Ghép tủy xương hay ghép tế bào gốc

Bác sĩ Vũ Đình Hào, Lausanne, Thụy sĩ.

(Kỳ 2)

III. Vài hàng lịch sử của ghép tủy xương:

Cuộc ghép tủy xương trên người đầu tiên được thuật lại trên tạp chí y học

diễn ra vào năm 1939. Kế tiếp là nhiều thử nghiệm ghép tủy khác, tất cả đều

không thành công vì người bệnh chết sau một thời gian ngắn, nhưng người ta nhận

thấy rằng tế bào trong tủy của người cho đã phát triển được trong cơ thể người

nhận (engraftment). Đến nam 1965, một người bị ung thu máu cấp tính được điều

trị bằng tia phóng xạ và hóa chất, sau đó được ghép tủy, đã sống thêm được 20

tháng nữa.

Các khám phá về hệ thống HLA giúp cho việc ghép tủy thu được nhiều kết

quả tốt. Các phương pháp cách ly, các thuốc kháng sinh phổ rộng, thuốc chống

siêu vi khuan và chống nấm, việc truyền hồng huyết cầu, tiểu huyết cầu … được

dùng cho bệnh nhân trong thời gian tủy xương cu bị hủy diệt và tủy xương mới

chua phát triển kịp, đã cải thiện đáng kể kết quả ghép tủy xương.

IV. Chỉ định của ghép tủy xương hay ghép tế bào gốc:

Các rối loạn về máu, nhất là các bệnh ung thu máu : thuộc về thể

cấp tính (acute) hay mạn tính (chronic), liên hệ đến dòng tủy (myelogenous

lineage) hay dòng lympho (lymphocytic lineage) ; bệnh Hodgkin … Các bệnh

thiếu máu Fanconi, thalassemia, thiếu máu với hồng huyết cầu hình luỡi liềm

(sickle cell anemia) …

Một số buớu ung thu ở vú, phổi, dịch hoàn, buồng trứng, xương …

Một số hội chứng khiếm khuyết về miễn nhiễm

(immunodeficiency syndromes), hoặc bệnh tự miễn (autoimmune disorders).

Một vài bệnh về biến duỡng (metabolic disorders) nhu bệnh

Gaucher (một loại rối loạn về biến duỡng chất béo).

VI. Kết luận:

Ghép tủy hay ghép TBG đã trở thành một công việc điều trị được tiêu

chuẩn hoá (standardized). Chỉ định của ghép TBG càng lúc càng được mở rộng.

Nhiều bệnh truớc kia được coi là bất trị, bây giờ đã được chữa khỏi với phương

pháp điều trị này. nhưng có vài điểm mà chúng tôi muốn nhấn mạnh để thay lời

kết luận:

Việc xử dụng TBG, nhất là TBG từ bào thai cần phải được kiểm

soát bằng các đạo luật và qui định rõ ràng để tránh những lạm dụng, nhất là trong

lãnh vực sinh sản vô tính (cloning).

Muốn có được tủy hay TBG xử dụng trong các cuộc dị ghép, cần

phải có người cho (donor). Rất ít người Á châu tình nguyện hiến máu hay hiến

TBG . Các chủng tộc (ethnic groups) thuờng có các kháng nguyên HLA khác nhau

do tính di truyền. Do đó, việc chữa trị các bệnh nhân gốc Á châu nhiều khi gặp

khó khan khi phải cần đến dị ghép TBG.

Sự hợp tác quốc tế trong công việc điều trị này rất là cần thiết,

không những trong việc lập các danh sách người hiến tủy và hiến TBG, mà còn

trong việc thử (trial) các phác đồ điều trị mới, các thuốc mới .

Vào giữa thế kỷ thứ 19, các khoa học gia người Ý đã gợi ý rằng tủy xương

là nguồn gốc của tế báo máu nhờ có một hóa chất nào đó trong tủy. Tới đầu thế kỷ

20, nhiều nhà nghiên cứu chứng minh là một số tế bào ở tủy tạo ra tế bào máu. Họ

gọi các tế bào này là “tế bào gốc”-stem cells. Kết quả nhiều nghiên cứu kế tiếp đã

xác định dữ kiện này.

Tế bào gốc có trong tủy xương và máu. Tủy là lớp mô bào xốp nằm giữa

các khoảng trống của xương. Ở trẻ sơ sinh, tất cả xương đều có tủy hoạt động

mạnh. Tới tuổi tráng niên, tủy ở xương tay chân ngưng hoạt động trong khi đó tủy

ở các xương sọ, hông, sườn, ức, cột sống vẫn tiếp tục sản xuất tế bào gốc.

Vì máu và tủy đều chứa nhiều tế bào gốc cho nên có nhiều đề nghị các chữ

“ghép tế bào gốc -stem cells transplantation” để thay thế cho “ghép tủy xương-

bone marrow transplantation”.

Đặc tính của các tế bào gốc là có thể tự sinh ra tế bào khác y hệt như mình

và tạo ra các tế bào trưởng thành như hồng cầu, bạch huyết cầu, tiểu cầu.

Ngoài tủy xương, tế bào gốc còn có trong dòng máu lưu thông hoặc máu từ

cuống rốn thai nhi, nhau thai.. Ở tủy xương, cứ khoảng 100,000 tế bào máu thì có

một tế bào gốc, trong khi đó số lượng tế bào gốc ở máu chỉ bằng 1/100 ở tủy.

Khái niệm ghép tủy để trị bệnh được khảo sát một cách khoa học vào cuối

thế chiến II khi có nhiều nạn nhân bị hoại tủy do tiếp cận với phóng xạ, đặc biệt là

sau vụ nổ bom nguyên tử ở Nhật.

Kỹ thuật ghép tủy xương được thực hiện thành công vào năm 1968 để điều

trị các bệnh ung thư bạch cầu, thiếu máu vô sinh (aplastic anemia), u ác tính các

hạch bạch huyết như bệnh Hodgkin, rối loạn miễn dịch và vài loại u như ung thư

noãn sào, vú.

Trong ghép tủy, các tế bào bệnh hoạn của tủy bị tiêu diệt và tế bào gốc lành

mạnh được truyền vào máu, tập trung vào ổ xương và bắt đầu sinh ra tế bào máu

bình thường cũng như thiết lập một hệ miễn dịch mới.

Ghép tế bào gốc cứu sống nhiều người và chỉ thực hiện được khi có người

cho thích hợp. Điều này không dễ dàng, vì để phương thức thành công, tế bào đôi

bên phải hầu như 100% tương xứng. Chỉ dưới 30% bệnh nhân cần ghép tế bào

mầm có thể tìm được tương xứng ở thân nhân.

Nếu người nhận và người cho là sanh đôi đồng nhất (identical twins), do

một trứng được thụ tinh rồi phân chia tạo ra hai thai nhi, thì mọi sự êm đẹp, không

có phản ứng khước từ (reject).

Ngược lại khi người cho và người nhận không là sinh đôi đồng nhất thì cần

phải tìm một người cho có loại tế bào gần tương tự như tế bào người nhận. Đây là

việc làm khá khó khăn, tốn nhiều thời gian để có đối tác tương ứng.

Nhu cầu của bệnh nhân cần được ghép tế bào gốc rất cao mà kiếm được hai

loại tế bào tương xứng giữa người cho và người nhận rất khó khăn. Vì thế nhiều tổ

chức bất vụ lợi quốc tế đã đứng ra để ghi danh những vị tình nguyện hiến tủy hoặc

tế bào mầm trong máu. Mỗi vị ghi danh là một niềm hy vọng cho những bệnh

nhân khao khát chờ đợi được cứu sống. Hiện nay danh sách có khoảng hơn 10

triệu người trên thế giới sẵn sàng dâng hiến.

Hiến tủy được thực hiện tại cơ sở y tế với đầy đủ phương tiện, sau nhiều

sửa soạn chu đáo cho nên rất an toàn. Mọi người từ 18 tới 60 tuổi, có sức khỏe tốt

và hội đủ một số tiêu chuẩn y tế đều có thể ghi danh.

Khi áp dụng phương pháp hóa trị trước ghép, thay vì bị diệt tủy bằng hóa

chất liều cao, cô sinh viên này được giảm liều để gây phản ứng ghép chống chủ (tế

bào được ghép chống lại cơ thể). "Trước kia, hiện tượng này làm người ta sợ hãi,

nhưng giờ đã có bằng chứng cho thấy đi cùng với nó là quá trình các tế bào ghép

tiêu diệt tế bào ung thư. Nhờ đó, khả năng khỏi bệnh tăng lên " - thạc sĩ Khánh

giải thích.

Một cái lợi nữa của việc giảm liều hóa chất là bệnh nhân không phải nằm

trong phòng vô trùng tuyệt đối mấy tháng trời do không bị diệt tủy, nguy cơ tử

vong do nhiễm trùng máu giảm tối đa. Các tác dụng phụ của hóa trị liệu cũng được

hạn chế.

Để lấy tế bào gốc máu, các bác sĩ không chọc tủy của người hiến, mà gạn

từ máu lấy ở cánh tay. Nếu lấy tủy, bác sĩ sẽ phải gây mê cho người hiến, và chọc

vài chục lần mới đủ lượng cần thiết, gây đau đớn, mệt mỏi nhiều.

Tiến sĩ Nguyễn Anh Trí, Viện trưởng Viện Huyết học và Truyền máu, cho

biết trong thời gian tới, ghép tế bào gốc sẽ trở thành kỹ thuật thường quy tại viện

nhằm điều trị các dạng ung thư máu, căn bệnh ngày càng tăng ở Việt Nam.

Nếu như các loại ung thư khác có thể chữa bằng phẫu thuật thì với bệnh

này, điều đó là không thể bởi tế bào bệnh theo máu đi khắp cơ thể. Nếu không

ghép tủy, bệnh nhân chỉ có thể điều trị bằng hóa chất.

"Đây là con dao hai lưỡi mà lưỡi nào cũng sắc" - thạc sĩ Bạch Quốc Khánh

nói. Hóa chất liều càng cao càng giúp tiêu diệt tế bào ung thư, nhưng cũng khiến

bệnh nhân mệt mỏi, kiệt quệ, nhiều người thậm chí còn tử vong trong quá trình

điều trị.