
913
ĐỔI MỚI DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN TRONG CHƯƠNG
TRÌNH NG VĂN 2018 (CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ) THEO ĐẶC
TRƯNG MÃ THỂ LOẠI
Nguyễn Đức Toàn
Khoa Ngữ văn và Khoa học Xã hội,
Trường Đại học Hải Dương
TÓM TẮT
Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực người học đã trở
thành một định hướng lớn của Chương trình Giáo dục phổ thông 2018. Trong
đó, đọc hiểu văn bản là một năng lực đặc thù của bộ môn. Văn bản có mã ngôn
ngữ và mã văn học. Đọc hiểu từ đặc trưng mã thể loại theo quy trình trước, trong
và sau khi đọc là một trong những phương án tối ưu mà giáo viên có thể áp dụng
khi dạy văn bản truyện và vận dụng để dạy văn bản thuộc thể loại khác. Chương
trình Ngữ văn 2018 quy định cụ thể các yêu cầu cần đạt theo từng cấp độ nhận
thức tương ứng với kiểu/thể loại văn bản. Giáo viên cần thiết kế hệ thống câu
hỏi trên cơ sở mã thể loại nhằm kiến tạo nghĩa của văn bản ở góc độ chỉnh thể.
Từ khóa: đọc hiểu; mã thể loại; văn bản truyện; năng lực; Chương trình
Giáo dục phổ thông 2018
1. Đặt vấn đề
Việc dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học cơ sở
(THCS) đang có những chuyển biến tích cực, bên cạnh đó còn tồn tại vướng mắc
khi người dạy khi tiếp cận với nội dung mới, cách dạy và kiểm tra, đánh giá mới.
Từ những cơ sở lý luận về đọc hiểu văn bản truyện, dựa trên thực tế dạy và học
Ngữ văn ở phổ thông, tác giả đề xuất phương án đọc hiểu truyện từ mã thể loại.
Thể loại là một hiện tượng loại hình của sáng tác và giao tiếp văn học,
hình thành dựa trên sự lặp lại có tính quy luật của các yếu tố trong tác phẩm.
Chương trình Ngữ văn 2006 chủ trương dạy đọc hiểu lấy thể loại và kiểu văn
bản trong mỗi giai đoạn lịch sử văn học làm tiêu chí lựa chọn tác phẩm trong
sách giáo khoa (SGK) ở mỗi lớp. Tới chương trình Ngữ văn 2018, cấp THCS,
tác phẩm không được xếp theo giai đoạn văn học sử mà chú trọng dạy đọc hiểu
văn bản theo thể loại và kiểu văn bản. Căn cứ vào quan điểm và mục tiêu của
chương trình Ngữ văn 2018, việc thiết lập phương án đọc hiểu từ mã thể loại là
vấn đề cần được quan tâm.

914
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng hợp, thống kê được sử dụng để hệ thống hóa các tiểu
loại của truyện trong chương trình Ngữ văn THCS. Phương pháp phân tích được
sử dụng để tìm hiểu nội hàm khái niệm mã/mã thể loại đồng thời lập phương án
dạy đọc hiểu truyện thông qua quy trình ba bước. Bài viết cũng kết hợp phương
pháp so sánh, đối chiếu nhằm khu biệt rõ đặc trưng đọc hiểu văn bản truyện theo
mã thể loại. Đối tượng thực nghiệm là văn bản Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ
14 - một trong số những văn bản truyện được sử dụng để đọc hiểu trong sách
giáo khoa Ngữ văn 8 ở chương trình Ngữ văn 2006 và 2018.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Một số khái niệm
3.1.1. Mã
Đây là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như ngôn ngữ
học, công nghệ thông tin, ký hiệu học và nghiên cứu văn học. Theo nghĩa thông
thường, mã là nguyên tắc xác lập mối quan hệ giữa thông tin và ký hiệu. Trong
một văn bản văn học, có ít nhất hai mã: mã ngôn ngữ và mã văn học, trong đó
mã văn học thường không tuân theo những rào cản của ngôn ngữ.
Mã là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động truyền thông tin. Truyền tin
qua không gian và thời gian đòi hỏi phải có vật mang thông tin, ký hiệu. Mã là
mối liên hệ giữa vật dụng làm ký hiệu và thông tin. Mối liên hệ mã dựa trên sự
quy ước. Trong quá trình lập mã, mã này tạo sinh ra mã kia, các mã dịch chuyển,
xâm lấn qua lại nhưng vẫn nằm trong mối liên hệ. Trong các hệ thống mã, mã
ngôn ngữ là hệ thống mã cơ bản nhất, dựa vào đó để lập ra các mã khác.
3.1.2. Mã thể loại truyện
Hiện thực hay đời sống mà nhà văn hướng tới khi sáng tạo văn học là một
thế giới ký hiệu, trong đó bất cứ hiện tượng nào cũng được mã hóa một ý nghĩa
nào đó. Sáng tác văn học chính là sáng tạo một bức tranh về thế giới được mã
hóa. Một câu chuyện, nhân vật, chân dung, phong cảnh hay chi tiết đều là những
hình ảnh đã được mã hóa ý nghĩa. Đồng thời, sáng tác văn học nói chung đòi hỏi
phải theo thể loại nhất định. Các hình thức mã hóa nhân vật, kết cấu, chi tiết…
đòi hỏi quá trình giải mã. Hiểu như thế, việc phân tích hình ảnh, câu chữ… là
giải mã. So sánh các chi tiết với chi tiết tương tự trong tác phẩm khác, tức là so
sánh liên văn bản cũng là giải mã. Nhưng trong tác phẩm có những mã văn học
ẩn sâu trong hệ thống hình tượng, cần có cách mô hình hóa thì mới phát hiện ra.
Việc này yêu cầu phân tích các motip, sự lặp lại có tính quy luật của chúng.

915
Qua phân tích, có thể rút ra một số nhận định: Thứ nhất, mã có một vai
trò rất quan trọng trong quá trình giao tiếp, bởi nhờ nó mà người nhận có thể hiểu
được thông điệp của người gửi, vì thế nó là yếu tố xác lập nên mối quan hệ giữa
người phát và người nhận, giữa thông điệp và ý nghĩa thông điệp. Thứ hai, mã
là một ngôn ngữ, bởi nó cũng có những đơn vị và quy tắc tổ chức của các đơn vị
ấy thành hệ thống, giúp truyền đạt thông tin. Hiểu như vậy, văn bản cũng có mã
riêng, đó là hệ thống ngữ pháp chi phối việc tạo thành chúng. Từ đó, tác giả nhất
trí với quan điểm rằng “khi phân tích các tác phẩm tự sự (truyện ngắn, tiểu
thuyết…), thông thường, người ta chú ý đến tình tiết, cốt truyện, kết cấu, nhân
vật và ngôn ngữ nghệ thuật”
1
.Tóm lại, đọc hiểu văn bản truyện theo mã thể loại
chính là quá trình đi tìm ký hiệu và diễn giải nội dung, ý nghĩa chứa đựng trong
từng ký hiệu ấy. Mã của truyện chính là cốt truyện (sự kiện, tình huống, chi
tiết…), nhân vật, điểm nhìn, lời kể, giọng điệu, ngôn ngữ…
3.2. Hệ thống các tiểu loại truyện trong chương trình Ngữ văn 2018 cấp THCS
Để có cơ sở đề xuất phương án đọc hiểu văn bản truyện trong chương
trình Ngữ văn 2018 cấp THCS
2
, chúng tôi đã tiến hành thống kê và khảo sát thể
loại truyện và các tiểu loại của truyện. Kết quả thu được: toàn cấp THCS xuất
hiện 10 tiểu loại của truyện, bình quân mỗi lớp đều có 2 đến 3 tiểu loại. So với
chương trình Ngữ văn 2006, chương trình giáo dục phổ thông 2018 có sự xuất
hiện của 2 tiểu loại mới là truyện khoa học viễn tưởng (lớp 7) và truyện trinh
thám (lớp 9). Các yếu tố đặc trưng của truyện cũng được bố trí, sắp xếp một cách
chặt chẽ, lớp sau kế thừa, tiếp nối và phát triển, độ khó tăng dần. Chẳng hạn, lớp
6 yêu cầu phân biệt người kể chuyện ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, lên lớp 7
nhận biết được tác dụng của việc thay đổi ngôi kể, lớp 8 tìm hiểu cốt truyện đơn
tuyến và đa tuyến, lớp 9 phân biệt lời người kể chuyện và lời nhân vật, lời đối
thoại và lời độc thoại trong văn bản truyện…
3.3. Phương án dạy đọc hiểu truyện trong chương trình Ngữ văn 2018 (cấp
THCS) từ đặc trưng mã thể loại
Chương trình Ngữ văn 2018 căn cứ vào mục đích giao tiếp để phân chia
văn bản thành ba loại: văn bản văn học, văn bản nghị luận, văn bản thông tin.
Thể loại truyện thuộc loại hình văn bản văn học. Mục đích của việc đọc là để
hiểu, hiểu là giải mã và kiến tạo ý nghĩa của văn bản. Mô hình đọc hiểu văn bản
theo tiến trình ba bước (trước, trong và sau khi đọc) là một lựa chọn hiệu quả,
đã được áp dụng ở nhiều quốc gia. Mô hình này được áp dụng vào chương trình
1
Trần Đăng Suyền (2020), Phương pháp phân tích tác phẩm văn học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình Ngữ văn 2018 (Ban hành kèm theo Thông tư 32/TT-
BGDĐT, ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).

916
và sách giáo khoa 2018, đưa học sinh từ vị trí người đọc bị áp đặt trở thành người
tiếp nhận (bạn đọc) tích cực, chủ động, độc lập tư duy, tham gia vào suốt quá
trình đọc.
3.3.1. Trước khi đọc: khởi động, kích hoạt tri thức, trải nghiệm nền, kết nối văn
bản
Mỗi văn bản truyện là một lát cắt cuộc sống hay thân phận con người. Bởi
vậy ngay từ giai đoạn trước khi đọc, giáo viên cần tận dụng lợi thế đặc trưng của
thể loại để tạo hứng thú, kích hoạt vốn sống, nhu cầu trải nghiệm của học sinh.
Từ đó, học sinh có cơ hội chia sẻ, kết nối với nội dung của truyện. Đây là bước
mang tính “tạo đà” nhằm dẫn dắt, cuốn hút học sinh vào tâm thế sẵn sàng, tích
cực tham gia đọc. Bằng nhiều hình thức tổ chức như kể chuyện, xem video clip,
tranh, ảnh, bài hát, câu đố, giải ô chữ… mã thể loại thường sẽ hình thành qua
những dạng câu hỏi như: Hãy chia sẻ một truyện kể hay một bộ phim em đã
đọc/xem mà nhân vật đã trải qua những niềm vui hoặc nỗi buồn khiến em suy
nghĩ; em đã bao giờ làm một việc tốt nhưng bị hiểu lầm và chê trách hay chưa?
Sự việc xảy ra như thế nào, hãy chia sẻ sự việc ấy; Kể tên những anh hùng trong
lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Chia sẻ hiểu biết và cảm nghĩ của em
về người anh hùng đó…..
3.3.2. Trong khi đọc: giải mã ký hiệu chữ - âm thanh - ngữ nghĩa
Đọc là một hoạt động mang tính cá thể hóa, tính tự thân. “Trong khi đọc”
là bước tiếp xúc trực tiếp, cụ thể với văn bản, đánh thức các ký hiệu ngôn ngữ
bằng hoạt động giải mã (chữ viết, ngữ nghĩa, thông điệp…). Để hoạt động giải
mã diễn ra hiệu quả, các bộ sách giáo khoa theo chương trình giáo dục phổ thông
2018 đã thiết kế các ô thẻ chạy dọc theo văn bản ở phía bên phải, các chú thích
đặt ở ngay chân trang, thuận tiện theo dõi, tra cứu để nắm rõ nghĩa của chi tiết,
thành phần cốt truyện, hình ảnh… trong quá trình đọc. Các ô thẻ chứa các câu hỏi
không yêu cầu học sinh phải dừng lại để trả lời mà chỉ là những công cụ gợi dẫn, hỗ
trợ đọc, giống như tấm biển chỉ đường với các chỉ lệnh: theo dõi, chú ý, suy luận,
hình dung, tưởng tượng, dự đoán, liên hệ…
3.3.3. Sau khi đọc: hoàn thành việc tri giác tổng thể văn bản dựa trên tiến trình đọc
“Sau khi đọc”, người đọc thu thập được thông tin từ tiến trình đọc văn
bản. Theo đó, quá trình vận động xảy ra theo hướng từ chỉnh thể đi sâu vào các
thành tố bộ phận, các thông tin bề mặt được xâu chuỗi để phân tích, cắt nghĩa.
Với truyện, người học sẽ cắt nghĩa các thành tố trọng yếu như: Cốt truyện, nhân
vật, ngôn ngữ trần thuật, sau đó tiến hành tổng hợp, khái quát hóa trong chỉnh
thể. Tiến trình này diễn ra vừa tuyến tính vừa tổng hợp.

917
Để minh chứng cho sự đổi mới đọc hiểu văn bản truyện theo đặc trưng
mã thể loại, chúng tôi tiến hành khảo sát, so sánh việc dạy một văn bản truyện
được lựa chọn cả trong chương trình giáo dục phổ thông 2006 và chương trình
giáo dục phổ thông 2018. Đó là văn bản đoạn trích hồi thứ 14, Hoàng Lê nhất
thống chí (Ngô gia văn phái). Các sách giáo khoa ở hai chương trình thiết kế hệ
thống câu hỏi đọc hiểu như sau:
* Sách giáo khoa Ngữ văn 8 thuộc Chương trình Ngữ văn 2006 đề ra các
yêu cầu:
- Tìm đại ý và bố cục đoạn trích.
- Cảm nhận hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn
Huệ. Xác định nguồn cảm hứng đã chi phối ngòi bút tác giả khi tạo dựng hình
ảnh người anh hùng dân tộc này.
- Nghệ thuật miêu tả sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận
bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân. Sự khác biệt trong bút
pháp miêu tả hai cuộc tháo chạy của quân tướng nhà Thanh và vua tôi Lê Chiêu
Thống. Lý giải sự khác biệt đó.
- Nêu nhận xét về nghệ thuật trần thuật của đoạn trích này.
* Các sách giáo khoa Ngữ văn 8 thuộc Chương trình Ngữ văn 2018:
- Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống đề ra các yêu cầu cần đạt:
+ Nêu bố cục đoạn trích và nội dung chính của từng phần.
+ Liệt kê những nhân vật và sự kiện lịch sử được tác giả đề cập trong văn bản.
+ Tìm những chi tiết tiêu biểu miêu tả thái độ, lời nói và hành động của
Bắc Bình Vương khi nghe tin báo quân Thanh xâm lược nước ta. Những chi tiết
đó cho thấy đặc điểm tính cách gì của nhân vật?
+ Nêu cảm nhận về nhân vật vua Quang Trung được khắc họa trong đoạn
trích, qua đó nhận xét cảm hứng của các tác giả đối với vị anh hùng dân tộc này.
+ Những chi tiết khắc họa nhân vật Lê Chiêu Thống. Phân tích một chi
tiết đặc sắc, thể hiện rõ bản chất của nhân vật Lê Chiêu Thống, qua đó thấy được
thái độ của tác giả đối với nhân vật này.
+ Sự đối lập giữa hai nhân vật Quang Trung và Lê Chiêu Thống, giữa
quân Tây Sơn và quân Thanh có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện chủ đề
của đoạn trích? Hãy khái quát chủ đề đó.
+ Ở đoạn trích này, những yếu tố nào của truyện lịch sử đã được tác giả
sử dụng? Nhận xét về nghệ thuật kể chuyện lịch sử của tác giả.
- Bộ sách Chân trời sáng tạo lại đề ra những yêu cầu cần đạt sau đây:

