Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 33 -
CÁC THÀNH PHẦN TÀI SN THƯƠNG HIU SỮA TI
VIT NAM: TIP CẬN DƯI GÓC Đ NGƯI TIÊU DÙNG
NCS. Nguyễn Anh Tuấn
Khoa Marketing - Trường ĐH Tài Chính - Marketing
NCS. Nguyễn Viết Bằng
Khoa Thuế - Hải Quan - Trường ĐH Tài Chính - Marketing
Tóm tắt
Mục tiêu nghiên cứu này nhằm xác định đo lường tác động của các
thành phần tài sản thương hiệu đến tài sản thương hiệu tổng thể tác động giữa
các thành phần này với nhau đối với các thương hiệu ngành sữa tại Việt Nam.
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp định lượng: (i) nghiên
cứu định tính được thực hiện thông thảo luận nhóm tập trung cùng 10 người tiêu
dùng; (ii) nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua phỏng vấn trực tiếp
296 người tiêu dùng. Kết quả nghiên cứu cho thấy: (i) tài sản thương hiệu sữa
chịu tác động trực tiếp bởi 04 thành phần: nhận biết thương hiệu, liên tưởng
thương hiệu, chất lượng cảm nhận trung thành thương hiệu; (ii) có mối quan
hệ tác động giữa các thành phần tài sản thương hiệu với nhau.
Từ khóa: tài sản thương hiệu, thương hiệu, thương hiệu sữa
1 Đặt vấn đề
Ngày nay, các tchức quốc tế như: Tổ chức lương thực nông nghiệp
liên hiệp quốc (FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Chính phủ MLiên minh
châu Âu (EU) đều khuyến cáo sử dụng sữa hàng ngày như một phần của chế độ
dinh dưỡng lợi cho sức khỏe. Tại các ớc phát triển, từ lâu đã ý thức được
tầm quan trọng của sữa đối với sức khỏe con người. Do đó, FAO đã chọn ngày
1/6 hàng năm làm “Ngày sữa thế giới” nhằm tăng sự nhận biết về tầm quan trọng
của sữa các sản phẩm từ sữa, cũng như giúp người dân hiểu thêm mọi khía
cạnh liên quan đến ngành sữa (nguồn gốc, tài sản dinh dưỡng từ sữa, v.v.). Trong
đó, vai trò của sữa được nhấn mạnh nguồn thực phẩm dinh ỡng quan trọng
trong các bữa ăn hàng ngày của tất cả mọi người trên toàn thế giới, đặc biệt là trẻ
em những mầm non tương lai của đất nước.
Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 34 -
Theo quy hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến sữa Việt Nam đến
năm 2020, tầm nhìn đến 2025 đã được Bộ Công Thương phê duyệt, năm 2015
Việt Nam sản xuất 1,9 tỉ lít sữa tươi, mức tiêu thụ đạt trung bình 21 lít/người/năm,
kim ngạch xuất khẩu đạt 90-100 triệu USD; đến năm 2020, sản xuất 2,6 tỉ lít, mức
tiêu thụ 27 lít/người/năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 120-130 triệu USD đến
năm 2025, sản xuất 3,4 tỉ lít, mức tiêu thụ 34 lít/người/năm, kim ngạch xuất khẩu
đạt 150-200 triệu USD. Hiện nay, mức tiêu thụ sữa ở Việt Nam năm 2015 đã đạt
23 lít/người. Năm 2016, đạt 24 lít/người m 2017, dự kiến sẽ đạt 26 lít/người.
Theo Hiệp hội Sữa Việt Nam, sản ợng sữa tươi nguyên chất chỉ mới đáp
ứng gần một nửa nhu cầu thị trường. Nhu cầu sữa tươi dự báo sẽ còn tăng mạnh
do mức bình quân tiêu thụ sữa Việt Nam mới chỉ đạt hơn 17 lít/người/năm, thấp
hơn nhiều so với Thái Lan (35 lít/người/năm), Singapore (45 lít/người/năm). Ông
Trần Quang Trung (Chủ tịch Hiệp hội Sữa Việt Nam) cho rằng: sữa các sản
phẩm từ sữa là những thực phẩm cung cấp dưỡng chất thiết yếu cho sự phát triển
của con người. Ngành sữa đã và đang đóng góp tích cực vào nền kinh tế của đất
nước với mức tăng trưởng nhanh chóng, năm sau luôn cao hơn năm trước, trung
bình từ 15-17%/năm; dự báo tiếp tục tăng trưởng 9%/năm và đạt mức 27 28 lít
sữa/người/năm vào năm 2020.
Thống kê m của hãng nghiên cứu thị trường Euromonitor (2014) chỉ ra
rằng, các hãng sữa ngoại chiếm khoảng 75% thị phần sữa bột, dẫn đầu là Abbott,
tiếp theo Mead Johnson, Dutch Lady, Dumex, Nestlé. Chỉ duy nhất niềm tự
hào của Việt Nam, Công ty Vinamilk, đủ khả năng cạnh tranh với thị phần
24,6%. Sức hấp dẫn của ngành sữa hiện tập trung ở 2 mảng sữa bột và sữa nước,
chiếm khoảng 74% tài sản toàn ngành (theo The Neilsen). Xây dựng và phát triển
thương hiệu vấn đề sống còn của tất ccác doanh nghiệp và tài sản thương hiệu
(brand equity) đóng vai trò quan trọng trong việc này (Nguyễn Đình Thọ
Nguyễn Thị Mai Trang, 2011). Ngoài ra, khi thực hiện nghiên cứu về thương hiệu
và cách y dựng thương hiệu thì tác giả Keller và Lehmann (2006) cho rằng để
quản lý thương hiệu một cách có hiệu quả thì các nhà marketing cần phải hiểu rõ
tài sản thương hiệu; tác giả Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2011)
thì cho rằng để xây dựng và phát triển thương hiệu thì cần phải nắm bắt được vai
trò của tài sản thương hiệu các thành phần của cũng ncách thức để đo
lường các thành phần y; và sự thành công của một thương hiệu phthuộc vào
mức độ giá trị mà khách hàng cảm nhận được.
Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 35 -
2 Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
2.1 sở thuyết về tài sản thương hiệu
2.1.1 Khái nim tài sản thương hiệu:
Tài sản thương hiệu (Brand Equity TSTH) được xem như tài sản tăng
thêm do thương hiệu mang lại (Aaker, 1991, 1996); TSTH như kiến thức của
khách hàng về thương hiệu (Keller, 1993), nphần lợi ích gia tăng (Simon &
Sullivan, 1993); như tài sản của thương hiệu đến người tiêu dùng (Erdem & Swait,
1998); như tài sản lợi ích tăng thêm từ một sản phẩm vì có tên hiệu (Srivastava
& Shocker, 1991; Wood, 2000); như sự đánh giá khác nhau của người tiêu dùng
đối với một sản phẩm có thương hiệu và một sản phẩm không có thương hiệu với
cùng một đặc tính (Yoo et. al, 2000). Tóm lại, nghiên cứu của các nkhoa học
đều hàm ý rằng tài sản thương hiệu thể hiện sự chọn lọc có ý chí và tình cảm của
người tiêu dùng dành cho thương hiệu trong một tập các thương hiệu cạnh tranh
khác mặt trên thị trường (Davis & Doughlass, 1995) đây cũng chính điểm
nhấn giải thích bao quát tài sản thương hiệu như là kết quả của nổ lực marketing
của doanh nghiệp nhằm y dựng những nhận thức, hành vi tích cực của người
tiêu dùng đối với thương hiệu và giải thích tài sản vô hình vì sao người tiêu dùng
chọn mua thương hiệu này mà không chọn mua thương hiệu khác
2.1.2 Phương pháp tiếp cn tài sản thương hiệu
Tài sản thương hiệu thể được tiếp cận dưới 02 góc độ khác nhau (Lassar
et. al., 1995; Wood, 2000): (i) dưới góc độ tài chính (ii) dưới góc đngười tiêu
dùng.
Dưới góc độ tài chính: tài sản thương hiệu được xem như tài sản của doanh
nghiệp và tài sản y được xem như kết quả dòng tiền được từ doanh thu của
sản phẩm có tên hiệu (Shocker & Weitz, 1988; Simon & Sullivan, 1993).
Dưới góc đngười tiêu dùng: tài sản thương hiệu được xem xét nmột
tập hợp những yếu tố được hoặc mất liên quan đến thương hiệu (tên biểu
tượng) được cộng thêm vào hoặc trừ bớt ra khỏi tài sản của sản phẩm/dịch vụ đối
với một doanh nghiệp hoặc các khách hàng của doanh nghiệp đó (Aaker, 1991,
1996).
Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 36 -
2.1.3 Mô hình tài sn thương hiệu
Tài sản thương hiệu được nghiên cứu trong nhiều bối cảnh khác nhau với
những định nghĩa khác nhau được đo lường bởi các thành phần khác nhau
(Keller, 1993). Chẳng hạn: như tài sản tăng thêm do thương hiệu mang lại
(Aaker, 1991, 1996) và bao gồm bốn thành phần: (i) nhận biết thương hiệu, (ii)
chất lượng cảm nhận, (iii) liên tưởng thương hiệu, (iv) lòng trung thành thương
hiệu; hoặc GTTH như kiến thức của khách hàng về thương hiệu đó trước các
hoạt động marketing thương hiệu (Keller, 1993) kiến thức y bao gồm hai
thành phần: (i) nhận biết thương hiệu, (ii) ấn tượng về thương hiệu; hoặc GTTH
như lợi thế của hoạt động marketing cộng dồn vào doanh nghiệp từ việc kết
hợp giữa nhận biết thương hiệu ý nghĩa của thương hiệu đối với khách hàng
(Berry, 2000) bao gồm hai thành phần: (i) nhận biết thương hiệu, (ii) ý nghĩa
thương hiệu.
2.2 hìnhgiả thuyết nghiên cứu đề xuất
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả sử dụng mô hình tài sản thương hiệu
của tác giả Aaker (1991, 1996) vì mô hình y được nhiều tác giả tham khảo nhất
(Atilgan et. al., 2005) phù hợp với các nghiên cứu thực nghiệm về tài sản
thương hiệu trên góc độ người tiêu dùng (Quan, 2006).
Nhận biết thương hiệu
Nhận biết thương hiệu nói lên khả năng một người tiêu dùng tiềm năng có
thể nhận ra hồi tưởng rằng một thương hiệu như một bộ phận kết cấu của
một sản phẩm nào đó (Aaker, 1991); như mức độ người tiêu dùng tự suy nghĩ
về thương hiệu khi một sản phẩm trong thương hiệu đó được đề cập đến
(Netemeyer et. al., 2004); như khả năng người tiêu dùng xác định hay nhận
ra thương hiệu (Rossiter & Percy,1987). m lại, nhận biết thương hiệu nói lên
khả năng người tiêu dùng thể nhận ra nhớ lại một thương hiệu trong một
tập các thương hiệu có mặt trên thị trường. Vì vậy, giả thuyết H1 có thể là:
H1: Mức độ nhận biết của người tiêu dùng đối với thương hiệu tăng hay
giảm sẽ làm cho tài sản thương hiệu đó cũng tăng hay giảm theo (kỳ vọng +).
Liên tưởng thương hiệu
Liên tưởng thương hiệu được hiểu như bất cứ cái liên kết trong trí
nhớ của người tiêu dùng về thương hiệu tạo ra ý nghĩa đối với người tiêu ng
(Aaker, 1991; Keller, 1993) qua các đặc tính của sản phẩm (Yoo et. al., 2000),
Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 37 -
qua các vấn đề liên quan đến giá (Aaker, 1996); như bất cứ cái gì, thể trực
tiếp hay gián tiếp, liên kết trong trí c của người tiêu dùng về một thương hiệu
(Tregear & Gorton, 2005). Tóm lại, liên tưởng thương hiệu được xem xét như bất
cứ cái gì mà người tiêu dùng giữ lại trong tâm trí của họ về thương hiệu gắn liền
với nhu cầu của họ (Woods, 1998). Vì vậy, giả thuyết H2 có thể là:
H2: Mức độ liên tưởng của người tiêu dùng đối với thương hiệu tăng hay
giảm sẽ làm cho tài sản tài sản thương hiệu đó cũng tăng hay giảm theo (kỳ vọng
+).
Chất lượng cảm nhận
Chất lượng cảm nhận được xem như sự cảm nhận chủ quan của người
tiêu dùng đối với chất lượng của sản phẩm (Zeithaml, 1988; Netemeyer & cộng
sự, 2004); cảm nhận chủ quan của người tiêu dùng về các đặc tính của một
thương hiệu sản phẩm mang lại cho họ (Tho et. al., 2011). Chất lượng cảm nhận
mang lại tài sản cho khách hàng và tạo ra những lý do khiến họ mua thương hiệu
sản phẩm y thay các thương hiệu sản phẩm cạnh tranh khác (Yoo et. al.,
2000) đây chính là yếu tố để người tiêu dùng so sánh các thương hiệu với nhau
(Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, 2011). Chất lượng cảm nhận cao
nghĩa người tiêu dùng thể nhận ra được sự khác biệt vượt trội của
thương hiệu do nhiều kinh nghiệm liên quan đến thương hiệu (Yoo et. al.,
2000) nên một thương hiệu được người tiêu dùng cảm nhận có chất lượng cao thì
họ sẽ biểu hiện cảm c của mình đối với họ thấy rằng thương hiệu đó có
những đặc tính làm họ thích thú muốn sở hữu hơn các thương hiệu khác
(Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, 2011) cũng sẽ làm cho khách
hàng lựa chọn thương hiệu đó hơn là các thương hiệu cạnh tranh khác (Zeithaml,
1988; Yoo et. al., 2000). Vì vậy, giả thuyết H3 có thể là:
H3: Chất lượng cảm nhận của người tiêu ng đối với thương hiệu tăng
hay giảm sẽ làm cho tài sản tài sản thương hiệu đó cũng tăng hay giảm theo (kỳ
vọng +).
Lòng trung thành thương hiệu
Lòng trung thành của người tiêu dùng đối với một thương hiệu được xem
như một sự gắn kết thêm người tiêu dùng đối với một thương hiệu
(Aaker, 1991); như mức độ người tiêu dùng cảm thấy rằng họ đồng hành cùng
với thương hiệu (Keller, 1998).