CHUYÊN ĐỀ NM 2 :
DIỄN BIẾN TH TRƯỜNG CHNG
KHOÁN VIT NAM
Năm 2011 là một năm khá khó khăn của nền kinh tế Viêt Nam theo đó th trường
chứng khoán, vốn là phong biểu của nền kinh tế, cũng phản ánh điều này với
xu hưng giảm điểm là xu ớng chính và chủ đạo. Trong cnăm, thị trưng chỉ
có đưc hiếm hoi hai đợt hồi phục ngn vào cuối tháng 5 và khoảng gia tháng 8,
toàn bkhoảng thời gian còn lại th trưng chủ yếu đi xuống trong s chán nản
mệt mỏi của các nhà đầu tư. Chốt phiên ngày 30/12/2011, VN Index HNX
Index lần lưt đóng ca ở 351,55 và 58,74 điểm, như vậy so với đu năm 2011 sàn
H Chí Minh đã giảm mạnh 27,46% còn sàn Nội thì lao dốc đến hơn 48%.
Không chỉ chịu áp lc giảm về mặt điểm số, din biến giao dịch trên th trưng
càng ngày càng theo hưng trầm lắng ảm đạm hơn, thể hiện qua s khô kiệt của
tính thanh khoản, so vi con s của năm 2010 t giá tr trung bình mỗi phiên giao
dịch của mỗi sàn đều st giảm mạnh đến xấp xỉ 60%. Nguyên nhân chủ yếu của
hiện tưng này trưc hết đến t phía các vấn đ mô cơ bản trong c, đặc biệt
là áp lc tỷ giá, lạm phát lãi suất. nh hình lm phát mặc về cuối năm đã
dần trnên ổn định và được kiểm soát nhưng nếu so với năm ngoái tvẫn mc
cao, mt bằng lãi suất đã hnhiệt sau một loạt các biện pháp mạnh m quyết liệt
của Ngân hàng Nhà c (NHNN) nhưng chưa thực s thấp. Không chỉ có vậy,
trong thời gian qua th trưng chứng khoán Việt Nam còn chịu ảnh ng bởi
những thông tin tiêu cc trên th trưng thế gii mà nổi bật nhất là vấn đnợ công
Châu Âu vẫn ca đưc giải quyết khả năng suy thoái kép của nền kinh tế
toàn cầu.
Trong hai quý đầu của năm 2011, khi mà nhng bất ổn t phía kinh tế mô trong
c dần bc lộ, đc bit là bắt đầu từ lúc t giá điều chỉnh tăng thêm 9,3% và lạm
phát tăng mạnh trong tháng 2, thì cũng là lúc xu ớng giảm điểm chiếm ưu thế
trên thị trưng. Cùng với việc chính sác tiền tđưc điều chỉnh theo ng chặt
chẽ hơn hưng tới mục tiêu đảm bảo ổn định kinh tế thì càng giao dịch, diễn
biến bầu không khí giao dch trên th trưng cũng càng tr nên ảm đạm hơn.
Phải đến cuối tháng 5, thị trưng mớie lên điểm sáng vi một đợt hồi phục ngắn
trong khoảng 3 tuần đến gia tháng 6.Tuy nhiên đt phục hồi này mang khá nhiều
tính kỹ thuật do mặt bằng gcphiếu đã thấp hơn đáng knên ch cần những
thông tin hỗ tr không thc sự mạnh,như mức tăng CPI của tháng 5 tuy giảm so
với tháng 4 nhưng thc tế vẫn khá cao, cũng đđể kích tch cầu bắt đáy,dòng tin
mang tính đầu cơ theo đó đổ mạnh vào thị trưng, tập trung nhiều vào cphiếu
nóng với tính thanh khoản cao.Cũng vì đà tăng này không có đưc ủng hmạnh t
phía các yếu tố cơ bản cho nên tính thiếu bền vững của nhanh chóng
đưc thể hiện, trưc khi kết thúc quý II/2011, xu hướng giảm điểm đã tr lại.
Bưc sang quý III, đây là quý có thể xem như khởi sắc nhất của th trưng chứng
khoán trong năm 2011 với một đt tăng điểm khá dài của th trường chứng khoán
kéo dài khoảng 1 tháng từ gia tháng 8 đến gia tháng 9. Trưc đây nếu như
những khó khăn t phía vĩ trong c là nguyên nhân chính làm thị tường sụt
giảm thì khi mà nhng vấn đđó đã có dấu hiu chuyển biến tích cc hơn thì cũng
là lúc thị trưng bứt phá. Đầu tiên phải kể đến việc lạm phát đã dần được kiềm chế
ổn định hơn với thông tin mc tăng CPI trong tháng 8 của cc chỉ ca đến
1% với con s0,93%. Không dng li đó, thị trưng còn nhận đưc s hỗ tr
mạnh mkhẳng định khá chắc chắn của NHNN về vic hạ mặt bằng lãi suất với
nhiều biện pháp cng rn và quyết liệt thể hiện quyết tâm cao đảm bảo đảm thực
hiện mục tiêu ktrên, đặc biệt đáng chú ý là quyết đnh áp trn lãi suất huy động
14% vào ngày 07/09. Kết quả là niềm tin vào thị trưng dần được phục hồi, giao
dịch ngày càng trnên sôi động hơn qua tng phiên, dòng tiền có du hiu tr li
thị trưng chng khoán trong sự hứng khởi của các nhà đầu tư.
Mặc vậy trưc khi quý III/2011 khép lại, từ khoảng gia tháng 9 tr đi, th
trưng chứng khoán Việt Namđã phải chịu tác động tiêu cc từ cyếu tố trong
c, như những vấn đnảy sinh sau khi hạ lãi suất mà đặc biệt là vấn đ tỷ giá,
lẫn yếu tố thế gii, như diễn biến xu trong việc gii quyết vấn đ nợ công Châu
Âu mà kéo theo đó là triển vọng yếu kém của nền kinh tế toàn cầu. Kết qulà t
cuối quý III đến hết quý IV/2011, thị trưng chng khoán c ảm đạm dần qua từng
phiên vi xu ớng giảm điểm là chủ đạo,không có đợt hồi phục nào đdài đưc
ghi nhận. Đáng cý là trong giai đon này, tình hình lạm phát đã dần được kiềm
chế và đi vào ổn đnh vi mc tăng lạm phát của ba tháng cuối năm đều dưi 1%
mặc vậy thị trường và các nhà đầu tư cũng không tỏ ra quá quan tâm đến điều
này khi mà còn không ít nhng nỗi lo khác đang tồn tại.
MT SĐIỂM NỔI BẬT CA TH TRƯỜNG TRONG NĂM 2011
Nhà đầu tư nưc ngoài hạn chế giao dịch vi thái độ thận trọng và dặt vi
thị trưng chứng khoán Việt Nam do chịu tác động tiêu cực t nhng bất ổn của
kinh tế vĩ trong nưc lẫn thế giới.
Nếu như trong năm 2010, thtrưng chứng khoán Việt Nam đã nhận đưc lc h
trrất mạnh của dòng vốn ngoi t ngưc li, trong năm 2011, dòng vốn này li
có dấu hiệu rút khỏi th trưng theo đó cũng đã góp phần làm cho th trưng
càng tr nên ảm đạm hơn. Cũng cần phải lưu ý thêm rằng năm 2011 là một năm
không chỉ khó khăn đối với Vit Nam mà còn cnền kinh tế thế gii nói chung vi
tâm điểm là cuộc khủng hoảng ncông Châu Âu mà kéo theo đó chính là nguy
cơ suy thoái kép, điều này đã dẫn đến một làn sóng rút vốn đu tư khỏi các tài sản
rủi ro, đặc biệt những thị trưng mi nổi, trong đó có Việt Nam. n cạnh đó,
một nguyên nhân quan trọng khác dẫn đến hiện ng kể trên còn bắt nguồn từ
chính những bất ổn của nền kinh tế trong ớc, nhất là vấn đ tỷ giá. Có ththấy
rằng t sau khi tỷ giá đưc điều chnh tăng khá mạnh, hơn 9%, vào gia tháng 2 t
các nhà đầu tư c ngoài cũng dần hạn chế động thái mua ròng đến khoảng
gia quý III tr đi t xu hướng bán ròng trở nên rõ nét và chiếm ưu thế hơn hẳn.
Như đã đề cập ở trên, trong năm 2011, cHNX và VN Index đều trượt giảm mạnh,
tuy nhiên sau khi phân chia các cphiếu trên 2 sàn theo các nhóm vốn hóa ln,
trung bình và nhỏ thì có ththấy s suy giảm này phần ln là do ảnh hưng t s
tuột dốc của nhóm cphiếu vốn hóa vốn hóa trung bình và nhtrên th trường. Cụ
thể, đóng ca ngày 30/12/2011, nhóm cphiếu vốn hóa ln mc li suất-6,70%,
nhỏ hơn rất nhiều so với con ssụt giảm của HNX VN Index, còn nhóm c
phiếu vốn hóa trung bình và nhỏ lần lưt có mc li suất âm lên ti -29,66%-
43,09%.Không chỉ có vậy, mc dù năm 2011 đã được ghi nhận là một năm vi xu
thế giảm điểm là chủ đạo trên thị trưng chứng khoán nhưng căn c vào sliệu
thống cũng như theo biều đồ trên, nhóm cphiếu vốn hóa lớn trong suốt năm
qua chủ yếu đi ngang vi biên đơng đối hẹp, thể hiện một khả năng chống chịu
là trđ tốt cho th trưng. Trong khi đó hai nhóm cphiếu còn li, chiếm s
đông các mã niêm yết trên hai sàn, thì li thể hiện rất xu hưng đi xuống cùng
chiều vi thị trường.
Ưu thế kể trên của nhóm vốn hóa ln trước hết là do những cphiếu này thường là
những cphiếu của các công ty, tập đoàn ln đu ngành, có uy tín thương hiệu tốt
trên thị trưng, tình hình tài chính lành mạnh vi nguồn vốn ln, đồng thi cũng đã
trải qua một thi gian phát trin nht đnh vi kinh nghiệm quản lý đưc tích lũy,
theo đó những công ty này cũng s có triển vọng và kh năng chống chịu tốt hơn
trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp khó khăn. n thế nữa, những công ty như
vậy luôn có đưc s quan tâm ưu ái nâng đỡ của dòng vốn ngoại, chính điều
này cũng đã làm ưu thế của nhóm vốn hóa lớn càng tr nên nét hơn.