ĐỪNG TÙY TIỆN ĐỔI MỚI TIẾNG VIỆT!
Lê Đình Tư
Việc bổ sung từ ngữ cho tiếng Việt bằngch vay mượn từ ngữ tiếng nước ngoài
đương nhiên là một việc bình thường như đối vi mọi ngôn ngữ khác, khi sự vay
mượn đó là cần thiết, nghĩa là khi trong tiếng Việt chưa có các từ ngữ để biểu thị
những khái nim mới. Chính vì vy, quá trình tiếp xúc giữa tiếng Việt và các ngôn
ngữ khác thường để lại những dấun trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Đó là s
hiện diện của lớp từ vựng vay mượn hay còn gọi là tvựng ngoại lai. Quá trình
vay mượn từ ngữ của các thứ tiếng khác trong tiếng Việt đã din ra ngay từ thi kì
xa xưa, trong giai đoạn nó đang hình thành, rồi về sau nó tiếp tc được bổ sung
thêm vn từ ngữ vay mượn ca tiếng Hán và các thứ tiếng châu Âu hoặc châu Á
khác. Đó là do vị trí đa-chính trị đặc biệt của Việt Nam, một trong số ít những
quốc gia trên thế gii đã trở thành nơi hội t, gp gỡ ca nhiều tinh thn văn hóa-
chính tr khác nhau, trong đó sự gặp gỡ của tiếng Việt với các ngôn ngữ thuộc
những loại hình khác nhau là một trong những yếu tố gây tác động mnh mẽ nhất
đến đời sống xã hội của cộng đồng người Việt. Trong hthống tiếng Việt, chúng ta
có thể quan sát thy những ảnh ng của một loạt ngôn ngữ như: tiếng Trung
(tiếng Hán), tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Hàn, tiếng Khơme, tiếng Nhật,
tiếng Thái… Dấu tích cụ thể của những ảnh hưởng đó là một t llớn các từ ngoại
lai mượn của các ngôn ngữ thuộc những loại hình khác nhau trong tiếng Việt. Nhìn
bề ngoài và nếu chỉ xét riêng về tỉ lệ các từ ngoại lai, người ta có thể coi tiếng Việt
bản địa chỉ là dấu tích còn lại của một thứ tiếng Việt xa xưa, bởi vì tng cộng có
tới khoảng 60-80% đơn vị từ vựng trong thứ tiếng này là từ vay mượn ca các
ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, tình hình thực tế không cho pp chúng ta khng định
điều đó, vì đa số các từ ngoại lai trong tiếng Việt không còn mang những nét đặc
trưng ca các ngôn ngữ gốc mà chủ yếu mang những nét đặc trưng (ngữ âm, ngữ
nghĩa và ngữ pháp) của tiếng Việt. Đó là do chúng đã được Việt hóa hóa cao độ để
hoàn toàn p hợp vi hthống ca tiếng Việt, khiến cho người Vit trong nhiu
trường hợp không nhận ra tính chất ngoại lai của chúng. Ngày nay, có lẽ ít người
Việt nào lại nghĩ là từ (cái) đầu, (căn) buồng là tvay mượn của tiếng Hán hay
(nhà) ga, (cái) phanh là từ mượn của tiếng Pháp.
Việt hóa các yếu tố ngoại lai din ra trên tất cả các phương diện: ngữ âm, từ vị và
ngữ pháp. Về mặt ngữ âm chẳng hn, sự Việt hóa đã tạo cho các yếu tố ngoại lai
diện mạo của những đơn vị từ vựng tiếng Việt, khiến cho sự tồn tại của chúng
trong tiếng Việt không phá vỡ tính hthống ca nó, nghĩa là làm cho người Việt
bình thường khi nghe từ ngoại lai không cảm thychướng taivà tmình có th
nói hay đọc được các từ ngữ đó mà không cm thấy “ngượng ging”. Một cụm t
tiếng Anh không được Việt hóa như live show sẽ phá vỡ hệ thống ngữ âm của
tiếng Việt và gây khó khăn cho đại đa số người Việt trong khi nghe cũng như khi
nói.
Trên phương din ngữ pháp, việc vay mượn rất ít khi xảy ra. Sỡ dĩ như vậy là vì
ngữ pháp chính là cái phn quan trọng nhất quyết định ngôn ngữ này hay ngôn ng
kia một ngôn ngữ độc lập hay chỉ là một biến thể địa phương của mt ngôn ngữ
nào đó. Chng hạn, nếu xét về phương din phát âm và từ vựng thì giữa các
phương ngữ Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam B có sự khác biệt khá lớn, nhưng do
không có sự khác biệt đáng kể nào vmặt ngữ pháp giữa các phương ngữ đó nên
người Việt sống ở các vùng min khác nhau trên đất nước Việt Nam vẫn hiểu được
nhau. Gidụ, với sự khác biệt về ngữ âm và từ vựng của mình, nếu tiếng Trung Bộ
có cấu trúc ngữ pháp khác vi tiếng Việt phổ thông mà ging với cấu trúc của
tiếng Anh thì tiếng nói đó chẳng ngưi Việt nào những vùng khác hiu được. Ví
dụ: Nếu người Trung Bộ nói:Rứa chi mần bọ?” thì người vùng khác snghĩlẽ
đâymột thứ tiếng ớc ngoài. Chính nh cái hệ thng ngữ pháp chung cho tất cả
các tiếng đa phương mà người Việt ở đâu cũng hiu được nhau, và do đó, tiếng
nói của các cư dân đa phương khác nhau chỉ được coi là phương ngữ ca tiếng
Việt chứ không phi là những ngôn ngữ độc lập. Như vậy, việc đưa các cấu trúc
ngữ pháp của một ngôn ngữ nào đó vào tiếng Việt để đổi mi” tiếng Việt sẽ
hậu quả tai hại hơn nhiu so với việc vay mượn từ ngữ, bởi vì điều đó có thể dẫn
đến nguy cơ biến tiếng Việt thành một phương ngữ của mt ngôn ngữ ngữ khác,
hoặc c ít cũng làm cho người Việt không hiểu được nhau hoặc hiểu sai nhau. Với
hơn 60% từ ngữ vay mượn của tiếng Hán (tiếng Trung), nếu tiếng Việt “nhập
khẩu” thêmc cấu trúc ngữ pháp (cấu trúc ngược) của tiếng Hán thì chắc chn
ngày nay tiếng Việt sẽ được coi là một phương ngữ ca tiếng Hán. Cho nên, các
thế cha ông người Việt xưa kia thực sự là những nhà thông thái, khi sau hơn một
ngàn năm Bắc thuộc vẫn bảo vệ được tiếng Việt khỏi sự diệt vong.
Đương nhiên, đôi khi sự vay mượn cấu trúc tiếng nước ngoài vn xảy ra trong
tiếng Việt. Đó là svay mượn các cấu trúc theo kiểu mô phỏng, nhưng đó thường
là nhng cấu trúc có nhiều đim giống với cấu trúc của tiếng Việt. Dẫu vy, ngay
cả trong những trường hợp này, người ta vẫn phi Việt hóa các cấu trúc cho phù
hợp với hthống ngữ pháp tiếng Việt. Chẳng hn, tuy mô phỏng cấu trúc thành
ngữ ca tiếng Anh là “To be armed to the teeth”, nhưng tiếng Việt không nói hoàn
toàn theo ngữ pháp tiếng Anh là “được vũ trang đến nhữngi răngmà nói là
được vũ trang đến tậnng”, Chính việc sử dụng cái từ “tận” rất Việt và từ “răng
mang sn ý nghĩa tập hợp (= những cáing) đã khiến chúng ta cảm thy thành
ngnày không “Tây” một chút nào. Vì vậy, có thể nói rằng, nguyên tắc Việt hóa
các yếu tố vay mượn của tiếng nước ngoài phải được tuân thủ trên tất cả các cấp độ
của tiếng Việt.
Như tôi đã viết (xem thêm Tri thức trẻ, số 234-246), cấu trúc “X đến từ Y.” vi
phm trật tự bình thường ca cấu trúc ngữ pháp tiếng Vit. Người Việt coi trật tự
của các từ như vậy là trật tự nghịch. Nếu kết hợp các từ theo một trật tự nghịch thì
người Việt hoặc là không hiu hoặc là có thể hiểu theo nghĩa khác, hay ít nhất cũng
cm thấy cng tai. Chẳng hạn, nếu một người Việt nói thế này: “Tôi vừa mới
đến từ còng” tđa số người nghe sẽ hiểu là:i vừa mới đến Từ Còng”, chít ai
hiểu là: “Tôi vừa mới từ Còng đến.”. Đó là do áp lực của cấu trúc thuận trong tiếng
Việt. Hơn nữa, vì động từ đến vn là cách nói rút gọn của cụm động từ đi đến,
trong đó đến là từ chỉ phương hướng hay điểm đích của động từ chuyển động đi,
nên không bao giờ từ và đến đi liền với nhau. Vì vậy, việc “cách tân” hay “hin đại
hóa” tiếng Việt bằng cách “nhập khẩu” cấu trúc nghịch ca tiếng Anh cộng vi s
kết hợp những yếu tố không thể kết hợp trực tiếp với nhau sẽ phá vỡ hệ thống ngữ
pháp ca tiếng Việt.
Việc sử dụng một yếu tố nào đó của tiếng Việt đương nhiên phải dựa vào ý nghĩa
thực sự của yếu tố đó trong tiếng Việt. Không thcăn cứ vào ý nghĩa của một t
tương đương trong mt ngôn ngữ khác để biện mình cho cách dch của một cá
nhân nào đó. Động từ đến trong tiếng Việt luôn luôn bao hàm ý nghĩa “di chuyển”,
không phụ thuộc vào ý mun chủ quan của một số cá nhân biết tiếng Anh, do đó
không thể căn cứ vào ý nghĩa của từ to come trong tiếng Anh để gii thích rằng
Anh ta đến từ Việt Nam” có ý nghĩa giống như “Anh ta là ngưi Việt Namhay