Dược liệu mã đề
mt trong nhiều món của nồi ớc sâm giúp giải nhiệt vào những ngày nóng
bức, mã đề là dược liệu được biết từ rất u.
đề hoặc xa tiền (Plantago major L.), họ Mã đề (Plantaginaceae) có nguồn gốc từ châu
Âu nhưng là một trong những thực vật được mang sang các thuộc địa trước nhất.
Ngày nay vẫn còn nhiều nước xem mã đề là một loại cỏ vô ích. Phân tích thành phần cho
thấy mã đề có chứa aucubin, saponin, a xít citric, a xít oxalic và polysaccharid. đề
cũng chứa nhiều khoáng chất như calcium, phosphor, sắt, sodium, potassium và các
vitamin A, B1, B2, C, PP.
Ảnh: Đ.N.Thạch
Hạt đề phải được thu hoạch khi thật chín, lúc trời khô thoáng và được nhanh chóng
phơi nắng hoặc sấy nhiệt đnhẹ để tránh bị cháy; được sử dụng như một thực phẩm
chức năng rất bổ dưỡng. Nếu được ngâm với nước, hạt sẽ nở ra mà không btiêu hóa,
giúp chuyển hóa và nhuận trường. Trong mỹ phẩm, người ta sử dụng mã đề như một chất
kết tủa.
Tính năng trị liệu
Ngoài ăn và nấu nước uống, người ta còn dùng lá mã đề giã nát để đắp vết muỗi cắn hoặc
trầy xước do gai.
Từ thời Trung cổ, lá mã đề được dùng để cầm máu nhanh đối với các vết thương và để
nhỏ mắt dưới dạng nước cất. Nước cốt mã đề còn được dùng để chữa các bệnh về răng
lợi. Rễ mã đề nghiền nát làm thuốc đắp chống nhiễm trùng, chống dị ứng và kháng viêm
cho các bệnh về da. Nước hãm mã đề rất có hiệu quả đối với các bệnh đường hô hấp trên
vì tính long đàm và bảo vệ niêm mạc.
Các vùng quê châu Âu thường dùng đề để làm thuốc bôi liền sẹo với phương cách
như sau: nghiền nát lá với 1 muỗng cà phê kem tươi, yaourt hay phô mai mềm; trộn kỹ
cho đến khi thành bột rắn và cho cao vào hũ sạch để dành bôi lên vết thương.
Trong m thực, mã đề non được sử dụng như một loại rau ăn sống trong các món trộn,
hoặc nấu chín hương vị nhẹ của nấm. Hạt nghiền nát được cho vào bột bánh mì
hoặc canh súp.
Lưu ý: phụ nữ có thai cần thận trọng khi sử dụng. Đối với người cao tuổi hay đi tiểu đêm,
tránh dùng đề vào buổi chiều tối.