
391
ĐÌNH CÔNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM:
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
Ths. Tô Minh Châu – Đại học An Giang
Tóm tắt
Khi ngƣời lao động hoặc tập thể ngƣời lao động cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của mình bị vi phạm làm quan hệ giữa họ với doanh nghiệp phát sinh
nhiều mâu thuẫn. Do vậy tranh chấp lao động dẫn đến đình công xảy ra nhƣ một tất
yếu khách quan. Bằng phƣơng pháp nghiên cứu thu thập, xử lí tài liệu và phƣơng pháp
phân tích, so sánh, tổng hợp, bài viết nghiên cứu vấn đề đình công của lao động trong
các doanh nghiệp để tìm hiểu nguyên nhân, đánh giá hậu quả và đề xuất giải pháp
nhằm hạn chế đình công lao động, giữ vững ổn định đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nƣớc.
Từ khóa: Tranh chấp lao động, đình công, doanh nghiệp.
1. Đặt vấn đề
Trên thế giới mỗi ngày có hàng trăm cuộc đình công lao động diễn ra, đây là một
hiện tƣợng tất yếu của nền kinh tế thị trƣờng. Ở Việt Nam, theo thống kê của Bộ Lao
động - Thƣơng binh và Xã hội, từ năm 1989 đến 2013, cả nƣớc có trên 5175 cuộc đình
công lao động lớn nhỏ diễn ra tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp của các thành phố
lớn nhƣ: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dƣơng ... Đình công lao động diễn ra
không chỉ ảnh hƣởng đến đời sống của bản thân ngƣời lao động mà còn thiệt hại đến
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lòng tin của các nhà đầu tƣ. Do vậy, tác động
xấu đến thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài đang khởi sắc trong tiến trình hội nhập của Việt
Nam. Mặt khác, đình công lao động gia tăng ảnh hƣởng lớn đến vấn đề an ninh xã hội
của đất nƣớc.
Do vậy, nghiên cứu vấn đề đình công lao động trong các doanh nghiệp để tìm
hiểu nguyên nhân, đánh giá hậu quả và đề xuất giải pháp nhằm hạn chế đình công lao
động, giữ vững ổn định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc là vấn đề cấp
bách và cần thiết.
2. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
2.1. Một số vấn đề liên quan
- Tiền lƣơng là biểu hiện bằng tiền của bộ phận sản xuất xã hội mà ngƣời lao
động đƣợc sử dụng để bù đắp hao phí lao động của mình trong quá trình sản xuất
nhằm tái sản xuất sức lao động, đó là số tiền cố định mà ngƣời lao động nhận đƣợc
thƣờng xuyên theo một đơn vị thời gian. Mặt khác tiền lƣơng là bộ phận cấu thành nên
giá trị sản phẩm do lao động tạo ra.
- Tiền thƣởng là một loại kích thích vật chất có tác dụng rất tích cực đối với
ngƣời lao động trong việc phấn đấu thực hiện công việc tốt hơn, thƣờng có rất nhiều
loại: thƣởng tiết kiệm, thƣởng sáng kiến, thƣởng theo kết quả hoạt động kinh doanh
chung của doanh nghiệp, thƣởng bảo đảm ngày công...

392
- Tranh chấp lao động: là hiện tƣợng khách quan xảy ra giữa ngƣời lao động và
ngƣời sử dụng lao động trong quá trình quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trƣờng.
Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội Việt Nam xác định: ―tranh chấp lao động là
những tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lƣơng, thu nhập,
điều kiện lao động thực hiện hợp đồng lao động...‖. Tranh chấp lao động ở quy mô
lớn, phổ biến thể hiện quan hệ lao động trong thực tế chƣa thực sự phát triển theo
chiều hƣớng lành mạnh, hài hoà, ổn định và đồng thời là tín hiệu cảnh báo cho các bên
lao động, nhằm thực hiện các biện pháp cải thiện tình hình quan hệ lao động, giảm
thiểu tranh chấp lao động. Tranh chấp lao động đƣợc thể hiện dƣới các hình thức nhƣ:
bãi công, đình công. Trong đó, khái niệm đình công là khái niệm gắn liền, không thể
tách rời khái niệm tranh chấp lao động tập thể vì đình công là một bộ phận, một giai
đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp lao động, tập thể lao động chỉ đƣợc tiến hành
đình công sau khi vụ tranh chấp lao động tập thể đã đƣợc giải quyết nhƣng vẫn không
đƣợc sự đồng ý của tập thể lao động. Khi tranh chấp lao động ở mức cao, hai bên
không thể đi đến thoả thuận, ngƣời lao động sẽ sử dụng đến ―vũ khí tối thƣợng‖ của
mình đó là đình công. Đình công là một trong những hình thức đấu tranh của ngƣời lao
động với những biểu hiện và mức độ nhất định nhằm tạo áp lực đối với giới chủ thể để
đòi hỏi những quyền lợi của mình.
- Khái niệm đình công: Theo điều 172 Bộ luật Lao Động của Việt Nam có nêu rõ
―Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của tập thể lao động để
giải quyết tranh chấp lao động tập thể‖.
Việt Nam là một quốc gia đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp
hoá, luật lao động chƣa đạt đƣợc mức độ chặt chẽ cần thiết và đang trong quá trình
hoàn thiện nên hoạt động của hệ thống thanh tra lao động vẫn chƣa đƣợc nhƣ mong
muốn, việc bế tắc trong quan hệ lao động dẫn đến đình công là điều khó tránh khỏi.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài báo này, tác giả chủ yếu sử dụng hai phƣơng pháp nghiên cứu đó là
phƣơng pháp thu thập, xử lí tài liệu và phƣơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp. Đối
với nội dung nghiên cứu về cơ sở lí luận, tác giả tổng hợp từ những nghiên cứu, tài
liệu từ các giáo trình liên quan đến vấn đề lao động và đình công. Đối với cơ sở thực
tiễn, nguồn số liệu đƣợc thu thập và xử lí từ số liệu của niên giám thống kê Việt Nam
và Liên đoàn lao động Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Số lượng, qui mô các vụ đình công ngày càng gia tăng
Trƣớc khi Việt Nam có Bộ luật Lao động thì đã có nhiều vụ đình công của công
nhân. Vì vậy nhiều ngƣời cho rằng Việt Nam cần phải có Luật lao động để qui định cụ
thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể: doanh nghiệp, ngƣời lao động nhằm hạn chế
các xung đột, tranh chấp và giải quyết vấn đề đình công. Thế nhƣng kể từ khi có Luật
lao động đến nay đình công vẫn tiếp diễn và ngày càng nhiều hơn. Số liệu thống kê các
cuộc đình công cho thấy, năm 2005 cả nƣớc có 152 vụ đình công. Những năm tiếp
theo tăng cao hơn, mặc dù số doanh nghiệp ngày càng nhiều nhƣng từ đầu 2006 đến
nay đình công xảy ra nhiều và qui mô công nhân tham gia đình công tăng lên đáng kể.

393
Từ năm 2006 đến tháng 7 năm 2010, số cuộc đình công tăng đột biến so với
giai đoạn trƣớc đây, cả nƣớc xảy ra 2.127 cuộc đình công, bằng 73% số cuộc đình
công đã xảy ra từ năm 1995 đến nay (2.912 cuộc); trong đó: năm 2006 là 390 cuộc,
năm 2007 là 551 cuộc, năm 2008 là 720 cuộc, năm 2009 là 218 cuộc, năm 2010 xảy ra
422 cuộc và 9 tháng đầu năm 2011 là 750 cuộc.
Bảng 1. Đình công lao động phân theo loại hình doanh nghiệp (1995 – 2013)
Năm
Tổng
số vụ
Doanh nghiệp
Nhà nƣớc
(Số vụ)
Doanh nghiệp
FDI (Số vụ)
Doanh nghiệp ngoài
Nhà nƣớc (Số vụ)
1995
60
11
28
21
1996
59
6
39
14
1997
59
10
35
14
1998
62
11
30
21
1999
67
4
42
21
2000
70
15
38
17
2001
90
9
55
26
2002
99
5
65
29
2003
142
3
104
35
2004
124
2
92
30
2005
152
8
105
39
2006
390
4
287
99
2007
551
1
438
112
2008
720
0
584
136
2009
750
0
458
292
2010
820
0
653
167
2011
885
3
675
207
2012
506
0
401
105
2013
355
0
242
113
Tổng số
5175
168
3812
1188

394
(Nguồn: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam)
Biểu đồ 1. Tổng số vụ đình công lao động giai đoạn 1995 – 2013
(Nguồn: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam)
Theo số liệu của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, từ năm 2010 đến năm nay
có 3.146 cuộc đình công, tập trung ở 40 tỉnh, thành phố. Tính riêng 3 năm (từ năm
2013 đến hết tháng 6.2016) là 1.000 cuộc và theo báo cáo mới nhất của Bộ LĐTBXH
thì 6 tháng đầu năm 2016 là 132 cuộc.
Các cuộc đình công trong thời gian qua đều có đặc điểm chung là: không đúng
quy trình đình công; không do Công đoàn tổ chức, lãnh đạo; đều đƣợc các tổ liên
ngành giải quyết và các yêu sách của tập thể lao động đều đƣợc đáp ứng một phần
hoặc toàn bộ.
3.2. Đình công phân theo loại hình doanh nghiệp
Theo báo cáo của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, tình hình ngừng việc tập
thể tuy có giảm nhƣng diễn biến phức tạp. Cụ thể, 5 tháng đầu năm 2017, cả nƣớc xảy
ra 133 cuộc ngừng việc tập thể, giảm 42 cuộc so với cùng kỳ năm 2016, tuy nhiên số
lao động tham gia ngừng việc tập thể lại có xu hƣớng tăng lên.
Các cuộc ngừng việc tập thể, đình công tự phát xảy ra nhiều ở các doanh nghiệp
có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (chiếm khoảng 75%), doanh nghiệp tƣ nhân (gần 25%), rất ít
cuộc đình công xảy ra tại doanh nghiệp Nhà nƣớc (8 cuộc, chiếm 0,25%). Đình công
lao động xảy ra chủ yếu tại các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, thuộc các tỉnh,
thành phố vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. (Dẫn theo Báo Lao Động Thủ Đô)
Về nguyên nhân và thời điểm ngừng việc tập thể cơ bản không thay đổi, chủ
yếu liên quan đến vấn đề lƣơng, thƣởng Tết, chậm điều chỉnh tiền lƣơng tối thiểu
vùng… Các cuộc ngừng việc tập thể diễn ra nhiều nhất trong tháng 1 (thời điểm trƣớc
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
Tổng số vụ đình công lao động
giai đoạn 1995 – 2013

395
Tết Nguyên đán 2017) và cũng là thời điểm các doanh nghiệp thực hiện điều chỉnh
lƣơng tối thiểu vùng theo quy định của Chính phủ.
3.3. Đình công phân theo địa bàn
Các cuộc ngừng việc tập thể, đình công tự phát xảy ra tập trung tại các tỉnh,
thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nhƣ Thành phố Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, Bình Dƣơng, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang… (chiếm gần 80%) và các
tỉnh, thành phố phía Bắc nhƣ Hà Nội, Hải Dƣơng, Hải Phòng, Bắc Ninh, Bắc Giang,
Vĩnh Phúc (chiếm khoảng 15%).
3.4. Đình công phân theo ngành nghề và mục đích
Các cuộc ngừng việc tập thể, đình công tự phát xảy ra nhiều ở các doanh nghiệp
ngành dệt may (36,5%), da giày (18%), chế biến gỗ (10,6%), điện tử (6,9%), còn lại là
các ngành nghề khác (28%).
Theo số liệu thống kê của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cho thấy từ năm
1995 đến nay đình công thƣờng tập trung vào các ngành dệt may, giày da và tỷ lệ ngày
càng tăng. Giai đoạn năm 1995-2000 ngành dệt may chiếm tỷ lệ cao nhất so với các
ngành từ 39,47% (năm 1996) đến 54,83% (năm 2007), kế đến ngành giày da từ
21,05% (năm 1998) đến 28,88% (năm 2007). Tổng cộng hai ngành dệt may và giày da
số vụ đình công luôn chiếm tỷ lệ từ 61,22% đến 83,33%.
Bảng 3.2. Số vụ đình công trong ngành dệt may và giày da
ở Thành phố Hồ Chí Minh (giai đoạn 2002 - 2006)
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
Số vụ đình công
trong ngành dệt may và giày da
30
40
30
35
85
Tỷ lệ (%)
83,33
65,57
61,22
68,62
73,91
(Nguồn: Liên đoàn lao động Thành phố ồ Chí Minh, năm 2007)
Đình công lao động tập thể về quyền (31%), đình công lao động tập thể về lợi
ích (41%) và đình công lao động tập thể về quyền và lợi ích (28%).
3.5. Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đình công lao động và giải pháp
3.5.1. Những nguyên nhân
Tiền lương tối thiểu thấp
Mức lƣơng của công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và
doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc không cao. Mặc dù thu nhập bình quân đầu ngƣời trong
doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài cao nhất nhƣng thực tế cho thấy có sự phân
hoá rõ rệt theo trình độ và vị trí công việc, trong khi thu nhập của ngƣời lao động có
trình độ cao là rất cao thì thu nhập của công nhân lại rất thấp.
Theo qui định của Chính phủ vào năm 1999 đã qui định mức lƣơng tối thiểu trả
cho ngƣời lao động trong các doanh nghiệp FDI cho từng khu vực (cụ thể là 626.000
đồng/tháng cho vùng thuộc TP.HCM và Hà Nội).
Chính phủ đã ban hành nghị định số 03/2006/NĐ-CP về việc qui định mức lƣơng
tối thiểu đối với lao động VN làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc