Flash Photography, Flash Metering

1. Flash Guide Number

Năng lực làm việc của một flash unit được đánh giá qua chỉ số Guide

Number (GN). Thông số này cho biết cự ly xa nhất (hay tầm hoạt động)

của một đèn flash là bao nhiêu met (hoặc feet), ứng với một giá trị khẩu độ

và ISO cho trước. Thông thường, ISO được chọn tham chiếu là ISO 100.

Ví dụ: Flash 550EX có GN là 55 (met). Tại ISO 100, ta có thể xác định

khoảng cách lớn nhất mà đèn này có thể bao phủ ứng với từng khẩu độ

ống kính theo công thức:

Nếu tính toán với film có độ nhạy là ISO 200, thì GN của flash tương ứng

tăng thêm 1.4 lần, tức 55x1.4 (met)

Lưu ý rằng distance ở đây không phải là khoảng cách từ camera tới

subject mà là khoảng cách từ flash tới subject. Hãy hình dung, nếu flash

gắn ở vị trí thông thường trên camera thì hai khoảng cách này có thể coi là

như nhau. Tuy nhiên, nếu flash đặt ở một vị trí khác (liên kết với camera

qua cable hoặc thiết bị không dây), hay gắn trên camera mà bouceleen

trần nhà hoặc tường thì khoảng cách này sẽ được tính theo dọc "đường

đi" của ánh sáng flash.

Tôi không có ý định đi sâu hơn vào điểm này bởi hiện nay chúng ta đều sử

dụng các máy có kỹ thuật đo sáng cho flash (flash mettering) tự động. Vì

thế, không phải lúc nào flash cũng phải làm việc với công suất lớn nhất.

Công thức trên chỉ áp dụng khi ta dùng flash ở chế độ manual để tính toán

độ mở hay cự ly chụp thích hợp. Nhưng đã đầu tư một số tiền lớn cho

body và flash thì nên tận dụng những kỹ thuật đo sáng flash sẵn có. Việc

sử dụng ở chế độ manual là rất hãn hữu.

Vì vậy, nếu không muốn, ta cũng có thể quên cái công thức kia đi, và

chỉ cần nhớ giá trị GN như một thông số tham khảo khi đi chọn mua

flash. Flash có GN càng lớn thì càng khỏe và càng mắc tiền hơn.

2. Flash photography

Việc chụp ảnh với flash tuy cũng chỉ diễn ra trong chớp mắt, nhưng thực tế

là quá trình diễn ra phức tạp hơn vì cùng một lúc, camera phải làm việc

với 2 nguồn sáng khác nhau: Nguồn sáng môi trường (ambiance) và

nguồn sáng của flash. Sự khác nhau là ở chỗ ambiance light là nguồn

sáng liên tục, còn flash light là nguồn sáng tức thời. Tính chất "liên tục"

và "tức thời" ở đây là so với thời gian phơi sáng của bức ảnh. Do đó, quá

trình đo sáng, phơi sáng cũng sẽ khác với khi chụp không có flash.

Điều này thể hiện rõ hơn khi ta xem xét trường hợp chụp flash ở tốc độ

dưới X-sync.

Khi chụp ảnh không dùng flash, ta có thể thay đổi sự phơi sáng của bức

ảnh bằng việc thay đổi một trong ba yếu tố tốc độ chụp, khẩu độ, ISO khi

giữ nguyên hai yếu tố còn lại.

Khi chụp với flash, nhiệm vụ của flash chủ yếu là soi sáng tiền cảnh và do

thời gian phát xung của flash cực ngắn nên việc thay đổi tốc độ chụp sẽ

không làm thay đổi sự phơi sáng của tiền cảnh mà chỉ làm thay đổi sự

phơi sáng của hậu cảnh, hay những nơi không bị ảnh hưởng của flash.

Nói cách khác, tốc độ chụp không chịu sự tác động của nguồn sáng

tức thời mà chỉ có tác dụng đối với nguồn sáng liên tục mà thôi.

Thực vậy, khi chụp một người ngoài trời tối, phải dùng flash để đánh

sáng. Nếu thấy chủ thể quá sáng (do đo sáng flash sai, hoặc dùng

flash manual) mà bạn tăng tốc độ chụp lên cao hơn thì cũng không

cải thiệt được tình hình. Chủ thể vẫn bị quá sáng cho dù background

có tối hơn. Cách giải quyết là giảm ISO, khép sâu khẩu độ hoặc lùi ra

xa chủ thể hơn (giả định công suất flash không đổi). Nếu thấy vẫn

còn tối thì dù bạn có giảm tốc độ chụp đi thì chủ thể cũng chỉ sáng

hơn 1 chút nhưng đó là do không có tác dụng của flash và được

phơi sáng lâu hơn. Nhưng nếu đủ sáng thì có thể ảnh bị rung nhòe.

Trong tình huống này, có nghĩa là flash của bạn đã phát hết công

suất mà vẫn không đủ đáp ứng yêu cầu. Cách khắc phục là mở ống

kính lớn hơn, tăng ISO, hoặc tiến lại gần chủ thể hơn.

Bạn cũng đừng ngạc nhiên rằng khi bật flash lên rồi mà đồng hồ đo sáng

trong viewfinder vẫn báo thiếu sáng (chế độ M), hoặc cho những cặp

thông số với f-stop rất nhỏ (mở lớn) và tốc độ chụp rất chậm (chế độ ưu

tiên tốc độ / khẩu độ). Bởi khi half press để đo sáng, camera chỉ đo sáng

ambiance còn việc đo sáng cho flash thì lại diễn ra ngay trước khi flash nổ,

hoặc sau khi có ánh sáng phản xạ của flash từ chủ thể.

Cái đó tùy vào việc chế độ đo sáng flash trong camera của bạn là loại nào

TTL, A-TTL, E-TTL ...

3. Flash mettering systems

Như trên đã nói, việc camera phải làm việc với 2 nguồn sáng khác nhau

thì công việc đo sáng cũng chia làm 2 phần rõ rệt. Đo sáng ambiance và

đo sáng flash. Việc đo sáng ambiance diễn ra như bình thường với mục

đích cho bức ảnh đủ sáng kể cả background. Việc đo sáng flash nhằm

mục đích điều khiển công suất phát sáng của flash một cách hợp lý. Để

hiểu rõ nguyên lý, chúng ta chỉ giới hạn xem xét trong trường hợp chụp

flash ở tốc độ dưới X-sync cho đơn giản hóa vấn đề.

3.1 Flash duration

Trong thực tế thì flash không nổ tức thời như hình minh họa trên mà

cường độ phát sáng của flash sẽ tăng dần từ khi được kích hoạt, đạt tới

cường độ lớn nhất rồi giàm dần. Tức là nó đi theo một đường parabol.

Nếu coi đường parabol này như một trái núi thì thời gian để "leo" từ bên

trái (cường độ = 0), qua đỉnh parabol (cường độ = max), rồi "tụt xuống"

bên kia (cường độ = 0) gọi là flash duration max Tmax.

Nếu flash duration = Tmax thì coi như flash đã phát hết công suất.

Do chỉ xem xét trong khoảng thời gian Tmax này, nên việc phát sáng của

flash được coi như một nguồn sáng "liên tục" và flash duration càng dài thì

subject (ảnh) càng nhận được nhiều ánh sáng.

Việc đo sáng flash chính là nằm ở chỗ camera quyết định flash duration sẽ

kéo dài bao lâu. Nếu thấy flash đã đủ làm sáng subject thì camera sẽ ra

lệnh ngừng phát sáng (cường độ = 0), flash duration sẽ bị rút ngắn so với

Tmax, vì lúc đó ánh sáng flash có thể mới "leo" đến lưng chừng "sườn núi"

bên này hay vừa mới qua "đỉnh núi" (cường độ = Max) nhưng chưa kịp

tiếp đất bên kia (cường độ = 0)

Như vậy, một khi đèn báo Ready trên flash sáng, tức tụ đã được nạp đầy

và flash luôn sẵn sàng phát hết công suất của nó. Nhưng việc phát hết hay

không lại do flash mettering của camera quyết định (rút ngắn thời gian

phát). Chứ không phải là hạ thấp cái đỉnh núi (cường độ max) xuống để

thời gian leo núi ngắn lại.

Flash luôn sẵn sàng làm hết sức khi nó ready trong mọi trường hợp

Để xem các camera điều chỉnh flash duration thế nào! Tham khảo từ site

trên nên tôi chỉ có các thông tin về flash mettering của Canon. Nếu có điều

kiện, mong các bạn bổ sung thêm flash mettering của Nikon, vốn vẫn

được coi là Number One!

3.2 Flash mettering principle

Có 2 cách tiếp cận chính:

Cách thứ nhất là đo trực tiếp ánh sáng phản xạ từ subject (hoặc film) để

quyết định ngừng flash hay không. Cách này dùng chính nguồn sáng thực

của flash, diễn ra ngay trong quá trình phơi sáng. Phương pháp TTL, A-

TTL sử dụng cách tiếp cận này.

Cách thứ hai, trước khi phơi sáng, flash phát ra một nguồn sáng phụ

(preflash), camera đo mức độ phản xạ của chủ thể với nguồn sáng phụ

này để quyết định flash duration. Khác với cách tiếp cận trên, quyết định

được đưa ra trước khi flash được chính thức kích hoạt, trước khi xảy ra

quá trình phơi sáng của film (sensor). Phương pháp E-TTL và E-TTL II

thực hiện theo cách tiếp cận này.

Hệ thống đo sáng flash tự động đầu tiên cũng dựa trên cách tiếp cận thứ

nhất. Nhưng việc đo ánh sáng phản xạ đó lại do sensor nằm trên flash

đảm nhiệm. Phương pháp này sẽ rất thiếu chính xác vì lượng ánh sáng

phản xạ qua sensor nằm trên flash khác hoàn toàn với lượng ánh sáng

của flash đi vào trong lens. Vì trong mỗi trường hợp lens có khẩu độ khác

nhau, chưa kể việc dùng thêm filter này nọ, trong khi sự phản xạ lại trên

sensor hoàn toàn không thay đổi.