SỞ GD & ĐT QUẢNG NAM ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ II MÔN NGỮ VĂN 11
TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN NĂM HỌC: 2023 - 2024
Thời gian làm bài 90 phút (không tính thời gian phát
đề)
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (6.0 điểm)
Đọc văn bản và trả lời câu hỏi từ 1 đến 8
ĐI THI TỰ VỊNH
Đi không, há lẽ trở về không?
Cái nợ cầm thư phải trả xong!
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết?
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.
Nguyễn Công Trứ
Chú thích:
- Cầm thư: đèn sách
- Điền viên: ruộng và vườn
- Tuế nguyệt: Năm tháng, tuổi tác
- Thân thế: Cuộc đời và sự nghiệp của một người
- Tang bồng: mộng công danh, chí làm trai, hiểu rộng ra là ước vọng cống hiến cho
dân tộc
Câu 1: Xác định thể thơ của văn bản trên (0.5đ)
Câu 2: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản (0.5đ)
Câu 3: Biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ? (0.5đ)
Đi không, há lẽ trở về không?
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết?
Câu 4: Nhận xét về chí làm trai của tác giả được thể hiện trong hai câu thơ (1.0đ)
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Câu 5: Dựa vào nhan đề và văn cảnh bài thơ xác định hoàn cảnh sáng tác của bài thơ
(1.0đ)
Câu 6: Qua bài thơ từ “Cái nợ” anh/chị hiểu như thế nào? (1.0đ)
Câu 7: Chép lại ít nhất một câu thơ (ca dao, tục ngữ) hoặc lấy một ví dụ về nhân vật
(tác giả) biểu hiện chí làm trai trong xã hội phong kiến mà anh/chị biết hoặc đã học
(1.0đ)
Câu 8: Viết một đoạn văn (5-7 dòng) thể hiện ý chí, quyết tâm của anh/chị trong việc
học tập, thi cử (0.5đ)
PHẦN II. LÀM VĂN (4.0 điểm)
Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu nêu ở dưới
Vào hạ, sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối; vẻ bay bướm
xuân thì đã qua đi, thiên nhiên ổn định hẳn trong mầu lục trầm trầm của lá già. Vườn-
không đẹp, vậy, chưa bao giờ làm cho tôi chán mắt; bởi nó toát ra khí mạnh
của nhựa cây, trong những ổ lá rậm rịt kia, các loại trái đang lớn lên dưới sức nóng
hun đúc. Hạ chí trở đi, vườn An Hiên vào mùa quả, khởi đầu mùa thơm: giống
thơm Nguyệt Biều vỏ chín đỏ như lửa cắt ra từng lát tròn to vừa lòng cái dĩa bàn,
vàng rệu mầu mật ong, tưởng chừng gái nào đó trong cây đã làm sẵn hoàn
chỉnh một chiếc bánh kem sinh nhật. Dâu chín o tháng năm, tháng sáu. Cây dâu
Truồivườn bà Lan Hữu rất đẹp, tán lá khum khum úp sát mặt đất kín mít, bên trong
rỗng, trái chín vàng hươm từng chuỗi dài đổ úp thành đống quanh gốc cây. Nhìn đống
quả đầynhư là ai đã hái sẵn đổ ra kia, tôi chợt mỉm cười với một ý nghĩ lạ lùng: giả
như đơpi chẳng còn nhiệm vụ gì, tôi sẽ trải một tấm chiếu nhỏ dưới vòm lá kín đáo kia,
nằm đó đọc sách ăn dâu. Suốt mùa hè. Sau vườn, cạnh giếng nươsc, một vạt đất
trồng mức làm choái cho những loại cây leo: hồ tiêu, thanh long v.v… Cây thanh long
đặc sản nổi tiếng vùng Nha Trang, lẽ giống cây hiền lành nhất trong vườn: thân
nhánh dài ngoằng nằm ún đống trên chạc cây mức trông như một đống y chão;
trồng một lần rồi chẳng bao giờ cần n lại, sống nmột vật bỏ quên sau vườn,
đến mùa lại cho con người hoa trái. Cây xấu hoa đẹp thế, hoàn toàn giống hoa
quỳnh, cũng nở tàn trong một đêm nên nhiều khi muốn ngắm hoa, Lan Hữu đã
phải thắp đèn ra vườn lúc nửa đêm. Trái Thanh Long màu cánh sen chín vào những
ngày nóng nhất của mùa hè, ruột trong như bột lọc, làm mát và khỏe người; ấy là món
quà hảo tâm của thiên nhiên dành cho người làm vườn. Cuối hạ, mỗi hoàng hôn,
dơi lại xuất hiện, đảo liệng khắp vườn rồi chui vào những vòm tối, nơi đó tỏa ra
mùi vải chín. năm ngoái, tôi v huyện Nam Thanh, Hải Hưng; miền quê cây trái
hào hiệp, mời khách ăn vải thiều không tiếc của, cứ đổ luôn trên mặt bàn thành đống
cao như khoai như ngô. Giống trái quý này xưa kia dùng để tiến nạp cho vua ăn, bây
giờ chúng tôi được đãi theo lối xả láng, ăn đến no bụng. Giống vải thiều Hưng Yên
đưa vào Huế vẫn giữ được phẩm chất của nó, quả lớn hạt nhỏ cùi trắng nõn trông như
một miếng mỡ, thơm ngọt lịm. Vườn An Hiên còn mấy cây vải Phụng Tiên,
giống vải Huế quả lớn hơn quả nhãn một chút, hạt bằng hạt tiêu, hương vị không
kém vải thiều sứ Bắc. Giống vải trang này được xếp vào dòng quí tộc, xưa chỉ trồng
nơi cung cấm; Lan Hữu xin lại tưp vườn của một viên thái giám. Đối ứng với mấy
cây vải thiều miền Bắc, góc vườn bên kia hai cây sầu riêng Lái Thiêu; bà Lan Hữu
mang về trồng đã hai mươi năm, cách đây vài năm mơsi cho mùa quả đầu, trái to múi
thơm không khác trái vườn trong Nam.
Càng vào thu, khu vườn càng hiện ra trong vẻ đẹp của trái, càng gợi cho người đi
dạo vườn cái cảm giác khinh khoái của một phòng trưng bày tranh tĩnh vật. Cam
thanh trà làm khu vườn nặng trĩu xuống khác với dạo đầu mùa hạ; đến cuối tháng
tám, những cây thị nhung chi chít những quả đỏ. Loại thị này, giống như quả táo tây,
cũng một loại cây trái lạ, do mấy ông cố đạo mang đến tưp một xứ nhiệt đới xa xôi
nào đó. Cuối vụ thu là mùa hái hồng. Mấy cây hồng này già tuổi nhất trong vườn, vốn
quà tặng của cụ Nghè Mai - chắt nội cụ Nguyễn Du - tặng cho chồng Lan Hữu
ngày mơsi lập vườn. Hồng Tiên Điền giống của quê hương Nghệ Tĩnh ngàn vạn trái
không một hạt, trái chín lụn, đài vẫn dính chặt vỏ, không bị tróc mất như các loại
hồng thường. Sau mùa trái nó trút hết lá, cây cỗi cành trơ, nhìn cứ tưởng là nó đã chết
khô. Qua tiết đông, thoắt cái nẩy lộ chi chít, mươi hôm sau đã phủ kín cây;
hồng tròn dày, xanh bóng, nhạy cảm với từng tia nắng, sáng trưng lên trong niềm vui
phục sinh của mùa xuân. Tháng hai hồng ra hoa, trong lòng mỗi đóa hoa xanh biếc đã
kết một trái non. Từ đó đến lúc chín, trái non rụng dần, rụng n một hành động tự
đào thải tàn nhẫn.
(Trích Hoa trái quanh tôi, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Sông Hương, số 3 (tháng
10 – 1983)
Viết bài văn nghị luận phân tích khung cảnh thiên nhiên trong đoạn trích hoa trái
quanh tôi_ Hoàng Phủ Ngọc Tường.
SỞ GD & ĐT QUẢNG NAM. ĐÁP ÁN ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ II
TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN. MÔN NGỮ VĂN 11
NĂM HỌC 2023-2024
Thời gian: 90 phút (không kể giao đề)
Phần Câu Nội dung Điểm
I ĐỌC HIỂU 6,0
1Văn bản trên được viết
theo thể thơ: Thất ngôn
bát cú đường luật
Hướng dẫn chấm:
- HS trả lời như đáp
án : 0,5 điểm
- HS trả lời sai hoặc
không trả lời: Không
cho điểm
0,5
2Phương thức biểu đạt
chính: Biểu cảm
Hướng dẫn chấm:
- HS trả lời như đáp
án : 0,5 điểm
- HS trả lời sai hoặc
không trả lời: Không
cho điểm
0,5
3- Biện phát tu từ: Câu
hỏi tu từ; Phép điệp
Hướng dẫn chấm:
- HS trả lời như đáp
án : câu hỏi tu từ, phép
điệp đều cho 0,5 điểm
- Hs trả lời 1 trong 2
biện pháp đều cho điểm
tối đa 0,5 điểm
- HS trả lời sai hoặc
không trả lời: Không
cho điểm
0,5
4Nhận xét về chí làm
trai của tác giả được
thể hiện trong hai câu
thơ
- nam nhi, phải
người dũng mãnh, đầy
1,0
trách nhiệm, tài chí vẹn
toàn, phải danh
tiếng đối với non sông,
đất nước, được người
đời kính phục ( làm
nam nhi phải công
danh, sự nghiệp)
- Làm nam nhi
không công danh sự
nghiệp thì không phải
là nam nhi
Hướng dẫn chấm:
- HS trả lời 2 ý như đáp
án: 1,0 điểm
- HS trả lời được 1
trong 2 ý : 0.5 điểm
- HS không trả lời hoặc
trả lời sai: không cho
điểm.
Lưu ý: Các câu trả lời
ý tương đương đều
cho điểm
5Hoàn cảnh sáng tác
bài thơ:
- Đang trên đường đi
thi để trả nợ công danh
(trên đường đi thi)
- Con đường thi cử lận
đận và gian truân
- Đi thi tự vịnh (cũng
được chấp nhận)
Hướng dẫn chấm:
- HS trả lời như đáp án:
trả lời được 1 trong 3
đáp án đều cho điểm
1,0
- HS không trả lời hoặc
trả lời sai: không cho
điểm.
Lưu ý: Học sinh trả lời
có ý tương đương vẫn
cho điểm
1,0
6Qua bài thơ từ Cái
nợ” được hiểu
1,0
- Cái nợ đèn sách (nợ
công, nợ danh)
- Cái nợ công danh sự
nghiệp với dân, với
nước
- Làm nam nhi phải
công danh, sự nghiệp
Hướng dẫn chấm:
- HS trả lời như đáp
án : 1,0 điểm
- HS trả lời được 1
trong 3 ý trên hoặc các
ý tương đương vẫn cho
điểm tối đa
- HS trả lời sai hoặc
không trả lời: Không
cho điểm
7, tì -HS lấy được ví dụ 1
câu thơ, ca dao, tục ngữ
hoặc một nhân vật, tác gia
gia đều cho điểm tối đa 1.0
điểm
+ Vòng trời đất dọc
ngang, ngang dọc
Nợ tang bồngvay trả,
trả vay
Chí làm trai Nam, Bắc,
Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẩy vùng
trong bốn bể. (Nguyễn
Công Trứ)
+Công danh nam tử
còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe
chuyện Vũ hầu. ( Phạm
Ngũ Lão)
+ Làm trai quyết chí
tang bồng
Làm sao tỏ mặt anh
hùng mới can (ca dao)
+ Làm trai quyết chí
anh hùng
Ra tay đánh dẹp, vẫy
vùng nước non. (ca
1,0