ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHAMFENG SENKHAMCHAN ĐỜI SỐNG KINH TẾ VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI ĐEN (TÀY ĐĂM) HUYỆN KHĂM TỈNH XIÊNG KHOẢNG
NƯỚC CHDCND LÀO GIAI ĐOẠN 1975-2015
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHAMFENG SENKHAMCHAN ĐỜI SỐNG KINH TẾ VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI ĐEN
(TÀY ĐĂM) HUYỆN KHĂM TỈNH XIÊNG KHOẢNG NƯỚC CHDCND LÀO GIAI ĐOẠN 1975-2015
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Thị Thu Thủy
THÁI NGUYÊN - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu đầu tiên của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu được nêu trong luận văn đều trung
thực.Những kết quả nghiên cứu của luận văn chưa được công bố trong bất cứ
công trình nghiên cứu nào khác.
TÁC GIẢ
i
KHĂM PHENG SEN KHĂM CHĂN
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn
PGS.TS Hà Thị Thu Thủy, cùng các thầy cô trong Khoa Lịch sử, trường Đại
học Sư phạm- Đại học Thái Nguyên đã chỉ bảo tận tình, động viên, khích lệ tôi
trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ủy ban Nhân dân huyện Khăm, tỉnh Xiêng
Khoảng và chính quyền địa phương huyện Khăm đã tạo điều kiện thuận lợi về
mọi mặt để tôi hoàn thành luận văn.
Trong thời gian đi thực tế, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các
già làng, trưởng bản và những người cung cấp thông tin ở các làng bản người
Thái Đen ở huyện Khăm. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Trường Cao đẳng
Sư phạm Khăng Khay (tỉnh Xiêng Khoảng), gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
ii
KHĂMPHENG SENKHĂMCHĂN
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ i
MỤC LỤC............................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ ....................................................................... iv
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1.Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................. 4
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ..................................................... 5
5.Đóng góp của luận văn ..................................................................................... 5
6. Bố cục luận văn ............................................................................................... 5
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN KHĂM VÀ NGƯỜI THÁI ĐEN (TÀY
ĐĂM) Ở HUYỆN KHĂM TỈNH XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC CHDCND LÀO ......... 7
1.1.Khái quát về huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng ............................................ 7
1.1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên .................................................................. 7
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội .......................................................................... 8
1.2. Người Thái Đen (Tày Đăm) ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng .............. 11
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 16
Chương 2: ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA DÂN TỘC THÁI ĐEN (TÀY
ĐĂM) Ở HUYỆN KHĂM, TỈNH XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC CHDCND
LÀO GIAI ĐOẠN 1975 - 2015 ........................................................................... 17
2.1. Kinh tế nông nghiệp ................................................................................... 17
2.1.1. Trồng lúa nước......................................................................................... 18
2.1.2. Nương rẫy ................................................................................................ 21
2.1.3. Chăn nuôi ................................................................................................. 22
2.1.4. Tổng thu nhập từ nông nghiệp ................................................................. 24
2.2. Khai thác nguồn lợi tự nhiên ...................................................................... 26
iii
2.3. Nghề thủ công ............................................................................................. 29
2.3.1. Đan lát ...................................................................................................... 30
2.3.2. Nghề dệt ................................................................................................... 32
2.3.3. Nghề làm mộc .......................................................................................... 35
2.4. Buôn bán trao đổi ....................................................................................... 36
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 39
Chương 3: ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI THÁI ĐEN Ở HUYỆN KHĂM
TỈNH XIÊNG KHOẢNG NƯỚC CHDCND LÀO GIAI ĐOẠN 1975 - 2015 ........... 41
3.1. Văn hóa vật chất ......................................................................................... 41
3.1.1. Nhà ở ........................................................................................................ 42
3.1.2. Trang phục ............................................................................................... 45
3.1.3. Ẩm thực ................................................................................................... 48
3.2. Văn hóa tinh thần ........................................................................................ 53
3.2.1. Ngôn ngữ, giáo dục ................................................................................. 53
3.2.2. Tín ngưỡng dân gian ................................................................................ 56
3.2.3. Phong tục tập quán .................................................................................. 60
3.2.4. Lễ, tết ....................................................................................................... 69
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 74
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 80
PHỤ LỤC ...............................................................................................................
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Bảng
Bảng 1.1. Thống kê thành phần dân tộc ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng
năm 2014 ......................................................................................... 10
Bảng 1.2. Thống kê về người Tày Đăm ở tỉnh Xiêng Khoảng (năm2013) ....... 13
Bảng 1.3. Thống kê về người Tày Đăm ở huyện Khăm (năm 2015) ................ 14
Bảng 2.1. Nông lịch của người Thái Đen huyện Khăm .................................... 22
Bảng 2.2. Sản lượng và thu nhập từ trồng trọt của người Thái Đen ở huyện
Khăm năm 2015 .............................................................................. 25
Bảng 2.3. Thống kê số lượng vật nuôi của người Thái Đen ở huyện Khăm
năm 2015 ......................................................................................... 26
Bảng 2.4. Thống kê hoạt động nghề thủ công của người Thái Đen trong 4
bản của huyện Khăm năm 2015 ...................................................... 30
Bảng 2.5. Thống kê số lượng hộ gia đình người Thái Đen làm nghề buôn
bán ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng năm 2015 ......................... 37
Bảng 3.1. Bảng so sánh giữa ngôn ngữ nói của dân tộc Thái Đen với tiếng
Lào và tiếng Việt ............................................................................. 54
Sơ đồ
Sơ đồ 1.1: Các ngành của người Thái ở Lào ..................................................... 12
iv
Sơ đồ 2.1. Quản lý nước trên ruộng lúa cấy ...................................................... 21
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là một quốc gia đa dân tộc. Theo
số liệu thống kê năm 2015, Lào có 49 dân tộc. Nền văn hóa phong phú, đa dạng
đậm đà bản sắc dân tộc. Một trong những nét văn hóa đặc trưng, tiêu biểu của
các dân tộc đó là cuộc sống sinh hoạt, phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian
và ngôn ngữ.
Huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng là một huyện nằm trong một tỉnh thuộc
miền Bắc của Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào có nhiều dân tộc đang
sinh sống và làm ăn như: Phuôn, Mông, Lào, Thái đỏ (Tày Đeng), Thái trắng
(Tày Khao), Thái đen (Tày Đăm), Lự…Tày Đăm (Thái đen) là một dân tộc có
nguồn gốc lịch sử rất lâu đời. Người Tày Đăm có phong tục tập quán, văn hóa
đặc trưng, riêng biệt của dân tộc mình. Điều đó thể hiện rõ trong ngôn ngữ nói,
cách ăn mặc, phong tục tập quán và tín ngưỡng. Góp phần vào việc làm phong
phú và đa dạng hơn cho văn hóa Lào.
Hiện nay, cuộc sống sinh hoạt của người Tày Đăm có nhiều biến đổi. Về
kinh tế: Người Tày Đăm đã biết làm nhiều ngành nghề để góp sức mình vào
công việc xây dựng và phát triển đất nước Lào. Kinh tế của người Tày Đăm
ngày càng phát triển, đời sống của họ ổn định hơn xưa. Về văn hóa: Người Tày
Đăm vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng biệt của văn hóa mình để có thể
phân biệt được với văn hóa của các dân tộc khác, đặc biệt là tiếng nói. Để tìm
hiểu sâu sắc về cuộc sống sinh hoạt, đời sống kinh tế và văn hóa của đồng bào
Tày Đăm, tác giả đã quyết định chọn vấn đề “Đời sống kinh tế, văn hóa của
dân tộc Thái Đen (Tày Đăm) huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng, nước
1
CHDCND Lào, giai đoạn 1975 - 2015” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay, đã có một số tác phẩm nghiên cứu về dân tộc Thái Đen do
tác giả là người Lào và Việt Nam đề cập. Dưới đây, tác giả sẽ thống kê những
công trình nghiên cứu có liên quan về đời sống sinh hoạt của người Thái Đen ở
Lào nói chung và ở huyện Khăm nói riêng theo thời gian công bố:
Năm 2005, tác giả Khampheng Thipmountaly công trình “Quá trình hình
thành và phát triển các dân tộc ở nước CHDCND Lào” ở Viện Nghiên cứu Dân
tộc và Tôn giáo Lào. Cuốn sách này tập trung nghiên cứu về nguồn gốc và văn
hóa của các dân tộc của Lào, trong đó có văn hóa của người Thái Đen.
Năm 2006, cuốn “Phong tục tập quán của dân tộc Thái Đen” của tác giả
Quangxaykhăm Khunsilihương, Ban Quản lý và phát huy văn hóa dân tộc Thái
Đen tỉnh Luông Năm Tha, đã đề cập đến phong tục tập quán của người Thái
Đen ở tỉnh Luông Năm Tha, nước CHDCND Lào.
Năm 2007, Luận văn thạc sĩ “Trang phục cổ truyền của phụ nữ dân tộc
Thái huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa” của học viên Nguyễn Đại Đồng,
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên,giáo trình “Lào sức sá”, đề tài “Văn hóa
của các dân tộc Lào” do Bộ Giáo dục và Thể thao Lào phát hành cũng nói đến
văn hóa của dân tộc Thái Đen tại đất nước Lào.
Năm 2008, Luận văn thạc sĩ “Bản sắc văn hóa dân tộc Thái trong điều
kiện đổi mới và phát triển kinh tế vùng Tây Bắc” của học viên Lô Thị Quỳnh
Lan, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổng quan về bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở
vùng Tây Bắc (khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa của người Thái ở Tây Bắc
cũng như bản sắc văn hóa dân tộc Thái nói chung; mối quan hệ biện chứng
giữa văn hóa và phát triển kinh tế; những ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế
vùng Tây Bắc đến bản sắc văn hóa người Thái cũng như những thay đổi của
bản sắc văn hóa Thái Đen bên cạnh sự phát triển kinh tế vùng Tây Bắc trong
2
điều kiện mới). Đưa ra những đề nghị: xây dựng nơi lưu trữ, bảo tàng, trưng
bày, biểu diễn những nét hay, đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc Thái; tổ
chức các ngày hội văn hóa Thái; xây dựng và phát triển chữ viết, ngôn ngữ dân
tộc Thái để bảo tồn và phát huy truyền thống dân tộc; triển khai và nhân rộng
các mô hình bản văn hóa đã có như: bản Lác (Mai Châu, Hòa Bình), bản văn
hóa dân tộc Thái Đen (Chiềng Cơi, thị xã Lai Châu).
Năm 2009, trong các cuốn sách “Dân tộc học” của tác giả Viengmala
Vangmuoi, khoa Xã hội học, Đại học Quốc gia Lào; “Tìm hiểu các dân tộc ở
Lào” của Viện nghiên cứu Dân tộc và Tôn giáo Lào của NXB Sibunhương, thủ
đô Viêng Chăn, đã đề cập đến các dân tộc sinh sống ở Lào, trong đó có dân tộc
Thái Đen.
Năm 2014, Cuốn “Dân tộc Thái Đen ở tỉnh Xiêng Khoảng” của tác giả
Bounphone Onsouvanh, năm 2014, thủ đô Viêng Chăn đã tập trung nghiên cứu
vào cuộc sống của người Thái Đen ở tỉnh Xiêng Khoảng.
Năm 2015, khóa luận tốt nghiệp Đại học Văn hóa Hà Nội“Tìm hiểu tang
ma của người Thái Đen ở xã Nghĩa Lợi,tỉnh Yên Bái”, tác giả Lộ Thị Huyền đã
trình bày về việc tổ chức lễ tang của người Thái Đen ở xã Nghĩa Lợi, tỉnh Yên
Bái. Khóa luận tốt nghiệp “Văn hóa của dân tộc Thái Đen bản Xoong Tạy,
huyện Xoong, tỉnh Hủa Phăn”, tác giả Phiensy Venmixay và Alithao
Phialuong, trường Đại học Quốc gia Lào đã đề cập đến tình trạng văn hóa của
dân tộc Thái Đen ở bản Xoong Tạy, huyện Xoong, tỉnh Hủa Phăn. Luận văn
thạc sỹ “Lịch và Nông lịch của người Thái Đen ở Sơn La” của học viên Phạm
Ngọc Hà, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã cung cấp nội dung
về Lịch và Nông lịch của người Thái Đen.
Các công trình nghiên cứu và các tài liệu được tiếp cận trên đây đều có
nội dung đề cập đời sống kinh tế văn hoá của đồng bào Thái Đen ở các góc độ
khác nhau, tuy nhiên chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách toàn diện và hệ
3
thống về kinh tế, văn hóa của người Thái Đen tại huyện Khăm, tỉnh Xiêng
Khoảng (CHDCND Lào). Do vậy, tác giả chọn nghiên cứu vấn đề này là có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn đồng thời khẳng định đề tài nghiên cứu của luận
văn thạc sĩ “Đời sống kinh tế, văn hoá của người Tày Đăm (Thái Đen) ở huyện
Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng, nước CHDCND Lào là không bị trùng lặp với các
công trình đã công bố trước đây.
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1 . Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động kinh tế và đời sống văn
hóa-xã hội của dân tộc Thái Đen tại huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng
(CHDCND Lào); sự phát triển kinh tế và những biến đổi của văn hóa và xã hội
trong thời hiện đại của cộng đồng dân tộc Thái Đen.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằn tìm hiểu và làm rõ về bản sắc
văn hóa và hoạt động kinh tế của người Tày Đăm huyện Khăm tỉnh Xiêng
Khoảng nước CHDCND Lào giai đoạn 1975-2015.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khai quát về huyện Khăm tỉnh Xiêng Khoảng như: vị trí, địa lý, điều
kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội.
Đi sâu tìm hiểu về người Tày Đăm huyện Khăm tỉnh Xiêng Khoảng như:
tên gọi, lịch sử cư trú, thống kê.
Tìm hiểu sâu hơn về hoạt động kinh tế và văn hóa của người Tày Đăm ở
huyện Khăm tỉnh Xiêng Khoảng nước CHDCND Lào giai đoạn 1975-2015.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung,nghiên cứu đời sống kinh tế, văn hóa của cộng đồng
người Thái Đen.
+ Về không gian,nghiên cứu trên địa bàn huyện Khăm, tỉnh Xiêng
Khoảng (CHDCND Lào). Trong đó tập trung vào 4 bản có số lượng người Thái
4
Đen sinh sống lớn như: Xiêng Kiều, Na Thoong, Muông Xay và bản Xam.
+ Về thời gian,giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2015.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Nguồn từ liệu nghiên cứu chủ yếu của luận văn là tài liệu điền dã ở
huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng tư liệu trong
các công trình nghiên cứu, sách, báo, tạp chí của các tác giả Việt, Lào.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài tác giả luận văn đã sử
dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic để tìm hiểu, nghiên
cứu các sự kiện, hiện tượng theo trình tự thời gian (niên đại) và không gian từ
quá khứ đến hiện tại. Để hiểu và làm rõ quá trình hình thành và phát triển trong
đời sống người Tày Đăm huyên Khăm tỉnh Xiêng Khoảng. Trong nghiên cứu
vấn đề, việc sử dụng phương pháp lịch sử giúp tác giả nghiên cứu các hiện
tượng trong quá khứ của người Tày Đăm. Vì thế, tác giả đã kết hợp sử dụng
phương pháp logic,nhằm đi sâu tìm hiểu bản chất, cái phổ biến và đặc trưng
trong hoạt động kinh tế văn hóa của người Tày Đăm huyện Khăm tỉnh Xiêng
Khoảng giai đoạn 1975-2015. Bên cạnh đó tác giả đã vận dụng phương pháp
điền dã dân tộc học như: quan sát cảnh quan, phỏng vấn người dân).
5. Đóng góp của luận văn
+ Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về dân tộc Thái Đen ở
huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng (CHDCND Lào).
+ Luận văn là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm về dân tộc,
các môn:Dân tộc học, Văn học Dân gian.
6. Bố cục luận văn
Luận văn gồm 3 phần: mở đầu, nội dung chính, kết luận, Phần nội dung
5
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về huyện Khăm và đồng bào người Thái Đen ở
huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng, nước CHDCND Lào
Chương 2: Đời sống kinh tế của người Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh
Xiêng Khoảng, nước CHDCND Lào, giai đoạn 1975-2015
Chương 3: Đời sống văn hóa của người Thái Đen ở huyện Khăm,tỉnh
6
Xiêng Khoảng, nước CHDCND Lào, giai đoạn 1975-2015
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN KHĂM VÀ NGƯỜI THÁI ĐEN
(TÀY ĐĂM) Ở HUYỆN KHĂM TỈNH XIÊNG KHOẢNG,
NƯỚC CHDCND LÀO
1.1. Khái quát về huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng
Huyện Khăm tỉnh Xiêng Khoảng có nguồn gốc lịch sử từ lâu đời và trải
qua nhiều giai đoạn lịch sử. Huyện Khăm (hoặc Mường Khăm) thành lập trong
thời phong kiến của Lào, mang tên là Thay Thồng (hoặc Mường Thồng Bản
Ban). Thời đó, Lào Lạn Xang bị Xiêm xâm lược. Năm 1804, vua Anouvong đã
mở cuộc đấu tranh chống Xiêm nhưng bị thất bại. Xiêm đã đưa 6000 cư dân
Mường Khăm sang Bangkok. Khi đó, có một người đàn ông tên là Xiêng Khăm
(dân tộc Phuôn) cư trú ở huyện Khăm (Bản Ban hiện nay) đã đứng ra tập trung
cư dân đấu tranh chống Xiêm, làm cho Xiêm bị thất bại ở vùng Mường Thồng
Bản Ban. Từ đó, cư dân đã bầu Xiêng Khăm làm người lãnh đạo vùng Thay
Thồng. Sau khi lên nắm quyền lãnh đạo, Xiêng Khăm đã đổi tên Thay Thồng
sang Thồng Xiêng Khăm. Năm 1836, Xiêng Khăm qua đời, Phan Khăm lên
thay, đã quyết định đổi tên Mường Thồng Xiêng Khăm sang Mường Khăm
(huyện Khăm) cho đến hiện nay.
1.1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Huyện Khăm nằm ở phía Đông của tỉnh Xiêng Khoảng, nằm ở vị trí
19030’ vĩ độ Bắc và 103025’ kinh độ Đông, cách trung tâm tỉnh lị khoảng 52
km, diện tích 233.400 ha, chiếm 14,7% diện tích tỉnh Xiêng Khoảng. Huyện
Khăm giáp với nhiều huyện trong tỉnh và ngoài tỉnh như: Phía Đông giáp với
huyện Noong Hẹt (69 km). Phía Tây giáp với huyện Pẹc và huyện PhuCụt
(44,5 km). Phía Bắc giáp huyện Hủa Mường và huyện Viêng Thoong tỉnh Hủa
Phăn (126,5 km). Phía Nam giáp huyện Khun (25 km).
Địa hình của huyện được chia thành2vùng chủ yếu là núi và cao nguyên
với tỉ lệ66,67% và 33,33%. Huyện Khăm nằm ở điểm cao khoảng 500-2000m
7
so với mực nước biển; khu trung tâm nằm ở điểm cao 589m.
Cũng giống như các huyện khác của tỉnh, trong1 năm, khí hậu ở huyện
Khăm có 2 mùa rõ rệt, đó là mùa khô và mùa mưa. Mùa khô bắt đầu từ tháng
11 đến tháng 4 dương lịch. Mùa này thời tiết khô, lạnh. Huyện Khăm thuộc khu
vực có thời tiết lạnh nhất nước (đặc biệt là mùa khô). Lạnh nhất từ tháng 12 - 2.
Khoảng thời gian này, trời lạnh, có sương mù và mưa phùn. Mùa mưa bắt đầu
từ tháng 5 đến tháng 10, thời tiết nóng, mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình trong
năm của huyện Khăm là 230c [42, tr.1].
Là một huyện miền núi cao, phần lớn là rừng và đồi núi nên ruộng đất
chủ yếu là ở ven đồi, chân núi, ven sông hoặc ven suối. Khu vực này đất đai
khá màu mỡ, thuận lợi cho trồng lúa. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý, các loại
cây thuốc, cây dùng vào nghề đan lát để làm hàng mỹ nghệ. Bên cạnh đó là
nguồn lâm thổ sản khá phong phú như mật ong, nấm, các loại măng, rau rừng,
củ, quả… cùng với một hệ động vật gồm các loại thú, chim. Điều này giúp cho
cư dân có thể phát triển nghề khai thác rừng, đem lại nguồn lợi về sản phẩm
phục vụ cho cuộc sống nhân dân cả huyện.
Như vậy, có thể thấy với vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên này, huyện
Khăm có nhiều thuận lợi về môi trường tự nhiên, là cơ sở để phát triển nền kinh
tế toàn diện từ nông nghiệp, lâm nghiệp đến thủ công nghiệp.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng là huyện có nền kinh tế chủ yếu là
nông nghiệp nhất là trồng lúa nước, làm nương rẫy. Những năm gần đây, trồng
lúa nước của cư dân huyện Khăm có những biến đổi theo hướng hiện đại. Hệ
thống thủy lợi được khôi phục và xây dựng đáp ứng nguồn nước cho làm ruộng
và trồng trọt cả 2 mùa; diện tích ruộng đất được mở rộng, nhất là diện tích
ruộng chiêm đã tăng lên 17,13%; việc trồng ngô đã tăng 64 lần so với năm
2004. Các loại cây trồng rất đa dạng và phong phú (có cây lúa, ngô, sắn, khoai,
cây ăn quả và các loại rau). Bên cạnh đó là chăn nuôi gia súc với đa dạng loài
8
như: trâu, bò, dê, lợn và gia cầm (vịt, cá, gà và chim cút). Đặc biệt, người dân
còn đào ao thả cá với diện tích ao lớn, áp dụng kỹ thuật chăm sóc theo kiến
thức khoa học [29, tr.4]. Song song với việc phát triển kinh tế nông nghiệp là
phát triển kinh tế thủ công nghiệp và ngành nghề truyền thống. Loại hình
xưởng thủ công nghiệp được xây dựng nhiều ở huyện Khăm. Phổ biến nhất là
xưởng chế biến gỗ, xưởng chế tạo và gia công đồ nội thất, xưởng sấy khô ngô
và nghiền ngô. Xiêng Kiều là làng có đông người Thái Đen cũng là làng dệt vải
nổi tiếng; Ko Nghiệu là làng đan lát (nhất là đan ép cơm, huột, làn…) Hàng
năm, thủ công nghiệp và ngành nghề truyền thống cũng mang lại nhiều thu
nhập. Năm 2010, thu nhập từ thủ công nghiệp và ngành nghề truyền thống là
100 triệu kíp. Du lịch cũng là một hoạt động kinh tế mang lại nhiều thu nhập
cho huyện Khăm với các điểm du lịch nổi tiếng như: Hang Piu (Thẳm Piu),
suối nước nóng… thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước [29, tr. 7].
Huyện Khăm có 90 bản với 8.397 ngôi nhà và 10.641 nhân khẩu. Theo
thống kê của huyện thì tính đến năm2014, dân số của huyện Khăm là 51.326
người. Trong đó có 25.188 nữ, bao gồm nhiều thành phần dân tộc khác nhau.
Đơn vị hành chính thấp nhất là làng bản. 90 bản trong huyện được chia thành
11 cụm bản như sau:
1: Cụm bản trung tâm huyện (gồm có 9 bản)
2: Cụm bản Loọng Piu (gồm có 6 bản)
3: Cụm bản Loọng Mạt Nưa (gồm có 8 bản)
4: Cụm bản Nhọt Cựa (gồm có 8 bản)
5: Cụm bản Àng Đoọc Khăm (gồm có 8 bản)
6: Cụm bản Loọng Mạt Tạy (gồm có 15 bản)
7: Cụm bản Viêng Xay (gồm có 4 bản)
8: Cụm bản Nặm Thẹ (gồm có 7 bản)
9: Cụm bản Loọng Khao (gồm có 7 bản)
10: Cụm bản Nặm Liệng (gồm có 15 bản)
9
11: Cụm bản Bun Thin Nặm Đơn (gồm có 10 bản)
Huyện Khăm cũng là một trong 7 huyện của tỉnh Xiêng Khoảng có nhiều
dân tộc làm ăn và sinh sống. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa đặc trưng
riêng biệt của mình, góp phần làm cho nét văn hóa của huyện thêm đa dạng và
phong phú. Trong đó dân tộc Lào chiếm tỷ lệ đông nhất, tiếp theo là dân tộc
Mông và Tày (Thái). Dưới đây là những thống kế dân số của các dân tộc ở
huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng năm 2014:
Bảng 1.1. Thống kê thành phần dân tộc ở huyện Khăm,
tỉnh Xiêng Khoảng năm 2014
Số lượng (người) Chiếm tỷ lệ STT Dân tộc dân số cả huyện (%) Tổng số Nam Nữ
1 Lào 16.938 8.453 8.503 33,02
2 Khơ Mú 9.194 4.626 4.568 17,91
3 Mông 11.270 5.834 5.436 21,95
4 Tày (Thái Đen, 10.247 5.377 4.870 19,96 Kháo…)
5 Phông 2.676 1.369 1.307 5,21
6 Dân tộc khác 1.001 497 504 1,95
Tổng cộng 51.326 26.138 25.188 100
Nguồn [42, tr.2]
Như vậy, chiếm đại đa số trong tổng dân cư của huyện là dân tộc Lào,
Mông Thái, Khơ Mú. Trong đó, Khơ Mú là cư dân cổ nhất, có mặt sớm nhất ở
vùng đất này. Tiếp đến là người Lào và người Thái. Họ là những cư dân nông
nghiệp trồng lúa, thường canh tác tại các vùng ven sông, ven suối, vùng chân núi.
Nhìn chung, trải qua quá trình sinh sống, di cư, lập bản, nhiều dân tộc đã
đến định cư ở vùng huyện Khăm. Thông qua các hoạt động kinh tế, văn hóa,
các dân tộc đã có sự giao lưu về văn hóa, tạo nên một nền văn hóa đa dạng,
nhưng cũng mang nhiều đặc trưng riêng của từng dân tộc. Trong đó, nổi lên là
10
dân tộc Thái Đen mà tác giả sẽ trình bày rõ ở phần sau của luận văn.
1.2. Người Thái Đen (Tày Đăm) ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng
Dân tộc Thái Đen là một trong 49 dân tộc anh em của Lào, thuộc nhóm
ngôn ngữ Lào- Tày. Ở nước CHDCND Lào, dân tộc Thái Đen là dân tộc có
nhiều tên gọi. Tên gọi cũ của dân tộc này là dân tộc “Tày”. Người Thái Đen tự
gọi dân tộc mình là “Tày”.Còn dân tộc khác thường gọi họ là người Thay hoặc
người Thái. Nhưng cả Tày, Thái, Thay đều có nghĩa là “con người” hoặc “loại
người”. Tày Đăm là tên mà người Lào gọi theo cách ăn mặc của người Tày. Ví
dụ: nhóm người Tày nào thường mặc màu đen người ta gọi là Tày Đăm (Thái
Đen). Nhóm người Tày nào thường mặc màu trắng người ta gọi là Tày Khảo
(Thái Trắng). Nhóm người Tày nào thường mặc màu đỏ người ta gọi Tày Đeng
(Thái đỏ) [36, tr.20]. Người Kinh ở Việt Nam gọi người Tày Đăm là người
Thái.Người Tày Đăm ở Việt Nam tự gọi mình là “Côn Tày” hoặc “Côn Thay”.
Ở Việt Nam, người Tày Đăm còn có những tên gọi khác như: Tày Thanh, Man
Thanh, Tày Mười, Hàng Tang, Tày Dọ. Người Thái ở Việt Nam có 3 ngành
chính là: Thái Đen (Tày Đăm), Thái Trắng (Tày Đơn hoặc Khao) và Thái Đỏ
(Tày Đeng). Ngôn ngữ của người Tày Đăm ở Việt Nam thuộc với nhóm ngôn
ngữ Tày-Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai) là con cháu của người Tày Đăm di cư từ
vùng đất thuộc miền Nam của Trung Quốc sang. Người Tày Đăm ở huyện Như
Thành, tỉnh Thanh Hóa gọi họ là “Chao”, có nghĩa là “nòi giống” và gọi tổ tiên
của họ là “Chao Đẳm” [24, tr.14]. Người Thái Lan thường gọi dân tộc Tày
Đăm ở Thái Lan là “Lào Không, Thay Xộng Đăm hoặc Thái Xộng Đăm” vì họ
thường mặc màu đen (đen có nghĩa là đăm). Đặc biệt là họ thường mặc quần
màu đen (Xộng Đăm dịch nghĩa là quần đen) [44, tr.1]. Mặc dù dân tộc Tày
Đăm có rất nhiều tên gọi như đã trình bày ở trên, nhưng tên phổ biến mà hiện
11
nay người ta thường gọi họ là Tày Đăm (Thái Đen).
Sơ đồ 1.1: Các ngành của người Thái ở Lào
Tày Đăm là một trong đại gia đình các dân tộc đã cư trú tại đất nước Lào
từ lâu đời. Dân tộc Tày Đăm có nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển gắn
bó với nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển của dân tộc Lào và đất nước
Lào. Người Tày Đăm định cư ở các tỉnh miền Bắc của Lào từ tỉnh Bo Li Khăm
Xay đến thượng Lào. Tập trung ở tỉnh Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Luông Nặm
Tha, Luông Phạ Bang…Dân tộc Tày Đăm ở Lào có nguồn gốc di cư từ vùng
miền Nam của Trung Quốc (Mường Then). Do vùng đó xảy ra chiến tranh giữa
các bộ tộc. Vì vậy, họ đã di cư xuống khu biên giới Việt Nam - Lào-Trung
Quốc và định cư ở đó. Sau một thời gian, họ tiếp tục di cư vào các tỉnh miền
Bắc của Lào như: Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Luông Phạ Bang…và một số tỉnh
của Việt Nam như: Điện Biên, Sơn La, Lai Châu và các tỉnh: Lơi, Xiêng Mày,
Phêt Sa Bun của Thái Lan để tìm nơi định cư mới. Trong tạp chí “Mo Lạ Độc
Lạn Xạng”, tác giả bài viết Phầu Tày Đăm (trang 129-130) đã viết: Dân tộc Tày
Đăm là một trong nhóm người AiLao có nguồn gốc từ vùng biên giới phía Bắc
Lào (miền Nam của Trung Quốc). Có trung tâm cũ ở Mường Then - quê hương
của Khún Lo, người xây dựng Mường Loa cổ (Luông Phạ Bang hiện nay). Về
vấn đề này, tài liệu lưu trữ của Trung Quốc cũng chứng mình rằng: Tổ tiên của
12
dân tộc Tày Đăm là những người gọi tên dân tộc mình là “Tày”).
Có thể nói, việc người Tày Đăm di cư vào Lào, Việt Nam và Thái Lan là
do 2 nguyên nhân chủ yếu: chiến tranh và để tìm nơi sinh sống mới. Hiện nay,
chưa có tài liệu nào xác định rõ người Tày Đăm di cư vào huyện Khăm, tỉnh
Xiêng Khoảng vào khoảng thời gian nào. Nhưng sách sử Lào từ thời cổ đại đến
năm 1946 của Maha Silavilavong đã trình bày: Đến khoảng năm 1893 có một
dân tộc từ Trung Quốc đã vào Thượng Lào cướp bóc. Người Lào gọi họ là Hỏ
Thung Đeng. Bọn chúng đã cướp và đánh đuổi các dân tộc ở Hủa Phăn và
Luông Phạ Bang làm cho người dân bản địa ở các vùng đó phải chạy xuống
vùng Thông Xiêng Khăm, thuộc tỉnh Xiêng Khoảng (vùng huyện Khăm hiện
nay). Trong số đó có người Lào, người Tày, và các dân tộc Môn-Khơ me…
Theo tài liệu trên đây, có thể nói: Người Tày Đăm ở huyện Khăm có thể có
nguồn gốc từ miền Bắc của Lào, chuyển cư qua tỉnh Hủa Phăn (Mường Xoòng.
Tức huyện Viêng Thoong, tỉnh Hủa Phăn hiện nay). Điều đó đã được chứng
minh là: những phong tục tập quán và cuộc sống sinh hoạt của người Tày Đăm
ở huyện Khăm gần giống các phong tục tập quán và cuộc sống sinh hoạt của
người Tày Đăm ở huyện Viêng Thoong, tỉnh Hủa Phăn. Do huyện Khăm giáp
với huyện Viêng Thoong nên hiện nay có rất nhiều trai gái Tày Đăm ở hai
huyện đã tìm hiểu và kết hôn với nhau.
Theo thống kê năm 2013, người Tày Đăm định cư ở tỉnh Xiêng Khoảng
có 6.040 người (2978 nữ). Chủ yếu ở3 huyện: Huyện Khăm, huyện Khun,
huyện Pha Xay. Dưới đây là bảng thống kê về người Tày Đăm định cư ở tỉnh
Xiêng Khoảng và huyện Khăm:
Bảng 1.2. Thống kê về người Tày Đăm ở tỉnh Xiêng Khoảng (năm2013)
STT Số bản Số hộ gia đình Nữ (người) Tên huyện Số dân (người)
1 Khăm 9 1121 4037 1988
2 Pha Xay 8 313 1755 866
3 Khun 1 56 248 124
Tổng cộng 18 1490 6064 2978
13
Nguồn [32; tr. 5]
Bảng 1.3. Thống kê về người Tày Đăm ở huyện Khăm (năm 2015)
Số lượng dân ( người) Tổng số hộ STT Tên bản gia đình Tổng cộng Nam Nữ
1 Nhọt Cựa 180 885 444 441
2 Na Thoong 96 484 248 236
3 Xiêng Kiều 118 644 215 429
4 Muông Xay 64 234 112 122
5 Xam 115 563 294 269
6 Viêng Khăm 30 112 63 49
7 Chom Sy 64 301 150 151
8 Phon Kham 80 397 190 207
Tổng cộng 747 3.620 1.904 1.716
Nguồn: Phòng Thông tin Văn hóa và Du lịch huyện Khăm
Nhìn vào số liệu thống kê trên đây có thể thấy: Người Tày Đăm định cư
ở huyện Khăm chiếm tỷ lệ đông nhất trong tỉnh. Họ tập trung làm ăn sinh sống
trong nhiều làng bản. Trong đó, nhiều nhất là bản Nhọt Cựa, tiếp đến là bản
Xiêng Kiều,Xam, Na Thoong, Phon Khăm, Muông Xay, Chom Sy, Viêng
Khăm. Xiêng Kiều là làng cổ của người Tày Đăm được thành lập từ năm 1817,
cách trung tâm huyện Khăm khoảng 3 km. Đây là bản còn bảo tồn và giữ gìn
được nét văn hóa truyền thống của dân tộc Tày Đăm. Năm 2010, Xiêng Kiều
có 104 hộ gia đình Tày Đăm với 604 nhân khẩu, trong đó có 282 nữ. Năm
2015, có 118 hộ gia đình với 644 nhân khẩu. Để bảo tồn bản sắc văn hóa, chính
quyền địa phương cùng với dân bản nơi đây đã đóng tiền xây dựng một tòa nhà
2 tầng làm Bảo tàng Văn hóa dân tộc Tày Ðăm. Đây là nơi diễn ra các hoạt
động văn hóa, hội họp của cộng đồng người Tày Đăm trong bản. Bảo tàng Văn
hóa dân tộc Tày Đăm có vị trí rất quan trọng.Là nơi tìm hiểu về nguồn gốc và
văn hóa của người Tày Đăm. Hiện nay, Xiêng Kiều là “Làng Văn hóa” nổi
14
tiếng thứ 2trong số các “Làng Văn hóa” nổi tiếng của tỉnh Xiêng Khoảng và
vẫn đang liên tục phát triển [30, tr.1]. Bên cạnh bản Xiêng Kiều còn có bản Na
Thoong, Muông Xay và bản Xam là những bản có khá đông người Tày Đăm
cũng đang hết sức góp sức mình vào công cuộc phát triển kinh tế và bảo tồn
văn hóa của dân tộc mình.
Người Tày Đăm ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng có bản sắc văn hóa
đặc trưng riêng biệt của mình, góp phần làm nên sự đa dạng và phong phú nền
văn hóa của tỉnh. Nghề truyền thống của người Tày Ðăm ở huyện Khăm chủ
yếu là làm nông nghiệp: làm ruộng trồng lúa nước, làm nương rẫy, làm vườn và
chăn nuôi. Bên cạnh đó, họ cũng làm nghề thủ công như: dệt vải và chế tạo
công cụ lao động…Những hoạt động kinh tế của người Tày Ðăm đã góp phần
làm đa dạng thêm hàng hóa ở huyện Khăm. Hiện nay,trình độ dân trí của người
Tày Đăm đã được nâng cao. Người Tày Đăm có nhiều cơ hội tiếp xúc giao lưu
với các dân tộc khác, nhất là dân tộc Lào. Từ đó đã thúc đẩy sự phát triển của
15
dân tộc này về mọi mặt.
Tiểu kết chương 1
Người Tày Đăm định cư ở nước CHDCND Lào có nguồn gốc từ miền
Nam Trung Quốc (Mường Then), giáp với vùng biên giới Việt Nam- Lào -
Trung Quốc. Do chiến tranh, họ phải tìm nơi cư trú mới. Vì vậy, tổ tiên của
người Tày Đăm đã di cư xuống vào các tỉnh Đông Bắc của Lào, Việt Nam,
Thái Lan và định cư ở đó.Ở Lào, đại đa số người Tày Đăm cư trú ở vùng miền
Bắc của Lào, từ Bo Li Kham Xay đến Phông Sạ Ly. Đây là vùng khí hậu chia
làm hai mùa rõ rệt: mùa Đông khô hạn và mùa Hè nóng ẩm mưa nhiều. Đặc
điểm khí hậu và đất đai rừng núi đã định hình nên những phương thức sản xuất
truyền thống: lúa ruộng, lúa nương, săn bắn, hái lượm. Trong đời sống văn hóa,
người Tày Đăm vẫn giữ được nhiều nét văn hoá truyền thống về ngôn ngữ,
trang phục, nghệ thuật, phong tục tập quán...
Huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng thuộc địa bàn vùng núi cao nguyên, nơi
người Tày Đăm chiếm số dân đông nhất trong tỉnh. Văn hóa của người Tày Đăm
ở huyện Khăm có nét gần giống văn hóa của dân tộc Tày Đăm ở huyện Xoong
(huyện Viêng Thoong, tỉnh Hủa Phăn hiện nay). Chính vì thế, nhiều nhà nghiên
cứu của Lào cho rằng: Nguồn gốc của dân tộc Tày Đăm ở huyện Khăm, tỉnh
Xiêng Khoảng có thể là từ huyện Xoong tỉnh Hủa Phăn. Và họ sang đây từ thời
người Hỏ Thung Đeng (từ Trung Quốc) vào cướp ở Hủa Phăn, Luông Phạ Bang...
Huyện Khăm là vùng có điều kiện tự nhiên rất đa dạng.Những đặc điểm
tự nhiên này đã tạo nên những dấu ấn đậm nét trong đời sống kinh tế, văn hóa,
xã hội của người dân ở đây, nhất là dân tộc Tày Đăm. Song do sống cùng người
Lào và một số dân tộc khác cho nên ít nhiều về kinh tế, văn hóa, cùng với yếu
16
tố môi trường của họ cũng bị ảnh hưởng.
Chương 2
ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA DÂN TỘC THÁI ĐEN (TÀY ĐĂM) Ở
HUYỆN KHĂM, TỈNH XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC CHDCND LÀO
GIAI ĐOẠN 1975 - 2015
Như chúng ta đã biết, lịch sử phát triển nền văn hóa cũng như lịch sử
phát triển kinh tế của các dân tộc ở Lào nói chung, trong đó có dân tộc Thái
Đen nói riêng luôn gắn liền với lịch sử phát triển của nghề truyền thống dân tộc
- những sản phẩm kinh tế thuần túy cho sinh hoạt hàng ngày. Đó chính là
những tác phẩm nghệ thuật biểu trưng của tinh hoa văn hóa dân tộc và những
kinh nghiệm phát triển kinh tế truyền thống được lưu truyền từ đời này sang
đời khác, tạo nên bản sắc riêng của mình nhưng lại tiêu biểu và độc đáo của cả
dân tộc. Người Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng là những cư dân
nông nghiệp.Ngành nghề chính của họ là trồng lúa nước, hoa màu; chăn nuôi
(trâu, bò, lợn, gà, dê, cá...). Đan lát, dệt thổ cẩm cũng là nghề nổi tiếng của
người Thái Đen. Bên cạnh đó là một số loại hình dịch vụ buôn bán nhỏ lẻ.Tập
trung chủ yếu ở những nơi đông dân cư. Với sự đa dạng ngành nghề như vậy đã
giúp mang lại nhiều thu nhập cho cho cư dân Thái Đen ở huyện Khăm. Điều
này được thể hiện rõ nét trong từng lĩnh vực kinh tế như sau:
2.1. Kinh tế nông nghiệp
Cũng giống mọi cư dân vùng miền Bắc của Lào, sau giải phóng đất nước
(năm 1975) cho đến những năm thực hiện đổi mới (năm 1986), trồng trọt vẫn là
ngành sản xuất chính của người Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng.
Các hoạt động kinh tế khác như: chăn nuôi, làm nghề thủ công, trao đổi hàng
hóa, khai thác nguồn lợi tự nhiên (chủ yếu là sắn bắn, hái lượm) vẫn đóng vai
trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của đồng bào Thái Đen.
Do điều kiện tự nhiên của huyện Khăm là nằm ở vùng cao nguyên nên có
17
nhiều thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Và đó cũng là cơ sở để hoạt động sản
xuất nông nghiệp của người Thái Đen ở vùng này có những đặc trưng riêng biệt
so với hoạt động sản xuất nông nghiệp của người Thái Đen ở vùng khác. Cụ thể:
Người Thái Đen là cư dân sinh sống lâu đời ở đây. Vì vậy, ngay từ thời 2.1.1. Trồng lúa nước
gian đầu đặt chân đến mảnh đất này, người Thái Đen đã tập trung vào việc khai
phá ruộng đất ở những thung lũng thành những cánh đồng rộng lớn. Với bộ
nông cụ làm ruộng như: cày, mai, xẻng; cùng các biện pháp kĩ thuật liên hoàn
(làm đất, làm mạ, gieo cấy, chăm sóc và thu hoạch). Đặc biệt là hệ thống thuỷ
lợi “dẫn thuỷ nhập điền” mương, phai, lái, lịn và cọn nước. Kết hợp với các
nghi lễ tín ngưỡng liên quan.
Trước đây, mặc dù không được bón phân nhiều nhưng cây lúa vẫn tốt
bởi vì trồng một vụ. Trong 6 tháng đồng ruộng bỏ không, từ gốc rạ, cây lúa
mọc lên là nguồn thức ăn dồi dào cho trâu, bò. Trong quá trình đó, việc di
chuyển qua lại liên tục của trâu bò một phần làm cho ruộng ngấu ra, chất thải
của chúng quện với rơm, rạ cũng tạo mùn cho đất. Bên cạnh đó, cư dân còn biết
làm phân bón bằng cách đào hố, chặt cây dã quỳ, cúc dại và các cây thân mềm
khác trộn với phân trâu bò rồi ủ, đem bón cho ruộng; lấy nước có hàm lượng
chất khoáng cao vào ruộng từ kinh nghiệm dân gian, với hệ thống mương, phai
hoàn chỉnh, đảm bảo nước quanh năm. Người Thái Đen ở mường Khăm
thường lấy nước theo hai cách. Cách thứ nhất: mặt ruộng bằng với mặt nước,
hay nó thấp hơn thì người ta đắp đập cho nước dâng lên rồi đào mương dẫn vào
ruộng. Đập đó người ta gọi là phai. Cách thứ hai: mặt ruộng cao hơn mặt nước
thì người ta tạo ra hệ thống bánh xe nước (lũng cọn). Đường kính bánh xe tùy
vào độ cao của mặt ruộng. Chỗ nào mặt ruộng cao thì đường kínhbánh xe lớn,
chỗ nào mặt ruộng thấp hơn thì đường kính vừa phải. Tối đa có những bánh xe
đường kính lên đến 5 - 6m. Với hệ thống thủy lợi như vậy, có mương phai, có
lũng cọn làm cho hệ thống tưới tiêu của người làm ruộng trở nên hoàn chỉnh.
Hầu như 100% diện tích ruộng của người Thái Đen được tưới nước chỉ bằng
18
hai cách ấy.
Người Thái Đen còn một biện pháp nữa để chăm sóc, tạo nhuyễn cho đất.
Đó là biện pháp “thủy nậu”. Đây là lối canh tác dùng tay, chân sục cho bùn, cỏ
hòa nhuyễn rồi cấy luôn. Điển hình cho lối canh tác này là dùng trâu quần ruộng.
Ruộng trâu quần tốt nhất là ruộng ngâm nước. Nếu là ruộng chờ mưa, người ta
phải ngâm một thời gian ngắn từ 4-5 ngày để cho đất mềm. Bình thường, để
quần một thửa ruộng người ta phải dùng 2 - 3 con trâu. Người ta đưa trâu xuống
ruộng, điều khiển chúng đi thành vòng tròn đồng tâm, giẫm đi, giẫm lại, hết
vòng này đến vòng kia, cho đến khi đất ngấu. Quần đến lần thứ 3, nếu đất chưa
ngấu, người ta để khoảng 1 tuần sau rồi lại cho trâu quần tiếp.Trâu quần thường
lành, tập tính bày đàn cao, nên chỉ cần 2 người chỉ huy là có thể cho đàn trâu
quần ruộng. Một người điều khiển con đầu đàn, một người đi xung quanh, khi
thấy con trâu nào phá bĩnh, không đi đúng đường, người ta lại xua nó đi theo
đúng hàng lối. Sức người, sức trâu được sử dụng hợp lý, tối đa là vì thế.
Nếu so với kỹ thuật hiện đại ngày nay như dùng máy cày, máy bừa thì
việc dùng trâu quần chậm hơn, đất cũng không nhuyễn bằng.Nhưng không phải
vì thế mà họ bỏ đi kỹ thuật này. Hiện ở những thửa ruộng hẹp, cày bừa khó,
người ta vẫn sử dụng hình thức trâu quần. Năng suất và chất lượng cũng không
kém so với các mảnh ruộng được cày bừa bằng máy móc.
Qua nhiều thế hệ, người Thái Đen đã đúc kết và tích lũy được nhiều kinh
nghiệm trong sản xuất, đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, người
Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng đã chuyển sang làm hai vụ lúa.
Vụ chiêm cấy tháng 2, thu hoạch tháng 5; vụ mùa cấy tháng 7 thu hoạch tháng
10.Đa số người Thái Đen đã vận dụng những kỹ thuật hiện đại vào công việc
canh tác lúa nước. Cụ thể:
Làm đất: Ruộng phải bằng phẳng, có hệ thống thoát nước tốt và không
đọng nước. Sau khi chọn nơi bằng phẳng làm ruộng.Công việc đầu tiên mà
người nông dân phải làm là dọn sạch cỏ, trục đánh bùn và san bằng mặt ruộng
19
bằng máy cày bánh lồng.Người Thái Đen ở huyện Khăm cày đất bằng máy,
bừa và phơi ải trong thời gian 1 tháng. Bừa, trục và san bằng mặt ruộng bằng
máy kéo bánh lồng hay bánh sắt có công cụ trang phẳng mặt ruộng kèm theo.
Gieo mạ và cấy: Gieo mạ bằng tay sau khi đánh rãnh và kéo bằng mặt
ruộng. Chọn ruộng nơi khuất gió để làm mạ. Quá trình làm mạ được diễn ra
như sau: cày bừa kỹ; lên luống (mặt luống rộng hay hẹp tuỳ thuộc vào độ rộng
của nilon che phủ). Sau khi đã san phẳng mặt luống, dùng nilon đã chọc thủng
nhiều lỗ hoặc bao xác rắn rải lên mặt luống. Tiếp đó, phủ một lớp bùn dày
khoảng 2 - 2,5 cm. Tiếp tục bón phân lên trên rồi xoa đều phân với lớp đất bùn.
Cuối cùng là gieo mạ. Chia lượng thóc giống để gieo đi gieo lại nhiều lần cho
thật đều. Gieo mạnh tay cho mộng lún sâu (kín hạt) vào trong bùn. Khi mạ
được 15-18 ngày, ra nhiều rễ trắng, trời ấm thì lật từng mảng mạ đem cấy.
Chăm sóc
Làm cỏ: Ruộng lúa cần được theo dõi, làm cỏ, khử lẫn thường xuyên.
Các thời điểm cần lưu ý là:10- 15 ngày sau khi sạ, cấy,theo dõi và nhổ cỏ sót
trên ruộng để giảm nguy cơ cạnh tranh dinh dưỡng ngay từ đầu vụ. 30- 35 ngày
sau khi sạ, cấy là thời điểm trổ bông của 1 số loại cỏ (cỏ lồng vực, đuôi
phụng…) hay lúa dại có kiểu hình khác với lúa nhà nên rất dễ dàng phát hiện
và loại trừ. Khi lúa trỗ 30- 50%: Tiếp tục loại trừ cỏ dại và lúa dại để tránh
chúng rụng hạt trên ruộng. Trước khi thu hoạch, loại trừ cỏ dại và lúa dại để
tránh sự lẫn tạp của chúng vào lúa sau khi thu hoạch.
Bón phân: Dinh dưỡng cho lúa được bón bổ sung ở các thời điểm sau:
Bón lót: Trước khi cấy. Bón thúc lần 1: Bón vào 7-10 ngày sau cấy. Bón thúc
lần 2: Bón khi 50% chồi chính trên đồng có đòng 1mm. Bón bổ sung: Có thể
phun phân qua lá để bổ sung khi lúa trỗ đều khi cần thiết.
Quản lý nước trên ruộng cấy
Giai đoạn cây con: Rút cạn nước trước khi sạ và giữ khô mặt ruộng trong
vòng 3 ngày. Ngày thứ 4, sau khi sạ xongcho nước láng mặt ruộng 1 ngày.Sau
20
đó tiếp tục rút cạn để đảm bảo đủ ẩm bề mặt ruộng. Giai đoạn sinh trưởng sinh
dưỡng: Sau khi sạ 7-10 ngày, bắt đầu cho nước từ từ vào ruộng và giữ nước
trên mặt ruộng ở mức 3-5 cm. Trong giai đoạn này, thay nước trong ruộng lúa
từ 2- 3 lần. Sau mỗi lần thay nước, cần giữ cạn trong 2-3 ngày. Giai đoạn sinh
trưởng sinh thực: Giữ nước trong ruộng ở mức 3-5 cm. Giai đoạn chín: Giữ
nước trong ruộng ở mức 5 - 10 cm cho đến giai đoạn chín vàng. Trước khi thu
hoạch7 - 10 ngàytháo cạn nước trong ruộng.
Sơ đồ 2.1. Quản lý nước trên ruộng lúa cấy
Thu hoạch: Vào lúc sau trỗ 28 - 32 ngày hoặc khi thấy 85-90% số hạt
trên bông đã chín vàng. Nếu cắt sớm hay muộn đều làm tăng tỷ lệ hao hụt,
giảm chất lượng khi xay xát. Nên sử dụng máy gặt dải hàng hay gặt đập liên
hợp để cắt lúa. Sau khi cắt tiến hành tuốt ngay, không nên phơi mớ trên ruộng.
Sử dụng máy đập lúa trục dọc (tuốt lúa, máy nhai) để tuốt lúa trong trường hợp
dùng máy gặt xếp dãy.
2.1.2. Nương rẫy
Bên cạnh việc trồng lúa nước, người Thái Đen còn làm nương rẫy. Đặc
biệt là vùng nông thôn. Đó là lối canh tác “phát đốt, gieo trồng”. Sản phẩm thu
về là gạo, ngô, khoai, sắn. Quá trình làm nương rẫy của người Thái Đen gồm
các công đoạn: chọn đất, phát rẫy, trải hạt, dọn sạch, chọc lỗ tra hạt, chăm sóc
21
và bảo vệ nương, thu hoạch (gặt hái, thu lượm).
Bảng 2.1. Nông lịch của người Thái Đen huyện Khăm
Tháng Công việc
Tháng 2-3 Phát nương sắn, nương ngô.
Tháng 4 Tiếp tục phát nương, đốt nương; trồng sắn sớm và ngô
sớm, trồng bí.
Tháng 5-6 Trồng lúa sớm, trồng các cây có củ; trồng sắn muộn, lạc.
Tháng 7 Trồng ngô muộn, sắn muộn, và phát nương lúa.
Tháng 8 Làm cỏ lúa nước và thu hoạch ngô sớm.
Tháng 9-10 Làm cỏ lúa nương muộn.
Tháng 11 Thu hoạch xong toàn bộ lúa ngô.
Tháng Chạp Nghỉ ngơi.
Tháng Giêng Thu hoạch sắn muộn và ngô muộn
Công cụ truyền thống để làm nương rẫy của người Thái Đen chủ yếu là:
dao, rìu, móc, khều, gậy chọc lỗ (bọc sắt hoặc không bọc sắt); nạo, cuốc để làm
cỏ; nhíp, hẹp gặt lúa; gùi để thu hoạch và vận chuyển.Công cụ canh tác đóng
một vai trò quan trọng đối với họ. Người lao động sử dụng công cụ lao động
tác động vào đối tượng lao động tạo ra của cải vật chất. Những năm gần đây,
do kinh tế phát triển và tri thức được nâng cao, người Thái Đen đã sử dụng các
công cụ và phương tiện hiện đại vào việc canh tác như:máy cày bánh lồng, máy
kéo bánh lồng, máy phay và máy gặt… làm cho chất lượng sản xuất nông
nghiệp được nâng lên.
2.1.3. Chăn nuôi
Cùng với trồng trọt, chăn nuôi là hoạt động kinh tế sản xuất truyền thống
có từ lâu đời. Vật nuôi khá đa dạng, bao gồm: các gia súc lớn như: trâu, bò; các
gia súc nhỏ như: lợn, dê, chó… và các loại gia cầm như: gà, vịt, chim,
ngan…Chăn nuôi được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như: tự cấp tự
22
túc, dùng làm sức kéo, dùng làm phương tiện đi lại, vận chuyển và dùng để trao
đổi hàng hóa. Người Thái Đen rất có kinh nghiệm trong việc chọn giống chăn
nuôi, nhất là chăn nuôi trâu bò. Theo người Thái Đen, giống trâu bò tốt là phải
có chân to, dáng cao, cổ lớn nhưng ngắn. Ngoài ra, họ còn xem sừng, khoáy,
khấu đuôi của con vật để đánh giá giống xấu hay tốt. Người Thái Đen thường
thả rông trâu bò vào rừng kiếm ăn. Khoảng một tháng sau mới đi tìm. Buổi tối
họ thường buộc trâu bò dưới gầm sàn nhà.
Lợn và dê là những loại gia súc nhỏ được nuôi phổ biến trong gia đình
người Thái Đen. Đây là vật nuôi quan trọng dùng vào nhiều dịp. Người Thái
Đen ở huyện Khăm cho rằng: lợn giống tốt là lợn có lưng thẳng, không võng,
chân to, đuôi mập, lông thưa và ngắn. Lợn cũng được thả ở xung quanh nhà và
làng bản để nó tự tìm thức ăn. Việc chăn nuôi là do phụ nữ và trẻ em đảm nhiệm.
Trong việc chăn nuôi của người Thái Đen, không thể thiếu được chăn
nuôi gia cầm, nhất là ngan, gà, vịt. Ngan, gà, vịt được nuôi rất nhiều. Nuôi để
làm vật hiến sinh bắt buộc trong nhiều nghi lễ; dùng để làm lễ vía cho người
ốm đau, sinh nở; làm thịt khi nhà có khách quý đến. Vịt và ngan ngoài mục
đích lấy thịt còn nuôi để lấy trứng. Trứng được sử dụng vào nghi lễ gọi hồn hay
ném trứng chọn vùng đất để chôn người chết.... Cách thức chăn nuôi gia cầm
của người Thái Đen huyện Khăm cũng giống như cách thức chăn nuôi các loài
vật khác. Đó là: nửa thả, nửa chăm sóc.
Từ năm 2000 đến nay, chăn nuôi của dân tộc Thái Đen ở huyện Khăm
có bước khởi sắc trên cơ sở truyền thống có sẵn. Chăn nuôi dần trở thành hoạt
động kinh tế chiếm vị trí quan trọng. Các gia súc gia cầm như: trâu, bò, lợn, gà
vịt … được nuôi với số lượng nhiều hơn so với trước. Thường trong mỗi hộ gia
đình, trâu được nuôi từ 2- 3 con; bò hàng chục con; lợn 5- 8 con; gà vài chục
con. Phương thức chăn nuôi cũng có nhiều thay đổi. Những bãi chăn nuôi trâu
bò tập thể nằm ở ngoài rừng nay không còn nữa do đồng cỏ hiếm dần. Phương
thức chăn nuôi thả rông khó tồn tại, đồng bào đã trồng cỏ chăn nuôi quanh nhà,
ở vườn và ở nương. Vì vậy, trâu bò cũng được quan tâm chăm sóc: ban ngày
23
người già và trẻ em chăn dắt, tối được xua về nhà nhốt vào chuồng trại được
xây cất gần nhà ở.Bên cạnh chăn nuôi các loại gia súc kể trên, một số hộ gia
đình Thái Đen ở huyện Khăm đã đào ao thả cá. Ao cá được đào ở gần nhà; ven
sông, suối; nơi có nguồn nước lưu chuyển thường xuyên. Có nhiều loại cá được
nuôi như: cá chép, cá trôi, cá rô phi…
Tuy chăn nuôi của người Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng
có bước phát triển trong những năm gần đây. Nhưng thực tế, chăn nuôi vẫn là
nghề bổ trợ cho nông nghiệp lúc nước, nương rẫy mà chưa tách khỏi trồng trọt.
Việc chăn nuôi mới phát triển ở phạm vi gia đình và chủ yếu là nhằm tự cấp, tự
túc là chính. Phương thức chăn nuôi ở đây vẫn là: nửa thả rông, nửa chăm sóc.
Trong chăn nuôi, người Thái Đen cũng phân công lao động theo giới. Các loại
gia súc lớn chủ yếu là do nam giới và thanh niên đảm nhận. Còn gia cầm chủ
yếu là do phụ nữ chăm sóc. Có thể nói, chất lượng chăn nuôi của người Thái
Ðen chưa được chú trọng đúng mực.Nhưng dù sao chăn nuôi cũng đóng vai trò
quan trọng đối với đời sống tự cấp tự túc của cộng đồng dân tộc này.
2.1.4. Tổng thu nhập từ nông nghiệp
Sản phẩm từ nông nghiệp của người Tày Đăm đã góp phần làm cho hàng
hóa trên thị trường ở huyện Khăm đa dạng và phong phú. Một số sản phẩm đã trở
thành đặc sản nổi tiếng của địa phương. Dưới đây là bảng thống kê những sản phẩm
24
nông nghiệp của một số làng bản Thái Đen ở huyện Khăm có thể sản xuất được:
Bảng 2.2. Sản lượng trồng trọt của người Thái Đen ở huyện Khăm năm 2015
Tên bản
Bản Xiêng Kiều
Bản Na Thoong
Bản Muông Xay
Bản Xam
DT, SL,
TN
Diện tích
Sản lượng
Diện tích
Sản lượng
Diện tích
Sản lượng
Diện tích
Sản lượng
Tên cây trồng
200
108
432
99,6246
310
50
36
108
Lúa
50
100
Nương rẫy
183
896.570
124
10
50
90
360
620
Ngô
9
21
2,72
Rau
16
295
36,36
18
108
10
60
865
Dưa
3
2.340
Cây ăn quả
1,1
5
40
15
Quả hèo
3,75
42
Bí đỏ
124
5
15
620
Tỏi
6
90 triệu
Chuối
25
Nguồn: Báo cáo của bản Xiêng Kiều, Na Thoong, Muông Xay, Xam năm 2015
Bảng 2.3. Thống kê số lượng vật nuôi của người Thái Đen ở huyện Khăm năm 2015
Tên bản
Bản Xiêng Kiều
Bản Na Thoong
Bản Muông Xay
Bản Xam
Số lượng
Số lượng (con)
Số lượng (con)
Số lượng (con)
Số lượng (con)
Vật nuôi
263
101
43
190
Trâu
110
106
32
290
Bò
120
82
50
180
Lợn
1030
2120
1440
2.000
Gia cầm
60
25
24
26
Cá (ao cá)
26
Nguồn: Báo cáo của bản Xiêng Kiều, Na Thoong, Muông Xay, Xam năm 2015
2.2. Khai thác nguồn lợi tự nhiên
Trước năm 1975, các dân tộc ở Lào nói chung và người Thái Đen nói
riêng sống chủ yếu dựa vào trồng trọt và chăn nuôi. Song do kém phát triển,
nên việc săn bắt, hái lượm đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của họ.
Có thể nói, giai đoạn trước 1975, toàn bộ nền kinh tế của nước Lào nói chung
phụ thuộc vào nông nghiệp mang nặng tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc. Từ
năm 1986 đến nay, nhờ công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế
của nước Lào đã chuyển sang cơ chế thị trường mở cửa. Vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số được quan tâm đúng mức. Vì vậy, diện mạo ở vùng dân
tộc thiểu số nói chung, người Thái Đen nói riêng đã có những chuyển biến và
thay đổi rõ rệt. Tuy nhiên, việc khái thác nguồn lợi tự nhiên đối với người Thái
Đen vẫn là một công việc không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Hái lượm
Việc hái lượm đáp ứng nhu cầu rau xanh, lương thực và nhu cầu thuốc
chữa bệnh của người Thái Đen. Măng là một trong những sản phẩm hái lượm
đầu tiên, thường xuyên. Bao gồm nhiều loại măng như: măng đắng, măng tre,
măng nứa… Đến mùa măng, người Thái Đen thường rủ nhau thành nhiều
nhóm cả nam và nữ vào rừng cách nhà khoảng 10-15 km, nơi có nhiều rừng tre,
rừng luồng để hái lượm. Dụng cụ hái lượm là dao. Dao dùng để phát quanh bụi
và chặt măng. Sau khi măng đẫy gùi họ tập trung về một chỗ để bóc vỏ và xếp
vào gùi đưa về nhà. Người Thái Đen có nhiều cách chế biến măng khác nhau
như: canh măng, măng ngâm chua, măng luộc, măng khô.
Nấm: Người Thái Đen gọi nấm là hết.Các loại nấm hái lượm được khá
phong phú như: mộc nhĩ (hết sá nùn), nấm tre (hết lày), nấm mối (hết puộc),
nấm trắng (hết khao)…
Rau rừng: Người Thái Đen gọi rau là phắc. Các loại rau rừng hái lượm
được gồm nhiều loại như: rau ngọt rừng (phắc van pà), rau khoai rừng, ruột cây
chuối rừng, rau dớn (phắc cụt), rau mớp (phắc nám), rau bợ nước (phắc vèn),
27
rau má (phắc noóc)...
Các loại quả: Người Thái Đen gọi quả là mạc, các loại quả chủ yếu được
thu hái lúc vào rừng và lúc đi làm rẫy. Có rất nhiều loại quả được thu hái như:
nhãn rừng (gần giống nhãn bản nhưng quả nhỏ hơn), chuối rừng (cuội pà), hoa
chuối rừng (mạc pi), quả nhót (mạc nọt), quả dẻ (mạc cò) …
Cây thuốc nam: Vùng rừng ở huyện Khăm có rất nhiều loại cây thuốc
nam. Mỗi khi có người đau bệnh gì, họ mới đi tìm hái về chứ không để lại dữ
trữ. Có nhiều loại được coi là dược liệu được người Thái Đen sử dụng thường
xuyên như: rau mơ, lá bớp bớp, lá ổi chữa đau bụng. Bên cạnh đó còn có nhiều
loại thuốc quý khác được bà con thu lượm trong những trường hợp thực tế.
Săn bắn:Trước đây, săn bắn nhằm mục đích để bảo vệ nương rẫy, bảo
vệ làng bản và bổ sung nguồn thực phẩm mà chăn nuôi chưa cung cấp đủ. Hiện
nay, săn bắn được xem là thói quen và tập quán của người Thái Đen ở vùng
nông thôn của huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng. Họ thường săn bắn theo hai
hình thức: cá nhân và tập thể.Săn bắn cá nhân là hoạt động thường diễn ra của
mỗi gia đình người Thái Đen.Thú săn được thường là sóc, nai, chim, chuột, lợn
rừng. Nếu săn bắn tập thể thì thịt phải chia bằng nhau cho người tham dự. Ngày
xưa, nếu săn bắn được nhiều thì họ thường đem ra chợ bán. Nhưng hiện nay,
Nhà nước đã quy định và ra luật cấm săn bắn thú rừng; người dân đã được
tuyên truyền kiến thức về việc bảo vệ thú rừng dẫn đến việc săn bắn của người
Thái Đen ngày càng giảm.
Đánh cá và săn bắt: Đánh cá và săn bắt là hoạt động thường diễn ra
quanh năm. Tập trung nhiều là vào mùa mưa, khi mà các con suối, con sông đã
đầy ắp nước và nước đục ngầu. Người Thái Đen đánh cá bằng chài, lưới, câu,
xúc. Mỗi gia đình người Thái Đen thường có 1-2 cái xúc, chài và lưới.Phụ nữ
Thái Đen thường dùng xúc, câu bắt cá. Còn nam giới thường dùng chài và lưới.
Họ thường đi bắt cá một mình theo nhóm từ 2-4 người. Người Thái Đen ở huyện
28
Khăm đi bắt cá cả ban ngày và ban đêm. Người Thái Đen gọi cá là pá. Cá mà họ
bắt được có nhiều loại như: pá tong (cá còm), pá khỏ (cá tràu), pá cốt (cá bò), pá
cặng (cá sộp), pá khếng (cá rô), pá sỏi (cá nhỏ), pá xiu (cá cơm), tôm, cua….
Ngoài bắt cá bằng chài, lưới, xúc họ còn dùng tay để mò bắt trong trường hợp
mò ốc, mò cá nước cạn. Các loại cá bắt được, nếu nhiều thì một phần chế biến ăn
ngay, còn một phần đem ra chợ bán hoặc mổ rửa sạch trộn với một ít muối bỏ
vào ống luồng làm nước mắm (pá đẹc), một phần phơi nắng làm cá khô.
Bên cạnh các loại thủy sản, đối tượng săn bắt của người Thái Đen còn
gồm có các loại côn trùng như: châu chấu, dế mèn, trứng kiến (khay một
sộm)… Số lượng bắt không nhiều nên có thể được chế biến ăn ngay chứ không
dự trữ.
Có thể nói, việc khai thác nguồn lợi tự nhiên đã đem lại nguồn thu nhập
quan trọng trong cuộc sống tự cấp, tự túc của người Thái Đen. Hoạt động này
tồn tại và phát triển mạnh khi dân số chưa tăng; điều kiện tự nhiên còn khá
thuận lợi; rừng, sông, suối còn nguyên sinh. Còn hiện nay, khi dân số gia tăng
nhanh chóng; tài nguyên rừng, sông dần cạn kiệt thì hoạt động sắn bắt, hái
lượm của người Thái Đen huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng không đem lại hiệu
quả nữa, nhưng hoạt động này vẫn tồn tại ở vùng xa, vùng nông thôn.
2.3. Nghề thủ công
Giống như các dân tộc khác ở huyện Khăm, người Thái Đen xuất hiện từ
lâu và nghề thủ công cũng là hoạt động kinh chủ yếu. Ở tỉnh Xiêng Khoảng nói
chung và huyện Khăm nói riêng đã xuất hiện nhiều làng thủ công như: làng đan
lát, làng dệt… Mỗi nghề thủ công của người Thái Đen ở huyện Khăm đã góp
phần làm cho sản phầm, hàng hóa của huyện đa dạng và phong phú. Đây cũng
là một nguồn thu nhập đáng kể cho các gia đình dân tộc Thái Đen ở huyện
Khăm. Sản phẩm từ nghề thủ công của người Thái Đen có thể đảm bảo cho
29
những nhu cầu tối thiểu của đời sống tự cấp tự túc.
Bảng 2.4. Thống kê hoạt động nghề thủ công của người Thái Đen trong
4 bản của huyện Khăm năm 2015
Số hộ gia đình làm nghề STT Tên bản Tổng số hộ gia đình thủ công
1 Xiêng Kiều 118 60
2 Xam 115 50
3 Na Thoong 96 53
4 Muông Xay 64 32
2.3.1. Đan lát
Nói đến nghề thủ công thì trước hết phải nói đến đan lát.Bởi đan lát là
một trong những nghề thủ công truyền thống vẫn tồn tại, phát triển và cũng là
nghề nổi tiếng, phổ biến trong cộng đồng người Thái Đen ở huyện Khăm. Đan
lát đã đem lại nguồn thu đáng kể cho đồng bào Thái Đen. Đồ đan lát của họ
cung cấp cho hầu hết các dân tộc xung quanh.
Do điều kiện tài nguyên tự nhiên rất phong phú, việc sử dụng các nguyên
liệu tự nhiên dễ tạo ra tối đa các sản phẩm phục vụ sản xuất và sinh hoạt là nhu
cầu tất yếu với lợi thế từ rừng. Người Thái Đen ở đây đã tạo ra những sản phẩm
đan lát hết sức phong phú như: đồ lưu niệm, đồ gia dụng, quà tặng. Huyện
Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng là địa bàn rất giàu nguyên liệu cho đan lát. Nhưng
để có nguồn nguyên liệu tốt, họ phải đi xa hàng chục cây số. Họ có rất nhiều
kinh nghiệm trong việc lựa chọn các nguyên liệu để tạo ra sản phẩm tốt.
Loại tre và luồng nhỏ (tre non) thường có ruột rất đặc, lóng dài, đặc tính
mềm và dai thích hợp cho đan các sản phẩm kỹ thuật cao như gùi, ép cơm, đồ
đựng kim chỉ, hộp đựng trang sức, quạt tre, rổ, mâm mây…
Ép cơm: Là chiếc giỏ đựng cơm nếp trong bữa cơm ở nhà, khi vào rừng,
đi nương rẫy. Ép cơm thường là hình trụ, có nhiều màu. Một cái ép cơm bao
30
gồm 2 bộ phận: thân và nắp. Đó là 2 hình trụ rỗng đan theo kiểu lóng đôi có thể
lồng khít vào nhau. Phần thân được đan kép, mặt đáy và mặt nắp được đan rời
tạo thành hình tròn rồi dùng mây, giang khâu liền với thân và nắp. Phần trên
của thân được đan hoa văn. Ép cơm nổi tiếng của huyện Khăm là ép ở bản Xam
và Muông Xay.
Huột: Cùng với đan ép cơm, người Thái Đen ở huyện Khăm còn đan
huột (cái chõ đồ xôi hoặc cái hấp xôi). Nồi đồ xôi của người Thái Đen cũng
phải có ít nhất 2 tầng. Tầng dưới, gọi là “mỏ nởng”. Tầng này là tầng đựng
nước, để khi nấu sôi thì hơi nước bốc lên trên làm cho chín gạo. Tầng thứ 2 trở
lên gọi là huột, dùng để chứa gạo. Đáy của tầng này luôn phải có lỗ rất nhỏ để
cho hơi nước bốc lên được. Nguyên liệu chính mà người Thái Đen sử dụng để
đan huột là tre. Gia đình người Thái Đen nào cũng đều có cái chõ đồ xôi. Có
thể nói, cái chõ đồ xôi là sản phẩm từ đan lát chủ yếu mà bất kể gia đình nào
cũng không thể thiếu được. Đâycũng là một sản phẩm mang lại thu nhập đáng
kể cho họ. Giá bán một cái chõ đồ xôi thấp nhất là 5.000, cao nhất cũng là
20.000 kíp (tương đương gần 15.000 - gần 60.000 đồng).
Mâm mây, ghế mây: Là một trong những sản phẩm đặc trưng của dân
tộc Thái Đen ở huyện Khăm. Sản phẩm này được nhiều dân tộc sử dụng.
Những loại sản phẩm nàyđược làm từ nguyên liệu chủ yếu là mây, tre, luồng
và hiện trở thành hàng hóa mang lại thu nhập đáng kể, được trưng bày nhiều
tại các hội chợ trong và ngoài tỉnh.
Mâm mây gồm 2 bộ phận chính: mặt mâm và thân mâm. Mặt mâm
thường là hình tròn. Tùy vào mục đích sử dụng mà mặt mâm có đường kính to,
nhỏ khác nhau. Thông thường, mặt mâm to có đường kính khoảng từ 60- 70cm;
mặt mâm nhỏ có đường kính từ 30- 40cm và được đan bằng tre. Vách ngoài
của mặt mâm được đan bằng sợi mây theo đường song song rộng khoảng 7-10
cm. Thân mâm là một vòng tròn hình trụ có chiều cao từ 20-30 cm và thường
làm bằng tre hoặc luồng theo hình mắt cáo, tạo hoa văn mềm mại. Vành đáy
31
thân mâm hình tròn làm bằng mây.
Ghế mây cũng có kiểu dáng giống như mâm mây nhưng mặt ghế nhỏ
hơn.Thân ghế cao khoảng từ 10- 15cm. Mặt ghế được đan bằng sợi mây.Các
sợi mây được căng trên chiếc cạp hình tròn bằng mây cứng. Mặt ghế được nối
với vành đáy chân ghế bằng những thanh tre cứng, khỏe và thanh gọn.
Trong nghề đan lát của người Thái Đen cũng có sự phân công lao động
rất rõ ràng. Nếu may vá, bếp núc, nuôi con là việc của phụ nữ thì đan lát là
công việc của người đàn ông. Người đàn ông càng cao tuổi càng có kinh
nghiệm trong công việc đan nên thanh niên chỉ tham gia vào chế biến nguyên
liệu đan, còn việc đan do người cao tuổi thực hiện. Tiêu biểu cho nghề đan lát
này phải nói đến gia đình ông Bua Ny, người Thái Đen ở bản Muông Xay. Gia
đình ông vừa làm nông nghiệp vừa làm nghề thủ công. Ông đan nhiều loại sản
phẩm dùng trong gia đình như: huột, ép cơm, làn, xay (cái dùng để bắt cá),
mâm cơm, chiếu…Còn vợ và con gái của ông làm nghề dệt vải. Hàng tháng,
gia đình ông có thu nhập từ 2-3 triệu kíp từ đan lát.
Có thể nói: Đan lát là một nghề khá đặc trưng của người Thái Đen.
Người Thái Đen có câu: “Nếu dệt vải là tiêu chí để đánh giá người con gái, thì
đan lát là tiêu chí để đánh giá người con trai”. Đan lát đối với gia đình
ngườiThái Đenlà một nghề thủ công truyền thống phổ biến, đặc trưng.Tuy
nhiên việc dạy nghề, truyền nghề là hoàn toàn tự phát, chưa chuyên môn hóa,
chưa tập trung mà chỉ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt gia đình.
Ngoài đan lát, người Thái Đen ở huyện Khăm còn làm một số nghề khác
như: mộc, đúc rèn. Những nghề này cũng là nghề truyền thống có từ lâu đời và
được các cụ già giỏi nghề trong cộng đồng truyền lại.
2.3.2.Nghề dệt
Trước đây, khi nền kinh tế hàng hóa chưa phát triển, các sản phẩm thổ
cẩm làm ra chủ yếu để phục vụ nhu cầu trong gia đình, làm của hồi môn cho
con gái khi về nhà chồng và một phần để trao đổi theo phương thức vật đổi vật
32
góp phần phụ thêm cho kinh tế gia đình. Trải qua thời gian đã cho thấy các sản
phẩm thổ cẩm là thứ không thể thiếu được trong đời sống vật chất và tinh thần
của người Thái Đen. Nó trở thành biểu tượng trong đời sống văn hóa của người
Thái Đen. Để tạo ra được những tấm thổ cẩm đẹp, người phụ nữ Thái Đen phải
tiến hành nhiều công đoạn khác nhau. Bắt đầu từ việc trồng bông, nuôi tằm,
kéo sợi, dệt vải, nhuộm chàm cho đến việc cắt may, thêu thùa... Nguyên liệu để
làm ra những sản phẩm thổ cẩm chủ yếu là sợi bông và sợi tơ tằm. Để có sợi
cho việc dệt thổ cẩm, phụ nữ Thái Đen phải bắt đầu bằng việc trồng bông trên
nương và trồng dâu nuôi tằm. Để tạo thành sợi phải trải qua rất nhiều các công
đoạn: Sau khi thu hoạch bông từ nương về phải tiến hành sơ chế qua các bước:
cán bông, bật bông, quấn bông, se sợi, hồ sợi. Tằm sau khi đã vào kén để kéo
thành sợi tơ cũng phải tiến hành các bước như: rút sợi (sáo lọc), cuốn sợi tơ
thành con, se sợi đơn thành sợi đôi, xử lý tơ cho mềm mới có thể dùng để dệt
nên các trang phục hay đồ dùng sử dụng trong đời sống hàng ngày.
Thổ cẩm được dệt hoàn toàn bằng tay nên độ chặt, lỏng, mềm, cứng của
sản phẩm đều theo ý muốn và khả năng của người làm ra nó. Họ có thể dệt nên
những tấm thổ cẩm khác nhau để trang trí cho từng loại sản phẩm.Khung để dệt
không có gì khác với khung dệt của người Thái Đen ở những vùng khác.Điều
khác biệt đáng chú ý nhất chính là cách dệt và các dạng thức hoa văn trang trí
trên thổ cẩm. Người Thái Đen ở mỗi địa phương có cách trang trí hoa văn trên
vải khác nhau như: dệt kết hoa văn trên khung; dệt dấu nhân; dệt hình quả
trám... Họ thêu cài hoa văn bằng các sợi màu đã được chuẩn bị qua các thao tác
cài, đan trực tiếp trên khung dệt. Các dạng thức hoa văn rất đa dạng, phong phú
(gồm hình nhiều loại động vật, mặt trời, hoa lá, cây cỏ...)được phối màu một
cách hài hòa gồm các hoa văn chính và hoa văn phụ điểm xuyết làm nổi bật hoa
văn chính nhờ sự sáng tạo của khối óc và sự khéo léo của đôi bàn tay người
thợ. Từ đó, người phụ nữ Thái Đen dệt nên những tấm thổ cẩm đẹp, làm nên
33
những bộ váy áo có các họa tiết hoa văn đặc sắc.
Việc dệt thổ cẩm đòi hỏi người phụ nữ Thái Đen phải kiên trì lựa chọn
các loại cây, củ, quả trên rừng để nhuộm màu tạo nên 7 sắc màu: xanh đậm,
xanh lá cây, đỏ, hồng, tím, vàng và trắng.Tất cả tạo nên như 7 sắc cầu vồng, âm
dương hòa hợp. Sản phẩm của nghề thêu, dệt thủ công được sử dụng thường
ngày trong trang phục, đồ dùng gia đình như: chăn, đệm, địu, màn, tà áo,
khăn… Người Thái Đen quan niệm: thổ cẩm có thể tránh trừ được ma tà nên
gần như các loại đồ dùng cá nhân, đồ dùng trong gia đình phải làm bằng vải thì
hầu hết đều được làm bằng vải thổ cẩm.
Người Thái Đen nói rằng: “Giữ được nghề dệt thổ cẩm là giữ được
những nét văn hóa cổ truyền của dân tộc mình”. Nếu biết kết hợp giữa tính dân
tộc và tính hiện đại thì nghề dệt thổ cẩm của người Thái Đen sẽ tạo được những
mặt hàng kinh tế cao, có giá trị trên thị trường. Người Thái Đen tự hào về sản
phẩm thổ cẩm truyền thống của mình. Trải qua bao đời, đã chứng tỏ một
điều:thổ cẩm là thứ không thể thiếu trong đời sống vật chất và tinh thần của
người Thái Đen. Nó là biểu tượng của văn hóaThái Đen. Chị Son Sạ Văn (ở
bản Xiêng Kiều, 37 tuổi) kể lại: "Từ lúc 16 tuổi tôi đã biết thêu dệt thổ cẩm
rồi, vì nó gắn liền với cuộc sống của đồng bào dân tộc tôi. Trước khi đi làm
dâu, phụ nữ chúng tôi đều phải biết thêu dệt. Nó là cái gốc, là truyền thống
có từ ngày xưa rồi. Trước đây, tôi phải mất ba năm ươm tơ dệt vải mới lấy
chồng được đấy chú à. Giờ có con lớn rồi nhưng tôi vẫn không thể nào quên
được cách dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc mình. Những lúc rảnh rỗi tôi
lại tranh thủ ngồi dệt.Khi nào dệt được khoảng mười tấm mới bỏ vào gùi để
mang xuống chợ bán".
Ở huyện Khăm có nhiều làng dệt nổi tiếng, nhất là bản Xiêng Kiều, bản
Xam, Muông Xay, Nhọt Cựa và bản Na Thoong.Qua trao đổi trực tiếp với anh
Pheng Khăm - trưởng bản Xiêng Kiều được biết: năm 2015, Xiêng Kiều có 118
34
hộ gia đình. Trong đó có 45 gia đình làm nghề dệt vải bằng tay. Có 69 khung
dệt. Sản phẩm từ nghề dệt của người Thái Đen ở bản Xiêng Kiều có nhiều mặt
hàng như: váy, khăn tắm, chân váy... Những sản phẩm từ nghề dệt đã thu hút
nhiều khách hàng và thu nhập từ nghề này ngày càng tăng lên. Từ đó, sản phẩm
làm ra ngày càng nhiều và có thể đáp ứng nhu cầu của xã hội. Điều đó được thể
hiện rõ qua số liệu thống kêthu nhập từ những sản phẩm dệt của người Thái
Đen ở bản Xiêng Kiều năm 2015 sau đây:Váy: 1.020 chiếc (51 triệu kíp); Chân
váy: 6.805 chiếc (26.045.000 kíp); Vải lụa to: 4.861 m (257.455.000 kíp);Vải
lụa nhỏ: 4.797 m (52.767.000 kíp); Khăn quàng: 919 chiếc (73.520.000 kíp);
Váy mì: 875 chiếc (70.000.000 kíp)
2.3.3. Nghề làm mộc
Cũng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt gia đình, nhưng lại có ý nghĩa
nhất định trong đời sống kinh tế. Trước năm 1975, người Thái Đen dùng công
cụ làm mộc hết sức đơn giản, bao gồm: dao, rìu, đục…Sản phẩm mộc thường
là đồ gia dụng như: mâm gỗ, cối gỗ, chày gỗ, đũa cả, cơi để đồ vật, bộ bàn ghế
ngồi chơi, ghế nhỏ ở phòng bếp. Ngoài những sản phẩm vừa kể trên, nghề mộc
của người Thái Đen được sử dụng, thể hiện rõ nét hơn cả trong việc làm nhà
(cầu thang, cửa nhà, cửa sổ...). Toàn bộ nguyên liệu để làm mộc đều là gỗ. Bao
gồm nhiều loại gỗ khác nhau.
Nhìn chung,khi nói đến sự đa dạng và phong phú về nghề thủ công của
người Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng, nên đặt thủ công nghiệp
trong tổng thể cơ cấu kinh tế truyền thống của dân tộc Thái Đen với chủ đạo là
nghề trồng trọt, chăn nuôi nhưng nghề thủ công cũng có vai trò quan trọng
không kém. Nghề đan lát, nghề dệt và nghề mộc là những nghề thủ công đang có
vị trí quan trọng trong đời sống hiện nay. Tuy còn mang tính tự cấp tự túc, sản
xuất nhỏ, thô sơ song vẫn có đủ lý do để tồn tại và hơn thế nữa cần phải được
phục hồi, phát triển để phục vụ đời sống hiện nay và tương lai. Bởi các sản phẩm
35
thủ công của người Thái Đen tạo ra không chỉ chứa đựng giá trị kinh tế, văn hóa
và nghệ thuật mà còn là phương tiện chuyển tải văn hóa dân tộc ra bên ngoài,
phục vụ đắc lực cho các hoạt động du lịch, quảng bá hình ảnh dân tộc…
2.4. Buôn bán trao đổi
Hoạt động kinh tế của người Thái Đen ở huyện Khăm là sự kết hợp giữa
các hoạt động buôn bán, thủ công, hái lượm, săn bắn và sản xuất nông nghiệp.
Huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống.
Đông nhất là người Lào, người Mông… Theo đó, việc trao đổi hàng hóa của
người Thái Đen cũng xuất hiện và được duy trì.Tuy nhiên, trước năm 1975,
việc trao đổi, buôn bán của người Thái Đen ở huyện Khăm tỉnh Xiêng Khoảng
chỉ mang tính truyền thống. Tức là hoạt động trao đổi chỉ diễn ra trong cộng
đồng hoặc giữa họ và các dân tộc khác dưới hình thức vật đổi vật. Hình thức
trao đổi chủ yếu của người Thái Đen là: vật đổi vật có định giá và không định
giá. Giá cả do hai bên thỏa thuận và tùy thuộc vào từng loại sản phẩm. Loại vật
được đem ra trao đổi chủ yếu là nông sản, gia súc, đồ đan lát. Khi đó, rất ít
người Thái Đen bán hàng tại các chợ lớn của huyện và trung tâm bán hàng. Sự
trao đổi, mua bán chỉ diễn ra tại làng bản của họ, giữa họ với nhau và giữa họ
với các dân tộc khác.
Ông Chăn Đi (90 tuổi), một trong những người cao tuổi của bản Nhọt
Cựa cho biết: Trước đây, người Thái Đen đã có trao đổi nhưng chỉ trao đổi tại
nơi mình cư trú. Trong các loại sản phẩm của người Thái Đen thì sản phẩm từ
nghề dệt được đem trao đổi nhiều nhất như: vải, váy, khăn… Chẳng hạn: người
Thái Đen đem một miếng vải đổi lấy 2- 3 con gà với người Khơ Mú; đem 1
chiếc váy đổi lấy 10kg muối với người Lào; đem 1 chiếc váy đổi lấy 1-2 con dao
với người Mông…Sau năm 1975, nhất là sau thời kỳ thực hiện công cuộc đổi
mới (năm 1986), là thời điểm mở cửa với bên ngoài, người dân có cơ hội tiếp
xúc và trao đổi hàng hóa; sự hội tụ của nhiều dân tộc sống cận cư ở huyện Khăm
36
là điều kiện cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của loại hình chợ phiên.
Hiện nay, cơ chế thị trường phát triển, hàng hóa lưu thông. Nhiều chợ,
nhiều trung tâm trao đổi buôn bán xuất hiện.Hoạt động buôn bán của người
Lào, người Mông, người Thái Đen phát triển.Sản phẩm của họ tạo ra cũng đa
dạng và phong phú hơn.Hình thức trao đổi buôn bán cũng vì thế mà thay
đổi.Ngoài buôn bán tại các chợ và trung tâm buôn bán, họ còn xây cửa hàng tại
làng bản.Đặc biệt, cũng có một số gia đình lấy nhà ở làm nơi bán hàng. Mặt
hàng chủ yếu họ thường bán là những nhu yếu phẩm cần thiết trong cuộc sống
sinh hoạt hàng ngày như: bánh kẹo, mỳ tôm, nước ngọt, mỳ chính, muối, nước
mắm, dầu ăn, thuốc lá, bật lửa…và các loại đồ uống (chủ yếu là bia, rượu, nước
ngọt, trà, cà phê…). Khác hẳn với những mặt hàng buôn bán tại chợ và trung
tâm. Ở chợ và trung tâm, người Thái Đen thường bán: quần áo, đồ trang sức,
công cụ lao động, vàng bạc…như những người buôn bán là người dân tộc khác.
Qua điều tra ở các bản có người Thái Đen sinh sống đã thống kê được số
lượng hộ gia đình người Thái Đen ở huyện Khăm làm nghề buôn bán như sau:
Bảng 2.5. Thống kê số lượng hộ gia đình người Thái Đen làm nghề buôn
bán ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng năm 2015
Tổng số Số hộ gia đình STT Tên bản hộ gia đình buôn bán
1 Nhọt Cựa 180 25
2 Na Thoong 96 13
3 Xiêng Kiều 118 16
4 Muông Xay 64 6
5 Xam 115 12
6 Viêng Khăm 30 7
7 Chom Sy 64 6
8 Phon Khăm 80 7
Tổng cộng 747 92
37
Nguồn: Thu thập trực tiếp từ các trưởng bản
Ngoài những hoạt động kinh tế đã kể trên đây, người Thái Đen còn làm
công chức và cán bộ trong các cơ quan nhà nước. Hiện nay, có rất nhiều đơn vị
và nhiều cơ quan có nhân viên và cán bộ là người Thái Đen. Do trình độ nhận
thức được nâng cao đã giúp họ có hiểu biết về vị trí và vài trò của những người
làm công chức trong các cơ quan nhà nước. Vì vậy, gia đình nào cũng mong
muốn và động viên con cái mình học hành để trở thành công chức nhà nước,
làm việc trong nhiều lĩnh vực phục vụ cho xã hội. Có thể nói người Thái Đen
đã góp sức mình vào nhiều lĩnh vực, góp phần phát triển đất nước. Hiện nay,
trong các cơ quan lãnh đạo từ cấp thấp đến cấp cao đều có sự tham gia của
người Thái Đen. Đơn cử ở Trường Cao đẳng Sư phạm Khăng Khay - một trong
8 trường Cao đẳng Sư phạm của nước CHDCND Lào có nhiệm vụ đào tạo giáo
viên giảng dạy các cấp mầm non, tiểu học, trung học cơ sở (nơi tác giả luận văn
đang công tác) có170 cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý, thuộc nhiều dân tộc
khác nhau. Trong đó, có 8 cán bộ, giảng viên là người Thái Đen.
Bên cạnh những ngành nghề đã kể trên đây, hiện nay còn có một bộ phận
người Thái Đen làm thuê mang tính tự do ngoài xã hội. Nhất là những gia đình
nghèo, không có đất đai trồng trọt, không có vốn đầu tư.Tiền công của nhóm
người này khá rẻ.Số lượng của nhóm người này không nhiều.Họ thường làm
38
việc cho những gia đình giàu có và những gia đình buôn bán lớn.
Tiểu kết chương 2
Đời sống kinh tế của người Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng
từ năm 1975 đến naycó sự biến đổi rõ rệt. Đặc biệt là từ năm 1986, dưới tác
động của điều kiện mới đã diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở vùng
người Thái Đen cư trú. Sự thay đổi về đời sống kinh tế của người Thái Đen ở
huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng được diễn ra theo từng giai đoạn, theo từng
ngành kinh tế. Cụ thể: Trong trồng trọt, bên cạnh hình thức canh tác chính là
trồng lúa nước và nương rẫy cũng xuất hiện nhiều hình thức canh tác mới như:
làm vườn; trồng sắn, khoai lang, ngô, lạc và trồng các cây công nghiệp như:
cao su, mía, bông, gỗ. Sản xuất nông nghiệp ở mức độ nào đó đã có sự ứng
dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại, góp phần làm tăng sản lượng và làm tăng
chất lượng sản phẩm.Trong chăn nuôi, bên cạnh việc chăn nuôi các loại gia súc
như: trâu, bò, lợn và gia cầm, đã xuất hiện việc đào ao thả cá tuy chưa phổ biến.
Hiện nay, việc chăn nuôi ngày càng được quan tâm chăm sóc và áp dụng các
biện pháp kỹ thuật. Sản phẩm chăn nuôi được sử dụng vào nhiều mục đích khác
nhau.Trong đó, mục đích hàng hóa được quan tâm.Thủ công nghiệp chủ yếu là
nghề phụ gia đình.Trong đó, dệt vải là ngành thủ công truyền thống của người
Thái Đen có từ lâu đời. Sản phẩm từ nghề dệt có nhiều loại như: váy, khăn, vải
may quần áo, túi… Đan lát là nghề thủ công phổ biến ở mỗi gia đình. Đây là
công việc phù hợp với người đàn ông, đặc biệt là người cao tuổi.Các sản phẩm
của nghề thủ công không chỉ đáp ứng nhu cầu của cộng đồng mà còn đáp ứng
nhu cầu của các dân tộc khác. Bên cạnh nghề dệt và đan lát, hiện nay còn xuất
hiện một số ngành nghề mới như: mộc, rèn, sửa chữa, xẻ gỗ, đãi vàng, bán hàng.
Trước đây, sản phẩm của thủ công nghiệp chỉ đáp ứng nhu cầu tự cấp tự túc,
nhưng hiện nay, sản phẩm của nghề này đã được đưa ra trao đổi và buôn bán tại
các chợ và các trung tâm buôn bán.Khai thác nguồn lợi tự nhiên, bên cạnh sự tồn
tại của săn bắt, hái lượm truyền thống, các hoạt động khai thác lâm thổ sản có
giá trị hàng hóa như măng rừng, nấm rừng, tre, luồng, gỗ, củi được đem ra thị
39
trường tiêu thụ đem lại nguồn thu nhập cho cuộc sống hàng ngày của họ.
Có thể nói, đời sống kinh tế của người Thái Đen hiện nay có nhiều thay
đổi lớn. Sự thay đổi đó được diễn ra theo xu hướng đi lên. Việc sản xuất nương
rẫy giảm, các hình thức sản xuất khác tăng lên, nhất là việc làm ruộng, trồng
ngô và các sản phẩm nông nghiệp khác. Vì thế, đời sống của đồng bào người
40
Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng ổn định và có tính bền vững hơn.
Chương 3
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI THÁI ĐEN Ở HUYỆN KHĂM
TỈNH XIÊNG KHOẢNG NƯỚC CHDCND LÀO
GIAI ĐOẠN 1975 - 2015
“Văn hóa” là một khái niệm mà cho đến nay còn có nhiều cách hiểu khác
nhau:Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội
của mình” [26, tr.17-18]. Tác giả Trần Quốc Vượng định nghĩa“Văn hóa có thể
coi là tổng thể những nét riêng biệt của tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc
quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn
hóa bao gồm: nghệ thuật, văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của
con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng” [28,
tr.23]. Tác giả Lakheun VONGSALY định nghĩa Văn hóa là những giá trị do
con người sáng tạo nên trong qua trình phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Văn hóa là những giá trị truyền thống của một cộng đồng, một dân tộc được
lưu giữ qua nhiều thế hệ [34; tr 10].
Người Thái Đen là một trong 49 dân tộc của Lào có bản sắc văn hóa đặc
trưng riêng biệt của mình. Văn hóa của người Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh
Xiêng Khoảng như một sợi chỉ nhỏ góp vào dệt nên tấm thảm văn hóa Lào hài
hòa và sinh động.
3.1. Văn hóa vật chất
Văn hóa vật chất là các giá trị văn hóa tồn tại một cách hữu hình mà con
người có thể nhận biết một cách cảm tính, trực tiếp qua các giác quan có giá trị
văn hóa, lịch sử, khoa học, được cộng đồng dân tộc, nhân loại thừa nhận.Đó là
một bộ phận của văn hóa nhân loại, thể hiện đời sống tinh thần của con
người dưới hình thức vật chất; là kết quả của hoạt động sáng tạo, biến
những vật và chất liệu trong thiên nhiên thành những sản phẩm có giá trị sử
41
dụng và giá trị thẩm mĩ, nhằm phục vụ cuộc sống con người.
3.1.1. Nhà ở
Mặc dù cùng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, nhưng mỗi dân tộc lại có
kiểu nhà khác nhau. Ngôi nhà truyền thống của người Thái Đen ở Lào nói
chung, ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng nói riêng, và nhiều dân tộc thiểu số
khác ở Lào đều là nhà sàn. Nhà sàn của người Thái Đen là biểu tượng của sự
hài hòa giữa đất trời và thiên nhiên. Những ngôi nhà sàn của người dân tộc
Thái Đen thường nằm nép mình bên sườn núi tạo hình ảnh đẹp của núi rừng
miền Bắc nước Lào. Ở mỗi ngôi nhà, từ kiến trúc cho đến các đồ vật đều thể
hiện tính triết lý nhân sinh của đồng bào dân tộc. Việc chọn đất đai làm nhà của
người Thái Đen ở huyện Khăm rẩt cầu kì và được xem là một việc rất quan
trọng. Bởi ngôi nhà không chỉ đơn thuần là một yếu tố vật chất trong đời sống
của mỗi gia đình, mà nó còn là yếu tố tinh thần. Với người Thái Đen, nhà là
một vật thể linh thiêng. Nhà sàn truyền thống của ngườiThái Đen mang một nét
đẹp riêng biệt, đơn giản nhưng trang nhã. Ngôi nhà được làm bằng các loại cây
thân gỗ và các loại cây khác như: tre, vầu, nứa... và được lợp bằng cỏ gianh
(nhả kha) hay lá cọ. Thay vì đóng đinh thì giữa các mấu nối được buộc bằng
dây chằng, thắt nút khá công phu và tinh xảo. Dây buộc là giang, mây hoặc vỏ
những cây chuyên dùng như năng hu, năng xa.Khi làm nhà để nối các cột kèo,
người Lào thường lắp mộng còn nhà sàn người Thái Đen sử dụng những đòn
dầm xuyên suốt qua các cột. Vì vậy, kiến trúc nhà sàn của người Thái Đen nhìn
đơn giản nhưng chắc chắn. Nhà của người Thái Đencó mái giống hình con rùa.
Phía trên mái nhà có Khau Cút là 2 thanh tre để chéo nhau.Người Thái Đen lấy
kiểu dáng và chất liệu làm nhà là tre hay gỗ làm căn cứ vào để phân biệt các
tầng lớp trong xã hội.
Với người Thái Đen, ngôi nhà là sự giao hòa giữa trời đất và thiên nhiên
nên các gian nhà và cầu thang luôn mang số lẻ 3, 5, 7 và 9. Mỗi ngôi nhà
thường có 2 cầu thang.Cầu thang ở cuối nhà và cầu thang phía trước. Trong
ngôi nhà có nhiều chi tiết tượng trưng cho tín ngưỡng phồn thực, đặc biệt là cây
42
cột lan can của cầu thang. Cây cột này có ý nghĩa vô cùng quan trọng với nữ
giới.Khi một cô gái trong gia đình chưa có chồng hoặc lấy chồng rồi mà chưa
có con th́ ì cô ấy sẽ sờ vào cây cột này để mong lấy được chồng và có những
đứa con khỏe mạnh. Bởi theo quan niệm của người Thái Đen, cây cột này là thể
hiện giới tính của người đàn ông. Số bậc cầu thang luôn là số lẻ tượng trưng
cho sự may mắn và tránh được tà ma..
Trong một ngôi nhà, mỗi gian nhà được bố trí và có vai trò rất rõ ràng.
Trong đó, quan trọng nhất là nơi đặt ban thờ. Trong gian này chỉ có nam giới
mới được ngủ lại.Còn người phụ nữ (nhất là người con dâu) khi đi qua gian nhà
này phải cúi người xuống.Với người Thái Đen đó là gian nhà linh thiêng.
Không gian phía trên ngôi nhà dành cho cha mẹ và con trai, còn con gái hay
con dâu thì ở phía cuối ngôi nhà. Cửa sổ thường là đặt ngay gần chỗ ngủ của cô
gái. Chỗ đó làm sao để người ngoài dễ dàng nhìn thấy.Với người Thái Đen, cửa
sổ của ngôi nhà chính là đôi mắt nên lúc nào cũng phải thông thoáng, không
che khuất. Chính vì vậy, khi đến chơi nhà người Thái Đen, khách chớ quay
lưng lại với cửa sổ. Có tác giả đã nhận định rằng: Dù cuộc sống đổi thay thì
người Thái Đen ở Bắc Lào vẫn ăn cơm nếp, chấm chéo, mặc áo cóm và ở nhà
sàn. Bởi nhà sàn là linh hồn, là biểu tượng muôn đời của dân tộc Thái Đen ở
Bắc Lào [18].
Người Thái Đen rất chú trọng đến không gian dành cho việc dệt vải.
Ngày xưa con gái mà không biết dệt vải thì không lấy được chồng vì những của
hồi môn của người Thái Đen ngày xưa do chính bàn tay các cô gái làm ra như:
gối, chăn, đệm. Những thứ đó không chỉ dành cho đôi vợ chồng mà còn để
mang về tặng cho nhà trai như: bố mẹ chồng, ông bà mối, những người bề trên.
Đặc biệt chăn, gối làm với số lượng nhiều còn là để chia cho nhà trai. Chính vì
vậy không gian dệt trong ngôi nhà được người ta rất xem trọng. Gia đình người
Thái Đen nào có con gái thì nhất định phải có khung dệt. Nếu không có khung
dệt thì sẽ bị đánh giá rằng con gái gia đình đó lười, không biết làm gì.Mà lười
thì sẽ bị xã hội chê cười nhưng quan trọng hơn cả là sẽ không có gia đình nào
43
muốn cưới cô gái ấy về làm dâu.
Nhà sàn truyền thống của người Thái Đen có 2 bếp lửa. Bếp lửa chính
thường đặt ở giữa ngôi nhà và dùng để tiếp khách. Bên ánh lửa bập bùng, cả chủ
và khách ngồi quây quần, chia sẻ những câu chuyện về cuộc sống để làm cho
mối quan hệ thêm khăng khít, gần nhau hơn. Còn bếp lửa phía cuối nhà dùng
vào việc nấu nướng, sinh hoạt hàng ngày. Theo Ông Bun Mi, người cao tuổi bản
Xam thì: Đến một gia đình người Thái Đen, chỉ cần nhìn vào bếp lửa là biết
được văn hóa, ứng xử của các thành viên trong gia đình: “Khi nhìn vào bếp lửa
là biết ngay gia đình như thế nào, vai vế ra sao vì cái bếp là linh hồn của ngôi
nhà. Người Thái Đen sợ nhất là ngôi nhà không có ai nhóm bếp. Điều đó nói lên
rằng: đó là ngôi nhà không hạnh phúc. Bếp lửa còn là nơi sưởi ấm, tâm tình của
các chàng trai, cô gái khi họ quen thân nhau rồi.Bếp lửa còn là nơi gia đình quây
quần. Trên bếp có gác bếp là Xạ và Thàn. Xạ là phía dưới, là nơi họ để những gì
thường xuyên sử dụng như mắm muối, nồi niêu, vật dụng đan lát. Còn Thàn là
phía trên, là nơi để những gì ít sử dụng như dây mây dùng dần, mẹt, cót…”.
Nhà sàn của người Thái Đen ở huyện Khăm hiện nay cũng đã có nhiều
thay đổi. Để đảm bảo vệ sinh, đa phần người Thái Đen không còn buộc trâu, bò
ở dưới gầm sàn. Mà chuồng gia súc đã được làm riêng.Quá trình đô thị hóa
đang diễn ra nhanh chóng đã đẩy lùi kiến trúc nhà sàn truyền thống. Những
năm gần đây, việc sử dụng vật liệu vào việc làm nhà sàn có nhiều thay đổi.Vật
liệu làm nhà chính vẫn là gỗ nhưng mái lợp bằng tôn, ngói, prô.
Đặc biệt, cùng với quá trình đô thị hóa, hiện nay nhiều ngôi nhà truyền
thống ở huyện Khăm với mái ngói, mái gianh hình mu rùa không còn nữa.Mà
thay vào đó là những ngôi nhà cao tầng mái bằng hiện đại xây dựng bằng bê
tông cốt thép.Xu thế ngói hóa biến đổi từ mái khum thành mái phẳng, kiều
dáng vẫn là nhà sàn truyền thống nhưng kết cấu đã thay đổi nhiều.Cầu thang
lên xuống bằng gỗ được thay bằng cầu thang bê tông chắc chắn.Cuộc sống
trong thời đại mới, đặc biệt là những vùng hẻo lánh, xa xôi như tỉnh Xiêng
44
Khoảng đã có nhiều thay đổi.Rất nhiều gia đình người Thái Đen đã bỏ kiểu nhà
sàn truyền thống của dân tộc mình và chuyển sang ở nhà kiểu hiện đại gọi là
nhà tầng. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, cả huyện Khăm hiện tại ở các bản
có người Thái Đen sinh sống có khoảng 45 ngôi nhà sàn.
3.1.2. Trang phục
Trang phục có thể coi là “Thứ ngôn ngữ biết nói” để chúng ta cảm nhận
và so sánh được sự khác biệt giữa các nhóm người với nhau trong một cộng
đồng. Cái bản sắc riêng ấy thường dễ nhận thấy, dễ phân biệt chính là ở bộ
trang phục, nhất là trang phục của phụ nữ.Cùng là dân tộc Thái, nhưng trang
phục Thái Đen và Thái Trắng có những nét khác nhau rất rõ ràng. Điều đó
được thể hiện qua những tìm hiểu về bộ trang phục truyền thống của người
Thái Đen dưới đây:
Áo: Cách ăn mặc truyền thống của phụ nữ Thái Đen ở huyện Khăm là
mặc áo “Khóm”. Đặc điểm của áo khóm thường là màu đen, ngắn. Chiếc áo có
cấu tạo gồm 3 tà: 1 tà phía sau và 2 tà phía trước được may lại với nhau. Áo có
2 kiểu dựa vào kiểu cổ áo. Đó là: áo cổ tròn nhỏ và áo cổ hình trái tim mở dài
xuống trước ngực rất mềm mài, duyên dáng. Cổ áo của phụ nữ Thái Đen được
trang trí những sợi chỉ màu đỏ, vàng, xanh, trắng.Thân áo bó sát người.Tay áo
hẹp, từ nách khâu hẹp dần xuống. Ở 2 đầu ống tay thường được chắp thêm
mảnh vải. Sự phối hợp màu sắc làm nổi bật những họa tiết trên nền vải đen làm
cho chiếc áo phụ nữ Thái Đen không thô cứng mà trở nên mềm mại, hài hòa,
sinh động.Áo có 5 khuy.
Váy: Người Thái Đen huyện Khăm gọi chiếc váy là “Sỉn”. Váy của phụ
nữ Thái Đen thường là màu đen. Độ dài tùy thuộc vào chiều cao của người
mặc, thường là đến mắt cá chân. Váy được cấu tạo gồm 3 phần: đầu váy, thân
váy (được trang trí hoa văn nhiều màu sắc, nhất là màu đen). Cuối cùng là chân
váy (thường là màu trắng, hồng).Thắt lưng của phụ nữ Thái Đen làm bằng vải
hoặc làm bằng bạc.
Khăn đội đầu: Người Thái Đen gọi chiếc khăn đội đầu là “Khăn piêu”.
45
Khăn là một mảnh vải to, dệt thô, được nhuộm màu đen. Khăn dài nhưng khi
đội chỉ có một đầu khăn vắt trên đỉnh đầu rũ xuống trán, còn đầu kia thả xuống
sau gáy. Khăn piêu được các cô gái Thái Đen dệt ra vừa để dùng vừa để tặng
bạn làm kỉ niệm; tặng cha mẹ, cô bác, anh chị em bên chồng trong ngày cưới
với một sự tự hào và khoe khéo về tài “nữ công gia chánh” của mình. Bố mẹ
chồng cũng lấy đó là niềm tự hào với bản mường khi chọn được dâu thảo khéo
tay hay làm.
Đồ trang sức: Trong dịp lễ hội, ngoài váy, áo và khăn piêu, các cô gái
Thái Đen còn làm đẹp cho mình bằng những đồ trang sức làm bằng bạc hoặc
vàng như vòng cổ, vòng tay, vòng tai, làm tăng thêm nét duyên dáng của người
phụ nữ Thái Đen.Ngược lại với trang phục nữ, trang phục nam của người Thái
Đen rất đơn giản, không cầu kì: quần cắt theo kiểu chân què có cạp để thắt
lưng, thường là màu đen và màu nâu; áo được cắt theo kiểu áo cánh xẻ ngực, có
túi ở hai bên gấu, vạt cài khuy tết dây vải.
Ngày nay, xu hướng Lào hóa trong đời sống các dân tộc thiểu số trở nên
phổ biến và dân tộc Thái Đen ở huyện Khăm cũng không ngoại lệ. Nhiều thiếu
nữ không còn thấy mặc trang phục truyền thống nữa, mà thay vào đó là váy
theo kiểu người Lào và kiểu phương Tây: quần Jean, áo phông, áo sơ mi…
Trang phục truyền thống chỉ thấy xuất hiện trong các ngày lễ hội [24, tr.25].
Có thể nói, hầu hết trang phục của người phụ nữ Thái Đen ở huyện
Khăm đều có sự biến đổi. Một số gia đình không cần phải tự dệt vải để may
trang phục nữa. Thay vào đó, họ có thể mua ở chợ với rất nhiều chủng loại và
với nhiều màu sắc khác nhau.Họ có nhiều lựa chọn hơn trong việc chuẩn bị
may quần áo. Trang phục họ mặc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, trong lao
động sản xuất đều được làm bằng các vải sợi công nghiệp. Thậm chí, họ c ̣òn sử
dụng những bộ quần áo may sẵn được bán khá phổ biến ở chợ, nhất là với tầng
lớp thanh thiếu niên. Tuy nhiên, trang phục mặc trong các dịp cưới xin, tang ma
và lễ hội của phụ nữ Thái Đenvẫn là loại trang phục truyền thống.
Cũng theo xu hướng hiện đại hóa, không chỉ trang phục thay đổi mà
46
ngay cả các hoa văn trang trí trên trang phục cũng có sự biến đổi theo xu hướng
đơn giản hóa các mô típ hoa văn trang trí. Quần áo truyền thống được cắt may
từ vải sợi bông nhuộm chàm được thay thế bằng quần âu và áo sơ mi may sẵn
hoặc thuê thợ người Lào cắt may. Sự biến đổi này trước hết là do sự ảnh hưởng
của kinh tế.Trong quá trình phát triển, trang phục của phụ nữ Thái Đen đã có
nhiều biến đổi và thời gian gần đây càng thay đổi mạnh mẽ theo xu thế ảnh
hưởng của trang phục người Lào. Đây là một xu thế tất yếu khi hệ thống đường
giao thông được mở rộng, tạo điều kiện cho trao đổi, giao lưu và buôn bán hàng
hóa giữa các vùng miền phát triển.Quá trình sống xen kẽ giữa dân tộc Thái Đen
với các dân tộc khác cùng với sự phát triển của kinh tế vùng làm cho mức sống
của các hộ gia đình cũng ngày càng được cải thiện càng làm cho quá trình biến
đổi trang phục nữ diễn ra nhanh chóng. Nếu như trước đây người phụ nữ luôn
phải “nỗ lực” bên các khung cửi dệt vải nhằm đáp ứng nhu cầu mặc của các
thành viên trong gia đình thì ngày nay họ đã được giải phóng sức lao động đó
để dành thời gian chăm lo cho con cái, gia đình và các hoạt động sản xuất khác
nhiều hơn.
Thứ hai, là do ảnh hưởng của văn hóa mới, đặc biệt là văn hóa người
Lào. Do quá trình giao lưu văn hóa với người Lào, trong bối cảnh trang phục
của người Lào đang phát triển theo con đường Âu hóa mạnh. Trang phục nữ
dân tộc Thái Đen cũng bắt đầu có hiện tượng Âu hóa, thể hiện qua việc: bỏ hẳn
áo khó, thay thế bằng áo sơ mi đang diễn ra khá mạnh mẽ và phổ biến, nhất là
các trung tâm thị trấn, thành phố. Do tiếp nhận kiểu trang phục của người Lào,
áo khóm cũng được cải tiến. Các kỹ thuật cắt khâu vẫn được giữ nguyên song
chất liệu vải đã khác. Sử dụng nhiều loại vải khác nhau, nhiều sắc màu hoa văn.
Chủ yếu được may bằng vải hoa, lụa công nghiệp. Váy thường được may bằng
vải lụa, nhung thay bằng vải thổ cẩm như trước kia.
Thứ ba là do ảnh hưởng của quá trình phát triển của kinh tế thị trường
và toàn cầu hóa, nghề dệt truyền thống của dân tộc Thái Đen đã dần bị mai
một. Trước đây, những bộ trang phục truyền thống đòi hỏi người ta phải chế tác
47
từ loại vải dệt thủ công với một loạt công việc của: trồng bông, xe sợi, dệt may,
thêu thùa rất tốn thời gian và công sức. Những năm gần đây, cùng với sự cạnh
tranh gay gắt của loại vải công nghiệp đa màu sắc mà giá thành lại rẻ đã khiến
cho nhiều khung dệt ngày càng “lạnh lẽo” trong các gia đình ngườiThái Đen
[20, tr.5-7].
3.1.3. Ẩm thực
Nông sản chính của người Thái Đen ở huyện Khăm tỉnh Xiêng Khoảng
là gạo nếp và gạo tẻ. Gạo nếp là loại gạo được dùng chủ yếu trong bữa ăn hàng
ngày. Trong một bữa cơm đều có từ 2-3 ép cơm nếp đặt trong mâm cơm. Ngoài
ra, gạo nếp còn được dùng trong những dịp tế lễ, ngày hội, tiếp khách; được
chế biến thành nhiều loại món ăn như: bánh, xôi, nấu rượu. Bên cạnh gạo nếp,
còn có những lương thực phụ khác gồm: ngô, khoai, gạo tẻ. Gạo tẻ ngày nay đã
có vai trò chủ đạo trong bữa cơm của người Thái Đen ở huyện Khăm. Dụng cụ
dùng nấu nướng và ăn uống của người Thái Đen ở huyện Khăm rất phong phú
gồm: huột là cái chõ, hông dùng để đựng gạo. Huột được đặt lên cái một nồi
gọi là mỏ nựng (là cái nồi dùng để đồ xôi, đun nước uống); mỏ keng (là cái nồi
để nấu canh); mó kháng (là cái chảo dùng để rán, rang, chiên)… Người Thái
Đen thường ăn món ăn có gia vị mặn, chua và cay. Có thể điểm qua một vài
món ăn đặc biệt dưới đây:
Mốc Pà: Đây là một món ăn được chế biến từ cá. Với người Thái Đen
nói chung, cư dân dân tộc Thái Đen ở huyện Khăm nói riêng hầu như sống tập
trung ở các vùng có suối hoặc sông đi qua. Vì vậy, việc chài lưới, xúc vượt,
bắt cá của họ trở nên thông thạo đối với cả đàn ông và đàn bà. Bắt được cá về
nhà, người ta làm sạch, chặt khúc trộn với các gia vị như: muối, mỳ chính, bột
gạo (khạu bưa là gạo nếp ngâm nước cho mềm rồi đem giã). Sau đó buộc túm
lá chuối, bỏ vào chõ hấp cho đến chín hoặc bắc lên ninh đồng nhóm lửa đồ
như đồ xôi. Đồ một thời gian xong, cá chín mềm. Cá chín bằng hơi (khác với
hấp cách thủy) nên vị thơm ngon của mốc pả khác hằn. Mốc pả ăn với cơm
48
nếp rất ngon.
Cơm lam (khạu lảm):Đây là món ăn đặc trưng của nhóm người Lào-
Thái nói chung. Và cũng là món ăn đặc trưng của người Thái Đen nói riêng.
Dụng cụ chính mà người Thái Đen ở huyện Khăm dùng để làm là ống nứa và
ống trùng.Sở dĩ chọn những loại cây này vì chúng có lóng (lạng) dài. Nhưng
phải là nứa và trùng còn non. Vì có còn non mới còn vị ngọt và còn hương
thơm vốn có của chúng. Lấy được nứa hoặc trùng ở rừng về phải chặt ngay ra
từng ống. Mỗi ống chỉ để lại một bên mắt, dùng nước súc sạch rồi cho gạo đã
ngâm mềm vào. Lấy lá chuối nút thật chặt rồi đặt vào bếp lửa nóng.Nướng
phần miệng ống trước. Khi phần cơm phía miệng ống chín mới chuyển xuống
nướng tiếp những phần dưới. Trước khi nướng phần đáy ống, dùng que nhọn
chọc thủng mắt đáy cho nước còn sót lại chảy hết ra ngoài để cơm lam khi chín
không bị ướt. Khi làm phải luôn tay xoay tròn ống nứa vào sát ngọn lửa, sao
cho ống nứa không bị cháy mà chỉ rám phần vỏ cứng bên ngoài. Dùng ngón tay
ấn mạnh, nếu thấy có độ mềm là gạo đoạn ấy đã chín. Cứ làm như vậy cho đến
khi cơm trong ống chín đều. Khi cơm lam chín rồi thì gác lên nơi sạch sẽ cho
cơm nguội. Khi nguội, dùng dao sắc róc phần cật nứa bị cháy sém. Phải cẩn
thận không cho dao chạm vào cơm để giữ cho cơm sạch sẽ và giữ được vẻ đẹp
của ống cơm.Róc cật xong, dùng dao cắt ngang ống cơm chia thành nhiều lát
có độ dày mỏng tùy ý. Lấy lá chuối hơ quan ngọn lửa cho mềm.Đặt vào 2 mặt
lát cơm, dùng kéo cắt lát thành hình tròn bằng lát cơm.Các lát cơm được bày
bằng nếp cẩm màu tím trông thật vui mắt. Từ đĩa cơm lam tỏa ra mùi thơm của
nếp, hương thơm của nứa non được nướng qua lửa, ăn vào miệng có vị bùi,
ngọt rất ngon. Món cơm lam của người Thái Đen thường gặp trong dịp tết, hoặc
vào mùa thu hoạch gạo nếp trong năm.
Thịt chua (tạ nột): Tạ nột là món ăn vừa quý vừa hiếm. Ngày xưa,
trong gia đình người Thái Đen nào cũng đều có chum tạ nột. Tạ nột được làm
từ thịt như: thịt trâu, bò, lợn. Người Thái Đen huyện Khăm cho rằng: làm tạ nột
49
phải là thịt thú rừng. Có thể là thịt nai, hoẵng, lợn rừng, chuột và chim. Thịt thú
rừng nhiều nạc, ăn ngọt và thơm. Thế mới biết để có được hũ thịt chua dự trữ
trong năm đâu phải là dễ. Cách chế biến tạ nột rất đơn giản nhưng có thể giữ để
ăn được khoảng từ 2- 3 năm. Cách làm thịt chua thực ra không có gì khó.Chỉ
cần tỉ mỉ và kiên nhẫn. Trước hết là chọn loại thịt tươi ngon, nhiều nạc hoặc
xương kèm thịt. Sau đó đem ướp với muối rồi bỏ vào chum đậy kín, 3 tháng
sau vớt ra trộn thính tiếp rồi lại bỏ vào chum càng lâu càng ngon và thơm.
Người Thái Đen dùng tạ nột để nấu canh.
Nộm rau luộc (xúp phắc): là món ăn phổ biến trong mâm cơm của gia
đình người Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng. Rau mà người Thái
Đen dùng để làm nộm gồm có nhiều loại như: rau bí, rau má, mùi tàu, rau lang,
rau sắn, cà… Cách chế biến không cầu kì, trước hết phải nhặt rau rửa sạch
sẽ.Đun nước đến khi nước xôi thì cho các loại rau vào luộc chín. Khi rau chín,
vớt rau ra đĩa to. Tiếp theo lấy ớt, riềng, gừng, tỏi, hành khô rang cho khô thơm
rồi cho tất cả vào cối giã thật kì. Trộn rau luộc với các gia vị đã kể trên. Cho mì
chính, nước mắm, muối, vừng vào rồi trộn tất cả với nhau. Cuối cùng là cho rau
mùi, hành lá vào trộn đều là được.
Canh măng chua (kengNò sộm): Món canh măng chua là một món ăn
thường gặp trong bữa cơm của người Thái Đen huyện Khăm, tỉnh Xiêng
Khoảng. Nguyên liệu chủ yếu là măng chua và các loại xương kèm thịt như:
xương trâu, xương bò, xương lợn, thịt gà, cá, thịt vịt…Cách nấu: Trước hết lấy
măng chua từ chum ra rửa sạch sẽ, rồi cho vào nồi luộc để giảm vị chua. Tiếp
theo, lấy ớt giã, xả cho vào nồi và đun đến khi nước xôi thì cho xương vào
ninh. Đến khi xương chín nhừ thì cho măng chua, nước mắm, mì chính
vào.Cuối cùng là cho Pắc Nang Tù (rau húng) và lá hành.Canh măng chua
thường ăn khi còn nóng với cơm nếp là ngon tuyệt.
Đồ chấm (chèo, nước chấm):Chèo hoặc nước chấm là một loại thức ăn
không thể thiếu được trong mâm cơm của người Thái Đen.Cách làm cũng rất
50
đơn giản. Chỉ cần lấy bột ớt hoặc ớt tươi nướng giã với hành củ rồi trộn thêm
mì chính, nước mắm hoặc mắm tôm.Chéo hoặc nước chấm thường ăn với rau
luộc, măng luộc, thịt nướng.Đồ chấm trong bữa ăn của người Thái Đen có
nhiều loại như: Chèo Pả Đẹc (nước chấm trộn với Pả Đẹc), Chèo Boong, Chèo
Pả, Chèo Mắc Thùa Nầu. Trong đó, Chèo Mắc Thùa Nầu là nổi tiếng nhất và
cũng là đặc sản của người Thái Đen.
Ngoài những loại món ăn đã kể trên đây, trong bữa ăn của người Thái
Đen còn có nhiều loại món ăn khác như: thịt nướng, thịt khô, cá khô, canh
măng đắng, lạp, canh Khỉ Lếc, Òm Bon, Kọi Pả (gỏi cá)…
Rượu cần (Lẩu Háy): Đây là một đặc sản của dân tộc Lào- Thái nói
chung và của đồng bào ngườiThái Đen nói riêng. Người Thái Đen gọi rượu cần
là Lẩu Háy. Để làm ra rượu cần, người Thái Đen dùng gạo nếp hoặc ngô. Men
rượu làm bằng gạo xay nhỏ pha với một số dược liệu. Gạo hoặc ngô đem nấu
thành xôi phơi cho nguội rồi trộn men vào đem ủ kín từ 2-3 ngày. Khi đã lên
men, người ta trộn thêm trấu đã rửa sạch sẽ (1 kg gạo với 1 kg trấu). Lý do trộn
trấu là để khi uống không bị tắc cần và có tác dụng lọc nước. Tất cả được cho
vào vò hoặc chum nén thật chặt, trên miệng đậy lá chuối khô rồi bịt kín miệng
chum hoặc vò lại.Sau 4-5 ngày là có thể uống được. Tuy nhiên, rượu cần để càng
lâu càng ngon. Gọi là rượu cần vì người uống dùng cần để uống không dung
chén. Cần rượu làm bằng cây trúc nhỏ. Chiếc cần được thông các vách ngăn giữa
các ống, sau đó người ta hơ trên lửa tạo thế cần và làm cho cần dẻo không bị gãy
khi dùng. Số lượng cần cắm ở chum bao giờ cũng phải là số chẵn. Khi vào cuộc,
chủ nhà chuẩn bị một chậu nước sạch, gáo múc nước, một chiếc sừng trâu.Thời
gian uống đo bằng lượng nước trong sừng chảy hết thông qua một lỗ nhỏ ở điểm
ngay đáy của sừng trâu cho một đợt uống. Trước khi uống rượu cần, chủ nhà
phải mời các linh hồn tổ tiên về uống trước: “Chúng con có vò rượu nhỏ, có bạn
bè anh em đến chơi mà chả dám uống trước. Chúng con mời ông bà tổ tiên đến
uống và phù hộ cho chúng con sức khỏe, làm ăn gặp nhiều may mắn, dễ ăn, dễ ở.
51
Chúng con xin cảm ơn”. Sau đó họ mới được uống.
Để có một chĩnh rượu cần thơm ngon phải trải qua rất nhiều công đoạn
và việc chế biến cũng hết sức cầu kì, cẩn thận. Trước hết là làm men: Để làm
được một cái men có khi phải tốn hết cả gánh cây, củ, cỏ, lá, quả…Tuy là cây
cỏ trong rừng nhưng mỗi khu rừng chỉ có một vài thứ. Vì thế, để có đủ nguyên
liệu làm men dùng cho cả năm, những người phụ nữ khi đi rừng hễ thấy cây cỏ
nào làm được men thì phải lấy về, rửa sạch, phơi khô rồi cất lên gác bếp để
dành. Men là chất xúc tác, chất kích thích để cho cơm rượu lên men, tạo gia vị
ngọt, cay, đắng, chua.Men để ủ rượu cần gọi là men cỏ. Nguyên liệu làm men
của người Thái Đen gồm các thứ cơ bản sau: bột gạo, củ riềng, lá chua me, là
và rễ ớt. Như vậy, men cỏ lấy bột gạo làm nguyên liệu chính để nắm thành hình
dạng cái men.Chất thuốc men là các loại cây cỏ có vị chua, cay, nóng.
Dụng cụ để làm cơm rượu cũng phải chuẩn bị sẵn như: hông để đồ và
các thứ kèm theo. Sắn khô là nguyện liệu chính để làm cơm rượu.Ngâm trấu
nếp ngoài suối có nước chảy vài ngày cho ngấm nước đều rồi nhấc lên cho trôi
sạch bụi đến khi nào nước trong mới được.Sau khi phơi, trấu cũng đồ chín rồi
đem hong gió cho khô.Tuy không nhiều bằng nguyên liệu ủ men nhưng trấu lại
quyết định chất lượng, nồng độ của rượu.Có những thứ tưởng chừng như không
có ý nghĩa gì như trấu mà lại rất quan trọng. Trấu phải chọn lựa kỹ càng và xử
lí công phu. Tiếp theo công đoạn chế biến men là ủ rượu: Dụng cụ cần thiết
phải chuẩn bị trước để ủ rượu là nong, mẹt, thúng… ; các loại lá để lót và ủ là
lá chuối, lá tai voi… Tất cả những thứ đó đều được đem ra sông, suối, để cọ rửa
thật sạch rồi hong khô. Để ủ được rượu phải có chum, vò. Đây là thứ nguyên
liệu mà người Thái Đen chưa tự túc được. Chum và vò là đồ vật bằng sành, giữ
được nhiệt, điều hòa thời tiết làm cho chất lượng của rượu theo ý muốn của con
người. Tùy theo số lượng tham gia và tính chất của sự kiện mà người Thái Đen
ở đây ủ rượu vào chum, vò to hay nhỏ. Công đoạn cuối cùng là vào rượu: Việc
này là do các mẹ tự tay làm. Trước hết bốc trấu vào lót đáy chum dày khoảng
52
một gang tay; đem trấu trộn với cơm rượu theo tỷ lệ nửa nọ nửa kia rồi bốc vào
chum. Trên cùng lót một lượt trấu ở phần cổ chum; lấy tro bếp nhào với nước
vừa sền sệt để trát miệng chum; lấy lá chuối bịt miệng chum. Khi chum rược đã
được bịt miệng, người ta khiêng vào để ở nơi cố định trong nhà. Rượu cần chủ
yếu được sử dụng trong các dịp lễ hội, ăn tết, đám cưới hỏi, làm nhà mới.Thậm
chí cả trong việc tang ma.
Có thể nói, đời sống vật chất của người Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh
Xiêng Khoảng rất giản dị.Họ sống gần gũi, hòa đồng, thích nghi với tự nhiên.
Đây cũng là đặc điểm chung của cư dân nông nghiệp lúa nước. Tuy nhiên,
người Thái Đen ở đây cũng mang những sắc thái riêng khác với các dân tộc
khác. Chính điều này đã làm nên những giá trị riêng của người Thái Đen.
Ngày nay, cuộc sống vật chất của người Thái Đen ở huyện Khăm đã có
nhiều thay đổi. Nhiều gia đình đã có những tiện nghi hiện đại phục vụ cuộc
sống như: tivi, radio, xe máy, ô tô… Đây là một dấu hiệu đáng mừng, tạo điều
kiện cho người Thái Đen ở đây hòa mình vào sự phát triển chung của quốc gia,
của dân tộc [24, tr.31-33].
3.2. Văn hóa tinh thần
3.2.1. Ngôn ngữ , giáo dục
Về ngôn ngữ: Ngôn ngữ của ngườiThái Đen nằm trong ngành riêng của
nhóm ngôn ngữ Lào - Thái. Ngôn ngữ của dân tộc Thái Đen được thể hiện dưới
2 hình thức: tiếng nói và chữ viết. Chữ viết của người Thái Đen là chữ cổ, gốc
Ấn Độ, tự dạng Sanskrit ở Đông Nam Á. Có nguồn gốc trực tếp từ chữ Khơ
me. Người Thái Đen đã vay mượn và cải biến chữ Khơ me để tạo ra chữ Thái
Đen khoảng thế kỷ thứ IX sau Công nguyên. Nhìn chung hiện nay, người Thái
Đen huyện Khăm có số người biết chữ của dân tộc mình ngày càng ít, nhưng
tiếng nóithì vẫn tồn tại trong cộng đồng người Thái Đen cho đến nay [27].
Người Thái Đen ở huyện Khăm không bảo tồn và phát huy được chữ viết
của mình. Một số người biết đọc nhưng không biết viết. Riêng tiếng nói hiện
53
nay vẫn giữ được và có phần gần với ngôn ngữ nói tiếng Lào. Để hiểu rõ hơn
về vấn đề này, tác giả sẽ đưa ra một số từ trong ngôn ngữ nói của dân tộc Thái
Đen để so sánh với tiếng Lào và tiếng Việt Nam như sau:
Bảng 3.1. Bảng so sánh giữa ngôn ngữ nói của dân tộc Thái Đenvới tiếng
Lào và tiếng Việt
STT Thái Đen Lào Việt
phả khiên húa khăn đội đầu 1 phả piêu
2 suộng sộng quần
3 Múa muộc mũ
4 Hai cợp giầy
5 thốngkhaling thống pệ ba lô
6 cặn chọng khănhôm cái ô
7 sặc chở hua si khay củ xả
8 mạ ướt mẳcphết quả ớt
9 hóm pẹn hómpọm rau mùi
10. hết ta nùn hết hún nú mộc nhĩ
11 mạc sáng sạ mạc lăm nhay quả nhãn
12 Măn hông Măn đạng khoai lang
13 homkịp phẳcthiêm củ tỏi
14 aphúa sá húa gội đầu
15. suồi nạ lạng nạ rửa mặt
16 lảu sá lậu hay rượu cần
17 lảu siêu lậu kháo rượu trắng
18 quẳn đụt dàsụp thuốc lá
19 Sên hết bun làm lễ
20 cởm Giên lạnh
21 mợngua mựvan hôm qua
54
22 mợpụ mư ừn ngày mai
STT Thái Đen Lào Việt
23 mợ vên ó Văn kợt ngày sinh nhật
Pay lặc 24 pay cày đi xa
paymặng 25 payhuồm tham dự
Êm 26 Mè mẹ
Pó 27 Phò bố
aiù 28 phòpù ông nội
29 Ha khọi tôi
Pí 30 Ai anh trai
payều 31 pay lịn đi chơi
ỷ phu 32 phuộchâu chúng ta
33 ơn há mai khọpchay cảm ơn
34 nhù chăm giù kạy ở gần
35 chồmmừng xômxơi hoan nghênh
36 khảoká khảupược thóc
37 pòngtang pòng giệm cửa sổ
38 homphày phắcpheo rau rằm
39 nò hiều măng khô nò mạy hẹng
đồ chấm 40 Nhó Chèo
Nguồn: [32,tr.21-25]
Về giáo dục: Trước và sau năm 1975, hệ thống giáo dục của người Thái
Đen hầu như chưa phát triển do nhiều nguyên nhân. Trong đó có thể nói hệ
thống giao thông đi lại khó khăn; mạng lưới trường học không kiên cố, chưa ổn
định; thiếu giáo viên, trình độ học vấn của giáo viên còn thấp; nhà nước chưa
có chính sách ưu đãi đối với những người dạy học. Bên cạnh đó là do chính
phong tục tập quán của dân tộc, của gia đình làm cho số lượng người Thái Đen
55
đi học còn ít, tỷ lệ người mù chữ trước đây rất cao.
Vào thời kỳ đối mới (từ năm 1986 đến nay), hệ thống giáo dục được cải
thiện, trình độ học vấn của giáo viên được nâng cao, hệ thống trường học được
mở rộng, nhà nước có chính sách bắt buộc mọi người dân phải học, làm cho
đồng bào người Thái Đencó cơ hội đi học tại các trường THPT, trường Cao
đẳng và trường Đại học trong và ngoài nước. Từ đó trình độ học vấn, trình độ
dân trí của đồng bào người Thái Đen được nâng cao, góp phần hết sức quan
trọng vào việc đánh dấu sự thay đổi cuộc sống của dân cư ở nơi đây.
3.2.2. Tín ngưỡng dân gian
Tín ngưỡng dân gian là một bộ phận cấu thành nên Văn hóa dân gian.Nó
được hình thành cùng với sự hình thành và phát triển của lịch sử một tộc người.
Có sức sống dai dẳng và mãnh liệt. Tín ngường dân gian là yếu tố quan trọng
cấu thành văn hóa dân tộc. Ngày xưa, người Thái Đencho rằng: mọi hoạt động
đời sống hàng ngày của họ là do các lực lượng siêu nhiên chi phối. Lực lượng
siêu nhiên này được gọi là phí (ma).
Quan niệm về hồn và loại ma:Người Thái Đencó quan niệm rằng: Con
người sống và hoạt động được là nhờ hồn và vía. Người Thái Đengọi hồn là
khoẳn. Theo họ, hồn của con người ngự trị trên cơ thể, có chức năng và nhiệm
vụ riêng. Linh hồn chính của con người là ở trên đầu. Vì vậy, người Thái
Đenkiêng xoa đầu hoặc vỗ vào đầu vì sợ linh hồn sẽ sợ mà bỏ đi (khoẳn ní),
làm cho con người bị ốm. Họ cũng cho rằng: linh hồn của con người có đặc
tính yếu đuối, nên khi gặp điều gì đáng sợ hay bị giật mình thì con người rất dễ
bị “xỉa khoẳn” (mất linh hồn) và bị ốm. Cũng theo họ, linh hồn cũng có một
đặc điểm nữa là rất thích rời khỏi thể xác đi lang thang, bay bổng để du ngoạn,
nhất là linh hồn trẻ em. Vì vậy, phải làm lễ gọi hồn. Để bảo vệ hồn cho trẻ em,
người ta thường đeo vòng cổ, vòng tay có gắn bạc để kị ma. Đối với người lớn
cũng phải tổ chức lễ gọi hồn. Cũng theo quan niệm của Người Thái Đen, linh
56
hồn có vai trò rất quan trọng. Nó chỉ tồn tại ở người còn sống, người khỏe
mạnh. Khi con người chết thì linh hồn sẽ biến thành ma. Người Thái Đengọi
ma là phí.
Ma hoặc phí là một khái niệm rất rộng chỉ tất cả các thế lực ma quỉ, thần
thánh có ở cả 3 cõi: trên trời, dưới đất và dưới âm phủ. Theo tín ngưỡng của
người Thái Đen, có nhiều ma như: ma đất (phí đin), ma núi (phí phủ), ma rừng
(phí pả), ma thuồng luồng (phí ngược hoặc phí xựa nặm)…
Người Thái Đencho rằng: có 2 loại ma, là ma lành và ma dữ. Ma lành
gồm có: ma nhà (ma tổ tiên, là những người trong gia đình đã qua đời như: bố
mẹ, ông bà…), ma trời, ma đất. Ma lành thường được thờ trong gia đình, ở làng
bản. Ma lành không làm hại cho con người mà thường phù hộ cho con người
khỏe mạnh, gia súc gia cầm đầy đàn, mùa màng bội thu. Nhưng nếu con cháu
bất kính với tổ tiên cũng bị ma nhà trừng phạt làm cho ốm đau, bệnh tật. Các
loại ma dữ gồm: ma rừng; ma sấm sét; ma thuồng luồng, yêu tinh; những người
chết bất đắc kỳ tử (chết trẻ, chết đâm…), chết bất thường (cụt đầu, chết do tự
vẫn…). Loại ma này thường quay lại làm hại cho con người. Vì vậy, nếu gia
đình nào có người ốm đau lâu chưa khỏi, người Thái Đenthường đi xem bói.
Nếu biết loại ma nào làm hại thì phải mời Phó Mó về cúng bái, xua đuổi tà ma.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:Người Thái Đencó quan niệm rằng: Con
người khi qua đời vẫn có thể tiếp tục phù hộ, tạo phúc và giải trừ họan nạn cho
con cháu. Song nếu có điều gì làm người đã chết phật ý thì họ có thể gieo họa hạn
cho con cháu như: làm gia súc chết, người ốm đau... Lúc đó, con cháu phải làm lễ
để tạ ơn hoặc làm lễ giải hạn cầu xin tổ tiên tha thứ.Thờ cúng tổ tiên là một h́ ình
thức thờ cúng quan trọng trong đời sống tâm linh. Người Thái Đencúng giỗ 4 đời:
cha mẹ, ông bà, cụ, kị. Bàn thờ là nơi tổ tiên ngự mỗi khi con cháu mời về hưởng
cỗ trong dịp tết. Bàn thờ tổ tiên được đặt ở vị trí quan trọng trong nhà. Là nơi
57
trang nghiêm nhất. Không được gây ồn ào, không được nằm quay chân vào bàn
thờ.Việc thờ cúng tổ tiên do chủ nhà chịu trách nhiệm. Vào những ngày lễ tết, họ
dâng lên các thực ăn để cầu xin tổ tiên phù hộ cho gia đình trong năm được yên
lành, sung túc. Đồ cúng gồm có rượu, gà luộc, nước uống, các loại hoa màu trắng
và màu vàng. Chủ nhà dâng các đồ lên bàn thờ và rót rượu mời tổ tiên về ngự trên
bàn thờ và thưởng thức cỗ do con cháu dâng cúng.
Thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Thái Đenlà hình thức tín ngưỡng
đặc trưng đã có từ lâu và được duy trì cho đến tận hiện nay. Đây không chỉ là
tín ngường của dân tộc Thái Đenmà nó cũng là tín ngưỡng phổ biến của các
dân tộc ở Lào và Việt Nam. Nó thể hiện tình cảm gắn bó, sự tôn trọng của
người còn sống với những người đã chết.
Tín ngưỡng thờ các vị thần trong nhà:Ngoài việc thờ cúng tổ tiên,
trong gia đình người Thái Đencũng thờ một số vị thần liên quan trực tiếp đến
đời sống sinh hoạt hàng ngày của gia đình. Phổ biến nhất là thần Phạ Phum.
Bàn thờ thờ vị thần này thường đặt ở đằng trước của ngôi nhà. Họ làm một
ngôi nhà nhỏ có một cột để làm bàn thờ thần Phạ Phum. Vị thần này bảo hộ
những thành viên trong gia đình. Vào buổi sáng hàng ngày, người Thái
Đenthường lấy xôi và nước uống dâng lên bàn thờ Phạ Phum. Còn những ngày
rằm, ngày lễ tết người ta lấy thêm các loại đồ khác để dâng lên cúng như: các
loại quả, hoa màu trắng, nước uống, rượu, thuốc lá. Chủ gia đình mời thần Phạ
Phum về bàn thờ và thưởng thức các món đồ đã dâng lên với ý nghĩa cảm ơn vị
thần đó.
Dân tộc Thái Đenngày xưa không theo một tôn giáo nào, song họ lại tin
ở thế giới thần linh và quan niệm sâu sắc về ma. Họ cho rằng: không phải chỉ
có con người mới có linh hồn mà nhiều loại sinh vật khác cũng có sự tồn tại
của linh hồn. Đây là quan niệm tín ngưỡng rất quan trọng trong toàn bộ thế giới
58
quan của người Thái Đen.
Niềm tin của người Thái Đen gần đây về thế giới tâm linh hầu như
không thay đổi nhiều. Họ vẫn tin các loại ma, tin các vị thần và tin vào sức
mạnh của những người hành nghề cúng bái nên vẫn tồn tại các hình thức thờ
cúng và chữa bệnh bằng phương pháp cúng bái. Tuy nhiên, cùng với sự tiến bộ
của xã hội, các hình thức mê tín dị đoan cũng dần bị xóa bỏ. Ngày nay, việc
chữa bệnh bằng phương thức cúng bái hầu như chỉ tồn tại ở vùng sâu vùng xa
của huyện. Hệ thống y tế đã phát triển đến tận các làng bản, kịp thời chữa bệnh
cho bà con trong làng bản. Đồng bào Thái Đen ngày càng tin tưởng hơn vào y
học và khi có bệnh họ thường đến bệnh viện để khám chữa trước tiên. Việc thờ
cúng có phần bị sao nhãng. Họ không còn thờ ma núi, ma rừng và các vị thần
bản mệnh của làng bản.
Hiện nay, do sống cộng cư với các dân tộc khác nhất là dân tộc Lào, làm
cho tín ngường truyền thống của người Thái Đen huyện Khăm, tỉnh Xiêng
Khoảng có những thay đổi. Đặc biệt là việc kết hôn ngoài dân tộc. Người phụ
nữ Thái Đen kết hôn với con trai Lào phải chịu ảnh hưởng từ Phật giáo theo gia
đình của chồng. Trường hợp của chị Khăm Son ở bản Na Thoong là một điển
hình. Năm nay chị Khăm Son 40 tuổi. Chị ấy cho biết: Tôi là người Thái Đen.
Quê tôi ở bản Xiêng Kiều. Tôi đã lập gia đình với một người đàn ông người
Lào bản Na Thoong. Sau đám cưới, được làm dâu ở nhà chồng, do sống lâu với
gia đình của nhà chồng nên tôi đã hiểu hết về phong tục tập quán của người
Lào và biết cuộc sống sinh hoạt của những người đi theo Phật giáo là như thế
nào. Hàng ngày mẹ chồng và tôi thường nấu ăn để dâng cơm ở chùa hoặc đi
“tắc bạt”. Hai năm trước đây, tôi và chồng ra ở riêng nhưng tôi vẫn đi tắc bạt
và dâng cơm tại chùa. Ngoài ra, tôi còn tham dự những lễ hội truyền thống của
những người đi theo Phật giáo như lễ Khảo Phăn Sả, Khảo Pá Đắp Đin, Oóc
Phăn Sả… Trường hợp của chị Khăm Son thể hiện rõ về sự chịu ảnh hưởng về
59
tín ngưỡng của dân tộc Thái Đen ở huyện Khăm trong thời hiện nay.
3.2.3. Phong tục tập quán
Phong tục tập quán là những thói quen, lối sống được hình thành trong
cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội. Phong tục là những tập
quán được hình thành bền vững; được nâng lên thành quy dịnh, quy ước lẽ
sống; được chắt lọc, đúc kết trong cuộc sống mà thành. Phong tục tập quán
được tạo ra thống nhất trong một cộng đồng. Là trung gian hòa giải. Là cán
cân công lý trong quan hệ xã hội truyền thống. Là cơ sở cho việc giáo dục và
rèn luyện con người.Phong tục tập quán là một quá trình xã hội hóa, làm thảo
mãn đời sống tâm linh; hài hòa con người với xã hội, con người với tự nhiên;
cân bằng trạng thái tâm lý tình cảm trước những hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Phong tục tập quán là sự vun đắp tình nghĩa giữa con người với gia đình, với
làng xóm, với quê hương, với dân tộc [24, tr.36].
Đối với trẻ sơ sinh:NgườiThái Đen có câu chuyện rằng: Vía của con
người ở trên trời do nhà “Then” cai quản. Vía ở trên trời lâu ngày, buồn chán
nên mới ngó xuống trần gian. Thấy gái đẹp đi gội đầu, tắm suối liền ước ao
được xuống trần để thành người. Vía liền tâu với ông Then. Then ngự long cho
vía xuống trần.Sau khi xuống trần rồi, vía nhẹ chân bước tới chỗ ngủ của cô gái
và xin ở trong bụng của nàng. Thế rồi cô gái đó mang thai. Khi bé ra đời, bà đỡ
ngoáy ngón tay vào miệng bé thông họng; lấy nhanh nứa sắc cẳt rốn. Rửa lau
sạch xong, đứa bé được đặt nằm trên cái nong (ca động) đã lót sẵn lá chuối. Bà
đỡ bưng ra phía cầu thang vừa làm động tác như sẩy lúa vừa nói:
Hỡi các loại ma, các vị thần!
Ở bên gốc trời gốc đất
Nếu con của ma thì ma đến bắt
Nếu con của trời thì trời đến lấy….
Khi bà đỡ đã trả bé cho mẹ, các chị giúp nhóm lửa cho người mẹ, đồng
60
thời bỏ nước của lá cây làm thuốc vào trong nồi đun chín rồi lấy nước thuốc
cho người mẹ uống. Khi đứa bé sinh ra thường khóc. Người Thái Đen có quan
niệm: đứa bé khóc là do ông Then cho quan Khem trên trời xuống khảo tra đứa
bé. Quan Khem dùng roi, vọt, cây nhọn cưỡng bức con vía phải nhận là chết
non hay chết già, chết theo số phận nào. Với quan niệm trên, người Thái Đen
thường bảo: con người ta chết non hay chết già hay chết vì tai nạn… là do con
vía nhận lời với quan Khem ngay từ khi bé lọt lòng.
Khi bé được 3 đêm, người ta thường đưa bé ra khỏi bếp. Bà đỡ ẵm bé
vào lòng. Nếu con trai thì mang theo cái túi đựng tiền, nếu con gái thì mang
theo cái vợt cá, với ý nghĩa khi lớn lên chúng biết tự kiếm ăn. Sau đó, bà đỡ
đưa cháu bé ra sân nhà và khấn cáo với trời đất để trời đất biết nhà này có thêm
một người mới.
Khi bé được 3 tháng thì làm vía lớn. Phải chuẩn bị mâm cỗ gồm có cơm,
cá và trứng để làm lễ gọi vía trở về nhà. Người gọi vía phải xuống sân nhặt một
hòn sỏi đặt vào trong áo của đứa bé vo lại mang về nhà. Người gọi vía bước lên
cầu thang, mọi người trong nhà đều chạy ra chào đón vía.
Khi đứa tre được 1 tuổi thì làm lễ đặt tên cho vía. Lễ này do bên ngoại
chủ trì.
Ngày nay, do điều kiện kinh tế của người Thái Đen được cải thiện đáng
kể nên phụ nữ khi mang thai không còn phải đi làm vất vả như trước nữa. Họ
chỉ phải làm công việc nhẹ nhàng, vừa sức. Những tiến bộ về khoa học và y
học đã góp phần bảo vệ sức khỏe cho bà mẹ và thai nhi. Các bà mẹ được thăm
khám thường xuyên hơn. Họ cũng bớt lo lắng và ít tin vào các tập tục mê tín dị
đoan, các yếu tố thần linh hơn trước đây.
Tất cả các sản phụ ngày nay đều sinh con ở các trạm y tế gần nhà hoặc
tới bệnh viên có uy tín để đảm bảo an toàn cho cả mẹ lẫn con. Việc kiêng khem
sau khi sinh cũng đỡ khắt khe hơn. Sản phụ có thể đi lại trong nhà. Chỉ kiêng
61
không đi qua bàn thờ và kiêng đi ra ngoài trong vòng 30 ngày.
Đứa bé từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành sẽ được chăm sóc cẩn thận và
dạy dỗ chu đáo với tất cả sự quan tâm, yêu thương hết mực của tất cả các thành
viên trong gia đình.
Phong tục cưới hỏi:Cũng như các dân tộc khác, lễ cưới của dân tộc Thái
Đen ở huyện Khăm cũng trải qua 4 giai đoạn chính là: tìm hiểu, dạm hỏi, lễ xin
ra mắt và đám cưới. Mỗi giai đoạn được tiến hành khác nhau. Sau đây là mô
phỏng các giai đoạn của một đám cưới theo phong tục cổ truyền của người Thái
Đen ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng.
Tìm hiểu: Trai gái dân tộc Thái Đen ở huyện Khăm có quyền tự do trong
việc lựa chọn bạn đời, không phụ thuộc với sự giới thiệu của cha me. Cha mẹ
chỉ góp ý về tình yêu của con cái mình. Trai gái tự hò hẹn và yêu nhau. Khi đến
độ chín muồi, người con trai thường bảo với bố mẹ của mình chọn người mối
thay mặt cho gia đình nhà trai để chuẩn bị đi hỏi nhà gái và thông báo cho nhà
gái biết ý muốn của con trai mình. Nếu đồng ý, hai bên thảo luận chọn ngày
lành tháng tốt để tổ chức lễ dạm hỏi.
Dạm hỏi: Sau khi chọn ngày lành tháng tốt, nhà trai tiến hành làm lễ
dạm hỏi. Nhà trai phải cử người mối đi làm lễ. Người được nhà trai cử làm lễ
phải là người khéo ăn nói, tinh thông tục lệ, gia đình hạnh phúc, được nhiều
người tín nhiệm. Nhà gái mời ông trưởng bản và chính quyền địa phương đến
dự và thảo luận về thách cưới (nhiều hay ít là do hai bên đã thảo luận nhau).
Hai bên phải bàn bạc về việc làm dâu hoặc làm rể. Cùng nhau chọn ngày tốt
tháng lành để tổ chức lễ xin ra mặt. Đồng thời, nhà trai phải trả nửa thách cưới
cho nhà gái. Lần này, ông trường bản làm hợp đồng giữa hai bên về việc đã
thảo luận trên đây. Hợp đồng được ký tên của trai, gái, bố, mẹ trai, gái và ông
trưởng bản.
Lễ xin ra mặt: Bên nhà trai cũng cử một người đàn ông làm ông mối.
62
Ông mối đóng vai trò cầu nối hai họ trai gái để tổ chức buổi lễ này. Lễ vật gồm
4 - 5 chai rượu, trầu cau và một con lợn khoảng 30 - 40 kg để làm lễ. Đầu tiên,
đặt mâm cơm để ông mối đọc bài cúng tổ tiên. Sau đó đến lượt chàng rể bưng
đĩa trầu mời gia đình nhà gái để mọi người biết mặt. Khi lễ ra mặt kết thúc, họ
nhà trai đón dâu lại thăm nhà. Việc này có ý nói: cô gái từ đây xem những công
việc nhà trai cũng như việc gia đình và ngược lại chàng rể cũng phải coi nhà
gái như nhà của mình. Mỗi tháng một lần, chàng rể phải đến nhà gái giúp việc
3 ngày. Mỗi lần mang theo 1 chai rượu, 20 gói bánh, trầu cau để làm quà. Lễ
này kết thúc khi tiến hành lễ cưới chính thức.
Tổ chức đám cưới : Để tổ chức một đám cưới, gia đình hai bên cùng với
ông mối chọn ngày lành tháng tốt. Trước lễ cưới một ngày, nhà trai đến nhà gái
“nạp tài”. Lễ vật do nhà gái yêu cầu (thách cưới). Thông thường là 3 nén bạc,
100 bánh chưng nhỏ, vài chai rượu, một con lợn 30 - 40 kg và một vòng tay bạc
cho mẹ cô dâu để cảm ơn công nuôi dưỡng.
Lễ cưới được bắt đầu khi họ nhà trai đến rước dâu. Số người không hạn chế
nhưng thường đi thành cặp. Những người này phải là những người có gia đình
hạnh phúc. Nhà trai phải đến trước một hôm, mang theo lợn, gà… để sáng hôm
sau làm bữa cơm cúng tổ tiên và mời gia đình họ gái. Trước khi đưa dâu, nhà gái
làm lễ cúng tơ hồng cho đôi vợ chồng trẻ. Bên nhà gái, khi đưa dâu về, trừ nàng
dâu, số người cùng đi cũng phải là số chẵn. Đồ mà nàng dâu thường mang theo là
đệm, chăn, gối, vải. Ngoài để dùng cho hai vợ chồng còn để biếu bố mẹ chồng,
ông bà, anh em… để tỏ tấm lòng hiểu thảo. Trước khi đón dâu, ông mối và chàng
rể nói lên những lời ca tụng công ơn bố mẹ vợ đã sinh thành và nuôi dưỡng người
con gái nên người để làm dâu nhà mình và sẽ tạo ra dòng giống cho dòng họ mình
sau này. Chàng rể thì tự tay mình đeo cho mẹ vợ một vòng bạc, biếu mẹ vợ một
vò rượu, đĩa trầu với hàm nghĩa biết ơn. Sau đó 2 vợ chồng vái lạy cha mẹ vợ,
nâng chén rượu, đĩa trầu cau mời mọi người và mọi người cũng chúc hạnh phúc
63
cho đôi vợ chồng bằng tiền cho vào một cái đĩa chung.
Trên đường đón dâu về, đến đầu bản của mình, nhà trai phải quà lễ mở
cửa bản gồm một trai rượu, một cơi trầu, với hàm ý báo cáo rằng: từ nay, người
con gái này sẽ thành người của bản. Về đến nhà, chàng rể phải nắm tay nàng
dâu lên cầu thang. Chàng rể đi phía ngoài, nàng dâu đi phía trong, sau chú rể
một chút. Lên hết cầu thang nhà sàn, bà mối múc nước trong cái sanh đồng rửa
chân cho hai vợ chồng trẻ. Chàng rể rửa chân phải, cô dâu rửa chân trái.
Khi vào nhà sàn rồi, chàng rể ngồi phía ngoài, nàng dâu ngồi phía trong.
Ông mối đặt một mâm cơm trước mặt dâu rể. Trong mâm cơm, ngoài xôi, thịt
gà, phải có hai quả trứng gà luộc, hai cây mía còn cả ngọn, hai bát cơm, hai đôi
đũa, một vò rượu nhỏ, với hai cái cần. Sau khi đốt cháy hai cây nến sáp bằng
nhau ông mối làm lễ rồi tuyên bố cho mọi người cùng ăn cùng uống rượu cần.
Chàng rể chủ động mời cô dâu: cơm, canh, rượu, thịt…Cô dâu mời chàng rể:
cơm, rượu, thịt, trầu, nước uống. Mâm cơm này gọi là mâm cơm rượu chung
tình vợ chồng. Tiếp theo bà mối đeo trằm vào tai và búi tóc cho nàng dâu. Lúc
này nàng dâu phải ngồi cạnh cột chính có hàm ý báo cáo với ma nhà rằng: từ
nay, ta là người gia đình này.
Sau đó hai họ bắt đầu ăn uống vui vẻ. Ăn xong, họ nhà gái ngồi nguyên
chỗ, nàng dâu bưng mâm trầu ra chào, ai có gì thì cho. Cuối lễ cưới, hai họ
cùng nhau uống rượu cần. Khi uống rượu cần người ta hát. Đây là lúc vui vẻ,
hồ hởi nhất. Ngày hôm sau, hai vợ chồng đến nhà người mối làm lễ cảm ơn. Lễ
này thường có một mâm xôi, một vò rượu, và trầu cau. Gia đình nào giầu thì có
thêm một đệm, một chiếc khăn, một gối.
Có thể thấy: Nghi lễ đám cưới của người Thái Đen được quy định rất
chặt chẽ và hợp lý. Mang ý nghĩa gắn bó đôi vợ chồng trẻ và hai bên thông gia
để mở đầu một cuộc sống tốt đẹp, thuận hòa. Điều đó chứng tỏ tính tổ chức và
64
văn hóa cao của xã hội người Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng.
Ngày nay, tập tục ấy cần phải phát huy mặt tốt đẹp và gạt bỏ những hủ tục mê
tín dị đoan để hòa mình vào cuộc sống văn minh hiện tại.
Hiện nay, đa số người Thái Đen ở huyện Khăm đều thực hiện theo phong
tục cưới như trên. Các nghi lễ được tiến hành nhanh gọn nhưng nghiêm túc và đầy
đủ lời đối đáp, lời khuyên bảo hài hòa, tế nhị, đậm đà bản sắc dân tộc. Lễ dạm hỏi,
lễ xin ra mặt và đám cưới là những nghi lễ có nhiều ý nghĩa vẫn được duy trì,
được tiến hành trong thời gian nhanh gọn, ít nhân lực và ít tốn kém. Đây là mặt
tích cực cần được bảo tồn và phát huy. Một số nghi lễ không phù hợp với sự phát
triển của cuộc sống sẽ tự bị loại bỏ. Đó là bước tiến bộ của người Thái Đen: vừa
giữ được bản sắc dân tộc, vừa phù hợp với cuộc sống hiện đại.
Trong quá trình phát triển, các nghi lễ cưới hỏi của dân tộc Thái Đen
ngày nay đã chịu ảnh hưởng và tiếp thu một số nghi lễ cưới hỏi theo trào lưu
văn hoá mới của xã hội. Tuy nhiên, việc tiếp thu những nghi lễ này đều có tính
chọn lọc và phù hợp với các yếu tố phát triển kinh tế, xã hội và không làm mất
đi bản sắc văn hoá của người Thái Đen.
Có thể nói: do sự thay đổi về kinh tế, thay đổi về nhận thức trên nhiều
mặt nên đám cưới của người Thái Đen hiện nay đã thay đổi rất nhiều. Lễ cưới
diễn ra đơn giản hơn. Thông thường là trong một ngày. Các nghi lễ chính vẫn
giữ nhưng đã bớt đi các thủ tục rườm rà. Trang phục của cô dâu và chú rể trong
ngày cưới không còn trang phục truyền thống. Riêng với những đám cưới có
dâu hoặc rể ngoài dân tộc (nhất là đám cưới với người dân tộc Lào) thì cách
thực hiện phải theo phong tục tập quán của cả hai dân tộc. Phần lớn đám cưới
của người Thái Đen chịu ảnh hưởng phong tục tập quán của dân tộc Lào.
Tang ma
Theo phong tục truyền thống của người Thái Đen, khi trong nhà có
65
người chết, chủ nhà phải đi bàn bạc với ông trưởng bản về tổ chức tang ma,
Sau đó chủ nhà thông báo cho họ hàng và mọi người trong làng bản biết nhà
ḿ ình có người qua đời. Mọi người trong bản sẽ đến giúp việc tang ma.Trong
đêm thứ nhất của ngày khâm liệm, mỗi gia đình trong bản đều cử người túc
trực ở nhà người chết. Trong đêm này, người ta thường tổ chức thi đánh cờ, đọc
truyện cổ tích, truyện dựng bản mường và bài “sống sán” (bài dẫn đường cho
người chết lên trời) làm cho không khí bớt phần lạnh lẽo.Trước khi nhập quan,
thi thể người chết được lau rửa bằng nước lá thơm (nước thơm dùng để tắm cho
người chết thường được đun lên và cho một ít hoa thơm có trong gia đình như:
hoa bưởi, hoa ban…). Người Thái Đen cho rằng dùng nước có ướp các loại hoa
trên sẽ có mùi thơm dịu và có tác dụng khử các mùi hôi tanh. Sau đó, người ta
trang điểm và thay quần áo mới cho người chết. Họ lấy một ít đồng bạc trắng
hoặc tiền cho vào tay người chết với quan niệm: Khi lên trời, người chết sẽ có
chút tiền để tiêu.
Để tiến hành nghi lễ đối với người chết, chủ nhà có người chết phải đi
mời thầy cúng (Phó Mó) nhưng không phải mời bình thường. Cần phải làm lễ
mời bằng cách: lấy một đĩa trầu cau để mời Phó Mó làm lễ cho người chết ở
nhà mình.Trước khi Phó Mó lên nhà của người chết phải rửa chân. Đồ phải
chuẩn bị để cúng tế gồm: một bát gạo (trên có một quả trứng), một vuông vải
trắng để đặt bát gạo, đặt 4 - 5 thanh tre mỏng trên tấm vải. Sau đó lấy than đen
gạch ngang thay cho tiền mã và một vòng bạc cho Phó Mó đeo làm lễ. Chiếu
mà Phó Mó ngôi cúng phải được dựng lên trên vách trước. Sau khi ếm xong,
Phó Mó tự trải chiếu. Khi đó mọi người mới được chào hỏi ông. Trước đó mọi
người trong nhà không được chào hỏi Phó Mó.
Nhà của người chết phải mổ lợn làm bữa cơm cúng. Buổi tối, họ hàng,
làng xóm mang lễ đến cúng. Ðể đáp lại tấm lòng chân thành đó, chủ nhà cảm
66
ơn bằng cách chắp hai tay. Người còn sống phải đem hết đồ của người chết khi
đang sống hay dùng để cho Phó Mó cúng. Khi gọi hồn người chết trở về, Phó
Mó lắc chuông. Người Thái Đen huyện Khăm có quan niệm rằng: Khi người
chết, linh hồn hoảng hốt, phiêu diêu bay đi nên phải gọi hồn về để cho con cháu
làm thủ tục cúng lễ. Có như vậy linh hồn mới có thể lên trời được.
Trong quá trình cúng tế, Phó Mó kể lại cuộc sống của người chết từ khi
bố mẹ của người chết đang tìm hiểu yêu nhau và sinh ra người chết cho đến khi
người đó qua đời. Các nghi lễ thờ cúng cầu hồn được tiến hành suốt đêm đến
sáng hôm sau. Trước khi đưa ma, chủ nhà làm một mâm cơm để tiễn biệtngười
chết. Khi đưa tang, con cháu xếp thành một hàng cho quan tài khiêng qua. Trên
quan tài có cắm những cây nến ở đầu và ở cuối quan tài. Con dâu cả ngồi trước
tiếp theo là con dâu thứ, sau đó là con trai cả và các con trai thứ. Mọi người
trong bản đều tiễn đưa người chết ra nghĩa địa. Riêng Phó Mó không theo ra
nghĩa địa. Người Thái Đen huyện Khăm thường chôn người chết dưới đất.
Khi đi đến chỗ chôn, người ta đặt quan tài cạnh miệng huyệt và dâng một
mâm cơm mời người chết ăn bữa cuối cùng. Mâm cơm thường có xôi, gà và
rượu. Trước khi hạ huyệt, con rể cả cầm đuốc và dao hua trong huyệt để xua
đuổi hồn của người khác không cho đi theo người chết.
Sau khi đưa tang về, những người trong họ phải cắt một ít tóc. Sáng sớm
hôm sau, người ta phải tổ chức ngay lễ “Au phi khửn hươn” (mời ma về nhà để
trở thành ma nhà). Lễ này phải được tiến hành càng nhanh càng tốt. Vì nếu để
lâu, người chết bơ vơ giữa rừng sợ ác thần bắt mất. Nghi lễ này phải mời thầy
Mó đến cúng. Lễ cúng thường có xôi, gà, rượu, thịt…mang ra chỗ chôn cúng,
mời hồn người chết về nhà kèm theo một nắm đất nơi chôn người chết. Khi về
đến nhà, người trong nhà sẽ phải mổ lợn cúng lần nữa để nhập hồn người chết
vào và đưa lên bàn thờ thờ cùng tổ tiên. Trong thời gian một năm, những người
trong họ của gia đình có người chết không được phép xây dựng gia đình, làm
67
nhà. Người Thái Đen cúng tổ tiên, những người đã mất vào dịp tết năm mới.
Ngày nay, quá trình phát triển của đất nước Lào đang diễn ra một cách
mạnh mẽ và đa dạng, đã tạo ra những biến đổi sâu sắc trong cuộc sống của
những người dân nơi đây. Những biến đổi đó cũng phản ánh rất rõ sự ảnh
hưởng của quá trình phát triển xã hội và trình độ dân trí. Đó là sự biến đổi trong
tổ chức quản lý hành chính -xã hội, không gian kiến trúc và cơ sở hạ tầng,
thành phần dân cư; những chuyển biến về cơ cấu kinh tế, ngành nghề... đã kéo
theo những biến đổi về đời sống tinh thần, đặc biệt là đời sống tín ngưỡng trên
cả bình diện cộng đồng và gia đình, dòng tộc.
Việc lo cho người mất là nghĩa vụ và cũng là trách nhiệm thiêng liêng
của người đang sống. Ở đây, các nghi lễ cử hành đám tang để tiễn đưa những
người mới mất qua đời sang thế giới bên kia được thực hiện chủ yếu theo các
phong tục, tập quán có từ lâu đời và thông qua các quy định của chính quyền
địa phương, hương ước của bản. Trong tang ma có nhiều nghi thức, nghi lễ
được người dân nơi đây bảo tồn và lưu giữ cho đến ngày nay. Tuy nhiên, dưới
tác động của quá trình phát triển xã hội, cách thức tổ chức đám tang được đơn
giản hóa và ít nhiều biến đổi so với trước đây.
Hiện nay, cách thức tổ chức đám tang của người Thái Đen ở huyện
Khăm đơn giản hơn trước nhiều. Người dân không để người mất trong nhà lâu.
Theo quy ước của địa phương và hương ước của bản, người chết chỉ được để
trong nhà không quá 3 ngày; người chết vì bệnh truyền nhiễm không quá 24h.
Các nghi lễ về tang ma cũng biến đổi theo thời gian. Một vài nghi thức cũng
được bỏ qua, không cầu kì, phức tạp như trước kia nữa. Điều đáng chú ý ở đây
đó là họ không để người chết trong nhà quá lâu như trước kia nữa (ngày xưa là
4 - 7 ngày). Đã có những đám tang tổ chức theo hình thức Phật giáo bởi họ
được tiếp cận với Phật giáo, tiếp cận với nhiều phương thức tổ chức ma chay
hiện nay qua các phương tiện thông tin đại chúng,… Vì vậy mà họ có những
68
quan niệm khác trước và đã thay đổi cách thức để hợp với xu thế phát triển của
xã hội. Đó là xu thế vừa hiện đại, vừa truyền thống; vừa đầy đủ các thủ tục cho
người đã khuất mà vẫn đáp ứng được yếu tố tâm linh của họ cho sự chuẩn bị
đầu thai kiếp sau của người đã khuất.
Bên cạnh tiền bạc, ngày nay trong đám tang của người Thái Đen ở huyện
Khăm còn bỏ thêm cả các đồ dùng sinh hoạt thường ngày cho người mất mang
theo như lúc còn sống. Tuy nhiên, đồ dùng sinh hoạt cho người mất mang đi
cũng đơn giản và lược bỏ đi rất nhiều. Chỉ mang tính tượng trưng và khác dân
tộc Lào ở chỗ: đồ dùng mang theo của người Lào khi chết người ta thường đốt,
còn của người Thái Đen khi mất thì đem theo để ngoài mộ. Việc bỏ tiền bạc
vào miệng, tay, quan tài và hũ xương của người chết cũng vậy. Trước đây,
người ta thường bỏ vào đó với số lượng nhiều với quan niệm cho người mất
mang đi để tiêu và người sống được chia của ra sao thì người chết cũng vậy.
Nhưng ngày nay người ta đã nhận thức được việc đó một cách rõ ràng rằng đó
là một sự tốn kém và lãng phí không cần thiết nên họ chỉ bỏ vào một chút
tượng trưng.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, nghi lễ tang ma của người dân nơi đây
so với truyền thống có nhiều điểm khác nhau, đó là điều tất yếu của quá trình
phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ hội nhập. Có nhiều thay đổi mang xu
hướng tích cực và mặt khác, nó còn góp phần tạo ra những tác động hiệu quả
đến tư tưởng của từng cá nhân trong cộng đồng. Nhịp sống hiện đại đang ngày
càng len lỏi vào từng góc nhà, từng bản làng của người Thái Đen [9, tr.37-38].
3.2.4. Lễ, tết
Lễ nghi liên quan đến sản xuất nông nghiệp
Lễ khai mở mùa cày cấy:Nếu như việc thờ cúng ma rừng, ma bản, ma tổ
tiên dòng họ là để củng cố mối quan hệ về mặt xã hội thì các nghi lễ liên quan
đến nông nghiệp nhất là các nghi lễ liên quan về trồng trọt là để cầu xin cho
69
mùa màng được bội thu, con người được no đủ. Vì vậy các buổi lễ nông nghiệp
của người Thái Đen ở huyện Khăm có nội dung chính là vỗ về “hồn” của cây
lúa, ngô, sắn, gia súc; tạ ơn và cầu xin trời đất. Theo họ, đó là yếu tố quyết định
đến mùa màng của họ tốt hay không tốt, được hay mất.
Theo truyền thống của người Thái Đen, khi vào đầu mùa mưa, người
Thái Đen thường làm lễ khai mở mùa cày cấy. Lễ này thường được tổ chức vào
tháng 7 Phật lịch. Trong lễ này, họ mời các vị thần đến chứng giám và phù hộ,
cầu mong cầu mưa thuận, gió hòa, thời tiết thuận lợi cho mùa màng.
Lễ cúng vía cho trâu (xù khoẳn khoai): Đối với cư dân nông nghiệp thì
“con trâu là đầu cơ nghiệp”. Vì vậy, người Thái Đen rất quý trọng con trâu, coi
con trâu là người bạn thân thiết, giúp cho cuộc sống của họ được ổn định, no
đủ. Người Thái Đen có quan niệm rằng: cứ sau mỗi vụ cày cấy, do lao động
mệt nhọt nên hồn vía của trâu bạt đi, làm cho sức khỏe của trâu bị suy giảm nên
người Thái Đen thường có nghi lễ cúng vía trâu (xù khoẳn khoai) để xin lại vía
cho trâu. Họ thường tổ chức lễ này khi mùa vụ cơ bản đã hoàn thành và từ đây
trâu được nghỉ ngơi đến vụ cày cấy của năm sau.
Lễ mừngcơm mới (pạt tổng khạu mẩu):Khi đến mùa thu hoạch, người
Thái Đen thường tổ chức lễ mừng cơm mới. Lễ mừng cơm mới thường tổ chức
vào cuối tháng 10 đến đầu tháng 11 hàng năm. Để làm lễ này, họ thường chuẩn
bị các đồ vật như: khảo mẩu, khảo hang và những đồ ăn uống. Việc tổ chức pạt
tổng khạu mẩu mang ý nghĩa rất quan trọng thể hiện sự biết ơn các thần linh đã
phù hộ cho mưa gió thuận hòa, mùa màng tốt tươi, cả nhà no đủ. Đến ngày vên
tổng, từ sáng sớm, người ta thường dọn dẹp, bố trí nhà cửa và bàn thờ, đổi nặm
tậu tổng (quả bầu rượu), chuẩn bị một mâm cơm bao gồm 1 con gà luộc, rượu,
bánh, cơm gạo nứt, cốm, xôi, một số đồ ăn, khoai, hoa quả. Sau khi chuẩn bị
đầy đủ các loại lễ vật, chủ nhà thay mặt những người trong nhà thực hiện lễ.
Trước tiên, họ lấy lễ vật lên bàn thờ, mời tổ tiên, họ hàng và những người qua
70
đời đến nhà để ăn pạt tổng khạu mẩu. Sau đó, họ để lại lễ vật trên ban thờ
khoảng 15 - 20 phút. Tiếp theo, để lại 2 chén rượu, một ít cơm gạo nứt, cốm và
chân gà ở trên ban thờ để cúng tổ tiên, còn những lễ vật khác có thể mang vào
bếp để chế biến thành món ăn. Cuối cùng, họ mời họ hàng và làng xóm ăn trưa.
Đến đây, buổi lễ này kết thúc.
Hiện nay, các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp ngày càng hiếm thấy
trong cộng đồng dân tộc Thái Đen. Chỉ xuất hiện ở vùng sâu xa huyện Khăm và
cách thực hiện rất ngắn gọn và tiết kiệm thời gian [37, tr. 9-10].
Lễ cúng ma nhà (bun sên phi hươn):
Việc tổ chức bun sên phi hươn mang ý nghĩa rất quan trọng. Thứ nhất là
để tổng kết lại việc phát triển trong gia đình. Thứ hai là thông báo kế hoạch tiếp
theo cho mọi người biết. Và cuối cùng là để thể hiện sự biết ơn tới bố mẹ đã
sinh thành và nuôi dưỡng con cháu từ nhỏ bé đến lớn. Bên cạnh đó còn cầu các
thần linh trên trời đến nhà để phù hộ mọi người trong nhà và phù hộ cho mưa
gió thuận hòa, mùa màng tốt tươi và tăng cường mối quan hệ đoàn kết giữa
những người trong gia đình và họ hàng làng xóm. Với những ý nghĩa trên mà
người Thái Đen không thể bỏ qua lễ này. Mỗi năm, người Thái Đen tổ chức lễ
này một lần. Nếu gia đình nào không đủ điều kiện tổ chức hàng năm thì 2 - 3
năm tổ chức một lần cũng được. Bun sen phí hươn được tổ chức lớn hay nhỏ
tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình.
Trước khi đến ngày sen phí hươn một ngày, vào buổi tối, người ta chuẩn
bị 1 cái thớt, 1 con dao, 1 đôi đũa mới, cặp, nem chua, lá chuối làm lễ thông
báo cho các thần linh biết ngày mai gia đình mình sẽ sen hươn bằng câu khấn:
“Ngày mai nhà cháu sẽ sen phon hươn nhạo. Nếu ông vào rừng phải trở về.
Nếu đi làm nương làm ruộng cũng phải về”. Đồng thời phải mời khách và họ
hàng biết trước một ngày để đến nhà ăn sen hươn.
Đến ngày lễ, người ta thường dọn dẹp làm sạch sẽ và sắp xếp lại nhà cửa,
71
đặc biệt là phòng mà họ đặt ban thờ để chào đón các thần linh đến nhà.
Chuẩn bị đồ lễ gồm có: thịt lợn luộc, cá, các loại hoa quả có vị chua và vị
ngọt, trầu cau, rượu, đũa, thịt nướng, gỏi, lạp, nước uống, rau luộc và rau sống,
quần áo của các thanh niên trong nhà và họ hàng cùng dòng máu, cùng tổ tiên
(quần áo lấy vào một túi riêng). Sau khi chuẩn bị đầy đủ lễ vật, Mó Tảm (thầy
cúng) thay mặt chủ nhà thực hiện lễ mời các vị thần đến nhà ăn sen. Đúng 3 giờ
chiều, Mó Tảm mời các thần linh trở về trời.
Đối với phụ nữ đã lấy chồng và về nhà chồng rồi, khi gia đình bố mẹ đẻ
làm lễ này thì khi về nhà phải mang theo một con lợn hoặc một con gà, rượu,
bánh chưng, khoai, măng đắng, bộ trang phục… để dâng cho họ hàng đã chết.
Mó Tảm thay mặt gia đình mời họ hàng và khách tham dự lễ. Những người
tham dự lễ phải mừng tuổi và tặng quà cho cô gái đó bằng tiền (nhiều hay ít tùy
mỗi người).
Tiếp theo, chủ nhà rót rượu cho mọi người uống. Trước tiên phải rót cho
những người đàn ông cao tuổi. Sau đó là những cụ bà cao tuổi. Họ cùng nhau
uống hết chén rượu đó và chúc sức khỏe nhau.Việc làm này được người ta gọi
là Khài Lẩu (khai rượu). Sau khi uống hết chén rượu đó, chủ nhà mời mọi
người ăn cơm.
Những hoạt động vui chơi trong lễ này thường là chủ nhà hoặc các thanh
viên trong nhà hát khắp Thái Đen. Đây là dân ca nổi tiếng của dân tộc Thái
Đen. Khi khắp thường sử dụng các nhạc cụ truyền thống của người Thái Đen
như: cồng, khọng và xeng. Sau khi hát khắp, chủ nhà thường mời người khác
lên hát. Đây là thời gian vui nhất.
Khi tổ chức lễ truyền thống lớn của dân tộc, họ phân công thành viên làm
việc rất rõ ràng. Gia đình nào muốn là lễ lớn trong nhà đều phải thực hiện các
bước như dưới đây:Trước hết phải đi bàn bạc với những người cao tuổi và ông
trưởng làng, nêu mục đích và nhu cầu của mình để nhờ làng xóm đến giúp việc
72
nhà mình. Sau đó, mời khách và họ hàng trực tiếp. Ngày xưa thường phải đến
tận nhà, nêu mục đích và chương trình làm lễ.Chủ nhà phải dọn dẹp, trang trí nhà
cửa, chuẩn bị nơi ăn uống, nơi vui chơi (người cao tuổi thường được bố trí ăn
cơm ở trong nhà, còn nhóm thanh niên và trẻ em thường ăn uống vui chơi ở
ngoài sân).Phân công người tiếp khách và mời khách vào chỗ ăn uống. Lựa chọn
những người nấu ăn thật ngon để nấu ăn và phục vụ mọi người trong buổi lễ.
73
Nếu khách bị say nặng, chủ nhà phải đưa khách về đến tận nhà. [37, tr.11-12]
Tiểu kết chương 3
Nếu như trong khoảng 40 năm qua,đời sống kinh tế khá đạm bạc, thì đời
sống văn hóa của dân tộcThái Đenở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng hết sức
phong phú và đa dạng. Hòa chung trong xu thế phát triển của thời đại, đời sống
của người Thái Đennơi đây có nhiều thay đổi. Nhất là trong khoảng10 năm gần
đây. Những chuyển biến và thay đổi đó được thể hiện rõ nét trong mấy vấn đề sau:
Trong ăn uống: Gạo nếp vẫn là lương thực chính trong mâm cơm của
ngườiThái Đen. Song bên cạnh lương thực phụ như: gạo tẻ, ngô, sắn còn có
nhiều loại bánh và các loại đồ ăn nhanh. Cách chế biến cũng đa dạng. Ngoài
món canh, luộc còn có các món nộm, nướng, xào, chiên…cùng với nước chấm.
Ngoài món ăn truyền thống, người Thái Đencòn học nấu các món ăn của các
dân tộc khác. Đồ uống ngoài rượu cần còn biết sử dụng rượu nấu công nghiệp
như bia, nước giải khát các loại.
Trong trang phục: Hiện nay trên thị trường có nhiều loại vải trong nước
tự sản xuất và vải nhập khẩu từ Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam… Đặc biệt là
quần áo may sẵn có mẫu mã đẹp, đủ chủng loại, giá cả phải chăng lại có ở khắp
nơi trong vùng. Vì vậy, người Thái Đenđã dùng tiền để mua đồ may sẵn, đặc
biệt là lớp thanh niên. Họ thường mặc như người Lào còn bộ đồ truyền thống
chỉ dùng trong cácdịp tết và ngày lễ truyền thống của dân tộc.
Về nhà cửa: Nếu như trước đây họ chỉ ở nhà sàn, ngủ ngay trên sàn, thì
hiện nay nhiều gia đình người Thái Đenở huyện Khăm đã tự làm nhà đất, nhà
tầng, thuê người xây nhà lợp tôn, lợp ngói. Trang trí nhà theo kiểu hiện đại hơn.
Số lượng nhà sàn giảm đi.
Đặc biệt, không chỉ có những thay đổi về nhà cửa, trang phục và ẩm thực
mà còn có sự thay đổi về lớn về giáo dụctrong đời sống của người Thái Đenở
huyện Khăm. Hiện nay số lượng học sinh, sinh viên người Thái Đenđến trường và
74
theo học tại các trường học THPT ở huyện trong và ngoài tỉnh, các trường Cao
đẳng và Đại học của nước CHDCND Lào rất cao. Đặc biệt nhiều học sinh nữ Thái
Đencó ý thức học lên cao và đã trở thành cán bộ chủ chốt của địa phương.
Trong những năm gần đây, đời sống văn hóa tinh thần của người Thái
Đencó nhiều biến đổi. Điều đó chứng tỏ xu thế quốc gia hóa, thậm chí quốc tế
h ̣óa mạnh mẽ trong đời sống của đồng bàoThái Đen. Tuy nhiên, không vì thế
mà người Thái Đennơi đây làm mất đi nếp sống văn hóa cổ truyền của mình.
Ngược lại, họ biết tiếp thu cái mới để làm phong phú thêm truyền thống tốt đẹp
75
vốn có của dân tộc mình.
KẾT LUẬN
Huyện Khăm là một huyện thuộc tỉnh Xiêng Khoảng(nước CHDCND
Lào), có nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển qua nhiều giai đoạn. Là
huyện có tỷ lệ người Thái Đen cư trú đông nhất trong tỉnh Xiêng Khoảng.
NgườiThái Đen đã có nhiều đóng góp vào công việc xây dựng và phát triển
tỉnh Xiêng Khoảng, nhất là góp sức vào công việc phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội.
Về kinh tế, nông nghiệp trồng lúa nước và làm nương rẫy giữ vai trò
chính trong hoạt động kinh tế của người Thái Đen. Trong đó,cây lúa là loại cây
trồng chủ đạo (nhất là lúa nếp). Bên cạnh đó còn các cây lương thực phụ khác
là sắn, khoai, ngô… Song song với trồng lúa, chăn nuôi, làm nghề thủ công,
trao đổi hàng hóa, sắn bắn, hái lượm cũng đóng một vai trò khá quan trọng sau
trồng trọt để đảm bảo đủ lương thực trong cuộc sống hàng ngày của cộng đồng
ngườiThái Đen.Hiện nay, đời sống kinh tế của ngườiThái Đen có nhiều thay
đổi. Họ đã biết vận dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp, từ đó
hiệu quả và chất lượng sản xuất nông nghiệp được tăng lên. Trong chăn nuôi:
Đã có sự chuyển dịch từ nuôi thả sang nuôi chăn. Chăn nuôi cùng với nghề thủ
công là một trong những nghề chính song hành cùng trồng trọt trong hoạt động
kinh tế của ngườiThái Đen ở huyện Khăm tỉnh Xiêng Khoảng.
Buôn bán, trao đổi được mở rộng và phát triển hơn. Nhiều gia đình người
Thái Đen có mặt buôn bán tại các chợ và trung tâm bán hàng của huyện và các
huyện khác trong tỉnh. Họ không chỉ buôn bán những sản phẩm mà họ sản xuất
được mà còn buôn bán những mặt hàng nhập khẩu từ các nước láng giềng, nhất
là hàng tạp hóa, đồ xây dựng, trang phục, đồ trang sức, hàng điện tử, đồ dùng
văn phòng…Hiện nay, ở huyện Khăm đã xuất hiện những doanh nghiệp nổi
tiếng. Trong đó có doanh nghiệp của ngườiThái Đen.
Nhìn chung, cuộc sống kinh tế của người Thái Đen khá phát triển, nhất là
76
kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước với phương thức canh tác và chăn nuôi mới.
Họ đã nhận thức sâu sắc về chiến lược phát triển kinh tế. Họ có thể tự xóa đói
giảm nghèo và nâng cao mức sống của mình. Bên cạnh đó, nhờ có sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước đối với dân nghèo đã làm cho cuộc sống của người Thái
Đen ở huyện Khăm ổn định và hạnh phúc hơn xưa. Tuy nhiên, vẫn còn một số
ít người không dám áp dụng tiến bộ kỹ thuật, không dám đầu tư mà chỉ biết
khai thác cái sẵn có trong tự nhiên để tồn tại.
Về đời sống văn hóa, trong đại gia đình các dân tộc Lào, ngườiThái Đen
ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng có một nền văn hóa đa dạng và phong phú.
Điều đó được thể hiện rõ ở: Các món ăn truyền thống, chủ yếu là cơm nếpvới
các món ăn hấp, nướng, chấm chéo, nộm rau, canh măng chua, canh thịt chua,
canh cá chua… và các lọai rau từ rừng như chuối, măng ngọt, măng đắng, hoa
chuối với sở thích khẩu vị ăn uống đắng, cay và mặn. Đồ uống phổ biến nhất là
rượu cần. Đây là loại đồ uống không thể thiếu được trong ngày lễ tết của
ngườiThái Đen. Trong xây dựng nhà cửa: Nhà cửa truyền thống của người Thái
Đenlà nhà sàn. Kiến trúc và cách trang trí nhà cửa khác với các dân tộc khác
tạo nên nét độc đáo riêng biệt của dân tộc này. Hiện nay, nhà cửa của dân tộc
Thái Đenở huyện Khăm có nhiều thay đổi. Họ không chỉ xây dựng nhà sàn
theo kiểu truyền thống mà họ còn xây dựng nhà tầng làm bằng gạch, lợp tôn,
lợp ngói theo kiến trúc phương Tây. Về trang phục: Trước đây, họ mặc rất đơn
giản, nhất là trong trangphục nữ (váy dệt thổ cẩm, áo cổ tròn và cổ hình trái
tim; Người phụ nữ Thái Đen thích mặc váy màu đen). Nhưng những năm gần
đây, do chịu ảnh hưởng của người Lào, đa số người Thái Đen đã sử dụng nhiều
loại vải, chứ không tự dệt hay tự thêu như trước nữa. Phụ nữ Thái Đen mặc váy
lụa theo kiểu mặc của phụ nữ Lào và mặc quần áo may sẵn trong nước và của
nước ngoài. Còn nam giới, hiện nay hầu như không thấy mặc trang phục truyền
thống của dân tộc mình mà chủ yếu mua trang phục may sẵn như quần bò, áo
phông, áo sơ mi.Nhìn chung, trang phục truyền thống của dân tộcThái Đen
trong thời gian gần đây và hiện tại rấthiếm thấy. Họ chỉ mặc trong ngày lễ tết
77
truyền thống của dân tộc mình.
Văn hóa tinh thần của người Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng
Khoảng vô cùng phong phú. Nó được thể hiện trong cuộc sống lao động và quá
trình giao lưu giữa các dân tộc qua nhiều thế hệ khác nhau từ khi hình thành
cho đến nay. Văn hóa dân gian của dân tộc Thái Đen phát triển mạnh. Ngôn
ngữ của ngườiThái Đen thuộc nhóm ngôn ngữ Lào - Thái. Chữ viết là chữ cổ
gốc Ấn Độ - tự dạng Sanskrit ở Đông Nam Á. Là dân tộc có chữ viết riêng.
Song hiện nay, những người biết viết chữ Thái Đen trong cộng đồng dân tộc họ
là rất ít.
NgườiThái Đen có đời sống tín ngưỡng sâu sắc về ma. Họ cho rằng có hai
loại ma là ma lành (ma tốt) và ma hại (ma xấu). Tín ngưỡng thờ cúng của người
Thái Đen rất đa dạng, nhất là thờ cúng tổ tiên và các vị thần. Hiện nay, do giao
lưu với người Lào đã tạo cho họ có cơ hội tiếp thu với Phật giáo. Từ đó có ảnh
hưởng ít nhiều trong phong tục, tập quán. Sự ảnh hưởng thể hiện rõ nhất trong
việc tổ chức lễ tết. Việc tổ chức các nghi lễ trong vòng đời vẫn giữ được bản sắc
truyền thống của dân tộc, đặc biệt là lễ đám cưới, tang mà và sinh đẻ. Nhưng
hiện nay họ thực hiện ngắn gọn hơn để tiết kiệm thời gian và chi phí.
Trong điều kiện xã hội đang thay đổi từng ngày theo hướng phát triển,
đời sống văn hóa của người Thái Đen ở huyện Khăm cũng đang dần biến đổi
theo. Sự biến đổi của văn hóa người Thái Đen ở huyện Khăm là do nhân tố nội
sinh nhằm phù hợp với hoàn cảnh mới và do tác động của quá trình giáo lưu,
tiếp biến văn hóa với dân tộc khác. Sự chuyển biến về văn hóa của người Thái
Đen mang tính chất hai mặt. Có mặt tích cực nhưng cũng có nhiều hạn chế.
Mặt tích cực của sự biến đổi trong văn hóa của người Thái Đen có thể
nhận thấy thông qua việc tiếp nhận những nét văn hóa của các dân tộc khác.
Người Thái Đen đã làm cho nền văn hóa của mình ngày càng đa dạng và phong
phú hơn. Sự giao lưu về văn hóa cũng tăng cường tính cố kết cộng đồng giữa
các dân tộc. Việc tiếp thu ảnh hưởng của các nền văn hóa của các dân tộc có
78
trình độ phát triển cao hơn làm cho văn hóa truyền thống của người Thái Đen
ngày càng bớt yếu tố lạc hậu và ngày càng tiến bộ. Đó là những điều đáng
khích lệ.
Bên cạnh những biến đổi tích cực thì xu hướng chuyển hóa làm mất dần
những yếu tố truyền thống - tiêu chí làm nênbản sắc của mỗi dân tộc cũng đang
diễn ra ngày một nhanh chóng hơn. Văn hóa tinh thần của ngườiThái Đen ngày
càng mất đi những bản sắc vốn có của nó. Các thế hệ trẻ ngày nay không còn
biết đến văn hóa dân tộc mình và dần đi theo văn hóa của dân tộc Lào và văn
hóa ngoại nhập.
Bên cạnh sự mai một của yếu tố truyền thống trong văn hóa và sự thay
đổi theo hướng tích cực, tiến bộ thì văn hóa của người Thái Đen vẫn luôn tồn
tại một số hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan. Đó là tục lệ chữa bệnh bằng phương
pháp bói toán, cúng bái. Những kiêng kị thiếu khoa học trong đời sống và sản
79
xuất gây ra những hậu quả không nhỏ cho cuộc sống của đồng bào.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Lưu Đàm Ngọc Anh và Nguyễn Quốc Bình (2012), Cây nhuộm truyền
thống của người Thái Đen tại huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La.
2. Cây cột thiêng liêng trong nhà dân tộc Thái Đen (2015), Thư điện tử
phương Nam Plus (http://phuongnamplus.vn/1-61-19997-Cay-cot-thieng-
trong-nha-san-cua-nguoi-Thai-den.html).
3. Cuộc thiên di vĩ đại của người Thái Đen (2013), Thư điện tử Nông nghiệp
Việt Nam (http://nongnghiep.vn/cuoc-thien-di-vi-dai-cua-nguoi-thai-den.
4. Lò Xuân Dừa (2016), Tang ma của người Thái: Quy trình Nghi Lễ để tạo
cuộc sống mới cho người chết (Trường hợp người Thái Phù Yên, Sơn
La),Luận án tiến sỹ, Viện Khoa học xã hội.
5. Nguyễn Đại Đồng (2007), Trang phục cổ truyện của phụ nữ dân tộc thái
huyện Thường Xuân, tỉnh Thành Hóa, Luận văn thạc sĩ,Trường Đại học sư
Phạm Thái Nguyên.
6. Khái quát dân tộc Thái và ngành Thái Đen (2009), Thư điện tử văn hóa dân
tộc (https://chungca.wordpress.com/2016/06/09/khai-quat-dan-toc-thai-va-
nganh-thai-den/).
7. Phạm Ngọc Hà (2015), Lịch và nông lịch của người Thái Đen ở Sơn La,
Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
8. Đài Thị Hằng (2009),Khôi phục bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền
thống trong lễ hội Xên Mường của người Thái Đen tại Sơn La, Khóa luận
tốt nghiệp, Trường Đại học văn hóa Hà Nội.
9. Hòang Thị Hường (2010), Phong tục tang ma của người Thái Đen huyện
Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội.
10. Lộ Thị Huyền (2015),Tìm hiểu tang ma của người Thái Đen ở xã Nghĩa
80
Lợi, tỉnh Yên Bái, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học văn hóa Hà Nội.
11. Lê Thi Hà,Nét đẹp của văn hóa trong trò chơi dân giản Tók Mạk Lẹ củ
dân tộc Thái Đen Tây Bắc.
12. Trần Vân Hạc (2014),”Cưới cổ của người Thái đen Tây Bắc Việt Nam”.
13. Lo Thị Quỳnh Lan (2008), Luận văn thạc sĩ đề tài “Bản sắc văn hóa
dân tộc Thái trong điều kiện đổi mới và phát triển kinh tế vùng Tây Bắc”
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
14. Lễ Xên Mường của người Thái đen(http://dacsandantoc.net/le-xen-
muong-cua-nguoi-thai-den/).
15. Đoàn Thị Hương Lý (2009), Khóa luận tốt nghiệp “Người Thái Đen với sự
phát triển du lịch Mường Lò tỉnh Yên Bái, Trường Đại học văn hoá Hà Nội.
16. Minh Lê (2016), “Tìm hiểu nghi thức “Hỏa táng” người Thái đen”
17. Nghi lễ ma chay của người Thái đen ở Tuần Giáo-Điện Biên, (http://web.
cema gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=117453534).
18. Nhà sàn của người Thái đen (2013), (http://vovworld.vn/vi-vn/Sac-mau-
cac-dan-toc-Viet-Nam/Nha-san-cua-nguoi-Thai-den/187808.vov).
19. Nước trong văn hóa người Thái Đen Mường Lò (2015),
(http://baodantoc. Com .vn/sac-mau-54/nuoc-trong-van-hoa-nguoi-thai-
den-muong lo).
20. Lữ Thị Mai Oanh, Nguyễn Thị Huệ (2015),Biến đổi về trang phục của
phụ nữ Thái đen vùng Tây Bắc.
21. Phong tục cưới hỏi của người Thái đen, (http://hocban.net/hoidap-ct-
140865-phong-tuc-cuoi-hoi-cua-nguoi-thai-den.htm).
22. Dường Thanh Phong (2011), Thú vị tục cưới hỏi của người Thái đen.
23. Dương Đình Minh Sơn, Dân tộc Thái Trắng và dân tộc Thái Đen ở Tây
Bắc Việt Nam.
24. Nguyễn Thành Tuấn (2006), Tìm hiểu Văn hóa truyền thống của dân tộc
Thái Đen ở huyện Như Thanh, tỉnh Thành Hóa,Khóa luận tốt nghiệp,
81
Trường Đại học Vinh.
25. Ngô Thu Thản (2009),Bảo tồn và phát huy văn hóa ẩm thực của dân tộc
Thái Đen thành phố Sơn La, Khóa luận tốt nghiệp trường Đại Học văn hóa
Hà Nội.
26. Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, trường Đại học tổng
hợp thành phố Hồ Chí Minh.
27. Tạ Văn Thông,Chữ Viết của các dân tộc Thái ở Việt Nam.
28. Trần Quốc Vượng (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
Tài liệu tiếng Lào
29. Bài báo cáo Kết quả Hội nghị lần VIII của Ủy Ban nhân đan huyện Khăm
30. Bài báo cáo kết quả thực hiện Hội nghị lần thứ V của bản Xiêng Kiều từ
năm 2007-2010
31. Bộ Giáo dục và thể thao Lào (2008), Sách giáo trình”Lào Sức Sá”.
32. Bounphone ONSOUVANH (2014), Dân tộc Thái Đen ở tỉnh Xiêng
Khoảng (CHDCND Lào), thủ đô Viêng Chăn.
33. Khampheng THIPMOUNTALY (2005),Quá trình sắp xếp các dân tộc ở
nước CHDCND Lào,Viện nghiên cứu dân tộc và tôn giáo Lào.
34. Lakheun VONGSALY (2010), Phong tục tập quán và hôn nhân của
người Tày Đăm tỉnh Hủa Phăn, (Lào).
35. Phòng Kế Hoạch và đầu tư huyện Khăm tỉnh Xiêng Khoảng bài
Viết”Lịch sử huyện Khăm tỉnh Xiêng Khoảng”
36. Phiasy VENMIXAY và Alithao PHIALUONG(2015), Văn hóa của dân
tộc Thái Đen ở Bản Xong Tạy huyện Xong tỉnh Hủa Phăn, Khóa luận tốt
nghiệp tại trường Đại học Quốc gia Lào.
37. Quangxaykham KHOUSILIHƯƠNG (2006), Phong tục tập quán của
dân tộc Thái Đen.
38. Sinxay KEOMANIVONG, Mặt trận Xây dựng nước Lào (Cục Dân tộc
82
họ), “Các dân tộc ở nước Công hòa Dân chủ Nhân dân Lào”.
39. Thống kê dân tộc Tày Đăm huyện Khăm năm 2015,”Phòng Thông tin văn
hóa và du lịch huyện Khăm tỉnh Xiêng Khoảng” (Lào).
40. Viện nghiên cứu dân tộc và tôn giái Lào (2009), “Tìm hiểu các dân tộc ở
Lào”, Nxb Sibunhương, thủ đô Viêng Chăn.
41. Viengmala VANGMUA (2009), “ Dân tộc học”, Khoa học xã hội,
Trường Đại học quốc gia Lào.
42. Ủy viên nhân dân huyện Khăm tỉnh Xiêng Khoảng “ Lịch sử huyện
Khăm tỉnh Xiêng Khoảng
Tài liệu tiếng Thái Lan
43. Dân tộc Thái Đen Hoặc Thái Xông Đăm hoặc Lào Không, Thư điện tử “
Pợtpạtusu ISAN”.
44. Người Thái Đen, “Wikipidea”.
45. Nguồn gốc và lịch sử cư trú của dân tộc Thái Đen, Thư điện tử
“Pợtpạtusu ISAN.
83
46. Napanat của dân tộc Thái Đen là làng văn hóa.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
Ảnh 1: Vườn ngô bản Xiêng Kiều
Ảnh 2: Vườn rau bản Xiêng Kiều
Ảnh 3: Ruộng ở bản Xam
Ảnh 4: Vườn chuối ở bản Muông Xay
Ảnh 5: Đàn trâu ở bản Muông Xay
Ảnh 6: Nơi nuôi bò ở bản Xam
Các hình ảnh về đời sống kinh tế của dân tộc Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng (Nguồn ảnh: Do tác giả chụp trong quá trình thực tế năm 2016)
Ảnh 7: Ao cá ở bản Muông Xay
Ảnh 8: Bầy vịt ở bản Xiêng Kiều
Ảnh 9, 10: Chị Son Sạ Văn (bản Xiêng Kiều) đang dệt vải và những sản phẩm từ nghề dệt
Ảnh 11, 12: Những phụ nữ của nhóm dệt vải (bản Xiêng Kiều) đang cán bông, quấn bông,
nhuộm và phơi sợi tơ
Ảnh 13, 14: Trồng dâu nuôi tằm ở bản Xam
Ảnh 15, 16: Ông Bua Ny và sản phẩm từ nghề đan lát
Phụ lục 2
Ảnh17, 18: Trang phục phụ nữ của ngườiThái Đen
Ảnh19, 20: Trang phục nam của người Thái Đen
Ảnh21, 22: Phòng ngủ và nhà sàn của người Thái Đen
Hình ảnh về đời sống văn hóa của dân tộc Thái Đen ở huyện Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng (Nguồn ảnh: Do tác giả chụp trong quá trình thực tế năm 2016)
Ảnh23, 24: Bun Sên hươn và bun Pảng
Ảnh 25, 26: Múa và hát dân ca Thái Đen
Ảnh 27, 28: Những hoạt động trò chơi trong ngày lễ của bản Thái Đen