LUẬN VĂN:

Quá trình đổi mới hoạt động của

các ngân hàng thương mại quốc

doanh Việt Nam

Mở đầu

Sự chuyển đổi từ một nền kinh tế hành chính tập trung quan liêu bao cấp sang

cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo

nên một bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển nền kinh tế đất nước. Kỷ nguyên đổi

mới kinh tế đã hình thành nên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Với sự đa dạng

hoá các loại hình sản xuất kinh doanh, cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ về chất càng

làm nền kinh tế phát triển một cách sôi động.

Cùng với sự nghiệp đổi mới Đất nước, sự nghiệp đổi mới ngân hàng cũng đã

đạt được những thành tựu đáng kể. Nhất là từ sau khi Pháp lệnh Ngân hàng ra đời, hoạt

động ngân hàng khá toàn diện và tiến bộ ở tầm pháp lý cao hơn trước, bao quát được

vấn đề cốt lõi về tổ chức và hoạt động ngân hàng.

Xuất phát từ đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế thị trường trong điều kiện mở

cửa, việc phát triển các loại hình dịch vụ trong hoạt động ngân hàng của hệ thống ngân

hàng thương mại Việt Nam là yêu cầu không thể thiếu để hội nhập với nền kinh tế thế

giới.

Nhận thức được yêu cầu đó, đề tài lần này mà em chọn lựa cho tiểu luận bộ

môn Lý thuyết tiền tệ là: "Quá trình đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương

mại quốc doanh Việt Nam".

Chương I

Một số lý thuyết cơ bản về hoạt động

của Ngân hàng Thương mại.

1. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển hoạt động của Ngân hàng thương

mại:

Ngân hàng ra đời và phát triển là kết quả của sự phát triển sản xuất, trao đổi hàng

hoá, là kết quả của sự phân công lao động xã hội và nó luôn gắn liền với sự vận động

của tiền tệ. Tiền thân của nghề ngân hàng chính là nghề kim hoàn có từ thế kỷ XIV.

Đó là khi lưu thông tiền đúc bắt đầu phát triển mạnh và nghề kim hoàn ra đời với

nhiêm vụ chính là cân và thử tiền.

Cùng với sự phát triển của trao đổi lưu thông hàng hoá thì khối lượng tiền tệ

trong lưu thông ngày một lớn, các thương gia, điền chủ tích luỹ được khối lượng tiền,

vàng ngày một nhiều. Vậy là từ việc chỉ cân và thử tiền, người thợ kim hoàn bắt đầu

đổi và bảo quản tiền tệ cũng như tài sản. Lúc này, họ có thêm một chức năng mới-cũng

là nhiệm vụ đầu tiên của nghề ngân hàng - là "người thủ quỹ của xã hội". Thế nhưng,

đối với họ, tất cả những dịch vụ đó chỉ đem một khoản phí rất thấp, cho nên, để tăng

thêm thu nhập, họ kiêm luôn việc thanh toán hộ. Hoạt động này phát triển, nhà kim

hoàn liên tục thực hiện thanh toán cho khách hàng, và trong quỹ của họ bao giờ cũng

có một số dư nhất định vì ngoài những khoản xuất ra họ còn thu vào nữa, bởi vậy họ

đã nghĩ đến việc đem số dư đó cho vay. Chính hành vi này đã đem đến cho nhà kim

hoàn những khoản lợi nhuận rất lớn nên câu hỏi đầu tiên được đặt ra đối với họ lúc này

là làm sao để mở rộng được dịch vụ cho vay? Dĩ nhiên là muốn có đầu ra phải có đầu

vào mà đầu vào của hoạt động cho vay chính là nhận tiền gửi. Thế là từ việc thu phí

cho hoạt động thanh toán hộ, họ đã đi từ miễn phí đến trả lãi cho các khoản tiền gửi.

Nhờ vậy, những người thợ kim hoàn đã tập trung vào tay mình dược rất nhiều nguồn

vốn trong xã hội. Và Ngân hàng thương mại bước đầu xuất hiện.

Lúc đầu, các ngân hàng chỉ tổ chức lưu thông tiền đúc với số lượng có hạn nên

không thể mở rộng dịch vụ cho vay. Vậy nên để làm dược việc này họ bắt đầu nghĩ ra

tiền giấy. Buổi sơ khai, tiền giấy chỉ là những giấy chứng nhận mà khi cầm tờ giấy

này, người sở hữu có thể đổi ra tiền đúc bất cứ lúc nào tại ngân hàng phát hành ra nó.

Sau này, nó được gọi là tiền ngân hàng tư nhân vì mỗi ngân hàng phát hành một loại

giấy chứng nhận khác nhau. Bởi vậy mà song song với hàng loạt các ngân hàng là

hàng loạt các loại tiền giấy khác nhau. Điều này buộc người trao đổi tiến hành lựa

chọn. Kết quả của sự chọn lựa đó là có một số loại tiền của một số ngân hàng tư nhân

bị từ chối thanh toán bởi lẽ phạm vi lưu thông của mỗi đồng tiền được quy định bằng

uy tín, tiềm lực kinh tế của ngân hàng phát hành ra nó. Điều này gây cản trở và khó

khăn rất nhiều cho lĩnh vực lưu thông tiền tệ cũng như toàn bộ nền kinh tế.

Từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX, do sự tác động mạnh mẽ của cạnh

tranh, việc phát hành dần tập trung vào một số ngân hàng lớn và các ngân hàng này trở

thành ngân hàng phát hành, được các đạo luật của Nhà nước hợp pháp hoá độc quyền

phát hành tiền. Đến đây, hệ thống ngân hàng đã được chuyên môn hoá thành ngân

hàng phát hành và ngân hàng chuyên doanh. Các ngân hàng chuyên doanh cũng được

phân công lao động sâu sắc trong từng lĩnh vực như Ngân hàng Công nghiệp, Ngân

hàng Thương nghiệp, v...v...

Từ cuối thế kỷ XIX cho đến nay, các ngân hàng phát hành trở thành các Ngân

hàng trung ương do có sự can thiệp của Nhà nước bằng biện pháp quốc hữu hoá hoặc

hợp nhất, các ngân hàng chyên doanh trở thành Ngân hàng thương mại hoạt động theo

hai xu hướng, hoặc chuyên doanh theo từng lĩnh vực hoặc hoạt động kinh doanh đa

năng.

Cho đến ngày nay, hoạt động của các ngân hàng thương mại đã tiến một bước khá

xa so với hoạt động của các ngân hàng cổ truyền ở những thế kỷ trước, nó mang đậm

nét của thời đại bùng nổ thông tin và khoa học công nghệ. Cạnh tranh trong lĩnh vực

ngân hàng diễn ra ngày càng khốc liệt, gay gắt. Để có thể tồn tại và đứng vững, các

ngân hàng thương mại buộc phải ngày nâng cao chất lượng sản phẩm và chú trọng thoả

mãn mọi nhu cầu tài chính của khách hàng. Sự tiến bộ ấy đã tạo nên một nền công

nghiệp ngân hàng hoàn chỉnh.

Một số hoạt động phổ biến của hệ thống ngân hàng thương mại là:

- Nhận tiền gửi và tiền tiết kiệm.

- Cho vay đối với các tổ chức và các cá nhân.

- Chuyển tiền và quản lý các công cụ thanh toán.

- Dịch vụ đối ngoại.

- Các dịch vụ khác.

Với việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, ngân hàng thương mại trong nền kinh

tế thị trường hiện nay có thể coi là một doanh nghiệp bởi vì các ngân hàng thương mại

cũng thực hiện kinh doanh để kiếm lời như các doanh nghiệp khác. Nhưng xét về bản

chất các hoạt động dịch vụ ngân hàng thì thấy rằng ngân hàng thương mại là một

doanh nghiệp đặc biệt. Các "sản phẩm" mà ngân hàng thương mại cung ứng được chế

biến từ "nguyên liệu chính" là tiền với công nghệ đặc biệt là tiền tạo ra tiền (T' > T).

Chúng giống những sản phẩm thông thường ở chỗ không ngừng cải tiến về mẫu mã,

quy cách, chất lượng để tạo ra sự đa dạng, hấp dẫn, phù hợp với thị hiếu, nhu cầu sử

dụng và túi tiền của khách hàng.

Trên cơ sở đó, các dịch vụ chính của một ngân hàng thương mại là:

- Dịch vụ cung cấp "nguyên liệu chính" cho công nghiệp ngân hàng-dịch vụ nhận

tiền gửi.

- Dịch vụ cung cấp phương tiện thanh toán làm tăng khả năng luân chuyển vốn.

- Các dịch vụ hỗ trợ khác.

2. Hoạt động thực hiện các chức năng của ngân hàng thương mại và vai trò của các

hoạt động đó:

2.1/ Đối với nền kinh tế:

Trong nền kinh tế hàng hoá, các doanh nghiệp, các nhà sản xuất là người bán

đồng thời cũng là người mua. Họ mua nguyên vật liệu, sức lao động, nhà xưởng, máy

móc, công nghệ... để tiến hành sản xuất kinh doanh và họ bán sản phẩm tạo ra sau quá

trình sản xuất đó để thu lợi nhuận. Quy trình đó được lặp đi lặp lại và nguồn vốn dược

quay vòng từ chủ thể này sang chủ thể khác. Vì vậy, trong quan hệ kinh doanh, tất yếu

các doanh nghiệp phải thực hiện thanh toán với nhau về các khoản mua bán hàng hoá-

dịch vụ. Các cá nhân cũng vậy, mỗi người đều có những nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại,

học hành..., họ cần phải thực hiện chi trả hay thanh toán cho các nhu cầu đó. Thế

nhưng, không phải lúc nào việc thanh toán trực tiếp giữa các chủ thể cũng diễn ra dễ

dàng và thuận lợi bởi lẽ việc mua bán không còn dừng lại ở mớ rau hay con cá nữa mà

nó là những khoản thanh toán lớn hơn rất nhiều. Và người ta cũng không thể dự trữ

một số tiền quá lớn như thế ở trong nhà để chờ đợi một cơ hội mua thích hợp. Vì vậy,

ngân hàng ra đời với nhiệm vụ đầu tiên là cung cấp và quản lý vốn, đồng thời thực

hiện thanh toán hộ các khoản giao dịch cho khách hàng.

Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì tần số giao dịch ngày càng tăng nhanh,

khối lượng tiền tệ ngày một lớn, phạm vi kinh doanh ngày càng mở rộng. Trong điều

kiện đó, các doanh nghiệp hay các cá nhân không thể tự thanh toán trực tiếp với nhau

được mà cần có sự tham gia của các ngân hàng trong nước và quốc tế. Bởi vậy, Ngân

hàng trở thành trung gian thanh toán cho nền kinh tế.

Mặt khác, theo đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tuần hoàn vốn xã

hội đã phát sinh hiện tượng cùng lúc có những chủ thể có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi

(như tiền bán hàng của các doanh nghiệp nhưng chưa mua nguyên vật liệu, tiền trích

khấu hao chưa sử dụng, tiền lương chưa đến kỳ trả...) và có những chủ thể có nhu cầu

cần bổ sung vốn trong một thời gian ngắn (như doanh nghiệp cần mua nguyên vật liệu

nhưng chưa bán được sản phẩm, cần sửa chữa hoặc mua sắm tài sản cố định nhưng

nguồn tích luỹ và khấu hao chưa đủ, cá nhân cần tiền cho nhu cầu mua sắm tài sản có

giá trị nhưng tiền tích luỹ còn hạn chế...). Ngân hàng thương mại đã giải quyết mâu

thuẫn này bằng cách đứng ra làm trung gian tín dụng để chuyển dịch vốn từ nơi thừa

vốn đến nơi thiếu vốn. Nhiệm vụ của ngân hàng là nhận tiền gửi và đem tiền gửi đó

đáp ứng những nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Hoạt động này đã làm tăng hiệu quả sử

dụng vốn của toàn bộ nền kinh tế, cụ thể là trên cơ sở nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của

các doanh nghiệp, các cá nhân, ngân hàng có điều kiện thực hiện điều hoà vốn từ nơi

thừa vốn đến nơi thiếu vốn, làm cho vốn được sử dụng hiệu quả và triệt để hơn, tận

dụng tốt hơn những nguồn lực sẵn có về vốn. Đồng thời, việc sử dụng vốn triệt để sẽ

làm giảm hao phí sản xuất và lưu thông tiền tệ, tiết kiệm chi phí xã hội. Hơn thế nữa,

từ nhưng nguồn vốn nhỏ, lẻ tẻ, ngân hàng có thể tập trung thành những nguồn vốn lớn

cung cấp cho các doanh nghiệp thưc hiện tái sản xuất mở rộng, thúc đẩy quá trình sản

xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo thêm việc làm, tăng sản lượng và giảm

nhập khẩu hàng hoá.

Chức năng trung gian thanh toán cũng được thực hiện trên cơ sở chức năng trung

gian tín dụng bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng

một tài khoản để theo dõi các khoản thu - chi và đó chính là tiền đề cho chức năng

trung gian tín dụng của ngân hàng. Mặt khác, với phương thức thanh toán trực tiếp,

chủ thể sử dụng vốn phải chịu nhiều lãng phí như: vốn nhàn rỗi trước khi thanh toán

không được sử dụng, phải chi phí nhiều khoản về kho quỹ, bảo quản, sổ sách kế toán,

vận chuyển, đếm nhận... Nhưng nhờ có hoạt động của ngân hàng mà quy mô thanh

toán trực tiếp ngày càng bị thu hẹp, nhường chỗ cho quá trình phát triển không giới

hạn của các nghiệp vụ thanh toán gián tiếp qua ngân hàng. Khi thực hiện thanh toán

qua ngân hàng, họ không còn phải giữ tiền trong túi hay chịu những khoản chi phí trên

nữa. Ngược lại, họ còn được hưởng một khoản lợi, dù nhỏ bé, từ nguồn vốn tạm thời

nhàn rỗi của mình, lại có thể thực hện thanh toán một cách an toàn, nhanh chóng, tiết

kiệm. Như vậy, chức năng này đã góp một phần công sức to lớn vào việc thúc đẩy lưu

thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ luân chuyển vốn do đó góp phần

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Sự kết hợp giữa hai chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán là cơ

sở để ngân hàng thương mại thực hiện chức năng thứ ba - chức năng tạo tiền gửi thanh

toán. Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện

thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả xã hội. Thông qua

chức năng làm trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng vốn huy động được để cho vay,

khoản vay đó được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá dịch vụ. Và chỉ khi thực hiện

cho vay, ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền. Tuy vậy, để tạo ra tiền gửi thanh toán, ngân

hàng phải làm được chức năng trung gian thanh toán thì số tiền trên tài khoản tiền gửi

thanh toán của khách hàng mới là một bộ phận của lượng tiền giao dịch. Do vậy, khái

niệm về "tiền", "tiền giao dịch" không chỉ là giấy bạc do ngân hàng trung ương của

mỗi nước phát hành ra mà bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng

thương mại tạo ra.

Ngày nay, do thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, các

ngân hàng đã và đang ứng dụng những kỹ thuật hiện đại, tiên tiến vào hoạt động nhằm

mục tiêu phục vụ tốt nhất khách hàng của mình. Theo đó, các công cụ thanh toán

không dùng tiền mặt lần lượt ra đời từ những công cụ cổ truyền như séc thanh toán cho

đến các công cụ hiện đại như thẻ thanh toán. Việc sử dụng các công cụ thanh toán này

đã làm giảm chi phí lưu thông tiền mặt, đồng thời góp phần tiết kiệm chi phí xã hội.

Với việc luôn đổi mới và ứng dụng công nghệ cao trong thanh toán, các ngân hàng

ngày càng có thể cho hàng triệu khách hàng các dịch vụ hiệu quả nhất với giá cả hợp lý

nhất. Họ thực hiện môi giới, đại lý cho các cá nhân, các tổ chức kinh tế trên thị trường

chứng khoán, thực hiện các dịch vụ về thông tin tư vấn cho khách hàng và các dịch vụ

khác, giúp cho các khách hàng của mình trong việc quản lý tài sản, tài chính một cách

có lợi nhất. Hơn thế, với tư cách là một cơ quan chuyên trách, chuyên kinh doanh về

lĩnh vực tiền tệ và tín dụng, các ngân hàng thương mại hoạt động như một "chất bôi

trơn", dẫn vốn từ kênh tiết kiệm đến kênh đầu tư trên thị trường tài chính, giải quyết

mọi mối quan hệ về cung-cầu tiền tệ, góp phần ổn định nền kinh tế, đảm bảo cho thị

trường tài chính hoạt động nhịp nhàng, trôi chảy và hữu hiệu, giúp cải thiện đời sống

kinh tế cho mỗi cá nhân trong xã hội.

2.2/ Đối với ngân hàng:

Nếu như đối với nền kinh tế, ngân hàng là người đi vay và cho vay, là người dảm

bảo lợi ích của tất cả các chủ thể thì với chính bản thân mình, ngân hàng cũng tìm kiếm

được những nguồn lợi không nhỏ. Nguồn lợi ở đây không chỉ dừng lại ở lợi nhuận mà

nó còn ở rất nhiều khía cạnh khác nữa. Đó là việc mở rộng thị trường, phân tán rủi ro,

khai thác tiềm năng v...v. Nhưng có lẽ khía cạnh đầu tiên cần nói đến không gì khác

vẫn là lợi nhuận bởi lẽ ngân hàng chẳng qua cũng chỉ là một doanh nghiệp mà mục

đích hàng đầu của mọi doanh nghiệp luôn là kinh doanh để kiếm lời.

Cũng giống như tất cả các tổ chức kinh doanh khác, một ngân hàng khi có số

lượng khách ngày một nhiều nghĩa là doanh thu của họ ngày một tăng. Doanh thu tăng

lên sẽ giúp ngân hàng tập trung được nguồn vốn to lớn thông qua tiền gửi tiết kiệm và

tiền gửi thanh toán để ngân hàng có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng-là hoạt động

trọng tâm của ngân hàng. Qua đó, lợi nhuận của ngân hàng tăng lên rõ rệt.

Hơn nữa, việc phát triển các loại hình dịch vụ ngày một đa dạng mà đặc biệt là

những dịch vụ hỗ trợ như môi giới, đại lý chứng khoán, tư vấn, thông tin, bảo quản, ký

gửi... sẽ tạo điều kiện cho khách hàng có những mối quan hệ khách hàng lâu dài, bền

vững. Đây là điều mà một ngân hàng thương mại dặc biệt quan tâm bởi điều đó quyết

địnhphần lớn sự thành công của hoạt động ngân hàng. Cho nên, mục tiêu của các ngân

hàng thương mại luôn là làm sao để khai thác và mở rộng các khoảng trống trên thị

trường, phát triển các mối quan hệ với những khách hàng đã, đang và sẽ có.

Thực hiện được tốt các chức năng của mình, một ngân hàng còn có khả năng để

phân tán mọi rủi ro. Có thể nói, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là hoạt

động gặp rủi ro nhiều nhất bởi mọi biến động trên các thị trường đều liên quan đến tiền

tệ. Có một số loại rủi ro ngân hàng thường gặp như rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro

hệ thống, rủi ro chính sách, rủi ro môi trường... Trong đó rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá

là hiện tượng thường gặp nhất đối với ngân hàng bởi trong cơ chế thị trường, lãi suất

và tỷ giá luôn biến động. Nhưng không chỉ có vậy, có nhiều loại rủi ro không phải do

bản thân ngân hàng hay hệ thống ngân hàng tự gây nên. Rủi ro nhiều khi phát sinh từ

những biến động trong đời sống kinh tế-xã hội của một quốc gia, một khu vực hoặc

trên thế giới như sự thay đổi về chính sách thuế, ngoại thương v...v. Nhưng đáng lo

ngại nhất là rủi ro hệ thống. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, một hoặc một số tổ

chức tài chính bị phá sản, lây lan đến toàn bộ hệ thống tài chính mà trong đó ngân hàng

nằm ở vị trí trung tâm của phản ứng dây chuyền này. Vốn của khách hàng bị rút khỏi

ngân hàng một cách ồ ạt trong khi các khoản nợ chưa thu hồi được làm hàng loạt ngân

hàng bị mất khả năng thanh toán. Bởi vậy, việc mở rộng về phạm vi và loại hình hoạt

động là "phương thuốc" hữu hiệu nhất mà "vị thuốc chính" là lợi nhuận. Lợi nhuận thu

được từ các dịch vụ khác nhau, ở những khu vực khác nhau sẽ bổ sung cho nhau khi

thị trường biến động. Nó có khả năng giúp hàn gắn những vết rạn và giữ vững sự ổn

định cho ngân hàng.

Chương II

Quá trình đổi mới của hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam.

1. Vài nét về hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam:

Sau khi pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ra đời

vào tháng 5/1990, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam được hình thành với tư

cách là các pháp nhân thực hiện kinh doanh tiền tệ, cung ứng dịch vụ ngân hàng cho

các doanh nghiệp và các thể nhân để thông qua đó tìm kiếm lợi nhuận.

Đến nay hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã bao gồm một mạng lưới

rộng lớn như sau:

- 6 ngân hàng thương mại quốc doanh;

- 51 ngân hàng thương mại cổ phần ( gồm 31 ngân hàng cổ phần đô thị và 20

ngân hàng cổ phần nông thôn);

- 10 công ty tài chính;

- 4 ngân hàng liên doanh;

- 25 chi nhánh ngân hàng nước ngoài;

- Hệ thống quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng với 16 quỹ tín dụng khu vực và

966 quỹ tín dụng cơ sở.

Các ngân hàng thương mại quốc doanh (bao gồm Ngân hàng ngoại thương,

Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng phát triển nông

nghiệp và hai ngân hàng mới thành lập là Ngân hàng phục vụ người nghèo và Ngân

hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long) chủ yếu được cải tổ từ các ngân hàng

chuyên doanh cũ thực hiện chức năng kinh doanh với vai trò chủ đạo trong hệ thống.

Sau gần 10 năm đổi mới thực sự hạch toán kinh tế và kinh doanh độc lập, các ngân

hàng thương mại quốc doanh Việt Nam đã phát triển và lớn mạnh không ngừng,

doanh số hoạt động chiếm 85% hoạt động ngân hàng trong cả nước và có đủ sức mạnh

để cạnh tranh với ngân hàng nước ngoài có mặt ở Việt Nam, nâng cao được uy tín với

bạn hàng trong nước và quốc tế.

Quán triệt nguyên tắc đa dạng hoá và đa phương hoá hoạt động, các ngân hàng

thương mại quốc doanh đã mở rộng tín dụng cho mọi thành phần kinh tế, tín dụng

không chỉ dành riêng cho khu vực kinh tế quốc doanh mà còn được thực hiện cho các

thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và dân cư, các loại cho vay cũng được cơ cấu lại

một cách hợp lí, các hình thức huy động vốn có nhiều thay đổi, từ đó mà khối lượng và

chất lượng tín dụng tăng lên đáng kể, tỷ lệ nợ quá hạn giảm đi rõ rệt. Một số các dịch

vụ mới đã bước đầu phát triển như thanh toán quốc tế, dịch vụ kiều hối, dịch vụ uỷ

thác đầu tư, tài trợ xuất nhập khẩu... đóng góp một nguồn thu đáng kể trong hoạt động

kinh doanh của các ngân hàng. Ngoài ra các ngân hàng còn chú trọng mở mang quan

hệ với quốc tế bằng việc nhận làm đại lí cho các ngân hàng nưóc ngoài, đặc biệt, Ngân

hàng ngoại thương còn mở một công ty tài chính tại Hồng Kông và một số văn phòng

đại diện tại các nước trên thế giới.

Song song với việc đổi mới và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh có hiệu quả,

các Ngân hàng thương mại quốc doanh đã dành vốn tích luỹ để đầu tư đáng kể cho cơ

sở vật chất kĩ thuật nhằm đổi mới bộ mặt của một ngân hàng thương mại. Các ngân

hàng đã tích cực ứng dụng khoa học kĩ thuật hiện đại vào các hoạt động mở đầu bằng

việc đưa hàng ngàn máy tính vào ứng dụng để thu thập, khai thác, xử lí, truyền dẫn,

lưu trữ thông tin, dữ liệu, các phần mềm ứng dụng do các ngân hàng tự thiết lập được

chạy trên các hệ thống trong mạng vi tính của ngân hàng. Sự xuất hiện của các loại thẻ

nhựa như Visa, Mastercard... đã tạo thêm công cụ thanh toán mới trong nền kinh tế.

Việc ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động đã bước đầu phát huy được hiệu quả

không những giúp được cho ngân hàng nhanh chóng hội nhập với các ngân hàng trên

thế giới mà còn có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế.

Những hoạt động trên đã mang đến cho các ngân hàng thương mại quốc doanh

Việt Nam một diện mạo mới, một sắc thái mới hết sức khả quan trong giai đoạn khởi

đầu của thế kỉ 21. Có được ngày hôm nay, trước hết phải kể đến sự lãnh đạo đúng đắn

của Đảng và Nhà nước, thứ đến là sự nỗ lực của toàn thể cán bộ tại các ngân hàng

thương mại quốc doanh. Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng thương mại quốc

doanh Việt Nam đã thực hiện cải tổ bộ máy theo hướng gọn nhẹ, xoá bỏ cấp quản lí

trung gian gắn với địa dư hành chính tỉnh, thành phố, thực hiện mô hình quản lí tập

trung thống nhất từ một trung tâm chỉ huy với hội sở chính tại Trung ương thực hiện

hai chức năng là quản lí, chỉ đạo hoạt động toàn hệ thống và thực hiện nhiệm vụ kinh

doanh. Đội ngũ cán bộ đã được sắp xếp lại và được trang bị những kiến thức phù hợp

với cơ chế mới thể hiện qua các lớp đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Qua đó,

trình độ và phong cách của một cán bộ ngân hàng được nâng lên rõ rệt.

Nhìn lại chặng đường hơn 10 năm (từ 1990 đến nay), có thể thấy rằng các ngân

hàng thương mại quốc doanh cùng với toàn bộ hệ thống ngân hàng đã góp một phần to

lớn trên con đường đổi mới nền kinh tế. Đó là: góp phần kiềm chế và đẩy lùi lạm phát,

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhanh quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

2. Hoạt động cung cấp dịch vụ của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt

Nam hiện nay:

Qua những trình bày trên có thể thấy rằng hoạt động của các ngân hàng thương

mại quốc doanh Việt Nam đã khởi sắc hơn so với trước đây rất nhiều. Tuy nhiên, họ

chỉ tập trung vào hai loại dịch vụ chính là dịch vụ nhận tiền gửi và dịch vụ thanh toán,

các dịch vụ khác hầu như không đáng kể.

Sau đây ta sẽ tập trung vào nghiên cứu thực trạng hoạt động ở các ngân hàng

thương mại quốc doanh qua hai dịch vụ chủ yếu này.

2.1/ Dịch vụ nhận tiền gửi của khách hàng :

Trước đây, khi pháp lệnh ngân hàng chưa ra đời, việc nhận tiền gửi của khách

chỉ bó hẹp trong hai loại là tiền gửi các tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm. Ngày nay,

các hình thức và công cụ huy động vốn của các tổ chức tín dụng đã không ngừng được

cải tiến và ra đời thêm một số công cụ huy động vốn mới, đáp ứng nhu cầu vốn ngày

càng tăng của nền kinh tế. Các công cụ đó là:

* Kỳ phiếu ngân hàng có mục đích: Là một công cụ huy động vốn ngắn hạn rất

linh hoạt của các ngân hàng thương mại tuỳ theo yêu cầu đầu tư vốn tín dụng của từng

thời kì hoặc từng dự án đối với khách hàng. Lãi suất huy động vốn cũng linh hoạt theo

yêu cầu đầu tư vốn của dự án cho vay. Đây là một công cụ thích hợp đối với ngân hàng

và được công chúng ưa dùng nên trong những năm qua, các ngân hàng thương mại sử

dụng phổ biến loại này. Kì phiếu ngân hàng là loại công cụ phát hành bằng chứng chỉ

nên còn có tác dụng dùng để cầm cố vay vốn, chiết khấu và mua bán trên thị trường,

nhưng việc mua bán loại này chưa phổ biến do nước ta chưa có thị trường mua bán

chứng từ có giá - chưa hình thành thị trường thứ cấp các công cụ nợ.

* Trái phiếu ngân hàng thương mại: Là công cụ để huy động vốn dài hạn dùng

cho đầu tư các dự án vay vốn trung và dài hạn. Năm 1994, công cụ huy động vốn này

mới được ra đời, các ngân hàng thương mại và nhất là Ngân hàng Đầu tư và phát triển

đã sử dụng công cụ này để thu hút tiền gửi và đạt được một số kết quả nhất định. Cụ

thể: từ ngày 6/12/1994, Ngân hàng Đầu tư và phát triển phát hành trái phiếu, dự kiến

thực hiện đến ngày 20/12/1994, nhưng chưa đầy 2 tuần đã hoàn thành gấp đôi chỉ tiêu

đạt được 200 tỉ VND và gần 1 triệu USD. Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam dự kiến

phát hành trái phiếu từ ngày 5 đến 30/11/1994 nhưng cũng phải ngừng trước thời hạn

vì đã hoàn thành chỉ tiêu 500 tỉ đồng.

Điều đó chứng tỏ rằng với lãi suất hấp dẫn, hình thức huy động vốn đa dạng,

việc tổ chức hợp lí thì ngành ngân hàng có thể huy động được số lượng vốn rất lớn còn

tiềm ẩn trong nhân dân để đầu tư cho các nhu cầu của nền kinh tế.

* Tiết kiệm xây dựng nhà ở: Là hình thức huy động vốn dài hạn gắn liền với

việc cho vay có mục đích là cải tạo và xây dựng nhà ở của nhân dân theo phương thức

hợp đồng giữa người gửi và ngân hàng. Theo phương thức huy dộng vốn này thì nhiều

người gửi cũng là người vay vốn, người có nhu cầu dự định xây dựng và cải tạo nhà ở

trong tương lai thì phải kí hợp đồng gửi tiền tiết kiệm và vay vốn với ngân hàng. Ngân

hàng sẽ cho vay tối đa số tiền bằng số tiền đã gửi và lãi suất do hai bên thoả thuận theo

khung lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định. Khi thực hiện thí điểm ở Ngân hàng

Đầu tư và phát triển (tại Hội sở và một vài chi nhánh), chỉ sau 20 ngày thực hiện,

doanh số đã đạt 16 tỉ đồng. Điều đó chứng tỏ người dân đã hưởng ứng kiểu tiết kiệm

này.

Ngoài ra còn có hình thức huy động tiết kiệm và kì phiếu bằng ngoại tệ và gần

đây nhất là hình thức gửi tiền ở một nơi, rút nhiều nơi. Hình thức này đã được thực

hiện thí điểm từ tháng 1/1994 ở 7 điểm ( 3 điểm ở Miền Bắc và 4 điểm ở Miền nam).

Kết quả bước đầu cho thấy: tổng thu đạt 2,2 tỉ đồng, tổng chi đạt 600 triệu đồng, số dư

đạt 1,5 tỷ đồng. Tuy nhiên điều kiện để mở rộng hình thức này đòi hỏi phải có kĩ thuật

và phương tiện với mạng lưới các chi nhánh ngân hàng rộng khắp.

Đối với tiền gửi tiết kiệm: Nếu như vào thời điểm trước năm 1985, vốn huy

động được qua tiết kiệm chỉ chiếm khoảng 4% trong tổng nguồn vốn ngắn hạn của

ngân hàng với các hình thức huy động vốn đơn điệu, chủ yếu bằng biện pháp vận động

và tuyên truyền, thì nay tiền gửi tiết kiệm không còn là một chính sách để thông qua đó

Nhà nước trợ cấp cho các đối tượng chính sách không lao động được nhưng có một ít

tiền gửi để hưởng lãi, mà dần theo quan hệ cung cầu giữa người gửi và tổ chức tín

dụng. Bởi trong cơ chế thị trường, các ngân hàng thương mại thuộc mọi thành phần

kinh tế đều phải thực hiện hạch toán kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả tài

chính và phải bảo toàn vốn của mình, nếu không sẽ đi đến phá sản. Do đó, tiền gửi tiết

kiệm từ chỗ là một trong các biện pháp tình thế để ngăn chặn và đẩy lùi lạm phát phi

mã với việc lãi suất tiết kiệm được nâng lên rất cao nhằm thu hút lượng tiền thừa quá

lớn trong lưu thông, Ngân hàng Nhà nước đã hạ lãi suất tiết kiệm xuống dần cho phù

hợp với chỉ số lạm phát, các thể thức tiền gửi tiết kiệm cũng được dần thay đổi từ chỗ

chỉ có kì hạn 3 tháng đến chỗ có nhiều kì hạn hơn là 6 tháng, 9 tháng, 1 năm và trên 1

năm.

Đối với tiền gửi thanh toán : Dịch vụ nhận tiền gửi của khách hàng thông qua

mở tài khoản tiền gửi và thanh toán cũng được mở rộng. Trước đây, các ngân hàng

thương mại chỉ mở tài khoản tiền gửi và thanh toán cho các đơn vị kinh tế quốc doanh

thì nay đã mở rộng ra đa thành phần kinh tế, cho phép mở tài khoản tư nhân và cá nhân

( quyết định số 160/QĐNH2 ngày 19/8/1993). Tính đến cuối năm 1995 đã có hơn

38.000 tài khoản cá nhân được mở tại ngân hàng với số dư lên tới 700 tỷ VND. Công

tác thanh toán không dùng tiền mặt được cải tiến không ngừng, đặc biệt là việc hiện

đại hoá công nghệ thanh toán làm nguồn vốn tập trung vào ngân hàng ngày một lớn.

Bảng 1: Nguồn vốn huy động được qua ngân hàng

Đơn vị: tỷ đồng

Năm 1995 Năm 1996 Năm 1997

Số dư tiền gửi Tỷ Tỷ Tỷ Số tiền Số tiền Số tiền trọng trọng trọng

1- TG các tổ chức

KT(không kì 9.666 19,3 14.655 21,9 19.928 23,3

hạn) 37% 52% 36%

Tăng so với năm

trước

18.822 37,5 24.424 36,8 27.666 32,2 2- TG tiết kiệm

216,4% 30% 13% Tăng so với năm

trước

8.590 17,1 8.408 12,6 11.682 13,6 3- Kì phiếu, trái

phiếu

Tăng so với năm 30,5% -12% 39%

trước

4- TG tiết kiệm 13.063 26,1 19.146 28,7 26.531 30,9 bằng ngoại tệ

Tăng so với năm 24% 47% 39% trước

Tổng cộng

50.141 66.633 85.807 Tăng so với năm

66,7% 32,9% 28,8% trước

Nguồn: Vụ nghiên cứu kinh tế - Ngân hàng trung ương.

Nhìn chung, việc cho ra đời nhiều hình thức thu nhận tiền gửi mới với lãi suất

và thời hạn linh hoạt của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam thời gian

qua đã thu hút được một khối lượng vốn đáng kể tập trung vào trong tay ngân hàng để

đáp ứng nhu cầu về vốn ngày một tăng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước. Tuy nhiên nhìn nhận một cách khách quan thì hoạt động ngân hàng vẫn chưa

đáp ứng được cho nhu cầu phát triển kinh tế. Với mức huy động tăng trung bình như

hiện nay (xem bảng 1), các ngân hàng thương mại Việt Nam mới đủ sức đáp ứng

khoảng 30% so với nhu cầu đầu tư trong nước và 8% so với nhu cầu đầu tư của toàn xã

hội.

Trong khi đó, nguồn vốn các ngân hàng thương mại thu hút từ dân cư chỉ chiếm

17% nguồn tiền nhàn rỗi của họ còn lại hầu hết là được dự trữ dưới dạng mua vàng,

ngoại tệ hay mua nhà đất và các nhu cầu cải thiện đời sống sinh hoạt. Nguồn vốn của

các tổ chức kinh tế cũng vậy, do lãi suất của tiền gửi có kì hạn thấp nên hầu như họ

không quan tâm đến việc gửi tiền vào ngân hàng, có chăng chỉ là trả tiền hàng cho các

đơn vị có liên quan chứ ít khi họ gửi tiền vào tài khoản tiền gửi để tạo khả năng thanh

toán cho chính họ.

Bảng 2: Cơ cấu huy động vốn của các NHTMQD

31/12/1997 31/4/1998

Tổng Trong đó Trong đó Tên ngân số

Tổng hàng TG các TG các TGTK,T TGTK,T số G kì G kì TCKT TCKT

phiếu% phiếu% % %

_NHNN&PTN 100 27 73 100 23 77

TVN

_NHĐT&PTV 100 30 70 100 33 67

N 100 41 59 100 30 70

_NHCT VN 100 24 66 100 71 29

_NHNT VN

Điều gì đã dẫn đến tình trạng không khai thác hết được nguồn vốn sẵn có của

nền kinh tế để tập trung vào trong tay ngân hàng nhằm đáp ứng cho nhu cầu của nền

kinh tế ? Cốt lõi của vấn đề là ở chỗ các hình thức, các công cụ và các phương pháp để

thu hút vốn của ngân hàng chưa đa dạng, chưa phong phú và còn nhiều bất cập. Nó

được thể hiện ở các mặt sau:

- Thứ nhất: Việc mở tài khoản tiền gửi và áp dụng các loại hình tiền gửi tiết

kiệm như hiện nay chưa tạo ra được nhiều "tiện ích" cho người gửi tiền. Tiện ích ở đây

có thể hiểu là các thuận lợi cho người gửi tiền trong việc được sử dụng các sản phẩm

dịch vụ của ngân hàng.

- Thứ hai: Các hình thức tiền gửi tiết kiệm hiện nay mới chỉ bó gọn trong các

loại tiền gửi có kì hạn và không có kì hạn với việc trả lãi cố định lĩnh theo định kì,

trong khi các công cụ cổ phiếu có tác dụng rất to lớn và được đánh giá như một phát

minh quan trọng trong lịch sử nhân loại. Hiện nay các ngân hàng thiếu hẳn một công

cụ tiền gửi mang tính chất mạo hiểm nhiều hơn, không lấy lãi cố định theo kì, từ đó có

thể kích thích người gửi tiền nhận lãi cao hơn so với tiền gửi thông thường.

Tính lỏng của các công cụ huy động vốn còn có khoảng cách khá xa so với tiền

mặt. Người gửi tiền đặc biệt quan tâm đến tính lỏng của các tài sản của mình vì tiền

gửi có kì hạn thường là những khoản tạm thời nhàn rỗi nên khả năng chuyển ra tiền

mặt có ý nghĩa quan trọng quyết định đến việc gửi tiền.

- Thứ ba: Về lãi suất cũng chưa thật sự ưu đãi cho tiền gửi trung và dài hạn

cũng như lãi suất tiền gửi thanh toán quá thấp. Giữa các ngân hàng còn có sự chênh

lệch về lãi suất tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định khung lãi suất đối với

các ngân hàng thương mại, còn lãi suất cụ thể do các ngân hàng thương mại tự quy

định tuỳ thuộc vào nhu cầu huy động vốn của từng thời kì, dẫn đến hiện tượng tiền gửi

của dân cư chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng kia mà tổng số vốn huy động

được trong nền kinh tế không tăng lên.

- Thứ tư: Việc tổ chức các nghiệp vụ thu nhận tiền gửi thiếu đồng bộ, khoa học,

thủ tục còn rườm rà, phong cách phục vụ kém gây chậm trễ, ách tắc và phiền hà cho

người gửi tiền.

- Thứ năm: Công tác thanh toán qua ngân hàng còn nhiều hạn chế, các ưu đãi

về thanh toán không dùng tiền mặt chưa được rõ ràng, cụ thể, chưa khuyến khích được

các doanh nghiệp cũng như các cá nhân thanh toán qua ngân hàng.

Cuối cùng, một nguyên nhân không kém phần quan trọng nữa là: Tâm lí ưa

thích tiền mặt và thói quen thích tích trữ vàng, ngoại tệ trong dân cư. Điều này do hậu

quả của tình trạng khan hiếm tiền mặt trong lưu thông và nạn lạm phát xảy ra vào thời

kì trước. Để khắc phục tình trạng trên không thể một sớm một chiều là có thể xoá bỏ

được, đòi hỏi các ngân hàng cần đảm bảo uy tín và khả năng phục vụ của mình tạo sự

tin tưởng cho khách hàng. Một trong những yếu tố tạo nên sự thiếu lòng tin vào ngân

hàng là do sự khó khăn trong việc rút tiền mặt ra khỏi ngân hàng. Hơn nữa, dân chúng

Việt Nam chưa có thói quen cũng như thu nhập còn quá thấp để có thể thực hiện thanh

toán qua ngân hàng.

2.2/ Dịch vụ thanh toán cho khách hàng :

2.2.1/ Những đổi mới:

Sau khi Pháp lệnh ngân hàng ra đời, công tác thanh toán qua ngân hàng đã có

chuyển biến rõ rệt. Mở đầu bằng việc ra đời Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt ban

hành kèm theo quyết định số 101/NH - QĐ ngày 30/7/1991 của Ngân hàng Nhà nước

là cơ sở pháp lí để tổ chức toàn bộ hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Thể lệ này đã

đề cập đến nhiều vấn đề như quy định các thể thức thanh toán qua ngân hàng, các

phương thức thanh toán giữa các ngân hàng như thanh toán liên ngân hàng trong cùng

hệ thống, thanh toán bù trừ, thanh toán từng lần qua tài khoản tiền gửi mở tại Ngân

hàng Nhà nước.

Chế độ thanh toán không dùng tiền mặt ban hành kèm theo quyết định số

22/QĐ - NH1 ngày 21/2/1994 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã bổ sung thêm hai

hình thức thanh toán mới là thẻ thanh toán và ngân phiếu thanh toán. Thẻ thanh toán

cho phép bước đầu thực hiện ở Ngân hàng Ngoại thương là kết quả đáng mừng cho

việc hiện đại hoá công cụ thanh toán để từng bước hoà nhập với hệ thống thanh toán

trên thế giới; ngân phiếu thanh toán ra đời giải quyết trước mắt nhu cầu khan hiếm tiền

mặt, tạo thuận lợi cho người sử dụng.

Ngày 9/5/1996, Chính phủ ban hành nghị định số 30/CP về quy chế phát hành

và sử dụng séc quy định những điều từ đơn giản như các từ ngữ cần hiểu thống nhất

cho đến những điều cốt lõi như nội dung của séc, quyền hạn và nghĩa vụ của người

phát hành séc, người thụ hưởng và các đơn vị thanh toán, đơn vị thu hộ, giải quyết các

vụ kiện tụng khi có tranh chấp xảy ra, xử lí các vi phạm...

Ngày 16/9/1997, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có quyết định số 308/QĐ -

NHNN ban hành quy chế lập, sử dụng, kiểm soát, xử lí, bảo quản và lưu trữ chứng từ

điện tử của các ngân hàng và tổ chức tín dụng; Ngày 22/10/1997, Thống đốc Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam đã có quyết định số 363/QĐ - NHNN2 ban hành quy chế

chuyển tiền điện tử. Hiện nay, hệ thống chuyển tiền điện tử đang được thực hiện thí

điểm, hy vọng trong nay mai sẽ được ứng dụng rộng rãi.

Các văn bản nói trên đã tạo hành lang pháp lí cho hoạt động thanh toán của các

ngân hàng thương mại. Hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt

Nam đang sử dụng những thể thức thanh toán sau:

* Uỷ nhiệm chi: là lệnh uỷ chi tiền của chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng trích tài

khoản của mình để chi trả cho bên hưởng thụ. Đây thực chất là hình thức chuyển

khoản để thanh toán về các khoản trả tiền hàng hoá - dịch vụ hoặc chuyển vốn trong

cùng hệ thống hoặc khác hệ thống trong cùng tỉnh hoặc ngoài tỉnh, là hình thức thanh

toán truyền thống và phổ biến, chiếm tỷ trọng lớn nhất, đặc biệt đối với các tỉnh phía

Nam.

* Uỷ nhiệm thu: Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu được áp dụng trong thanh toán

cùng địa phương hoặc khác địa phương trong hệ thống và ngoài hệ thống về các khoản

trả tiền hàng, dịch vụ mà 2 bên mua bán thống nhất thoả thuận dùng hình thức này với

những điều kiện thanh toán cụ thể đã ghi trong hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng đã

được bên mua ký xác nhận trên các phương thức thanh toán như hoá đơn, vận đơn.

Đây là hình thức thanh toán được cải tiến một cách cơ bản từ hình thức nhờ thu

chấp nhận trước và về thực chất, nó là sự kết hợp giữa hai loại thanh toán bằng trích

khoản và hối phiếu, tuy nhiên, hiện nay hình thức thanh toán này chưa được sử dụng

nhiều.

* Séc: Về đại cương, những quy định về séc của Việt Nam cũng có nhiều điểm

giống những quy định về séc sử dụng trong các ngân hàng trên thế giới và bao gồm các

loại sau: séc chuyển khoản, séc chuyển tiền, séc bảo chi, séc định mức, séc cá nhân.

Đây cũng là hình thức thanh toán được áp dụng phổ biến, đặc biệt là ở Miền

Bắc chiếm tỷ trọng lớn thứ hai. Trong các loai séc, séc chuyển khoản và séc bảo chi

được sử dụng nhiều còn séc cá nhân, do có nhiều hạn chế nên được sử dụng rất ít, chỉ

tập trung ở một số thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh...

* Ngân phiếu thanh toán: Ngân phiếu thanh toán do Ngân hàng Nhà nước phát

hành có mệnh giá và thời hạn thanh toán được in sẵn trên từng tờ. Ngân phiếu thanh

toán không kí danh và có thể chuyển nhượng được, được coi như "tiền mặt có kì hạn"

và dùng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, trả nợ, tiền gửi vào ngân hàng có giá trị

ngang bằng với giá trị tiền mặt và không bị hao hụt.

* Thư tín dụng: Về cơ bản là giống thể thức thư tín dụng của các nước trên thế

giới. Tuy nhiên, do quy trình thanh toán rườm rà, chặt chẽ, nặng về khâu an toàn nên

khách hàng hầu như không sử dụng loại này. Hiện nay có Ngân hàng Ngoại thương và

Công thương áp dụng hình thức thư tín dụng cho việc thanh toán xuất nhập khẩu của

khách hàng với bạn hàng nước ngoài.

* Thẻ thanh toán: Được Ngân hàng Ngoại thương thực hiện thí điểm từ tháng

7/1993 với tên gọi là VCB - Card là loại thẻ nội địa phục vụ cho khách hàng có giao

dịch với Ngân hàng Ngoại thương. Ngoài ra Ngân hàng Ngoại thương còn làm đại lí

thanh toán cho các tổ chức thẻ quốc tế như Master Card, Visa Card, American Express.

Hiện nay Ngân hàng Ngoại thương đã phát hành thẻ Master Vietcombank Card dùng

để thanh toán trên phạm vi quốc tế và đã đưa máy rút tiền tự động ATM vào phục vụ

khách hàng.

Cho đến nay, thẻ thanh toán đang được phát hành thí điểm ở 4 ngân hàng

thương mại quốc doanh nhưng tỷ trọng của nó trong tổng phương tiện thanh toán

không dùng tiền mặt chỉ chiếm chưa đầy 1%. Khó khăn lớn nhất trong việc phát hành

và sử dụng thẻ thanh toán vẫn là thiếu vốn, thiếu phương tiện kĩ thuật, tin học, hạn chế

về cơ sở hạ tầng viễn thông.

Bảng 3: Cơ cấu các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt hệ thống ngân

hàng quốc doanh

Các hình thức Năm 1995 Năm 1996 Năm 1997

Số tiền Tỷ Số tiền Tỷ Số tiền Tỷ

trọng trọng trọng

_Séc chuyển 21.378 3,63 32.915 3,45 84.974 6,9

khoản 29.581 5,02 60.941 8,25 66.499 5,4

_Séc bảo chi 285 0,05 1.896 0,25 2.245 0,18

_Séc định mức 526.914 89,4 681.660 92,3 1.036.211 84,2

_ủy nhiệm chi

chuyển tiền 4.952 0,85 5.645 0,76 18.022 1,46

_ủy nhiệm thu 5.817 0,98 348 0,04 22.430 1,82

_Thư tín dụng 588.927 100 738.405 100 1.230.381 100

Tổng cộng

Nguồn: Vụ nghiên cứu kinh tế - Ngân hàng trung ương

Cùng với việc sử dụng các hình thức thanh toán, phương thức tổ chức thanh

toán bù trừ cũng thường xuyên được sử dụng ở các ngân hàng trong tỉnh, thành phố

với hai hình thức thanh toán là thanh toán bù trừ gián tiếp trong nội bộ từng ngân hàng

thương mại và thanh toán bù trừ trực tiếp giữa các ngân hàng thương mại thông qua

Trung tâm thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước. Đặc biệt, các ngân hàng thương

mại đã đẩy nhanh việc trang bị và áp dụng máy tính điện tử trong hoạt động thanh toán

của mình. Năm 1992, các ngân hàng đã tổ chức thành công các Trung tâm thanh toán

bù trừ cục bộ ở các thành phố, thị xã. Qua trung tâm này, mỗi khoản thanh toán đều

được hoàn thành trong 1/2 hay 1 ngày và có thể xử lí hàng ngàn món thanh toán với

hàng trăm tỷ đồng mà vẫn đảm bảo an toàn và chính xác.

Trong những năm qua, việc cải tiến những chế độ, thể lệ thanh toán cũ và cho ra

đời các thể thức và phương thức thanh toán mới, công tác thanh toán qua ngân hàng đã

có những chuyển biến rõ rệt; tốc độ thanh toán không dùng tiền mặt tăng nhanh ( năm

1997 tăng 16% so với năm 1996). Tình trạng khan hiếm tiền mặt xảy ra thường xuyên

trước đây đã được giải quyết. Tốc độ thanh toán tiền mặt qua ngân hàng tăng rõ rệt, chỉ

còn 1-2 ngày so với 7-10 ngày trước kia.

2.2.2/ Những tồn tại:

Bên cạnh các mặt đã đạt được, công tác thanh toán qua ngân hàng và hệ thống

thanh toán của ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn còn những tồn tại đáng kể. Cụ thể

là:

* Tiền mặt: vẫn là phương tiện thanh toán chiếm ưu thế tuyệt đối. Nếu so với

tổng phương tiện thanh toán thì thanh toán bằng tiền mặt chiếm tỉ lệ sau:

Bảng 4: Bảng tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt so với tổng

phương tiện thanh toán

Năm 1994 1995 1996 1997

Tỷ lệ 42% 34% 33% 30%

* Ngân phiếu thanh toán: về hình thức và pháp lý không phải là tiền mặt nhưng

thực chất và trên thực tế được coi như tiền mặt, là một "cứu cánh" cho tình hình căng

thẳng và thiếu tiền mặt thời kì 1992. Song chính những lợi thế đó lại kìm hãm việc sử

dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt.

* Séc cá nhân và thẻ thanh toán: chưa phát huy được tác dụng, chưa được công

chúng đón nhận và sử dụng rộng rãi. Có nhiều nguyên nhân như về phía khách hàng

thích sử dụng tiền mặt trong tiêu dùng, không mất phí giao dịch, các tầng lớp dân cư có

thu nhập cao còn quá ít. Những tổ chức kinh tế cung cấp các dịch vụ như vận tải, xăng

dầu, ăn uống, các siêu thị, câu lạc bộ... có sử dụng thiết bị tại bộ phận bán lẻ và các

trạm rút tiền tự động còn chưa nhiều.

Hơn nữa, quy trình và thủ tục thanh toán còn nhiều công đoạn phức tạp, nhất là

đối với quy trình thanh toán giữa các tổ chức tín dụng khác hệ thống, khác địa bàn.

Nói chung, hoạt động cung cấp dịch vụ của các ngân hàng thương mại quốc

doanh Việt Nam hiện nay đã và đang có những tiến triển vượt bậc. So với thời kì trước

năm 90 thì sự phát triển đó là không thể ngờ tới. Tuy nhiên, bên cạnh những cái đã làm

được thì còn có những tồn tại không thể bỏ qua. Do đó, việc chúng ta nhìn nhận lại quá

trình đổi mới cũng là để tìm kiếm những giải pháp hữu hiệu khắc phục những tồn tại

đó.

Chương III

Một số giải pháp nhằm phát triển các

dịch vụ ngân hàng thương mại Việt Nam .

1. Các quan điểm về phát triển :

" Mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng đến năm

2000 là phải tạo lập được một hệ thống ngân hàng đủ mạnh, cả về năng lực hoạch định

và thực thi chính sách, năng lực quản lí, năng lực điều hành kinh doanh, đủ mạnh về

trình độ công nghệ và kĩ thuật hiện đại để thích ứng với cơ chế thị trường, trở thành

công cụ phục vụ đắc lực cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, sớm hội nhập

vào cộng đồng tài chính quốc tế".

Với mục tiêu xuyên suốt như vậy, việc phát triển các loại hình dịch vụ ngân

hàng thương mại cần quán triệt các quan điểm sau:

Thứ nhất, phải có sự phát triển toàn diện cả về bề rộng và bề sâu.

Thứ hai, phát triển cần có sự tham khảo, chọn lọc từ bạn bè quốc tế gắn liền với

thực tiễn Đất nước, không rập khuôn, máy móc.

Thứ ba, việc phát triển phải xuất phát từ yêu cầu bức xúc của nền kinh tế, từ khả

năng thực tiễn của mỗi ngân hàng cũng như khả năng chấp nhận của công chúng.

Thứ tư, phải đổi mới từ cơ chế, chính sách, quản trị điều hành đến phương tiện

vật chất và phương thức, phong cách hoạt động nhằm phát triển cả về số lượng và chất

lượng.

2. Các giải pháp nhằm phát triển các dịch vụ ngân hàng thương mại Việt Nam:

2.1/ Nâng cao hiệu quả các dịch vụ hiện có:

Xuất phát từ những hạn chế về hiệu quả của các dịch vụ hiện có, để có thể nâng

cao chất lượng hoạt động của các dịch vụ, cũng như căn cứ theo yêu cầu phát triển của

nền kinh tế, các ngân hàng cần chú ý phát triển theo những định hướng sau:

- Tăng cường khả năng chuyển nhượng của các công cụ huy động vốn bằng việc

thực hiện nghiệp vụ chiết khấu kì phiếu, trái phiếu ngân hàng thương mại.

- Mở rộng thêm một số hình thức huy động mới, duy trì và phát triển hình thức

gửi tiền một nơi, rút nhiều nơi, gửi một lần rút lãi hàng tháng.

- Ưu tiên đối với tiền gửi trung và dài hạn.

- Đẩy mạnh việc sử dụng thẻ thanh toán và séc cá nhân, nới rộng phạm vi hoạt

động của tài khoản cá nhân và tư nhân.

- Phát triển hệ thống thanh toán hiện đại trong tương lai có ứng dụng khoa học

kỹ thuật tiên tiến.

2.2/ Phát triển một số dịch vụ mới:

Căn cứ vào yêu cầu phát triển của nền kinh tế, căn cứ vào khả năng hiện tại của

hệ thống ngân hàng, các dịch vụ ngân hàng mới cần phát triển và có khả năng phát

triển là:

2.2.1/ Dịch vụ trên thị trường chứng khoán:

Trước thực tế ở Việt Nam hiện nay là cần rất nhiều vốn đầu tư để phục vụ cho

quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá Đất nước, lại không thể trông chờ vào vốn

vay nước ngoài thì sự ra đời của thị trường chứng khoán là một giải pháp hữu hiệu để

mau chóng tạo vốn cho nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại ở Việt Nam có những

thuận lợi rất lớn khi tham gia thị trường chứng khoán. Nếu như trước đây, họ là điểm

tựa chủ yếu của hệ thống tài chính thì hiện nay, với bề dày hoạt động, họ có một số

kinh nghiệm nghiệp vụ nhất định, chiếm được nhiều uy tìn trong dân cư và đối với các

tổ chức kinh tế. Vói vai trò là trung gian tài chính, các ngân hàng thương mại có thể

thực hiện việc làm đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán hay tư vấn đầu tư chứng

khoán, quản trị và thanh toán về chứng khoán, qua đó thu phí dịch vụ.

2.2.2/ Dịch vụ tư vấn:

Các ngân hàng thương mại có thể tham gia tư vấn cho khách hàng của mình trên

hai khía cạnh là tư vấn đầu tư và tư vấn thông tin, mục tiêu là tìm cách giúp đỡ khách

hàng kinh doanh tạo ra nhiều lợi nhuận trong dó sẽ bao hàm lợi ích của cả ngân hàng.

Về phía khách hàng, họ luôn muốn sử dụng dịch vụ này bởi lẽ giữa họ và ngân

hàng luôn có chung một động cơ và lợi ích. Vả lại, ngân hàng có khả năng nắm bắt và

dự báo một cách tương đối chính xác những diễn biến trên thị trường tài chính tiền tệ

cũng như các thị trường khác trên cơ sở kinh nghiệm và những kho tàng dữ liệu, thông

tin vô cùng phong phú, đa dạng.

2.2.3/ Dịch vụ ngân hàng tại nhà:

Dịch vụ này thực sự là một yêu cầu cấp bách khi mà khoa học kỹ thuật và công

nghệ phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay. Khi thực hiện dịch vụ này, khách

hàng chỉ cần gửi thông tin vào máy tính của ngân hàng để kiểm tra tài khoản cũng như

thực hiện các giao dịch khác.

Trước mắt chưa thể thực hiện dịch vụ này ở Việt Nam vì phần đông dân cư

chưa có thói quen mở tài khoản và giao dịch tại ngân hàng nên mục tiêu đầu tiên hiện

nay của các ngân hàng chính là các doanh nghiệp, các công ty lớn có trang bị hệ thống

tin học trong hoạt động kế toán, thanh toán cũng như các mặt king doanh khác.

2.2.4/ Dịch vụ bảo quản và kí gửi:

Thời gian vừa qua, các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam đã đầu tư

một số vốn đáng kể cho việc nâng cấp kho tàng và trang bị các hệ thống an toàn kho

quỹ như hệ thống phòng cháy chữa cháy, hệ thống báo động, hệ thống phòng chống

mối mọt... Thực hiện các dịch vụ bảo quản và kí gửi tài sản cho khách hàng, các ngân

hàng vừa tận dụng được hệ thống kho tàng vững chắc của mình, vừa tăng thu nhập, lại

giảm chi phí cho các doanh nghiệp, các cá nhân trong nền kinh tế qua việc xây dựng,

mua sắm các thiết bị bảo quản tiền, tài sản hay chi phí cho người canh giữ.

Kết luận

Để đánh giá vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường, có

nhà kinh tế học đã cho rằng ngân hàng như một "trái tim lớn" cung cấp "máu đỏ" - tiền

vốn đến cho các "tế bào" của nền kinh tế - các doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh.

Bởi vậy, sự tồn tại của ngân hàng và hoạt động cung cấp các dịch vụ ngân

hàng là không thể thiếu đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Cung như trong

Tư bản luận, CácMác đã từng đánh giá vai trò "bà đỡ" của ngân hàng như sau: "Ngân

hàng ra đời với vai trò tài chính trung gian đã tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong

nền kinh tế đem đến cho các nhà doanh nghiệp và công chúng vay. Do đó, một khi

ngân hàngcho khách hàng của mình vay, bằng cách đó, tạo nên sức mua cho họ thì

không làm giảm sức mua của bất kì ai. Đó chính là nét nổi bật nhất trong vai trò của

ngân hàng, tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ".

Mục lục Trang

Mở đầu 1

Chương I . Một số lý thuyết cơ bản về hoạt động của ngân hàng

2 thương mại.

1. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển hoạt động của

NHTM. 2

2. Hoạt động thực hiện các chức năng của ngân hàng thương mại

và vai trò của các hoạt động đó: 5

5 2.1/ Đối với nền kinh tế.

8 2.2/ Đối với ngân hàng.

11

chương ii . Quá trình đổi mới hoạt động của hệ thống ngân hàng

thương mại quốc doanh Việt nam.

11 1. Vài nét về hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt

Nam. 13

2. Hoạt động cung cấp dịch vụ của các ngân hàng thương mại 14

quốc doanh Việt Nam hiện nay: 20

20 2.1/ Dịch vụ nhận tiền gửi.

25 2.2/ Dịch vụ thanh toán cho khách hàng:

2.2.1/ Những đổi mới.

2.2.2/ Những tồn tại. 27

27 chương iii . một số giải pháp nhằm phát triển các dịch vụ ngân hàng

thương mại việt nam.

28 1. Các quan điểm về phát triển.

2. Các giải pháp nhằm phát triển các dịch vụ ngân hàng thương 28 mại Việt Nam:

2.1/ Nâng cao hiệu quả các dịch vụ hiện có. 28

29 2.2/ Phát triển một số dịch vụ mới:

29 2.2.1/ Dịch vụ trên thị trường chứng khoán. 29

2.2.2/ Dịch vụ tư vấn. 31

2.2.3/ Dịch vụ ngân hàng tại nhà.

2.2.4/ Dịch vụ bảo quản và ký gửi.

kết luận.