm các ứng dụng có thể tiềm ẩn những nguy cơ an toàn
thông tin cá nhân trên không gian mạng mà sinh viên không thể ngờ tới. Khi SV bị
kẻ xấu lợi dụng đánh cắp tài khoản, hình ảnh, thông tin cá nhân vì mục đích xấu đa
số SV chưa có cách xử lý hiệu quả. Cùng với đó, khả năng kiểm soát hành vi, cảm
xúc khi tham gia MXH của sinh viên vẫn còn hạn chế. Khi đối diện với có những
hành vi thiếu chuẩn mực như phát ngôn gây sốc, từ ngữ thiếu chuẩn mực thậm chí
mắng chửi nhau trên không gian mạng, đa số sinh viên chưa biết cách xử lý tình
huống như thế nào. Đến thời điểm hiện tại, nhà trường các khoa trung tâm chưa tổ
chức buổi tập huấn nào nhằm hướng dẫn sử dụng MXH cho SV. Các buổi nói
chuyện chuyên đề, chia sẻ các nội dung liên quan đến vấn đề sử dụng MXH vẫn
còn rất ít. Bởi vậy, đây là một trong những nguyên nhân khách quan dẫn đến tỉ lệ
sinh viên nhận thức đầy đủ về MXH chưa nhiều, đa số sinh viên thiếu, yếu các kỹ
năng sử dụng MXH hiệu quả.
Thứ tư, tính năng hấp dẫn, phong phú và nâng cấp liên tục của MXH lôi
cuốn ngày càng nhiều sinh viên tham gia sử dụng với tần suất lớn. Có thể nói,
MXH có sức hút rất lớn đối với người dùng, trong đó có sinh viên. Tính tương tác
nhanh, các ứng dụng được cập nhật, nâng cấp liên tục thu hút SV tham gia trải
nghiệm. Ngoài ra, các nội dung trên MXH, đặc biệt là facebook có sự liên kết, liên
thông với nhau cuốn hút người dùng từ trang này sang trang khác quên cả thời gian.
Ngoài ra, MXH cũng là kho phim, kho thông tin khổng lồ, cập nhật tạo thuận lợi
nhất cho người dùng sử dụng mọi lúc mọi nơi. Chính các tính năng của MXH cũng
là nguyên nhân khách quan thúc đẩy tỉ lệ sinh viên tham gia MXH ngày càng lớn.
Như vậy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong vấn đề sử dụng
MXH của sinh viên trường ĐHNVHN. Trong đó, nguyên nhân chủ quan từ phía sinh
viên là nguyên nhân chính, những nguyên nhân khách quan có tác động lớn đến vấn
đề sử dụng MXH của sinh viên. Với đặc điểm tâm lý lứa tuổi và trình độ nhận thức,
nếu sinh viên chủ động, tích cực nghiên cứu và nâng cao trách nhiệm của bản thân sẽ
tự trang bị cho mình những kỹ năng sử dụng MXH phù hợp nhất, để MXH trở thành
công cụ hỗ trợ đặc lực cho mục đích chính đáng trong học tập và cuộc sống.
Tiểu kết chương 2
Như vậy, trong chương 2, nhóm nghiên cứu đã phân tích thực trạng sử dụng
MXH của SV trường ĐHNVHN qua các nội dung như nhu cầu sử dụng, mức độ sử
79
dụng, mục đích sử dụng, hành vi sử dụng, cách thức bảo mật thông tin và những lợi
ích, tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên. Cùng với đó, nhóm nghiên
cứu đã đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong việc sử dụng
80
MXH của sinh viên làm cơ sở đề xuất các giải pháp trong chương 3.
Chương 3.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ
ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
3.1. Một số giải pháp
3.1.1 Tăng cường nhận thức của sinh viên về mạng xã hội
Mục tiêu của giải pháp: Tăng cường nhận thức cho sinh viên về MXH là
giúp sinh viên hiểu rõ những tác động của mạng xã hội đến đời sống và học tập sẽ
là yếu tố then chốt trong việc định hướng nhu cầu, mục đích và thời gian sử dụng
MXH của sinh viên. Từ đó giúp sinh viên nhận thức được những lợi ích cũng như
những tác động tiêu cực khi sử dụng MXH để sinh viên điều chỉnh hành vi và mức
độ sử dụng MXH, tránh sự sa đà, lệ thuộc vào MXH.
Cách thức thực hiện giải pháp: Kết quả khảo sát thực trạng cho thấy đa số
sinh viên có sử dụng MXH với mức độ thường xuyên, tuy nhiên, nhu cầu sử dụng
MXH tương đối đơn giản và mục đích sử dụng chủ yếu để cập nhật thông tin và
giải trí, kết nối bạn bè, phục vụ học tập chưa phải là mục đích cao nhất khi sử dụng
MXH, cùng với đó, sinh viên chưa nhận thức đầy đủ lợi ích và tác động tiêu cực
khi sử dụng MXH. Bởi vậy, cần tăng cường nhận thức cho sinh viên về MXH như
vai trò, nhu cầu, mục đích sử dụng những lợi ích MXH mang lại để khai thác phục
vụ học tập và cuộc sống, bên cạnh đó sinh viên cũng cần có những hiểu biết về
những tác động tiêu cực của MXH để tránh những hậu quả xấu có thể xảy ra khi sử
dụng MXH không đúng cách. Để đạt được mục tiêu đầy, cần thực hiện đồng bộ các
biện pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, Ban Giám
hiệu, Lãnh đạo các đơn vị, Đoàn thanh viên về vấn đề sử dụng MXH của sinh viên
trong giai đoạn hiện nay. Xem đây là một trong những mối quan tâm hàng đầu
cùng với hoạt động tuyển sinh, hoạt động thiện nguyện, hoạt động đào tạo… trong
nhà trường. Sự quan tâm, chỉ đạo phải được cụ thể hóa bằng các văn bản hướng
dẫn, các chương trình, kế hoạch ưu tiên cho nội dung này. Thực tế, BGH nhà
trường đã có những đôn đốc, nhắc nhở cán bộ, viên chức, người lao động và sinh
81
viên trong toàn trường về về hành vi sử dụng MXH như không chia sẻ, đăng tải,
bình luận những thông tin chưa kiểm chứng trên MXH, chú ý phát ngôn trên
MXH… nhất là trong thời kỳ cả nước phòng, chống dịch Covid – 19. Tuy nhiên,
chưa có văn bản nào được ban hành riêng để hướng dẫn hay quy định vấn đề sử
dụng MXH của sinh viên bởi vậy, để nâng cao nhận thức và định hướng hành vi sử
dụng MXH của sinh viên, cần thiết phải có các văn bản hướng dẫn cụ thể trong đó
chỉ rõ những hành vi nên và không nên khi sử dụng MXH. Thiết nghĩ, MXH không
phải là chủ đề mới nhưng sử dụng MXH như thế nào cho hiệu quả, cho phù hợp,
cho văn hóa đặc biệt đối với hành vi sử dụng MXH của sinh viên cần có sự quan
tâm hơn nữa của BGH nhà trường và các phòng khoa chức năng.
Thứ hai, tích cực tuyên truyền về những lợi ích cũng như những tác động
tiêu cực của MXH đối với SV, giúp sinh viên nâng cao nhận thức và sự hiểu biết
đúng đắn về MXH. Từ đó giúp các bạn xác định đúng mục đích sử dụng MXH và
điều chỉnh thời gian, mức độ sử dụng MXH hợp lý, biết tự đánh giá và lựa chọn các
trang MXH phù hợp nhằm phục vụ tốt nhất cho hoạt động học tập, rèn luyện của
bản thân. Đặc biệt, cần nhấn mạnh đến các tác động tiêu cực khi sử dụng MXH quá
mức của sinh viên như tạo ra hội chứng nghiện MXH, lãng phí thời gian và sao
nhãng học hành, gia tăng sự lệ thuộc vào MXH và hạn chế sự sáng tạo của sinh
viên. Khi sinh viên nhận thức đầy đủ những tác động tiêu cực của MXH sẽ giúp
sinh viên tự điều chỉnh mức độ và hành vi sử dụng MXH của mình.
Thứ ba, tổ chức nhiều hơn các buổi nói chuyện chuyên đề với các nội dung
về sử dụng MXH, các buổi nói chuyện là sự giao lưu, trao đổi giữa các chuyên gia
tâm lý, các chuyên gia về cộng nghệ cũng như những diễn giả có nhiều kinh
nghiệm trong việc sử dụng MXH với sinh viên. Phát huy và nhân rộng các hoạt
động có ý nghĩa của khoa QLXH (tháng 5/2019) với chủ đề “Hành vi ứng xử của
sinh viên trên Mạng xã hội”, tại buổi nói chuyện này sinh viên được chia sẻ những
vấn đề nổi bật như: vai trò của MXH đối với sinh viên, những hành vi thường gặp
và cách ứng xử trên MXH của giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng...với diễn
giả, nhà báo Ngô Bá Lục. Đây là cơ hội rất lớn để sinh viên được lắng nghe và chia
sẻ những khó khăn khi sử dụng MXH để được giải đáp và định hướng cách giải
quyết phù hợp với những rắc rối trên MXH. Tuy nhiên, số chuyên đề dành cho nội
82
dung này chưa nhiều, nếu không nói là quá ít chưa đáp ứng được nhu cầu của sinh
viên. Bởi vậy, thay vì tổ chức quy mô cấp trường, cấp khoa thì CVHT có thể tổ chức ở
cấp lớp như những buổi giao lưu giữa diễn giả với sinh viên trong lớp thông qua các
buổi sinh hoạt lớp, các hoạt động ngoại khóa của lớp. Trong đó, nhấn mạnh đến nâng
cao nhận thức về vai trò, tính năng và lợi ích của MXH đối với đời sống, học tập của
sinh viên; Bên cạnh đó, nâng cao nhận thức của sinh viên về tính bảo mật và tính gây
nghiện của MXH. Đặc biệt cần bồi dưỡng những kiến thức về kỹ năng sử dụng
MXH cho sinh viên ở mọi lĩnh vực coi đó là những kháng thể cần thiết cho bản
thân, kháng thể chống lại những tác động tiêu cực của MXH.
Thứ tư, cần tổ chức các buổi tập huấn sử dụng MXH, các buổi chia sẻ kinh
nghiệm sử dụng MXH từ cấp độ lớp, liên chi đoàn, cấp Khoa và cấp Trường với
các nội dung khác nhau thu hút đông đảo sinh viên tham gia, từ đó không chỉ thay
đổi nhận thức về MXH mà còn hình thành thói quen sử dụng MXH tích cực trong
mỗi sinh viên. Để mỗi sinh viên là một tuyên truyền viên, một nhà truyền thông về
những hành vi đẹp, hành động đẹp của khoa, của Nhà trường trên không gian
mạng. Từ đó, góp phần quảng bá hình ảnh, thương hiệu trường ĐHNVHN đến với
công chúng nhiều hơn, tích cực hơn, hiệu quả hơn.
Thứ năm, cần rèn luyện tính cách mạnh dạn, tự tin cho sinh viên khi sử dụng
MXH. Đặc biệt, sinh viên dám lên tiếng dám đấu tranh với những hành vi lệch
chuẩn trên MXH như nói tục, chửi bậy hoặc những bức xúc, mâu thuẫn cá nhân
trên MXH, tránh hùa theo để tạo nên những trào lưu không tốt trên MXH. Những
hành vi thiếu suy nghĩ, bồng bột nhất thời của một số bạn sẽ vì thế được kiểm soát
tốt hơn nhờ sự can đảm, dám lên tiếng đấu tranh của những sinh viên khác. Sự
dũng cảm trên không gian mạng cần nhận được sự hỗ trợ của các GV, CVHT và
các phòng ban để sinh viên có thêm động lực chống lại những hành vi xấu, những
thông tin chưa đầy đủ về Lớp, về Khoa về Trường trên MXH. Để đạt được điều đó,
trong mỗi ngày lên lớp, GV, CVHT có thể đặt những tình huống giả định để sinh
viên thảo luận cách thức giải quyết, vừa tạo ra những môi trường học tập năng
động hơn, tạo cơ hội để sinh viên thể hiện mình, vừa giúp cho buổi học bớt căng
thẳng nhưng cũng từ đó rèn luyện tính chủ động, linh hoạt và tự tin cho sinh viên
và trang bị kỹ năng sử dụng MXH cho sinh viên.
Thứ sáu, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền nâng cao hiểu biết của sinh viên
83
về các văn bản quy phạm pháp luật như: Luật An ninh số 24/2018/QH14 ngày 12
tháng 6 năm 2018 của Quốc hội; Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03 tháng 02
năm 2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn
thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử...Đặc biệt chú
trọng tuyên truyền cho SV nắm rõ những hành vi bị nghiêm cấm cũng như các mức
phạt đối với các hành vi vi phạm trên không gian mạng. Từ đó giúp sinh viên nâng
cao ý thức trách nhiệm khi sử dụng MXH của mình, hạn chế hành vi vi phạm pháp
luật trên không gian mạng.
Thứ bảy, GV,CVHT phải là tấm gương trong việc sử dụng MXH. Hiện nay
GV, CVHT không chỉ có trang cá nhân trên MXH như facebook, zalo...mà còn là
trực tiếp quản lý các Fanpage của Khoa, của Phòng bởi vậy thầy, cô cũng cần nhận
thức đầy đủ về hành vi sử dụng MXH của mình, cân nhắc thật kỹ lưỡng trước khi
đăng tải, chia sẻ, thích hoặc bình luận các nội dung trên MXH. Ngoài ra, GV,
CVHT cũng sử dụng MXH để theo dõi, động viên và khen ngợi sinh viên bằng
cách chia sẻ, bình luận, thích, thả tim... những những hành động đẹp trên MXH của
các em. Ngoài ra, nhanh chóng nắm bắt những tâm tư, nguyện vọng, những bức
xúc của sinh viên trên MXH để lắng nghe, chia sẻ và định hướng kịp thời cũng là
một trong những vấn đề phải được GV, CVHT chú trọng nhiều hơn. Đặc biệt có
những sinh viên chưa hiểu đúng những chính sách của nhà trường, của các Khoa
phòng đã vội vàng đăng tải những trạng thái thiếu tích cực lên MXH sẽ gây ra
những dư luận tiêu cực và trào lưu xấu trên MXH ảnh hưởng đến uy tín của Nhà
trường. Bởi vậy GV, CVHT cần quan tâm đến sinh viên không chỉ trên lớp mà còn
trên MXH để kịp thời điều chỉnh những hành vi thiếu suy nghĩ của các em. GV,
CVHT hãy sử dụng MXH trở thành công cụ kết nối, duy trì và phát triển mối quan
hệ thân thiện giữa thầy và trò để cùng hiểu, chia sẻ những suy nghĩ, vướng mắc của
sinh viên để có hướng giải quyết phù hợp.
Thứ tám, Nhà trường phải có chiến lược đầu tư, quảng bá trang MXH chính
thống của nhà trường cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, trường ĐHNVHN đã
có trang website với địa chỉ: truongnoivu.edu.vn được đầu tư bài bản nhằm cập
nhật thông tin chính thống và các hoạt động của nhà trường. Tuy nhiên, trong sự
phát triển mạnh mẽ của công nghệ như hiện nay, chỉ trang website là chưa đáp ứng
được nhu cầu tìm kiếm thông tin của người dùng. Bởi vậy, trường ĐHNVHN đã có
84
rất nhiều fanpage chủ yếu trên facebook tuy nhiên, đa số các fanpafe trên facebook
này do sinh viên hoặc do Đoàn thanh niên thiết lập và quản lý. Bởi vậy, Nhà trường
cần nhanh chóng tạo lập trang fanpage giao cho một đơn vị chuyên trách nhằm cập
nhật, chia sẻ những thông tin, thông báo chính thống của nhà trường đáp ứng nhu
cầu tìm hiểu, trao đổi của sinh viên nói riêng và người dùng nói chung. Ngoài ra,
với nhu cầu thông tin tuyển sinh ngày càng mở rộng với các nhóm đối tượng công
chúng khác nhau, BGH nhà trường nên đầu tư kinh phí xây dựng, quản lý các kênh
Youtube, Intasgram…trở thành trang MXH phổ biến trong sinh viên, học sinh và
phụ huynh nhằm quảng bá, xây dựng thương hiệu của trường trên không gian
mạng. Chính sự đầu tư kỹ lưỡng về hình ảnh, chất lượng và khối lượng thông tin
được kiểm chứng, được cập nhật liên tục là kênh tư liệu cho sinh viên tham gia, học
tập và nghiên cứu. Bởi vậy, để nâng cao nhận thức của sinh viên về MXH, trước
hết nhà trường cần có trang MXH chính thống với các hành vi sử dụng mang tính
chuẩn mực để sinh viên học hỏi và nhận thấy được lợi ích của MXH trong cuộc
sống và học tập.
3.1.2. Kết hợp nội dung sử dụng mạng xã hội vào các hoạt động trong nhà
trường
Mục tiêu của giải pháp: Bằng việc lồng ghép nội dung sử dụng mạng xã
hội với nội dung của “tuần sinh hoạt công dân – học sinh, sinh viên”, các buổi đối
thoại giữa nhà trường với sinh viên và các nội dung khác trong học tập, hoạt động
đoàn sẽ góp phần định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi, mức độ sử dụng
MXH của sinh viên trong thời gian tới.
Cách thức thực hiện giải pháp: Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng
MXH của sinh viên cần thiết phải có những giải pháp lồng ghép nội dung sử dụng
MXH với các hoạt động của Nhà trường, của Đoàn thanh viên, các hoạt động khác
trong và ngoài nhà trường. Một số giải pháp lồng ghép cần được chú trọng thực
hiện như sau:
Thứ nhất, lồng ghép nội dung, kỹ năng sử dụng MXH vào “Tuần sinh hoạt
công dân – học sinh sinh viên”. Thực hiện công văn 3383/BGDĐT-GDHSSV ngày
10/8/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tổ chức “Tuần sinh hoạt công dân –
học sinh, sinh viên” trong các trường Đại học, Cao đẳng, TCSP. Trường ĐHNVHN
85
hằng năm đều tổ chức tuần sinh hoạt với các nội dung đa dạng và phong phú nhằm
nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thông tin đầy đủ kịp thời
đến sinh viên một số thông tin cơ bản và cần thiết về tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội trong nước và quốc tế; chủ trương chính sách đổi mới về giáo dục và đào tạo.
Giúp sinh viên hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ, ý thức trách nhiệm của công dân – sinh
viên thông qua công tác truyên truyền, phổ biến quy chế, quy định và những vấn đề
về chế độ chính sách khen thưởng, kỷ luật để sinh viên nắm bắt và thực hiện. Có thể
nói, tuần sinh hoạt công dân – Học sinh, sinh viên cung cấp cho sinh viên đầy đủ các
nội dung liên quan đến hoạt động học tập, nghiên cứu, những trách nhiệm và quyền
lợi của mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, sự lên
ngôi của MXH với những tác động tích cực và tiêu cực đến học tập, rèn luyện của
sinh viên, Nhà trường cần dành thời lượng trong các buổi sinh hoạt chuyên đề đầu
khóa cho nội dung sử dụng MXH. Trong đó, chủ động trang bị cho sinh viên những
kiến thức đúng đắn, đầy đủ và kỹ năng sử dụng MXH hiệu quả. Giúp sinh viên vừa
khái thác được những lợi ích của MXH những cũng thấy được mặt trái của MXH từ
đó giúp sinh viên tự kiểm soát hành vi sử dụng MXH của bản thân.
Cùng với “Tuần sinh hoạt công dân – HSSV”, Trường ĐHNVHN tổ chức
hội nghị sinh hoạt chính trị và đối thoại giữa nhà trường với sinh viên, học viên
thường niên mỗi quý một lần trong năm để Nhà trường nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng, những vướng mắc của học viên, sinh viên để có phướng án hỗ trợ giải quyết
nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường và tạo
điều kiện tốt nhất để sinh viên được học tập tốt, rèn luyện tốt. Nội dung tại buổi
sinh hoạt chính trị và đối thoại rất phong phú như thông tin về hoạt động của Nhà
trường, của Đoàn thanh viên được thông báo để sinh viên được biết, cùng với đó
Lãnh đạo các phòng ban lắng nghe và giải đáp các câu hỏi của sinh viên trong
phạm vi quản lý. Tuy nhiên, cũng giống như tuần sinh hoạt công dân – HSSV, Nhà
trường nên dành thời lượng để trao đổi, chia sẻ về vấn đề sử dụng MXH của sinh
viên như khen thưởng những hành động đẹp trên MXH của sinh viên; khuyến khích
sinh viên tích cực chia sẻ, đăng tải các thông tin tuyển sinh của Nhà trường trên
MXH cũng như những hoạt động khác của Khoa, của Nhà trường. Bên cạnh đó,
86
cũng cần nghiêm khắc nhắc nhở những hành vi thiếu văn hóa của sinh viên trên
MXH. Đặc biệt, với những sinh viên chưa hiểu đúng những chính sách của Nhà
trường đã có hành vi đăng tải, chia sẻ những phát ngôn thiếu chuẩn mực gây hoang
mang dư luận hoặc tạo ra những trào lưu xấu trên MXH cần phải được xử lý
nghiêm để làm gương cho những sinh viên khác. Từ đó, sinh viên có trách nhiệm
kiểm chứng thông tin trước khi quyết định đăng tải, chia sẻ, like hay bình luận.
Ngoài ra, thông qua các buổi sinh hoạt chính trị và đối thoại, Đoàn thanh viên nên
xây dựng những chuyên đề nhỏ như trang bị cho sinh viên những kỹ năng sử dụng
MXH như kỹ năng nhận diện các chiêu thức lừa đảo trên MXH để sinh viên cảnh
giác tránh bị kẻ xấu lợi dụng hoặc bị đánh cắp thông tin cá nhân; kỹ năng bảo mật
thông tin; kỹ năng xử lý mâu thuẫn cá nhân trên không gian mạng….
Thứ hai, lồng ghép các nội dung sử dụng MXH như vai trò, nhu cầu sử dụng,
mục đích sử dụng, thời gian sử dụng, cách thức bảo mật thông tin cá nhân, hành vi
đăng tải, chia sẻ, like, bình luận trên MXH bằng những tình huống cụ thể, hài hước
vào các hoạt động Đoàn của lớp, của Liên chi để sinh viên cùng nhau thảo luận,
trao đổi là cách thực hiện mang tính khả thi giúp sinh viên nhận diện rõ hơn vấn đề
sử dụng MXH của bản thân. Trong các buổi sinh hoạt đoàn ở các Chi đoàn, Liên
chi đoàn, bên cạnh triển khai những hoạt động cơ bản của Đoàn, cần đan xen
những tình huống cụ thể như: Bạn sẽ làm gì nếu có ai đó nói xấu bạn trên MXH?
Nếu có một fanpage ăn cắp và đăng tải hình ảnh của bạn cho mục đích câu like, câu
view, bạn sẽ xử lý ra sao? Hoặc, nếu bạn bị đánh cắp tài khoản MXH, kẻ xấu dùng
tài khoản của bạn để lừa đảo, bạn sẽ làm thế nào? Khi sinh viên khác đăng tải bức
xúc về một vấn đề nào đó trong nhà trường lên MXH, bạn sẽ làm gì?... v..vv…..
Thông qua việc trao đổi, giải quyết tình huống, sẽ giúp sinh viên có thêm kiến thức,
kỹ năng đương đầu, giải quyết với những khó khăn trên không gian mạng của bản
thân một cách có hiệu quả.
Thứ ba, lồng ghép vấn đề về sử dụng MXH thông qua quá trình học tập và
giảng dạy của học phần liên quan. Một số học phần có thể kết hợp lồng ghép như
học phần Tâm lý quản lý, Kỹ năng giao tiếp, Xã hội học đại cương, Kỹ năng hoạch
định, Kỹ năng làm việc nhóm, Xã hội học văn hóa …. Thông qua nội dung của các
học phần, giảng viên có thể lồng ghép các chủ đề về MXH một cách tinh tế, phù hợp,
87
qua đó giúp sinh viên nâng cao nhận thức về MXH và điều chỉnh những hành vi
chưa đúng trên MXH của bản thân. Ví dụ như trong học phần Xã hội học văn hóa có
nội dung các khái niệm cơ sở, GV có thể lồng ghép nội dung vai trò xã hội của cá
nhân trên MXH, vai trò cúa sinh viên đối với công tác truyền thông tuyển sinh của
nhà trường. Hoặc khi trao đổi về khái niệm ứng xử và khuôn mẫu ứng xử, GV có thể
đặt các vấn đề về ứng xử trên MXH để sinh viên giải quyết, từ đó rút ra bài học cho
sinh viên. Ngoài ra, cũng trong học phần này có nội dung về nhu cầu, giá trị và
chuẩn mực và bản sắc văn hóa Việt Nam, GV cũng có thể lồng ghép các ví dụ, các
câu chuyện trên MXH vào bài học để lắng nghe quan điểm của sinh viên từ đó có
cách thức tác động hiệu quả vào nhận thức và hành vi sử dụng MXH của các em.
Ngoài ra, học phần kỹ năng giao tiếp là học phần rất quan trọng không chỉ
hình thành cho sinh viên các kỹ năng mềm trong giao tiếp cơ bản mà thông qua đó
những Ký năng về sử dụng MXH có thể được xây dựng và lồng ghép như kỹ năng
lắng nghe, kỹ năng thấu cảm, đồng cảm, kỹ năng bảo mật thông tin cá nhân..thông
qua học phần này, giảng viên xây dựng tình huống cụ thể để sinh viên vận dụng kỹ
năng được trang bị để giải quyết, từ đó giúp sinh viên có cách nhìn nhận đúng đắn
hơn về MXH và để sinh viên nhận thấy MXH thực sự rất gần với cuộc sống và cần
thiết đối với mỗi người, tuy nhiên sử dụng MXH quá nhiều sẽ gây tác dụng ngược,
sẽ tạo ra những hệ quả không mong muốn đối với sinh viên. Để mỗi sinh viên,
trước khi sử dụng phải có quá trình tìm hiểu kỹ lưỡng về MXH, trong đó có các
tính năng và lợi ích của MXH để khai khác có hiệu quả phục vụ cho hoạt động học
tập và rèn luyện.
3.1.3. Hướng dẫn cho sinh viên các kỹ năng sử dụng mạng xã hội hiệu quả
Mục tiêu của giải pháp: Để nâng cao hiệu quả sử dụng MXH của sinh viên,
chỉ nâng cao nhận thức về MXH và những tác động khi sử dụng MXH của sinh
viên là chưa đủ, cần phải trang bị, hướng dẫn cho sinh viên những kỹ năng sử dụng
MXH. Khi có kỹ năng sử dụng MXH sinh viên sẽ sử dụng MXH hiệu quả hơn
phục vụ tốt hơn cho hoạt động học tập và rèn luyện cho bản thân.
Cách thức thực hiện giải pháp: MXH bên cạnh việc mang lại cho người
dùng nói chung và sinh viên nói riêng rất nhiều lợi ích thì cũng có những tác động
tiêu cực. Kết quả khảo sát thực trạng cho thấy mức độ sử dụng MXH của sinh viên
88
trường ĐHNVHN là thường xuyên và thời gian sử dụng rất lớn. Tuy nhiên, hành vi
sử dụng vẫn còn nhiều hạn chế, nguyên nhân chủ yếu là do sinh viên thiếu và yếu
kỹ năng sử dụng MXH. Bởi vậy, sinh viên cần có những kỹ năng để khai thác có
hiệu quả những lợi ích mà MXH mang lại và hạn chế tối đa tác động tiêu cực. Việc
trang bị những kỹ năng sử dụng MXH có thể do sinh viên tự nghiên cứu, cũng có
thể thông qua các hoạt động ngoại khóa, các buổi sinh hoạt chuyên đề do lớp, khoa,
trường tổ chức. Một số kỹ năng sử dụng MXH sinh viên cần có như:
Thứ nhất, hướng dẫn kỹ năng bảo mật thông tin cá nhân trên mạng xã hội
Để bảo vệ bản thân trên môi trường trực tuyến, sinh viên cần biết cách bảo
vệ quyền riêng tư của mình và kiểm soát thông tin cá nhân như:Đặt mật khẩu cho
thiết bị cá nhân, Chia sẻ thông tin có chọn lọc; Kích hoạt tính năng xác thực 2
bước; Thường xuyên cập nhật hệ thống; Hạn chế cung cấp các thông tin cá nhân;
Đăng xuất các tài khoản khi đã dùng xong. Bên cạnh đó, nên ẩn thông tin cá nhân,
không gặp gỡ người lạ trên mạng xã hội, không dùng chung password.
Không click vào những thông tin vô bổ, độc hại, bởi MXH khá “khôn
ngoan”, luôn lưu lại những chủ đề sinh viên thường quan tâm để gửi lại. Vì thế, loại
thông tin trên MXH cung cấp, cập nhật là do cách bạn sử dụng mỗi ngày. Ngoài ra,
việc click vào những thông tin vô bổ, những đường link lạ đều chưa đựng mối nguy
hại như virus để đánh cắp các thông tin cá nhân của mình. Bởi vậy, khi nhận được
tin nhắn, đường link lạ, sinh viên cần cân nhắc kỹ trước khi quyết định nhấp chuột.
Chia sẻ quan điểm, đừng chia sẻ thông tin cá nhân. MXH là nơi để chia sẻ
những quan điểm và tìm người đồng cảm. Tuy nhiên, hãy lưu ý để những điều chia
sẻ không gây rắc rối cho bản thân. Ví dụ: Bạn có thể kể về ngôi nhà của bạn nhưng
đừng tiết lộ địa chỉ. Đặc biệt, các thông tin về cuộc sống, bạn bè, những bức xúc
với gia đình có thể dễ dàng bị lợi dụng để lôi kéo vào cạm bẫy.
Trên mạng xã hội, sinh viên cần kiểm soát những thông tin hiển thị trên bảng
tin bằng cách click vào dấu ba chấm phía trên bên phải của bất cứ bài đăng nào:
Nếu không muốn thấy một bài đăng xuất hiện nữa, có thể ẩn nó đi. Nếu không
muốn thấy bài đăng từ một người nào đó, có thể bỏ theo dõi hoặc tạm ẩn họ, cũng
thể phản hồi hoặc báo cáo một bài đăng có nội dung thiếu lành mạnh hoặc vi phạm
quyền riêng tư. Đây là bước đầu tiên cần thực hiện trong việc trang bị sử dụng
89
mạng xã hội an toàn.
Ngoài ra, sinh viên nên tiếp cận, sử dụng các thức bảo mật 2 lớp rất phổ biến
hiện nay. Đây được xem là một trong những cách thức bảo mật an toàn nhất trên
không gian mạng tại thời điểm này. Sinh viên có thể cài đặt ứng dụng Google
Authenticator – quản lý mã xác minh hai nước cho các dịch vụ đám mây [45] để
gia tăng khả năng bảo mật thông tin cá nhân trên không gian mạng.
Thứ hai, kỹ năng quản lý thời gian sử dụng mạng xã hội
Hãy hạn chế thời gian sử dụng MXH. Mọi nghiên cứu đều nói không nên sử
dụng máy tính liên tục quá 45 phút và không vào MXH nhiều hơn 2 giờ/ngày vì sẽ
rơi vào trạng thái không tập trung, mất thăng bằng trong cuộc sống. Rất nhiều sinh
viên cả đi trên đường, vào lớp học, lúc nào cũng nhìn chằm chằm vào chiếc
smartphone, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và học tập. Chúng ta có
thể cài những phần mềm để quản lý thời gian vào mạng, để có thời gian cho cuộc
sống thực.
Thứ ba, kỹ năng kiểm soát cảm xúc khi sử dụng mạng xã hội
Trước khi muốn chia sẻ bất cứ điều gì trên mạng xã hội, nên suy nghĩ kỹ
hoặc nếu cảm thấy cần thiết có thể thảo luận với Thầy cô, bạn bè có những hành vi
đăng tải, chia sẻ phù hợp. Những nội dung chưa được kiểm chứng hoặc nhạy cảm
sinh viên không nên tùy tiện đăng tải, chia sẻ, like, comment tránh những rắc rối có
thể xảy ra.
Sinh viên phải hiểu mạng xã hội là con người thứ hai của mình, đừng nên
chia sẻ khi tâm lý đang không ổn định như giận dữ, thất vọng hoặc bị kích động.
Những khi gặp vấn đề, nên chia sẻ với bạn bè, gia đình, thầy cô để có cách giải
quyết trực tiếp và phù hợp. Chính vì vậy, không chỉ cần kiểm soát thông tin cá
nhân, các nội dung theo dõi mà cũng cần có kỹ năng sống khác là kiểm soát cảm
xúc và cách thể hiện của bản thân.
Chỉ kết bạn với những người mình thực sự biết và tin tưởng. Nhiều sinh viên
có thói quen kết bạn bất kỳ người nào mà mình tò mò và nhận lời kết bạn vì nghĩ
không mất gì và “càng nhiều bạn càng tốt”, chỉ là ảo thôi mà. Nhưng ngay khi có
người ngỏ lời muốn kết bạn, các trang MXH, trong đó có Facebook cũng nhắc nhở
bạn có thật sự biết người ấy không và chỉ nên chấp nhận người bạn tin tưởng,
90
nhưng ít ai để ý.
Thứ tư, kỹ năng nói “không” với thế giới ảo, tích cực tham gia các hoạt
động trải nghiệm thực tế
Mạng xã hội là thế giới ảo những lại có quá nhiều các ứng dụng hấp dẫn và
khối lượng thông tin khổng lồ lôi cuốn người dùng từ nội dung này đến nội dung
khác, liên kết trang này với trang khác. Đây là một trong những ưu việt của MXH
những cũng chính điều đó “gây nghiện” cho người sử dụng, trong đó có sinh viên.
Bởi vậy, tình trạng sinh viên quá sa đà vào MXH ảnh hưởng đến các hoạt động
ngoài đời thực không quá xa lạ.
Để hạn chế sự lệ thuộc vào MXH, sinh viên cần can đảm bước ra khỏi thế
giới ảo bằng cách hạn chế thời gian sử dụng, đăng xuất khỏi các ứng dụng, các
trang MXH không cần thiết để dành thời gian cho các hoạt động như: giao lưu học
tập phát triển kỹ năng, thể dục thể thao và các hoạt động khác...Từ đó, sẽ nhận thức
rõ ràng về bản thân, đồng thời xây dựng được các mối quan hệ lành mạnh trong nhà
trường và xã hội, rèn luyện tính tự lập, có những cảm xúc, trải nghiệm thú vị từ
những trải nghiệm thực tế.
Để hình thành kỹ năng sử dụng MXH cho sinh viên, GV, CVHT, phòng
CTSV và Đoàn thanh niên phải tuyên truyền rộng rãi qua các kênh khác nhau về
các kỹ năng cần có khi sử dụng MXH để sinh viên được biết và rèn luyện. GV,
CVHT có thể thông qua các buổi sinh hoạt lớp, các tiết học để định hướng các kỹ
năng sử dụng MXH cho sinh viên. Phòng CTSV thông qua các buổi đối thoại giữa
nhà trường với sinh viên để trang bị cho SV những kỹ năng này; Đoàn thanh viên
thông qua các hoạt động để giúp sinh viên nắm bắt được các kỹ năng sử dụng
MXH cho sinh viên. Ngoài ra, sử dụng các trang MXH để nói về kỹ năng sử dụng
MXH cũng là một giải pháp tích cực. Thông qua các Fanpage của Trường, Khoa,
các câu lạc bộ và các phòng ban để trang bị kỹ năng sử dụng MXH cho sinh viên
3.1.4. Tổ chức đa dạng các hoạt động ngoại khóa
Mục tiêu của giải pháp: Đa dạng các hoạt động ngoại khóa tạo sân chơi
lành mạnh, bổ ích lôi cuốn sinh viên tham gia là một trong nhưng giải pháp cấp
thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm hạn chế sự lệ thuộc vào MXH của một bộ phận
không nhỏ sinh viên trong nhà trường.
91
Cách thức thực hiện giải pháp: Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, có
nhiều phương tiện hiện đại cho thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng dùng để
trao đổi thông tin, tìm hiểu và học tập, vì thế MXH trở thành phương tiện hữu ích
giúp sinh viên trao đổi tìm kiếm thông tin nhanh chóng và dễ dàng hơn rất nhiều.
Chính vì thế đa số sinh viên cho rằng MXH rất cần thiết cho cuộc sống. Tuy nhiên,
sự phong phú và đa dạng và tiện ích của MXH đã chiếm lĩnh thời gian trong ngày
của sinh viên quá nhiều. Khảo sát thực trạng SV ĐHNVHN cho thấy thời gian sử
dụng MXH mỗi ngày của sinh viên là rất lớn. Trong đó, tỉ lệ sinh viên dành hơn 8
tiếng mỗi ngày là không nhỏ. Điều này cho thấy sinh viên đang ngày càng lệ thuộc
vào MXH, sinh viên sử dụng MXH mọi lúc mọi nơi từ lúc thức dậy cho đến trước
khi đi ngủ, lúc đi gặp bạn bè hay giữa tiết học, thậm chí có sinh viên sử dụng MXH
cả trong giờ học. Tình trạng sử dụng MXH dẫn đến nghiện MXH và sao nhãnh học
hành sẽ không tránh khỏi với tần suất sử dụng nhiều như vậy. Thực trạng này là
đáng báo động và cần phải có các giải pháp cụ thể hạn chế sự lệ thuộc của sinh viên
đối với MXH. Bởi vậy, để ‘kéo’ sinh viên ra khỏi MXH, cần phải đa dạng các hoạt
động ngoại khóa để sinh viên có môi trường tham gia hoạt động, hạn chế sử dụng
MXH mỗi ngày. Các giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, để sinh viên có đủ dũng khí rời khỏi các thiết bị thông minh và rời
xa MXH, tham gia tích cực các hoạt động ngoại khóa, GV, CVHT, Đoàn trường,
liên chi đoàn giúp sinh viên nhận thức đúng đắn và đầy đủ tầm quan trọng của các
hoạt động ngoại khóa. Các hoạt động ngoại khóa tạo điều kiện thuận lợi để mỗi
sinh viên phát triển và sống hạnh phúc. Việc gặp gỡ bạn bè thường xuyên, nói
chuyện một cách thân mật cũng làm tăng khả năng biểu lộ cảm xúc, quen dần với
các tín hiệu xã hội và cải thiện khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi cả ngoài
đời thực lẫn trên MXH. Tham gia các hoạt động thể dục, thể thao giúp sinh viên cải
thiện đáng kể tình trạng sức khỏe và thể lực. Chơi thể thao, tập thể dục nhịp điệu,
hay học khiêu vũ không những giúp giảm cân mà còn làm tăng sức dẻo dai, giảm
bớt căng thẳng, giảm lượng cholesterol, điều hòa huyết áp, giúp bạn ngủ ngon và
giảm nguy cơ mắc một số bệnh. Tham gia các hoạt động nhóm cũng sẽ mang lại
nhiều niềm vui và sự thú vị hơn thay vì chỉ tham gia các hoạt động trên không gian
mạng. Bên cạnh đó, các hoạt động ngoại khóa giúp sinh viên xây dựng các kỹ năng
92
cần thiết cũng như học hỏi được nhiều kinh nghiệm rất bổ ích sau khi ra trường, kể
cả trong quá trình tìm việc làm và những biểu hiện trong công việc của mình. Việc
tham gia vào các hoạt động như thảo luận, vận động, tình nguyện hay thậm chí là
tự mình điều hành một câu lạc bộ sinh hoạt ngoại khóa riêng, sẽ giúp sinh viên phát
triển các kỹ năng như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống và kỹ năng lãnh
đạo, quản lý.
Tham gia các hoạt động có liên quan đến nghề nghiệp tương lai cũng giúp
làm tăng khả năng cạnh tranh và tạo được ấn tượng tốt đối với các nhà tuyển dụng.
Có thể nói, khi sinh viên có hiểu biết đầy đủ về tầm quan trọng của các hoạt động
ngoại khóa sẽ là động lực để sinh viên tích cực hơn, năng động hơn, chủ động hơn
trong việc tham gia các hoạt động ngoại khóa thay vì chỉ ở nhà chăm chú vào chiếc
điện thoại di động và thể hiện “bản lĩnh” trên không gian “ảo”. Chính vì thế, Đoàn
thanh niên nên có các biện pháp tuyên truyền, hướng dẫn và định hướng để sinh
viên nhận thấy sự hấp dẫn của các hoạt động ngoại khóa trong nhà trường sẽ chủ
động tham gia nhiều hơn.
Thứ hai, đoàn thanh niên, liên chi đoàn phát động và tổ chức các giải thể
thao mang tính thường niên cấp Khoa, cấp trường với các môn thể thao khác nhau
thu hút sinh viên tham gia đăng ký và tranh giải. Hằng năm, giải thể thao của Khoa
QLXH vẫn được tổ chức thu hút đông đảo sinh viên tham gia thi đấu và cổ vũ. Tuy
nhiên, các bộ môn thi đấu còn quá ít, chủ yếu là bóng đá Nam, các bộ môn khác
chưa được chú trọng tổ chức như cầu lông, bơi lội, cờ vua, điền kinh...Bởi vậy, dù
các giải thi đấu thể thao đã thu hút sinh viên tham gia nhưng tỉ lệ tham gia vẫn còn
hạn chế. Đoàn trường cũng có tổ chức các hoạt động thể thao nhưng chưa đa dạng
và phong phú, tỉ lệ sinh viên tham gia chưa nhiều. Chính vì thế, thời gian tới, bên
cạnh các hoạt động ngoại khóa thường niên của các khoa, Đoàn thanh viên cần xây
dựng kế hoạch tổ chức các giải thể thao cấp trường như thi đấu cầu lông, cờ vua,
điền kinh, bóng đá nữ, bơi lội, khiêu vũ...với các hình thức đánh đơn, đồng đội để
lôi cuốn sinh viên các lớp, các khóa tham gia tích cực hơn. Cộng với đó, cần có
chính sách khen thưởng xứng đáng để tạo động lực cho sinh viên tham gia như trao
giải và giấy khen cho những bạn đạt thành tích cao; ghi nhận và cộng điểm thưởng
với những sinh viên tham gia thi đấu và sinh viên tham gia cổ vũ cho các hoạt động
93
thể thao.Trên cơ sở đó, Đoàn Thanh niên lựa chọn những sinh viên tiêu biểu đăng
ký thi đấu các giải thể thao cấp cao hơn như cấp Bộ, cấp Trung ương Đoàn thanh
viên...tạo cơ hội sinh viên tham gia học hỏi, trao đổi kinh nghiệm và phát triển kỹ
năng. Hơn nữa, sinh viên sẽ giảm thời gian sử dụng MXH không cần thiết.
Đoàn trường hiện đang quản lý khoảng 8000 đoàn viên sinh hoạt tại 8 Liên
chi đoàn và 2 đoàn Phân hiệu. Trong đó, tại trụ sở chính của Trường tại Hà Nội:
khoảng 6000 đoàn viên sinh viên. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa thu hút được
đa số sinh viên tham gia sẽ là một trong những thách thức rất lớn cần có những kế
hoạch dài hơi, cụ thể và sự đầu tư kinh phí rất lớn từ Nhà trường để có những hoạt
động ngoại khóa bổ ích, hiệu quả thu hút sinh viên rời xa MXH để tham gia các
hoạt động này.
Thứ ba, tổ chức nhiều hơn các hoạt động văn hóa văn nghệ trong Nhà
trường. Không chỉ tạo ra sân chơi bổ ích, lành mạnh, không khí vui tươi, phấn khởi,
gắn kết trong giảng viên, sinh viên hoạt động này còn góp phần quan trọng trong
việc giáo dục toàn diện cho sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
Đặc biệt, các hoạt động văn hóa văn nghệ vẫn được trường ĐHNVHN tổ chức nhân
các ngày lễ lớn như chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11; ngày thành lập
trường; ngày khai giảng năm học mới… Tuy nhiên, những hoạt động này thường
giới hạn số lượng sinh viên tham sự do không gian hạn hẹp của nhà trường dẫn đến
tỉ lệ sinh viên được tham gia chưa nhiều. Bởi vậy, cần tổ chức đa dạng hơn các hoạt
động văn hóa, văn nghệ trong nhà trường với các quy mô khác nhau để lôi cuốn sinh
viên tham gia. Trong đó, bắt kịp tâm lý của sinh viên thích giao lưu với những ca sỹ
trẻ, những diễn viên nổi tiếng, Đoàn thanh viên cần tổ chức các buổi giao lưu với các
ca sỹ, diễn viên, nghệ sỹ nổi tiếng để sinh viên được gặp gỡ trao đổi chia sẻ những
vấn đề trong cuộc sống và những kinh nghiệm tốt khi sử dụng MXH của các thần
tượng, của nghệ sỹ lớn để SV học hỏi và thay đổi nhận thức, hành vi sử dụng MXH
của mình.
Thứ tư, tổ chức hội trại thanh niên với các chủ đề khác nhau nhân các ngày
lễ lớn trong năm như ngày thành lập Đoàn 26/3, ngày Hiến chương nhà giáo Việt
Nam 20/11 và ngày thành lập trường 18/12 với đa dạng các gian hàng của các Liên
chi đoàn, các câu lạc bộ trong trường. Trong thời gian tổ chức hội trại, Đoàn thanh
94
viên sẽ tổ chức các hoạt động vui chơi như kéo co, nhảy bao bố…diễn văn nghệ,
khiêu vũ tập thể… thu hút sự tham gia đông đảo của các đoàn viên thanh niên giúp
sinh viên có không gian để vui chơi, kết nối bạn bè và rời ra thiết bị điện tử và
mạng xã hội để dành thời gian cho các hoạt động thực tế.
Thứ năm, đa dạng các hoạt động của các câu lạc bộ trong Nhà trường dưới
sự quản lý của Đoàn trường. Hiện nay, Đoàn trường quản lý trực tiếp 07 câu lạc bộ
sinh viên: câu lạc bộ nghệ thuật sinh viên Nội vụ HAC, câu lạc bộ tiếng Anh sinh
viên HEC, câu lạc bộ Sách Nội vụ, câu lạc bộ ASK Nội vụ, Đội thanh niên xung
kích, Đội thanh niên tuyên truyền vận động và hiến máu nhân đạo Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội, câu lạc bộ Thiện nguyện Sắc Màu. Tuy nhiên, các hoạt động của
câu lạc bộ thường có quy mô nhỏ, trong mỗi hoạt động thường bị giới hạn là thành
viên câu lạc bộ nên chưa thu hút được sinh viên bên ngoài câu lạc bộ tham gia.
Chính vì thế, thời gian tới các câu lạc bộ cần xây dựng các kế hoạch đa dạng và
phong phú hơn thu hút sinh viên trong và ngoài câu lạc bộ tham gia. Tạo môi
trường sinh hoạt lành mạnh, bổ ích để sinh viên có cơ hội giao lưu, học hỏi, trao
đổi kiến thức và phát triển kỹ năng của bản thân. Từ việc tham gia các hoạt động
thực tiễn trong câu lạc bộ sẽ giúp sinh viên bớt thời gian lướt mạng, chơi game
online hoặc các trò vô bổ trên MXH.
Thứ sáu, có chiến lược sử dụng MXH trở thành công cụ hữu hiệu tác động
đến hành vi sử dụng MXH của sinh viên. Tổ chức cuộc thi về một chủ đề trên
MXH như viết về vai trò của MXH đến sinh viên; MXH đã tác động đến bạn như
thế nào? Bạn biết gì về MXH? Những bài viết của sinh viên sẽ được Ban tổ chức
kiểm duyệt và lựa chọn. Bài viết hay, viết tốt sẽ được vào vòng bình chọn và tranh
giải. Từ đó cho sinh viên tham gia bình chọn bằng cách tính like, chia sẻ, bình
luận….sôi nổi, cũng thông qua các bài viết này sẽ giúp sinh viên hiểu biết nhiều
hơn về MXH, nhận thức đúng đắn hơn về tác động của MXH để tự mình rút ra bài
học trong vấn đề sử dụng MXH của mình. Ngoài ra, các cuộc thi trên trang fanpage
của Nhà trường như thi làm phim về Trường, về Ngành học hay những tấm gương
người tốt việc tốt, những hành động đẹp của sinh viên trong cuộc sống được đăng
tải, chia sẻ để từ đó định hướng hành vi sử dụng MXH tích cực trong sinh viên.
Có thể nói, các hoạt động ngoại khóa đóng vai trò quan trọng trong việc
95
cuốn hút sinh viên tham gia. Hoạt động ngoại khóa càng phong phú, đa dạng bổ
ích, thiết thực thì mức độ tham gia của sinh viên càng lớn. Chính các hoạt động
ngoại khóa sẽ là giải pháp quan trọng trong việc giúp sinh viên có cơ hội trải
nghiệm các hoạt động thực tiễn thay vì chỉ dành cho các hoạt động ảo trên không
gian mạng. Tuy nhiên, để các hoạt động ngoại khóa có thể được triển khai cần phải
có sự đầu tư kinh phí cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng như nhà thi đấu đa năng,
sân thể thao... phục vụ cho nhu cầu vui chơi giải trí của sinh viên từ đó giúp sinh
viên thoát khỏi sự lệ thuộc vào mạng xã hội. Bên cạnh đó, nhà trường cần đầu tư
lắp đặt wifi miễn phí trong toàn trường, giúp sinh viên có kết nối mạng miễn phí
vừa phục vụ học tập, vừa giải trí. Việc truy cập kết nối mạng miễn phí trong nhà
trường sẽ hạn chế tình trạng tối đa tình trạng sinh viên la cà quán nét, cafe đang
mọc lên rất nhiều, đồng thời cần thường xuyên nhắc nhở ý thức sử dụng MXH để
sinh viên nâng cao trách nhiệm khi sử dụng MXH của mình.
3.1.5. Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ GV, CVHT, Đoàn thanh niên
Mục tiêu của giải pháp: Nâng cao trách nhiệm, năng lực cho đội ngũ giảng
viên, cố vấn học tập, cán bộ Đoàn thanh viên và chuyên viên phụ trách công tác
giáo dục chính trị tư tưởng đối với học viên, sinh viên trên môi trường mạng là một
trong những giải pháp quan trọng trong bối cảnh ảnh hưởng mạnh mẽ của MXH và
gia tăng hành vi sử dụng MXH của sinh viên ngày càng phức tạp, khó kiểm soát.
Cách thức thực hiện giải pháp: Trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của
các trang MXH với sự tham gia đông đảo của sinh viên dẫn đến tình trạng khó
kiểm soát đối với những hành vi thiếu chuẩn mực trên mạng. Đặc biệt, năng lực xử
lý các tình huống trên không gian mạng đội ngũ giảng viên, cố vấn học tập, cán bộ
Đoàn Thanh viên còn nhiều hạn chế; chưa có cán bộ, chuyên viên chuyên trách
công tác giáo dục chính trị tư tưởng và xử lý các hành vi vi phạm của học viên, sinh
viên trên môi trường mạng dẫn đến tính giáo dục chưa cao. Đa số GV, CVHT chỉ
mang tính tuyên truyền, định hướng bằng kinh nghiệm cá nhân nên tính hiệu quả
chưa cao. Bởi vậy, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cố vấn học tập, cán bộ
Đoàn thanh viên và chuyên viên phụ trách công tác giáo dục chính trị tư tưởng đối
với học viên, sinh viên trên môi trường mạng là nhiệm vụ cấp bách hiện nay và cần
thực hiện ngay các giải pháp cụ thể như:
96
Thứ nhất, xây dựng tài liệu bồi dưỡng, tập huấn công tác quản lý, giáo dục
chính trị tư tưởng trên môi trường mạng dành cho giảng viên, CVHT, cán bộ Đoàn
Thanh viên, chuyên viên chuyên trách của phòng CTSV; tài liệu hướng dẫnkỹ năng
sử dụng, khai thác, tiếp cận thông tin trên Internet, mạng xã hội dành cho học sinh,
sinh viên; Các buổi tập huấn cần phải được triển khai càng sớm càng tốt để hỗ trợ
phương pháp, cách thức xử lý các tình huống trên MXH giúp GV,CVHT và cán bộ
chuyên trách có thêm các kỹ năng xử lý hiệu quả các vấn đề phát sinh trên MXH
của sinh viên.
Thứ hai, tổ chức bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản lý, viết bài, tuyên
truyền, định hướng cho cho GV, CVHT, cán bộ Đoàn Thanh viên, chuyên viên
chuyên trách của phòng CTSV phụ trách công tác quản lý, giáo dục chính trị tư
tưởng đối với học sinh, sinh viên trên môi trường mạng và đội ngũ quản trị các
Website, diễn đàn, mạng xã hội của các cơ sở giáo dục;
Thứ ba, tổ chức giao lưu, trao đổi kinh nghiệm công tác quản lý, giáo dục
chính trị tư tưởng đối với học viên, sinh viêntrênmôi trường mạng giữa các cơ
quan, đơn vị. Thông quan các buổi giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giúp cho giảng
viên, CVHT, cán bộ Đoàn Thanh viên, chuyên viên chuyên trách của phòng CTSV
có thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm sử dụng hiệu quả MXH và định hướng đúng
hành vi sử dụng MXH cho sinh viên lớp mình quản lý.
3.1.6. Xây dựng quy định sử dụng mạng xã hội dành cho sinh viên trường
Đại học Nội vụ Hà Nội
Mục tiêu của giải pháp: Mạng xã hội đã và đang mang đến cho người dùng
nói chung và sinh viên nói riêng những tiện ích vô cùng to lớn. Tuy nhiên, MXH cũng
mang đến cho sinh viên rất nhiều hệ lụy khó lường, đặc biệt MXH là không gian mở,
người dùng được quyền sử dụng với các mục đích cá nhân khác nhau. Bởi vậy, đăng
tải, chia sẻ hay bình luận như thế nào cho phù hợp với chuẩn mực, với văn hóa luôn là
đề tài được trao đổi trong các cuộc thảo luận về MXH. Những bài viết, những clip
thiếu trách nhiệm, có dụng ý xấu hoặc dùng ngôn từ thiếu văn hóa trên mạng xã hội
của sinh viên cần phải được loại bỏ. Bởi vậy, cần thiết phải xây dựngquy địnhsử dụng
MXH dành cho sinh viên của trường ĐHNVHN trong thời gian tới.
Cách thức thực hiện giải pháp, Theo chia sẻ của đại diện phòng Công tác
97
sinh viên, đã có những biểu hiện hành vi lệch chuẩn của sinh viên trên MXH như
phát ngôn thiếu chuẩn mực, những nội dung đăng tải nhạy cảm chưa đúng mực về
các vấn đề trong nhà trường. Chính vì thế, viên chức, giảng viên của phòng đã phải
trực tiếp gặp gỡ hoặc trao đổi thông qua MXH với SV, qua CVHT để kịp thời lắng
nghe, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của SV để định hướng hành vi chưa đúng mực
trên MXH. Tuy nhiên, những hành vi thiếu chuẩn mực của sinh viên trên MXH rất
khó kiểm soát và chưa có trường hợp nào bị xử lý kỷ luật bởi những hành vi vi
phạm thường không rõ ràng, sinh viên sau khi được thầy cô trao đổi đã gỡ bài hoặc
đính chính những nội dung thiếu chính xác. Hiện nay, chưa có quy định xử phạt cụ
thể, chi tiết bởi thế các hành vi thiếu văn hóa trên MXH chưa được xử lý nghiêm
minh. Chính vì thế, cần thiết phải xây dựng được quy định sử dụng MXH dành cho
sinh viên trong toàn trường để kịp thời khen thưởng, nêu gương những hành động
đẹp trên MXH, đồng thời xử lý, răn đe những hành vi lệch chuẩn của sinh viên trên
không gian mạng, tránh những ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh và uy tín của sinh
viên, của nhà trường. Để xây dựng hướng dẫn sử dụng MXH, cần đảm bảo các nội
dung như:
- Xác định căn cứ pháp lý để xây dựng quy định sử dụng MXH của sinh viên
là: Luật An ninh mạng số 24/2018/QH14 ngày 12 tháng 6 năm 2018 của Quốc
Hội;Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 07 năm 2013 của chính phủ về quản
lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên Mạng; Quyết định số
3296/QĐ-BGDĐT ngày 30/8/2018 của Bộ trưởng Bộ GDĐT phê duyệt Đề án Tăng
cường quản lý, giáo dục chính trị tư tưởng đối với học sinh, sinh viên (HSSV) trên
môi trường mạng đến năm 2025; Quyết định số 1229/QĐ-TTg ngày 3 tháng 10
năm 2018 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Đề án Xây dựng văn hóa ứng
xử trong trường học giai đoạn 2018 – 2025. Với những căn cứ pháp lý này, trường
ĐHNVHN với sự chủ trì của phòng CTSV có đủ cơ sở để xây dựng hướng dẫn sử
dụng MXH dành cho SV trong toàn trường.
- Xác định mục đích, phạm vi và đối tượng áp dụng của hướng dẫn sử dụng
MXH. Hướng dẫn sử dụng MXH nhằm đưa ra quy định cụ thể những điều cần làm/
không cần làm; nên làm/không nên làm; được làm/không được làm khi sử dụng
MXH. Bộ hướng dẫn dùng trong cho sinh viên đang học tập, làm việc tại trường.
98
- Căn cứ cơ sở pháp lý ở trên, bộ hướng dẫn sử dụng MXH sẽ chỉ ra những
điều sinh viên không được làm trên không gian mạng như: Đăng tải, chia sẻ, bình
luận thiếu trong sáng trên mạng xã hội như hạ uy tín người khác, cung cấp thông
tin sai lệch về chế độ chính sách của Nhà trường vì mục đích cá nhân; đăng tải tin,
bài, hình ảnh, âm thanh trên MXH, đưa ra các bình luận, chia sẻ quan điểm cá nhân
hoặc trích đăng lại những bài phát biểu những ý kiến trái chiều chưa được kiểm
chứng về chủ trương, chế độ chính sách của Lớp, của Khoa, của Trường; bình luận
chia sẻ, nhận xét các thông tin có mục đích kích động, lôi kéo sinh viên khác phản
ứng tiêu cực tạo thành các trào lưu xấu trên MXH làm ảnh hưởng đến hình ảnh, uy
tín của cá nhân hay Nhà trường; Đăng tải những phát ngôn thiếu văn hóa trên MXH
và các hành vi gây tổn hại về thể chất, danh dự, nhân phẩm của sinh viên khác;
tuyên truyền, kích động bạo lực, các hành vi phân biệt đối xử về giới, vùng miền,
văn hóa…Căn cứ vào tình hình thực tiễn và cơ sở pháp lý, Trường ĐHNVHN xây
dựng bộ hướng dẫn sử dụng MXH mang tính đầy đủ, toàn diện hơn, quy định rõ
những hành vi không được làm trên MXH dành cho sinh viên.
- Bộ hướng dẫn sử dụng MXH sẽ quy định cụ thể trách nhiệm của các đơn
vị, giảng viên và sinh viên trong việc thực thi quy tắc thống nhất trong toàn trường.
Trong đó, giao phòng CTSV nghiên cứu, hoàn thiện bộ hướng dẫn, trình BGH nhà
trường phê duyệt và ban hành. Các cán bộ, giảng viên ngoài trách nhiệm thực thi
còn có trách nhiệm tuyên truyền rộng rãi bộ quy tắc này đến với người lao động,
học viên sinh viên trong toàn trường để biết và thực hiện có hiệu quả. Học viên,
sinh viên có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc các nội dung được quy định trong bộ
quy tắc nhằm điều khiển, điều chỉnh hành vi sử dụng MXH của bản thân, tránh
những hành vi sai trái sẽ bị xử lý kỷ luật tùy theo mức độ vi phạm.
- Cùng với các điều không được làm trên MXH, bộ hướng dẫn quy định chi
tiết hình thức khen thưởng và kỷ luật đối với việc sử dụng MXH, đặc biệt đối với
sinh viên. Các hình thức khen thưởng như nêu gương người tốt việc tốt trên các
forum, tặng giấy khen tại các buổi đối thoại chính trị hoặc chuyên mục sinh viên tốt
trên fanpage của Nhà trường để nhân rộng hành vi đẹp trên MXH và tạo động lực
cho sinh viên khác cùng thực hiện. Bên cạnh đó, những hành vi sai trái tùy vào
từng mức độ vi phạm và thái độ sửa lỗi của sinh viên để có hình thức kỷ luật phù
hợp. Các hình thức kỷ luật như nhắc nhở từ cấp độ lớp, cấp Khoa và cấp Trường;
những hành vi vi phạm mang tính nghiêm trọng có thể xử lý đình chỉ học 1 tháng, 3
99
tháng, 6 tháng hoặc buộc thôi học. Những hình thức kỷ luật do hội đồng kỷ luật nhà
trường căn cứ tình hình cụ thể để thống nhất ra quyết định. Những sinh viên được
khen thưởng hoặc kỷ luật sẽ được cộng điểm thưởng hoặc trừ điểm khi đánh giá
điểm rèn luyện của kỳ học tương ứng. Ngoài ra, để khuyến khích những hành động
đẹp trên MXH, Nhà trường sẽ đưa tiêu chí sử dụng MXH trở thành một trong
những tiêu chí xét khen thưởng, xét học bổng và xét kết nạp Đảng hằng năm.
Những sinh viên có vi phạm khi sử dụng MXH sẽ bị hạn chế điểm khi xét các nội
dung trên. Bên cạnh đó, bộ quy tắc có thể đề xuất các mức phạt tiền đối với những
hành vi lệch chuẩn trên MXH để răn đe sinh viên, giúp sinh viên cẩn trọng và
chuẩn mực hơn với các hành vi trên MXH của mình.
Tuy nhiên, bộ hướng dẫn không vì thế mà ảnh hưởng đến quyền tự do cá
nhân của sinh viên trong nhà trường trên không gian mạng. Bộ hướng dẫn tôn trọng
quyền tự do sử dụng MXH của người dùng nhưng những nội dung đăng tải, chia sẻ,
bình luận…trái với chuẩn mực đạo đức, trái với thuần phong mỹ tục và ảnh hưởng
trực tiếp đến uy tín, danh dự của sinh viên khác, của Nhà trường phải được nghiêm
khắc xử lý. Để MXH trở thành môi trường “sống” lành mạnh, bổ ích góp phần vào
sự hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên và nâng cao chất lượng giáo
dục, đào tạo của Nhà trường.
3.2. Khuyến nghị
Trên cơ sở kết quả đã được nghiên cứu, để góp phần đảm bảo hiệu quả sử
dụng MXH của sinh viên nhóm tác giả đề xuất một số khuyến nghị như sau:
3.2.1. Đối với Nhà trường và các phòng, khoa
Nhà trường cần tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa như hoạt động thể dục
thể thao, văn hóa văn nghệ, hội trại, các câu lạc bộ, các hoạt động cộng đồng tạo
sân chơi lành mạnh bổ ích cho sinh viên. Giúp sinh viên có cơ hội được giao lưu,
học hỏi, kết bạn và phát triển các kỹ năng của bản thân, xây dựng và phát triển các
mối quan hệ ngoài đời thực với bạn bè, thầy cô. Các hoạt động ngoại khóa phong
phú, bổ ích sẽ thu hút đông đảo sinh viên tham gia giảm bớt tình trạng sinh viên
thiếu sân chơi nên tiêu tốn thời gian vào những trò giải trí vô bổ trên mạng ảnh
hưởng đến sức khỏe và học tập.
Đầu tư nâng cấp và xây dựng các thiết chế văn hóa như nhà thi đấu đa năng,
sân bóng, hồ bơi…tạo điều kiện cho sinh viên có cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu
100
vui chơi giải trí, rèn luyện thân thể. Khi sinh viên có điều kiện, môi trường để tham
gia rèn luyện, vui chơi sẽ hạn chế thời gian sử dụng mạng xã hội.
Tổ chức các lớp bồi dưỡng, các buổi tập huấn về sử dụng, quản lý MXH cho
cán bộ, giảng viên, học viên và sinh viên trong toàn trường nhằm giúp cán bộ,
giảng viên, học viên và sinh viên có những hiểu biết đầy đủ về mạng xã hội, những
tác động của MXH mang đến và cả những cách thức bảo mật thông tin; kỹ năng sử
dụng MXH hiệu quả. Từ đó nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi sử dụng MXH
tích cực hơn, hiệu quả hơn cho cán bộ, giảng viên và sinh viên trường ĐHNVHN.
Nhà trường cần đầu tư thiết lập trang MXH của trường ĐHNVHN trên các
trang facebook, Youtube, zalo…giao cho một đơn vị cụ thể quản lý, duy trì để cập
nhật thông tin hoạt động, tuyển sinh, truyền thông và các văn bản, thông báo từ nhà
trường đến sinh viên nhanh chóng, hiệu quả. Ngoài ra, sử dụng MXH đa dạng,
phong phú từ hình thức đến nội dung phục vụ cho hoạt động truyền thông tuyển
sinh cho nhà trường trong đó chú trong đăng tải, chia sẻ, bình luận những nội dung
lành mạnh, tuyên dương những hành động đẹp của sinh viên trên không gian mạng
và ngoài đời thực để khuyến khích sinh viên sử dụng MXH có trách nhiệm hơn.
Nhà trường cần chỉ đạo nghiên cứu xây dựng và ban hành bộ quy tắc sử
dụng MXH dành cho cán bộ, giảng viên, người lao động, học viên và sinh viên
trong toàn trường. Bộ quy tắc là cơ sở pháp lý quan trọng để khen thưởng những
hành động đẹp và những đóng góp của sinh viên cho sự phát triển của nhà trường
ngoài đời thực cũng như trên không gian mạng. Ngoài ra, những hành vi thiếu
chuẩn mực, thiếu văn hóa của sinh viên cần có biện pháp nhắc nhở, răn đe và kỷ
luật thích đáng. Đặc biệt, những hành vi gây tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy
tín của giảng viên, sinh viên và của nhà trường cần phải xử lý ngay để làm gương
cho những sinh viên khác.
Các phòng khoa, trung tâm cần có sự quan tâm nhiều hơn, sát sao hơn đến
đời sống, nhu cầu của sinh viên để kịp thời nắm bắt những tâm tư nguyện vọng của
sinh viên, kịp thời giải đáp những vướng mắc sinh viên gặp phải để sinh viên có
hiểu biết đầy đủ, đúng đắn về các vấn đề trong nhà trường. Tránh trường hợp sinh
viên không được giải đáp thấu đáo đã đưa thông tin, những bức xúc cá nhân lên
không gian mạng tạo nên những trào lưu không tốt ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh
101
của Nhà trường.
Các Khoa cần chủ động tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục và các
hoạt động khác như nói chuyện chuyên đề, các cuộc thi nhỏ trong các liên chi đoàn
về các nội dung sử dụng MXH của sinh viên. Từ những hoạt động như vậy, sẽ nắm
bắt, định hướng hành vi sử dụng MXH của sinh viên. Kịp thời điều chỉnh những
hành vi lệch chuẩn như nói tục, chửi bậy trên không gian mạng ảnh hưởng không
tốt đến hình ảnh, nhân cách sinh viên Nội vụ.
Phòng Công tác sinh viên cần tham mưu cho Lãnh đạo Nhà trường đưa nội
dung sử dụng MXH thành một trong các tiêu chí đánh giá điểm rèn luyện theo từng
kỳ. Cộng điểm thưởng cho những sinh viên thường xuyên tham gia đăng bài, chia
sẻ những hành động đẹp, những tài liệu học tập có giá trị và các hoạt động trong
nhà trường phục vụ cho công tác truyền thông của nhà trường, đồng thời giáo dục,
uống nắn, răn đe, trừ điểm rèn luyện đối với những hành vi lệch chuẩn trên MXH
của sinh viên. Ngoài ra, đưa tiêu chí sử dụng MXH vào các nội dung xét học bổng,
xét kết nạp đảng và các danh hiệu khác trong nhà trường, nhằm thúc đẩy tính trách
nhiệm cao khi sử dụng MXH của sinh viên.
3.2.2. Đối với giảng viên, cố vấn học tập
Giảng viên, cố vấn học tập cần sát sao hơn với sinh viên lớp mình quản lý,
đặc biệt là những phát ngôn, hình ảnh, clip các em đăng tải trên MXH. Thường
xuyên nhắc nhở về hành vi sử dụng MXH trong các buổi sinh hoạt lớp để sinh viên
tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Cùng với đó, trang bị cho sinh viên
các kỹ năng sử dụng mạng xã hội hiệu quả để hạn chế sự lệ thuộc vào MXH dẫn
đến xa rời các mục tiêu trong cuộc sống.
Lồng ghép các nội dung sử dụng MXH vào các tiết học một cách nhẹ nhàng,
hài hước và bổ ích. Những tình huống gắn với sử dụng MXH nên được thiết kế và
lồng ghép vào các buổi học để sinh viên cùng nhau trao đổi, xử lý từ đó hình thành
kỹ năng sử dụng MXH cho sinh viên.
Mỗi giảng viên, CVHT phải là tấm gương về sử dụng MXH cho sinh viên
học tập và noi theo. GV, CVHT sử dụng MXH để đăng tải, chia sẻ những nội dung
học tập, học liệu, những thông báo thông tin của nhà trường một cách chính thống
sẽ là kênh thông tin đáng tin cậy để sinh viên theo dõi và thực hiện. GV, CVHT
102
tránh sa đà vào các chủ đề nhạy cảm, chưa kiểm chứng, những tranh luận không
cần thiết trên MXH sẽ ảnh hưởng đến uy tín của GV, CVHT trong sinh viên.
Mỗi GV, CVHT không ngừng nâng cao hiểu biết về MXH, trang bị cho mình
kỹ năng sử dụng MXH và kỹ năng xử lý những tình huống trên không gian mạng để
kịp thời xử lý, điều chỉnh những phát sinh trên MXH của sinh viên mình quản lý.
3.2.3. Đối với sinh viên
Cần nâng cao hiểu biết về mạng xã hội. Trước khi quyết định sử dụng MXH
hãy dành thời gian tìm hiểu về MXH như nguồn gốc ra đời, những lợi ích và tác
hại, cách thức bảo mật thông tin để có sự lựa chọn phù hợp với nhu cầu của mình.
Cần chọn lọc những thông tin, hình ảnh khi đăng tải, chia sẻ trên không gian
mạng, tránh bị lợi dụng vào mục đích xấu.
Tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các câu lạc bộ, các hoạt động
thiện nguyện nhằm hạn chế thời gian sử dụng MXH mỗi ngày. Chú trọng mở rộng,
xây dựng các mối quan hệ xã hội tích cực ngoài đời thực thay vì kết thật nhiều bạn
trên thế giới ảo.
Cẩn trọng với những phát ngôn, bình luận, chia sẻ trên MXH tránh làm tổn
thương người khác và bị người khác hiểu sai về mình. Những hành vi đăng tải thiếu
thận trọng có thể kéo sinh viên vào những rắc rối không đáng có, thậm chí vi phạm
pháp luật.
Xác định thật chính xác mục đích sử dụng MXH của bản thân, trong đó định
hướng học tập là mục đích chính khi sử dụng MXH. Để MXH trở thành công cụ
hữu hiệu cho học tập và rèn luyện, tránh lệ thuộc, sa đà vào MXH ảnh hưởng đến
chất lượng học tập và cuộc sống.
Khi có những bức xúc, những vướng mắc về các vấn đề trong nhà trường,
cần nhanh chóng chủ động trao đổi thẳng thắn với GV, CVHT hoặc các phòng khoa
chức năng. Tránh hành vi sử dụng MXH thiếu suy nghĩ, những phát ngôn gây sốc,
thiếu văn hóa trên không gian mạng ảnh hưởng đến bản thân và Nhà trường.
Tham gia các buổi đối thoại giữa sinh viên với nhà trường để lắng nghe
những giải đáp, những hoạt động, những thông tin chính thức của nhà trường, từ đó
giúp sinh viên có cách nhìn nhận, đánh giá đầy đủ hơn về các nội dung trong nhà
trường. Từ đó, đồng hành, tin tưởng vào chủ trương, chính sách và mục tiêu phát
103
triển của nhà trường.
Tiểu kết chương 3
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài, nhóm nghiên cứu mạnh
dạn đề xuất 6 nhóm giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng MXH của
sinh viên trong thời gian tới, đó là: tăng cường nhận thức của SV về mạng xã hội;
trang bị kỹ năng sử dụng MXH hiệu quả cho sinh viên; xây dựng bộ hướng dẫn sử
dụng MXH của sinh viên; nâng cao trách nhiệm của GV, CVHT, cán bộ Đoàn thanh
niên; tổ chức phong phú các hoạt động ngoại khóa cho sinh viên, kết hợp nội dung
sử dụng MXH của sinh viên với các nội dung khác trong Nhà trường. Các giải pháp
cần được triển khai càng sớm càng tốt nhằm tạo sân chơi lành mạnh bổ ích cho sinh
viên cũng như có căn cứ pháp lý để điều chỉnh, định hướng hành vi sử dụng MXH
cho sinh viên mang tính hiệu quả. Cùng với đó, nhóm nghiên cứu cũng đưa ra một
số khuyến nghị đối với Nhà trường, các phòng khoa; đối với GV, CVHT và đối với
SV. Tuy nhiên, khuyến nghị và giải pháp phải được tiến hành đồng bộ, linh hoạt và
nhanh chóng, nó không chỉ góp phần đảm bảo hiệu quả sử dụng MXH cho sinh
viên mà còn thể hiện sự quan tâm của Lãnh đạo Nhà trường, là yếu tố tạo ra sự
khác biệt trong các chính sách dành cho sinh viên, khẳng định thương hiệu của
104
trường ĐHNVHN trong hệ thống các trường Đại học hiện nay.
KẾT LUẬN
Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng
người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và
trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân,
diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các
hình thức dịch vụ tương tự khác. Do vậy, MXH đã thu hút nhiều người tham gia
đặc biệt là giới trẻ và sinh viên sử dụng nó như một tiện ích được ưa chuộng nhất.
Với những chức năng đa dạng kéo theo sự gia tăng ngày càng đông đảo các thành
viên, MXH ở một khía cạnh nào đó đã làm thay đổi thói quen, tư duy, lối sống, văn
hóa… của một bộ phận thanh niên, sinh viên nói chung và sinh viên trường
ĐHNVHN nói riêng, bằng những nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng nhóm
nghiên cứu đưa ra một số kết luận như sau:
Đa số sinh viên trường ĐHNVHN đều sử dụng MXH, các trang mạng được
sử dụng nhiều như facebook, Intagsram, Youtube với mức độ thường xuyên sử
dụng. Sinh viên dành trung bình 5,7 giờ mỗi ngày để sử dụng MXH, trong đó tỉ lệ
sinh viên dành từ 3 đến 5 giờ, 5 đến 8 giờ và hơn 8 giờ mỗi ngày cho MXH chiếm
tỉ lệ lớn. Phương tiện chủ yếu sinh viên sử dụng để truy cập MXH là điện thoại
thông minh.
Trung bình thời gian sử dụng MXH mỗi ngày của sinh viên rất lớn, nhưng
nhu cầu sử dụng MXH tương đối đơn giản, trong đó, học tập không phải là nhu cầu
và mục đích sử dụng cao nhất của sinh viên. Một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này là bởi những tính năng của MXH thường hướng người dùng nói
chung, sinh viên nói riêng đến với các mục đích giải trí, kết nối tương tác với các
tính năng đa dạng, hấp dẫn hơn như nghe nhạc, xem phim, chơi game trực truyến,
checkin, livestream, chỉnh sửa ảnh nhiều hơn là các tính năng phục vụ cho hoạt
động học tập, nghiên cứu.
Thông qua nội dung “đăng tải”, “chia sẻ”, “like”, “comment” cho thấy hành
vi sử dụng MXH của sinh viên tương đối đa dạng và phong phú. Dù học tập không
phải là nhu cầu và mục đích cao nhất khi sử dụng MXH nhưng những nội dung liên
quan đến học tập, nghiên cứu, những thông báo, thông tin từ GV, CVHT, từ các
105
phòng khoa được sinh viên chia sẻ nhiều hơn các nội dung khác. Bên cạnh đó, bộ
phận sinh viên đăng tải tất cả mọi thứ của cá nhân lên MXH và chia sẻ tất cả thông
tin của bản thân, bạn bè lên MXH là rất đang được quan tâm. Chính hành vi sử
dụng thiếu thận trọng này có thể gây ra những hệ lụy khôn lường cho sinh viên.
Đặc biệt, sinh viên sử dụng MXH mọi lúc mọi nơi từ lúc thức dậy, trước khi
đi ngủ, đi gặp gỡ bạn bè, trên xe bus, uống café, nghỉ giải lao giữa giờ, trong WC
và ngay cả trong giờ học. Điều này cho thấy tình trạng lệ thuộc, nghiện MXH đã
xảy ra đối với một số sinh viên khi mà sinh viên rất khó để rời xa thiết bị điện
thoại, rời xa MXH dẫn đến hành vi sử dụng MXH trong giờ học, dù biết rằng đó là
điều không được làm.
Đa số sinh viên chưa biết cách bảo mật thông tin cá nhân trên không gian
mạng, dẫn đến tình trạng bị kẻ xấu lợi dụng hình ảnh, bị đánh cắp thông tin cá
nhân, đánh cắp tài khoản để thực hiện những hành vi xấu tổn hại đến hình ảnh và
uy tín của SV.
Sinh viên chưa nhận thức được hết những lợi ích mà MXH mang lại cho sinh
viên khi sử dụng cũng như những tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh
viên. Mạng xã hội đóng vai trò rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn tới sinh viên
trường ĐHNVHN, nó không chỉ ảnh hưởng đối với đời sống hàng ngày mà nó còn
ảnh hưởng tới việc học tập, nó là phương tiện giúp sinh viên học tập và phát triển
bản thân hơn nếu sinh viên biết tận dụng những lợi thế của MXH nhưng chính
MXH cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đến sinh viên trong học tập và cuộc sống.
Tóm lại, sử dụng MXH của sinh viên là một vấn đề rộng với nhiều nội dung
nghiên cứu khác nhau. Trong phạm vi thời gian và khả năng nghiên cứu, nhóm tác
giả chỉ đề cập được những khía cạnh cơ bản nhất về vấn đề sử dụng MXH của sinh
viên như nhu cầu sử dụng; mục đích sử dụng; mức độ sử dụng; hành vi sử dụng;
cách thức bảo mật thông tin và những tác động khi sử dụng MXH của sinh viên. Đây
sẽ là một trong những công trình nghiên cứu tiền đề cho những công trình tiếp theo
với các quy mô khác nhau để tiếp tục nghiên cứu, khai thác và có những giải pháp
khả thi nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng MXH của sinh viên trường
106
ĐHNVHN trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Lê Hòa An (2013), “Nghiên cứu về hành vi sử dụng Facebook của
con người- một thách thức cho tâm lí học hiện đại”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu, Nguyễn Thạc (2007), Hoạt động Giao tiếp
Nhân cách, Nxb Đại Học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Thị Bắc (2018), Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên
trường Đại học Hải Dương, Luận văn thạc sĩ Tâm lý học, Viện Hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam.
4. H.Kent Baker and Jonh R.Nofsinger (2012), Tài chính hành vi, Nxb Kinh
tế TP. HCM.
5. Lê Minh Công (2011), Tác động của Internet đến nhận thức và hành vi
giới tính, tình dục ở thanh thiếu niên, Luận văn thạc sĩ ngành Tâm lý học.
6. Chính phủ (2013), Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ về quản
lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet.
7.Vũ Dũng (2008), Từ điển tâm lý học, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện
Tâm lý học, NXB từ điển bách khoa Tr259
8. Trần Thị Minh Đức (2014), Sử dụng mạng xã hội trong sinh viên Việt
Nam, Tạp chí khoa học Việt Nam.
9. Bùi Hương Giang, Ngô Minh Hường (2008), Tìm hiểu ngôn ngữ trên mạng
xã hội Facebook, QH-2008-X-NN, Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội.
10. Phạm Minh Hạc (1989) Hành vi và hoạt động, Nxb Giáo dục.
11. Phạm Minh Hạc (chủ biên) Thái Duy Tuyên ( 20012) Định hướng giá trị
con người Việt Nam -Thời kì đổi mới và hội nhập, Nxb Chính trị Quốc gia
12. Phạm Minh Hạc (2003), biên dịch và giới thiệu Một số công trình Tâm lý
học của A.N.Leonchiev, Nxb Giáo dục
13. Bùi Thị Hân (2013), Nhận thức và thái độ của học sinh truờng Trung
cấp Đông Duơng về mạng xã hội, Luận văn thạc sĩ, ĐH Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh.
14. Nguyễn Thị Hậu (2013), “Mạng xã hội với giới trẻ Thành phố Hồ Chí
Minh”, Viện nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn Hóa.
15. Nguyễn Thị Kim Hoa, Nguyễn Lan Nguyên 2016), “Tác động của
mạng xã hội Facebook đối với sinh viên hiện nay”, tạp chí Khoa học Đại học quốc
107
gia Hà Nội
16. Bùi Thu Hoài (2014) Tác động của mạng xã hội đến giới trẻ, luận văn
thạc sỹ, Trường Đại học KHXHNV.
17. Tống Thị Thu Hương (2014), Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh
viên trường Đại học FPT, luận văn thạc sĩ trường Đại học khoa học xã hội và nhân
văn – Đại học quốc gia Hà Nội.
18. Bạch Huyết (2008), Định nghĩa Hành vi, Nxb Hà Nội.
19. Uyên Huynh (2013), Có quá nhiều bạn trên Facebook, bao nhiêu là đủ,
Nxb Hà Nội.
20. B.R.Hergenhahn (2003), Nhập môn lịch sử Tâm lý học, Nxb Thống kê.
21. A.N. Leeonchiev (1987), Hoạt động – ý thức- nhân cách”, Nxb Giáo dục.
22. Đỗ Long (2007), Những nghiên cứu Tâm lý học, Nxb Chính trị Quốc gia.
23. Lê Tuyết Mai (2016), Báo cáo chuyên đề các cách phân loại hành vi của
con người, Trường Đại học Hồng Đức.
24. Lưu Bá Lộc (2013), Tác động của mạng xã hội với sinh viên Đại học
Văn Lang, Khóa luận tốt nghiệp.
25. Đặng Thị Nga (2013), nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên cao
đẳng su phạm Thái Bình, Luận văn thạc sỹ, Cao đẳng SP Thái Bình.
26. Nguyễn Thị Hồng Nga (2010), Hành vi con người và môi trường, Nxb
Lao động - Xã hội, Hà Nội Tr 19.
27. Đặng Thanh Nga (2006), Từ khái niệm hành vi đến khái niệm hành vi
phạm tội, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 6, tr 75-77.
28. Hoàng Phê (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr 860
29. Lê Thị Linh Trang (2013), Nghiên cứu hành vi văn minh đô thị của thanh
niên Thành phố Hồ Chí Minh, luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
30. Nguyễn Thị Tứ (2012), Giáo trình Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư
phạm, Nxb Đại học Sư phạm Tp. HCM.
31. Nguyễn Quan Uẩn (2013), Giáo trình tâm lý học đại cương, Nxb Đại
học sư phạm Hà Nội.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
32. Ana M.Martinez Aleman and Catherine Lynk Wartman (2009), Online
Social Networking on Campus: Understanding What Matters in Student Culture,
Routledge Taylor and Francise.
33. John Scott and Peter J. Carrington (1996), The Sage handbook of Social
108
Network Analysis, Forest Stewardship Council A.C
34. Peter J. Carrington, John Scott, Stanley Wasserman (2005), Models and
Methods in Social Network Analysis, Cambridge University Press
35. Xiaoming Fu, Jar-Der Luo and Margarete Boos (2017), Social Network
Analysis: Interdisciplinary Approaches and Case studies, CRC Press.
MỘT SỐ TRANG WEBSITE
36.https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/22-trieu-hoc-sinh-sinh-vien-viet-
nam-su-dung-mang-xa-hoi-post203870.gd.
37.https://vnetwork.vn/news/cac-so-lieu-thong-ke-internet-viet-nam-2019.
38.https://tailieu.vn/doc/su-dung-mang-xa-hoi-trong-sinh-vien-viet-nam-
2009696.html.
39.https://luatvietnam.vn/an-ninh-quoc-gia/luat-an-ninh-mang-2018-164904-
d1.html.
40.https://thuvienphapluat.vn/van-ban/cong-nghe-thong-tin/Nghi-dinh-15-
2020-ND-CP-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-linh-vuc-buu-chinh-vien-thong-tan-so-
vo-tuyen-dien-350499.aspx.
41.https://cand.com.vn/Cong-nghe/Nguy-hiem-tu-viec-lot-lo-thong-tin-ca-
nhan-tren-mang-Internet-555131/
42.https://thanhtra.com.vn/xa-hoi/doi-song/Can-trong-khi-quan-ly-thong-tin-
ca-nhan-tren-mang-xa-hoi-153671.html
43.https://news.timviec.com.vn/bao-mat-thong-tin-la-gi-cach-bao-ve-thong-
tin-ca-nhan-tren-mang-51079.html
44.https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/thoi
su/27313/quyet-liet-xu-ly-nan-tin-gia-ve-dich-ncov
45.https://www.khoahocphothong.com.vn/google-authenticator-qua-n-ly-ma-
xa-c-minh-hai-buo-c-cho-ca-c-di-ch-vu-da-m-may-36655.html
46.https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/17446/bao-cao-ket-qua-tu-danh-gia-
nhiem-vu-khcn-cap-quoc-gia--mang-xa-hoi-trong-boi-canh-phat-trien-xa-hoi-
thong-tin-o-viet-nam--ma-so--kx01-10-16-20.aspx
47.https://baoquocte.vn/chung-ta-da-su-dung-mang-xa-hoi-mot-cach-thong-
109
thai-65014.html
PHỤ LỤC
110
Phụ lục 01
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
(Dành cho Sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội)
Để góp phần đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Nội vụ
Hà Nội, thực trạng và giải pháp” Rất mong bạn tham gia bằng cách tích “V” hoặc
khoanh tròn vào các phương án phù hợp với suy nghĩ của bạn trong các câu hỏi dưới đây.
(mọi thông tin chỉ phục vụ quá trình nghiên cứu).
Câu 1. Bạn có sử dụng mạng xã hội không?
a. Có b. Không
Câu 2. Bạn thường sử dụng những trang mạng xã hội nào sau đây?
Mạng xã hội
Mức độ sử dụng
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Hiếm khi
Chưa bao giờ
Youtube
Zalo
Viber
Zing me
Myspace
Mạng khác
Câu 3. Trung bình mỗi ngày bạn dành bao nhiêu thời gian online mạng xã hội?
a. Dưới 30 phút
b. Từ 30 phút đến 1 giờ
c. 1 – 3 giờ
d. 3 – 5 giờ
e. 5 – 8 giờ
f. Nhiều hơn 8 giờ
g. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)…………………………………………….
111
Câu 4. Bạn sử dụng mạng xã hội vào thời điểm nào?
Nội dung
Mức độ sử dụng
Thường
Thỉnh
Hiếm
Chưa
xuyên
thoảng
khi
bao giờ
Trong giờ học
Nghỉ giải lao giữa các tiết học
Trên xe (xe máy, xe ô tô…)
Khi đang ăn
Khi ở trong toilet
Trước khi đi ngủ
Khi vừa thức dậy
Khi gặp gỡ bạn bè
Khi đang làm việc
Khi chờ đợi một việc/một người nào đó
Khi tham gia hoạt động giải trí (uống café, xem
phim…)
Thời gian khác
Câu 5. Bạn truy cập mạng xã hội bằng thiết bị nào?
a. Máy tính để bàn
b. Máy tính xách tay (laptop)
c. Máy tính bảng
d. Điện thoại thông minh
e. Thiết bị khác (vui lòng ghi rõ) …………………………………………..
Câu 6. Xin vui lòng cho biết, Mục đích sử dụng mạng xã hội của bạn là?
(có thể chọn nhiều đáp án)
a. Cập nhật tin tức mới
b. Mục đích học tập (tìm kiếm, chia sẻ tài liệu với thầy cô và nhóm học tập)
c. Kết nối và giữ liên lạc với bạn bè
d. Tham gia các nhóm trên mạng xã hội
e. Xây dựng và quảng bá hình ảnh của bản thân
f. Giải trí (chơi game, xem phim, đọc báo, đọc truyện…)
i. Quảng cáo, kinh doanh, bán hàng online
k. Tìm việc làm thêm
112
l. Chỉ để giết thời gian
l. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)………………………………………………….
Câu 7. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của bạn là:
a. Nhu cầu chia sẻ (bày tỏ cảm xúc, gửi quà tặng, đăng status, comment...)
b. Nhu cầu thể hiện bản thân (chia sẻ hình ảnh cá nhân...)
c. Nhu cầu học tập (tìm kiếm, trao đổi thông tin học tập, nghiên cứu…)
d. Nhu cầu tìm kiếm việc làm (thông tin tuyển dụng, việc làm thêm…)
e. Nhu cầu giải trí (chơi game, nghe nhạc, xem phim, đọc sách, truyện…)
f. Nhu cầu kinh doanh (quảng cáo, mua, bán hàng online…)
g. Nhu cầu tương tác (giao lưu, kết bạn, tìm kiếm người thân, trò chuyện…)
h. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)……………………………………………. …
Câu 8. Những hành vi khi sử dụng mạng xã hội của bạn là?
Nội dung
Mức độ sử dụng
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Hiếm khi
Chưa bao giờ
1. Hành vi “đăng tải”
Đăng tải tất cả mọi thứ về cuộc sống của mình
Đăng tải bài viết, video liên quan đến học tập của mình
Đăng các group bán hàng online
Đăng các bức ảnh “sexy” hoặc thông tin gây sốc để câu
like
Đăng tải bài báo nhằm kêu gọi sự giúp đỡ đối với những
hoàn cảnh khó khăn
Đăng thông tin chính thống về dịch bệnh
Đăng tải thông báo từ giảng viên, cố vấn học tập, đoàn
thanh niên…liên quan đến học tập, nghiên cứu khoa học
2. Hành vi “chia sẻ”
Chia sẻ mọi thứ liên quan đến cá nhân
Chia sẻ kiến thức liên quan đến học tập
Chia sẻ những vấn đề về dịch bệnh
Chia sẻ thông tin về kinh tế, chính trị
Chia sẻ công tác tình nguyện, thiện nguyện của đoàn
trường
113
Chia sẻ thông báo từ giảng viên, cố vấn học tập, đoàn
thanh niên hoặc các phòng ban trong nhà trường
Chia sẻ các trang bán hàng online
Chia sẻ tất cả những thông tin, status của người thân, bạn
bè
3. Hành vi “Like”
“Like” ảnh
“Like” stastus
“Like” fan pape yêu thích
“Like” commet của người khác
“Like” video
“Like” dạo: like tất cả những gì được hiển thị
4. Hành vi “commet”
“Commet” tất cả thông tin liên quan đến học tập
Chỉ “commet” về ảnh, stastus của bạn bè và người thân
“Commet” tất cả thông tin mình đọc được
Không “commet” khi không thực sự cần thiết.
Câu 9. Mạng xã hội mang đến cho sinh viên lợi ích gì là?
a. Giúp SV cập nhật thông tin nhanh chóng, hiệu quả. b. Giúp Sv tìm kiếm và trao đổi tài liệu học tập, nghiên cứu góp phần nâng cao
kết quả học tập và rèn luyện
c. Giúp SV kết nối nhanh chóng, thuận lợi với Giảng viên, cố vấn học tập và
các phòng khoa khi cần thiết
d. Giúp SV học hỏi và phát triển kỹ năng và bày tỏ quan điểm cá nhân về các
lĩnh vực liên quan.
e. Giúp SV giới thiệu hình ảnh cá nhân đến mọi người từ đó nâng cao cơ hội
phát triển khả năng của bản thân
f. Giúp SV kết nối bạn bè trên khắp thế giới g. Tạo môi trường kinh doanh và các hoạt động buôn bán mang lại thu nhập
cao, tìm kiếm khách hàng tiềm năng.
h. Giúp SV nhận biết và cảnh giác với các thủ đoạn lừa đảo trên mạng xã hội
và ở đời sống thực.
i. Giúp SVdễ dàng tiếp cận các thông tin tuyển dụng việc làm j. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)…………………………………………….
Câu 10. Mạng xã hội tác động tiêu cực đến sinh viên như thế nào?
a. Tạo ra hội chứng “nghiện” mạng xã hội
114
b. Lãng phí thời gian và sao nhãng học hành c. Tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu ảnh hưởng đến kết quả học tập d. Lệ thuộc vào mạng xã hội và hạn chế sự sáng tạo e. Gia tăng các hành vi thiếu văn hóa (nói tục, chửi bậy…) trên không gian
mạng
f. Gia tăng nhu cầu sống “ảo” trên mạng xã hội. g. Làm bạn mất ngủ, mệt mỏi và lười biếng vận động h. Gia tăng hội chứng nghiện game và phim trên mạng xã hội i. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)………………………………………………
Câu 11. Cách thức bảo mật thông tin cá nhân trên mạng xã hội của bạn là?
a. Cảnh giác với những tin nhắn, đường link lạ b. Không đưa thông tin về cá nhân trên mạng xã hội c. Để mật khẩu khó nhớ, không chia sẻ mật khẩu với bất kỳ ai d. Khoanh vùng nhóm bạn e. Hạn chế liên kết với các tài khoản khác f. Thường xuyên thay đổi mật khẩu g. Không truy cập mạng công cộng h. Cách thức khác………………………………………………………. …
Chân thành cảm ơn bạn.
115
Phụ lục 02
(Dành cho Giảng viên, Cố vấn học tập của trường Đại học Nội vụ Hà Nội)
Để góp phần đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Nội
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
vụ Hà Nội, thực trạng và giải pháp” Rất mong Thầy/cô tham gia bằng cách khoanh
tròn vào các phương án phù hợp trong các câu hỏi dưới đây.
(mọi thông tin chỉ phục vụ quá trình nghiên cứu).
Câu 1. Theo Thầy/cô, mức độ sử dụng mạng xã hội của sinh viên hiện nay là:
a. Rất thường xuyên b. Thường xuyên c. Thỉnh thoảng d. Chưa bao giờ
Câu 2. Theo Thầy/cô, sinh viên sử dụng mạng xã hội để làm gì?
a. Cập nhật tin tức mới b. Tìm kiếm, chia sẻ tài liệu hoặc thông tin liên quan đến học tập, nghiên cứu c. Kết nối và giữ liên lạc với bạn bè d. Tham gia các nhóm trên mạng xã hội e. Xây dựng và quảng bá hình ảnh của bản thân f. Chơi game i. Quảng cáo, kinh doanh, bán hàng online k. Tìm việc làm thêm h. Chỉ để giết thời gian k. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)…………………………………………
Câu 3. Theo Thầy/cô, nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên là:
a. Nhu cầu chia sẻ (bài tỏ cảm xúc, gửi quà tặng, đăng status, comment…) b. Nhu cầu thể hiện bản thân (đăng tải hình ảnh cuộc sống cá nhân…) c. Nhu cầu học tập (tìm kiếm, trao đổi thông tin học tập, nghiên cứu…) d. Nhu cầu tìm kiếm việc làm (thông tin tuyển dụng, việc làm thêm…) e. Nhu cầu giải trí (chơi game, nghe nhạc, xem phim, đọc sách, truyện…) f. Nhu cầu kinh doanh (quảng cáo, mua, bán hàng online…) g. Nhu cầu tương tác (giao lưu, kết bạn, tìm kiếm người thân, trò chuyện…) h. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)…………………………………………. …
Câu 4. Theo Thầy/cô, mạng xã hội mang đến cho sinh viên những lợi ích gì?
a. Giúp sinh viên dễ dàng cập nhật thông tin nhanh chóng, hiệu quả. b. Giúp sinh viên học hỏi và phát triển kỹ năng và bày tỏ quan điểm cá nhân về
các lĩnh vực liên quan.
c. Giúp sinh viên giới thiệu hình ảnh cá nhân đến mọi người từ đó nâng cao cơ
hội phát triển khả năng của bản thân
116
d. Giúp sinh viên kết nối bạn bè trên khắp thế giới e. Tạo môi trường kinh doanh và các hoạt động buôn bán mang lại thu nhập
cao, tìm kiếm khách hàng tiềm năng.
f. Giúp sinh viên nâng cao cảnh giác với các thủ đoạn lừa đảo trên mạng xã
hội và ở đời sống thực.
g. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)…………………………………………….
Câu 5. Theo Thầy/cô, MXH tác động tiêu cực đến sinh viên như thế nào?
a. Tạo ra hội chứng “nghiện” mạng xã hội dẫn đến giảm tương tác trong các mối
quan hệ xã hội ngoài đời thực của sinh viên.
b. Lãng phí thời gian và sao nhãng học hành c. Tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu ảnh hướng đến sức khỏe và
kết quả học tập
d. Sinh viên lệ thuộc vào mạng xã hội và hạn chế sự sáng tạo e. Gia tăng các hành vi thiếu văn hóa của một bộ phận sinh viên trên không gian
mạng
f. Gia tăng tỉ lệ sinh viên sống “ảo” trên mạng xã hội. g. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)…………………………….……………………
Xin cảm ơn Thầy/cô.
117
Phụ lục 03
(Dành cho Đại diện Ban giám hiệu trường ĐHNVHN)
Để góp phần đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Nội
PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU
vụ Hà Nội, thực trạng và giải pháp” Rất mong Thầy/cô vui lòng cho biết ý kiến của
mình với một số câu hỏi sau.
(mọi thông tin chỉ phục vụ quá trình nghiên cứu).
Câu 1. Theo Thầy/Cô, sinh viên trường ĐHNVHN sử dụng MXH ở mức độ nào?
Câu 2. Theo Thầy/Cô, MXH đã tác động đến cho SV ĐHVNHV như thế nào?
Câu 3. Theo Thầy/Cô, mục đích sử dụng MXH của SV trường ĐHNVHN là gì?
Câu 4. Thầy/Cô đánh giá như thế nào về việc sử dụng MXH trong công tác truyền
thông và tuyển sinh của trường ĐHNVHN?
Câu 5. Xin Thầy/Cô chia sẻ một số lời khuyên trong việc sử dụng MXH của sinh viên
trường ĐHNVHN hiện nay?
Câu 6. Xin Thầy/Cô cho biết, Nhà trường đã và sẽ có những giải pháp nào để định
hướng cho sinh viên trong việc sử dụng MXH hiệu quả hơn?
Xin chân thành cảm ơn Thầy/Cô.
118
Phụ lục 04
(Dành cho Đại diện Lãnh đạo các đơn vị)
Để góp phần đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Nội
PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU
vụ Hà Nội, thực trạng và giải pháp” Thầy/cô vui lòng cho biết ý kiến của mình với
một số câu hỏi sau. (mọi thông tin chỉ phục vụ quá trình nghiên cứu).
Câu 1. Theo Thầy/cô sinh viên trường ĐHNVHN sử dụng MXH ở mức độ nào?
Câu 2. Theo Thầy/cô, mục đích sử dụng MXH của SV trường ĐHNVHN là gì?
Câu 3. Theo Thầy/cô, MXH đã tác động đến cho SV ĐHVNHV như thế nào?
Câu 4. Nếu có lời khuyên dành cho sinh viên trong vấn đề sử dụng MXH hiện nay,
Thầy/cô sẽ chia sẻ lời khuyên gì với các em?
Câu 5. Thầy/Cô đánh giá như thế nào về hành vi sử dụng MXH của sinh viên trường
ĐHNVHN hiện nay?
Câu 6. Theo Thầy/cô, các Khoa, đơn vị cần có những giải pháp gì để nâng cao hiệu
quả sử dụng MXH của sinh viên trong thời gian tới?
Xin cảm ơn Thầy/cô.
119
Phụ lục 05
(Dành cho Giảng viên, cố vấn học tập)
Để góp phần đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Nội
PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU
vụ Hà Nội, thực trạng và giải pháp” Thầy, cô vui lòng cho biết ý kiến của mình với
một số câu hỏi sau. (mọi thông tin chỉ phục vụ quá trình nghiên cứu).
Câu 1. Theo Thầy/cô nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên là gì?
Câu 2. Theo Thầy/cô mục đích chính khi sử dụng MXH của sinh viên là gì?
Câu 3. Thầy/cô đánh giá như thế nào về việc sinh viên sử dụng điện thoại truy cập
MXH trong giờ học?
Câu 4. Thầy/cô đánh giá như thế nào về mức độ sử dụng MXH của sinh viên?
Câu 5. Theo thầy/cô MXH đã tác động đến sinh viên như thế nào?
Chân thành cảm ơn Thầy/cô.
120
Phụ lục 06
(Dành cho sinh viên trường ĐHNVHN)
Để góp phần đánh giá thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Nội
PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU
vụ Hà Nội, thực trạng và giải pháp” Các bạn vui lòng cho biết ý kiến của mình với
một số câu hỏi sau. (mọi thông tin chỉ phục vụ quá trình nghiên cứu).
Câu 1. Bạn có sử dụng MXH không? Bạn thường sử dụng MXH nào?
Câu 2. Thời điểm sử dụng MXH chủ yếu vào lúc nào?
Câu 3. Bạn dành bao nhiêu thời gian mỗi ngày cho MXH?
Câu 4. MXH mang lại cho bạn những lợi ích và tác hại gì?
Câu 5. Nếu một ngày bạn không sử dụng MXH, bạn sẽ cảm thấy như thế nào?
Câu 6. MXH có ảnh hưởng đến kết quả học tập của bạn không?
Câu 7. Bạn thường đăng tải, chia sẻ, like, comment điều gì trên không gian mạng?
Câu 8. Cách thức bảo mật thông tin của bạn trên MXH là gì?
Chân thành cảm ơn bạn.
121
Phụ lục Bảng số liệu
Câu 1. Theo Thầy/cô, mức độ sử dụng mạng xã hội của sinh viên hiện nay là:
Mức độ sử dụng MXH của sinh viên
N
%
70
100
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
0
0
Hiếm khi
0
0
Chưa bao giờ
0
0
Câu 2. Theo Thầy/cô, sinh viên sử dụng mạng xã hội để làm gì?
Mục đích sử dụng MXH
N
%
Cập nhật tin tức mới
67
95.7
Mục đích học tập (tìm kiếm, chia sẻ tài liệu với thầy cô và nhóm học tập)
54
77.1
Kết nối và giữ liên lạc với bạn bè
50
71.4
Tham gia các nhóm trên mạng xã hội
32
45.7
Xây dựng và quảng bá hình ảnh của bản thân
45
64.3
Giải trí (chơi game, xem phim, đọc báo, đọc truyện…)
48
68.6
Quảng cáo, kinh doanh, bán hàng online
43
61.4
Tìm việc làm thêm
38
54.3
Chỉ để giết thời gian
41
58.6
Ý kiến khác
0
0
Câu 3. Theo Thầy/cô, nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên là:
Nhu cầu sử dụng MXH
N
%
Thứ bậc
a. Nhu cầu chia sẻ (bày tỏ cảm xúc, gửi quà tặng, đăng status, comment...)
3
57 81.4
b. Nhu cầu thể hiện bản thân (chia sẻ hình ảnh cá nhân…)
5
49 70.0
c. Nhu cầu học tập (tìm kiếm, trao đổi thông tin học tập, nghiên cứu…)
2
59 84.3
d.Nhu cầu tìm kiếm việc làm (thông tin tuyển dụng, việc làm thêm…)
7
37 52.9
e. Nhu cầu giải trí (chơi game, nghe nhạc, xem phim, đọc sách, truyện…)
1
68 97.1
f. Nhu cầu kinh doanh (quảng cáo, mua, bán hàng online…)
6
46 65.7
122
52 74.3
4
g. Nhu cầu tương tác (giao lưu, kết bạn, tìm kiếm người thân, bạn bè, trò chuyện…)
Ý kiến khác
0
0
Câu 4. Theo Thầy/cô, mạng xã hội mang đến cho sinh viên những lợi ích gì? Lợi ích khi sử dụng MXH
N
%
Giúp sinh viên dễ dàng cập nhật thông tin nhanh chóng, hiệu quả.
60
85.7
Giúp sinh viên học hỏi và phát triển kỹ năng và bày tỏ quan điểm cá nhân về các lĩnh vực liên quan.
54
77.1
Giúp sinh viên giới thiệu hình ảnh cá nhân đến mọi người từ đó nâng cao cơ hội phát triển khả năng của bản thân
50
71.4
Giúp sinh viên kết nối bạn bè trên khắp thế giới
60
85.7
48
68.6
Tạo môi trường kinh doanh và các hoạt động buôn bán mang lại thu nhập cao, tìm kiếm khách hàng tiềm năng. Giúp sinh viên nâng cao cảnh giác với các thủ đoạn lừa đảo trên mạng xã hội và ở đời sống thực.
32
45.7
N
%
60 56
85.7 80.0
45
64.3
42
60.0
Sinh viên lệ thuộc vào mạng xã hội và hạn chế sự sáng tạo Gia tăng các hành vi thiếu văn hóa của một bộ phận sinh viên trên không gian mạng Gia tăng tỉ lệ sinh viên sống “ảo” trên mạng xã hội.
54 43
77.1 61.4
123
Câu 5. Theo Thầy/cô, mạng xã hội tác động tiêu cực đến SV như thế nào? Tác động tiêu cực của MXH Tạo ra hội chứng “nghiện” mạng xã hội dẫn đến giảm tương tác trong các mối quan hệ xã hội ngoài đời thực của sinh viên. Lãng phí thời gian và sao nhãng học hành Tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu ảnh hướng đến sức khỏe và kết quả học tập