Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam

1.Định nghĩa: Điều 1 luật DNNN được Quốc hội thông qua ngày 20-4-

1995 đã nêu: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ

chức quản lí hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện mục

tiêu kinh tế xã hội Nhà nước qui định. DN có tư cách pháp nhân, có các quyền và

nghĩa vụ dân sự, chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh.

2.Đặc điểm:

-Nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội và điều tiết vĩ mô trong

nền kinh tế thị trường đặt ra nhu cầu khách quan về sự hình thành và tôn tại các

DNNN. Quyền sở hữu tư liệu sản xuất thuộc về Nhà Nước, đó là đặc điểm thứ

nhất phân biệt DNNN với các DN khác, đồng thời hoạt động kinh doanh là đặc

điểm phân biệt DNNN với các tổ chức, cơ quan của chính phủ.

-Cơ quan nhà nứơc có thẩm quyền ra quyết định thành lập, thực hiện các

mục tiêu kinh tế xã hội đảm bảo tính định hướng XHCN.

-Tài sản là một bộ phận của tài sản Nhà nước, thuộc sở hữu của nhà nứơc

(Vì DNNN do nhà nứơc đầu tư vốn để thành lập). DNNN không có quyền sở hữu

với tài sản mà chỉ là người quản lí kinh doanh trên số tài sản của Nhà nứơc

(Không có quyền sở hữu nhưng có quyền chiếm hữu, địng đoạt và sử dụng).

-DNNN do nhà nứơc tổ chức Bộ máy quản lí doanh nghiệp Nhà nứơc bổ

nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh ngjiệp, phê duyệt chiến lược, qui hoạch, kế

hoạch…

3. Quá trình phát triển:Ở Việt Nam, từ năm 1986 đến nay chính phủ đang

tiến hành cải cách khu vực các DNNN.

-Quyết định 388/HĐBT về thành lập các DNNN là biện pháp đầu tiên thực

hiện sắp xếp lại các DNNN, từ 12000 DNNN cuối năm 1990 hiện nay còn 5800 đã

giảm quá một nửa. Số DNNN giảm nhưng mức tăng trưởng giai đoạn 1991-1995

lại cao gấp 1.5 lần tốc độ tăng trưởng chung của nến kinh tế. Giai đoạn này hoạt

động của các DNNN đạt hiệu quả kinh tế rõ rệt. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tăng từ

7% năm 1992 lên 19% năm 1995. Tỷ suất lợi tức trên tồng số nộp ngân sách từ

18.9% năm 1991 lên 23.5% năm 1995. Ngày 21/4/1998 thủ tướng Chính Phủ đã

có chỉ thị số 20/1998/CT-TTG về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN.

-Tiến hành cổ phần hoá các DNNN: Từ năm 1992 đến cuối tháng 6 năm

1999 cả nước đã có 190 DNNN chuyển sang công ty cổ phần. Theo số liệu của

Tổng cục Qủan lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp, kết quả 18 DNNN cổ

phần hóa đạt được như sau: đối với Nhà nước đã thu về số tiền bán cổ phiếu

30.207 triệu đồng, lợi tức của Nhà nước tại các công ty cổ phần là 6.995 triệu, lời

tiền vay mua chịu cổ phiếu 522 triệu đồng (chưa kể số tiền CB-CNV mua chịu cổ

phiếu 14.749 triệu đồng, sau 5 năm hòan trả Nhà nước) vốn cổ phần của Nhà nước

đã tăng từ 28,005 tỷ đồng lên 47,044 tỷ đồng vào ngày 31/12/1996. Năm 1997,

các công ty cổ phần vẫn giữ mức tăng trưởng: doanh thu tăng 63,6%, tích lũy vốn

tăng 15%, thu nhập của người lao động tăng 9%, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt

28%. Để đẩy mạnh tiến tình cổ phần hóa, Chính phủ đã ban hành Nghị định

44/1998/NĐ- CP có hiệu lực từ ngày 15/07/1998 thay cho Nghị định 28 CP của

Chính phủ cùng với nhiều văn bản pháp quy khác. Mục đích của cổ phần hóa là

nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

-Ngòai cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, Đảng và Nhà nước còn chủ

trương chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty TNHH. Việc chuỵển doanh

nghiệp Nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty TNHH hoặc

công ty Cổ phần và bổ sung hình thức công ty TNHH chỉ có một sáng lập viên để

áp dụng đối với doanh nghiệp kinh doanh 100% vốn Nhà nước thực chất là nội

dung chủ yếu của công ty hóa.

Công ty hóa doanh nghiệp Nhà nước nhằm xác lập cơ chế phát huy động

lực lao động và quản lý doanh nghiệp Nhà nước trên cơ sở phát huy quyền và

trách nhiệm của các doanh nghiệp có phần vốn Nhà nước và tinh thần tích cực của

người lao động tại doanh nghiệp Nhà nước; bảo đảm sự công bằng tương đối giữa

người lao đông trong doanh nghiệp Nhà nước với người lao động trong các hợp

tác xã cổ phần, doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa; nâng cao hiệu quả quản lý

Nhà nước đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Hiện nay, chính phủ đang nghiên

cứu sửa đổi Luật doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp với tình hình mới , góp

phần làm cơ sở pháp lý cho việc công ty hóa doanh nghiệp Nhà nước.

- Hình thành các tổ chức kinh tế mạnh theo các quyết định 90-91/TTg của

Thủ tướng Chính phủ, trong hai năm 1994- 1995 đã thành lập hàng loạt tổng công

ty (TCT). Đến cuối năm 1998 đã có 73 TCT thành lập theo quyết định 90, 18 TCT

thành lập theo quyết định 91/CP theo hướng tập đoàn kinh tế. Mô hình TCT không

chỉ nhằm hình thành các tổ chức kinh tế mạnh đủ sức cạnh tranh, mà còn hình

thành những ngành kinh tế kỹ thuật, đảm bảo thống nhất cân đối sản xuất, nhập

khẩu, tiêu dùng, ngành hàng trên phạm vi cả nước. Đến nay tất cả các TCT đã

thành lập có 1.140 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập bằng 20% số lượng

doanh nghiệp hiện có, 54% về vốn, khoảng 68% doanh thu và 82% tỷ trọng nộp

ngân sách so với toàn bộ doanh nghiệp Nhà nước và đóng vai trò quan trọng trong

các cân đối xuất nhập khẩu, bảo đảm vật tư hàng tiêu dùng chủ yếu, góp phần ổn

định giá cả thị trường .

Mặc dù đã đạt được những kết quả nhưng còn nhiều vấn đề cần được tiếp

tục nghiên cứu giải quyết để mô hình TCT mới thực sự đem lại hiệu quả như

mong muốn. Chẳng hạn tác dụng của các TCT trong một số lĩnh vực chưa thật rõ,

chưa gắn kết về tài chính, công nghệ nên hoạt động rời rạc. Việc tổ chức TCT còn

nhiều mặt chưa hoàn thiện, hầu hết các doanh nghiệp thành viên đều được thành

lập trước khi TCT ra đời, đã quen với cơ chế được giao quyền hoạt động độc lập

nên nhiều doanh nghiệp , nhất là những doanh nghiệp đang hoạt động thuận lợi bị

gò bó khi hoạt động trong tổ chức TCT nhưng Nhà nước chưa có quy định thật cụ

thể để tháo gỡ nên nhiều TCT chưa mạnh dạn tổ chức lại các đơn vị thành viên

v..v…

Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh

doanh, tăng sức cạnh tranh của các TCT, thực hiện tích tụ tập trung vốn, chuyên

môn hóa sâu và hợp tác hóa rộng, làm nền tảng cho việc chuyển đổi về chất từ

TCT Nhà nước sang tập đoàn kinh tế mạnh, đẩy nhanh tiến trình xóa bỏ Bộ chủ

quản, cấp hành chính chủ quản, thực hiện chức năng dẫn dắt doanh nghiệp nhỏ và

vừa, hòan thiện nhiệm vụ đi đầu trong sự nghiệp CNH-HDH đất nước.

4. Quyền và nghĩa vụ:

Doanh nghiệp có quyền chủ động trong việc xây dựng và thực hiện kế

hoạch sản xuất kinh doanh, chủ động xác định hướng kinh doanh, chọn phương án

kinh doanh nào có hiệu quả nhất trên cơ sở phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ kế

hoạch Nhà nước. Doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện kinh doanh

của mình.

Các DNNN đang chiếm giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất

nước về sự tham gia đóng góp và vai trò trong quản lý của nền kinh tế thị trường

theo định hướng XHCN. Mô hình DNNN đang tiếp tục được nghiên cứu cải tiến

để hoạt động ngày càng có hiệu quả cao hơn, nâng cao sức cạnh tranh của sản

phẩm, dịch vụ trên thị trường, giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.