Luận văn

Giải pháp tạo việc làm cho

nông dân bị thu hồi đất nông

nghiệp trên địa bàn huyện Gia

Lâm - Hà Nội

1

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT……………………………………………............4 DANH MỤC BẢNG BIỂU .................................................................................. 5 LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 7 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM VÀ TẠO VIỆC LÀM ... 9 I. Một số khái niệm cơ bản và những yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm. .. 9 1. Một số khái niệm cơ bản. ................................................................... 9 2. Những yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm. ....................................... 12 II. Một số mô hình lý thuyết tạo việc làm. ................................................ 16 1. Mô hình lựa chọn công nghệ phù hợp, khuyến khích giá, tạo việc làm. .............................................................................................................. 16 2. Mô hình phát triển của Lewis. ........................................................... 17 3. Mô hình thu nhập dự kiến về sự di cư nông thôn – thành thị.(Harris- Todaro) ................................................................................................. 17 III. Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động. ..................................... 18 1. Đối với xã hội. .................................................................................. 18 2. Đối với doanh nghiệp. ....................................................................... 19 3. Đối với người lao động. .................................................................... 19

IV. Kinh nghiệm của một số nước châu Á trong vấn đề tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất. ............................................................................ 21 1. Kinh nghiệm của Trung Quốc. .......................................................... 21 2. Kinh nghiệm của Thái Lan. ............................................................... 22 3. Kinh nghiệm của Nhật Bản. .............................................................. 23

CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TẠO VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM .. 24 I. Đặc điểm huyện Gia Lâm. ..................................................................... 24 1. Điều kiện tự nhiên. ............................................................................ 24 2. Đặc điểm kinh tế, xã hội. ................................................................... 28 3. Đặc điểm dân số, lao động. ............................................................... 30 II. Phân tích thực trạng tạo việc làm cho nông dân sau khi bị thu hồi đất. . 38 1. Số lượng. ........................................................................................... 38 2. Cơ cấu việc làm mới. ........................................................................ 39 III. Hiệu quả của tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp. .. 50 1. Hiệu quả đạt được. ............................................................................ 51 2. Hạn chế. ............................................................................................ 53

2

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM ............... 61 I. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của huyện trong thời gian tới. .......... 61 1. Kinh tế. ............................................................................................. 61 2. Dân số, lao động, việc làm. ............................................................... 61

3

II. Những giải pháp chủ yếu. ..................................................................... 62 1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo nghề. ........................................ 62 2. Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện. .............................................................................................................. 64 3. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. .......................................................... 69 4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn. ............................ 71 5. Tăng cường hoạt động của hệ thống thông tin thị trường lao động. .. 73 6. Khuyến khích nông dân tự tạo việc làm. ........................................... 73 7. Hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất. .......................................................... 74 8. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX. .......................... 75 III. Một số kiến nghị trong vấn đề tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất. ................................................................................................................. 77 1. Đối với thành phố Hà Nội. ................................................................ 77 2. Đối với chính quyền địa phương. ...................................................... 78 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 81 MỘT SỐ TRANG WEB ..................................................................................... 81

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CĐ-ĐH : Cao đẳng- Đại học.

CHXHCN : Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

CNKT : Công nhân kỹ thuật.

CNH-HĐH : Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.

CN-XDCB : Công nghiệp- Xây dựng cơ bản.

HTX : Hợp tác xã.

ILO : International Labor Organization.

KVNN : Khu vực nhà nước.

LĐPT : Lao động phổ thông.

LD : Liên doanh.

THCN : Trung học chuyên nghiệp.

TNHH : Trách nhiệm hữu hạn.

UBND : Uỷ ban nhân dân.

4

XKLĐ : Xuất khẩu lao động.

DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT Tên Trang

Bảng 1 Diện tích đất của các xã, thị trấn thuộc huyện Gia 25

Lâm.

Bảng 2 Diện tích các loại đất nông nghiệp của huyện Gia 26

Lâm.

Bảng 3 Diện tích và số hộ bị thu hồi đất nông nghiệp trên 27

địa bàn huyện Gia Lâm từ năm 2006 đến 2008.

Bảng 4 Giá trị sản xuất các ngành của huyện Gia Lâm 29

(2005-2008).

Bảng 5 Cơ cấu kinh tế của huyện Gia Lâm ( 2005-2008). 29

Bảng 6 Tình hình dân số, lao động, việc làm huyện trên địa 31

bàn huyện Gia Lâm.

Bảng 7 Số người trong độ tuổi lao động bị thu hồi đất nông 35

nghiệp cần giải quyết việc làm.

Bảng 8 Kết quả giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi 37

đất nông nghiệp ở huyện Gia Lâm.

Bảng 9 Kết quả giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi 38

đất theo tuổi.

Bảng 10 Tổng hợp kết quả đào tạo nghề cho lao động nông 39

thôn vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất huyện

Gia Lâm.

Bảng 11 Thời gian hỗ trợ và kinh phí hỗ trợ dạy nghề. 40

Bảng 12 Kết quả giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi 43

5

đất nông nghiệp theo ngành kinh tế.

Bảng 13 Bảng giá đất nông nghiệp. 54

Bảng 14 Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật 57

của lao động trong các hộ bị thu hồi đất ở huyện

Gia Lâm.

Hình 1 Cơ cấu việc làm mới theo ngành kinh tế. 44

Hình 2 Số lượng việc làm mới theo thành phần kinh tế 45

Hình 3 Cơ cấu việc làm mới theo trình độ chuyên môn kỹ 47

thuật.

Hình 4 Số lượng việc làm mới theo xã. 49

6

Hình 5 Phân loại HTX. 59

LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế và trong quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do yêu cầu phát triển kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá và hội nhập

sâu vào nền kinh tế thế giới, việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế

xuất, khu đô thị... nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển là một thực tế

khách quan, tuy nhiên, quá trình trên cũng đã và đang làm nảy sinh nhiều

vấn đề kinh tế, xã hội rất bức xúc ở các địa phương, nhất là ở những nơi

phương có tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá diễn ra nhanh chóng. Mặt

khác, nước ta là một trong những nước đi đầu về tăng trưởng kinh tế nông

nghiệp, nhất là cây lương thực. Từ một nước phải nhập khẩu 1/3 lương

thực mỗi năm đã vươn lên đứng thứ 2 về xuất khẩu lúa gạo. Với một nước

ta nông nghiệp, lấy sản xuất lúa nước làm chính, với hơn 70% số dân sống

ở nông thôn, 23% là hộ nghèo, 57% lực lượng xã hội làm trong ngành nông

nghiệp, thì thành tựu này có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội. Nhưng trước

thách thức về đất đai nông nghiệp ngày càng thu hẹp, vấn đề việc làm của

người nông dân sau khi bị thu hồi đất được coi là vấn đề bức xúc nhất. Đây

cũng là thách thức lớn đối với chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn

nói riêng và phát triển đất nước nói chung.

Gia Lâm, một huyện ngoại thành Hà Nội, có vai trò quan trọng, vừa là

khu vực nông nghiệp, nông thôn, vừa là vành đai xanh, cung cấp thực

phẩm cho thủ đô. Nhưng cùng với sự phát triển của thủ đô, cùng với quá

trình đô thị hoá nông thôn, diện tích đất nông nghiệp của huyện cũng đang

phải nhường chỗ cho các khu công nghiệp, khu đô thị. Người nông dân

quanh năm chỉ bám với đồng ruộng, hoạt động lúc nông nhàn của họ cũng

gắn liền với cánh đồng, thu nhập chỉ trông chờ vào mấy sào ruộng. Việc

7

sản xuất lại phụ thuộc phần lớn vào tự nhiên. Mặt khác, người nông dân

thường rất dễ bị tổn thương trước sự chi phối khắc nghiệt của thị trường.

Giờ mất đất, mất tư liệu sản xuất, nông dân không có việc làm, cuộc sống

gặp nhiều khó khăn. Với một huyện còn khó khăn như Gia Lâm, tạo việc

làm cho nông dân mất đất, là một bài toán không dễ giải. Chính vì vậy, sau

một thời gian tìm hiểu về thực trạng việc làm của người nông dân sau khi

bị thu hồi đất ở huyện Gia Lâm, em đã quyết định chọn đề tài:

“ Giải pháp tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp trên

địa bàn huyện Gia Lâm - Hà Nội”.

Kết cấu đề tài gồm 3 chương:

Chương I : Cở sở lý luận về việc làm và tạo việc làm.

Chương II : Phân tích thực trạng tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi

đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm.

Chương III: Một số giải pháp tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất

nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm.

- Mục đích nghiên cứu: qua việc phân tích thực trạng tạo việc làm cho

nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp để tìm ra những hạn chế, khó khăn

trogn quá trình tạo việc làm cho những người này. Từ đó, gợi mở những

hướng đi cho các hộ nông dân khắc phục khó khăn, có được phương án tìm

việc làm tốt nhất. Đồng thời, đề xuất một số ý kiến với thành phố Hà Nội,

chính quyền huyện Gia Lâm nhằm tạo việc làm cho nông dân đạt hiệu quả

hơn.

- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các hộ nông dân bị

thu hồi đất nông nghiệp.

- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất

8

nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm từ năm 2006 đến năm 2008.

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM VÀ TẠO VIỆC LÀM

I. Một số khái niệm cơ bản và những yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm.

1. Một số khái niệm cơ bản.

1.1. Việc làm.

- Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và

những điều kiện cần thiết ( vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng

sức lao động đó.

- Tổ chức Lao động quốc tế ( ILO ) đưa ra khái niệm: “Việc làm là những

hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật”.

- Điều 13, chương II Bộ Luật Lao Động nước CHXHCN Việt Nam có ghi

rõ: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm

đều được thừa nhận là việc làm”.

Theo khái niệm trên một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn hai

điều kiện:

- Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động

và cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn

mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm.

- Hai là, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cám. Điều này chỉ rõ tính

pháp lý của việc làm.

Các hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm:

- Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật.

- Những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc thu nhập

cho gia đình mình, nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc hiện vật)

cho công việc đó. Đó có thể là các công việc trong các nhà máy, công sở,

9

các công việc nội trợ, chăm sóc con cái, đều được coi là việc làm.

1.2. Thiếu việc làm.

Thiếu việc làm là tình trạng người lao động không có đủ việc làm theo

thời gian quy định trong tuần, trong tháng hoặc làm những công việc có thu

nhập quá thấp không đảm bảo cuộc sống nên muốn làm việc thêm để có thu

nhập. Người thiếu việc làm là những người trong khoảng thời gian xác định

của cuộc điều tra có tổng số giờ làm việc nhỏ hơn số giờ quy định trong

tuần, trong tháng hoặc trong năm và có nhu cầu làm thêm giờ; hoặc là

những người có tổng số giờ làm việc bằng số giờ quy định trong tuần,

tháng, năm nhưng có thu nhập quá thấp nên muốn làm thêm để có thu

nhập.

1. 3. Thất nghiệp.

Thất nghiệp là sự mất việc làm hay sự tách rời lao động ra khỏi tư liệu sản

xuất.

Định nghĩa thất nghiệp của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “Thất nghiệp

là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động muốn làm việc

nhưng không thể tìm được việc làm ở mức lương thịnh hành”.

Theo P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus, người thất nghiệp là những

người trong không có việc làm được trả công và đang cố gắng cụ thể để đi

tìm một công việc trong 4 tuần qua, hoặc bị thôi việc nhưng đang chờ được

gọi làm việc trở lại, hoặc đang chờ đợi đi làm trong tháng tới.

Ở Việt Nam, bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã quy định: “Người

thất nghiệp là những người đủ từ 15 tuổi trở lên, có nhu cầu làm việc nhưng

không việc làm trong tuần lễ điều tra, và tính đến thời điểm điều tra có đi

tìm việc trong 4 tuần lễ qua hoặc không đi tìm việc trong 4 tuần lễ qua với

lý do chờ việc, nghỉ thời vụ, không biết tìm việc ở đâu...hoặc trong tuần lễ

trước điều tra có tổng số giừo làm việc dưới 8 giờ, muốn làm thêm nhưng

10

không tìm được việc.

1.4. Tạo việc làm.

Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất; số

lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để

kết hợp với tư liệu sản xuất và sức lao động.

Cơ chế tạo việc làm: cơ chế 3 bên, đòi hỏi sự tham gia tích cực của người

lao động, nhà nước và người sử dụng lao động sao cho cơ hội việc làm và

mong muốn được làm việc của người lao động gặp nhau trên thị trường

đúng lúc, đúng chỗ.

- Về phía người lao động: muốn tìm được việc làm phù hợp, có thu nhập

cao, đương nhiên phải có kế hoạch thực hiện và đầu tư cho phát triển sức

lao động của mình, có nghĩa là phải tự mình hoặc dựa vào các nguồn tài trợ

( từ gia đình, từ các tổ chức xã hội) để tham gia, phát triển, nắm vững một

nghề nghiệp nhất định.

- Về phía Nhà nước: tạo ra hành lang pháp lý, ban hành các luật lệ, chính

sách liên quan trực tiếp đến người lao động và người sử dụng lao động, tạo

môi trường pháp lý kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất là một bộ

phận cấu thành trong cơ chế tạo việc làm cho người lao động.

- Về phía người sử dụng lao động: cần có thông tin về thị trường đầu vào

và đầu ra để không chỉ tạo ra chỗ việc làm mà còn duy trì và phát triển chỗ

làm việc cho người lao động. Do đó, người sử dụng lao động cần có vốn để

mua hoặc thuê nhà xưởng; công nghệ, máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật

liệu, mua sức lao động để sản xuất ra sản phẩm. Hơn nữa, để mở rộng quy

mô sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất thì các chủ sử dụng lao động còn

cần có kinh nghiệm quản lý, biết vận dụng linh hoạt chính sách của nhà

nước trong lĩnh vực lao động, việc làm. Đồng thời đề ra các quy định phù

11

hợp, quản lý lao động một cách khoa học và nghệ thuật nhằm đạt được mục

tiêu của tổ chức và nâng cao sự thoả mãn của người lao động, khơi dậy

động lực lao động ở mỗi người.

2. Những yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm.

Điều kiện tự nhiên.

Điều kiện tự nhiên của một quốc gia, một vùng, một thành phố, một địa

phương đã có sẵn, ngoài ý muốn chủ quan của con người. Đó có thể là đất

đai, màu mỡ hay không màu mỡ, phù hợp với loại cây trồng nào; hay điều

kiện khí hậu, thuỷ văn thuận lợi hay bất lợi cho phát triển các loại cây

trồng, vật nuôi; các nguồn tài nguyên khoáng sản nhiều hay ít, địa hình

bằng phẳng hay không bằng phẳng, thuận lợi phát triển ngành sản xuất nào,

tạo ra bao nhiêu chỗ làm việc mới.....Trên thế giới có nhiều nước rất giàu

tài nguyên thiên nhiên, đất đai rộng lớn thuận lợi cho phát triển các ngành

sản xuất và thu hút lao động. Còn đối với những nước không được thiên

nhiên ưu đãi, đất đai chật hẹp, nghèo tài nguyên, họ có vốn, có công nghệ

kỹ thuật hiện đại, máy móc tiên tiến, phương pháp quản lý tiên tiến nên đã

tạo ra được nhiều việc làm mới và việc làm có chất lượng cao.

Dân số.

Dân số vừa là yếu tố của sản xuất, vừa là yếu tố của tiêu dùng. Xét trên

phương diện là yếu tố của tiêu dùng, các kết quả dân số: quy mô, cơ cấu,

phân bố, chất lượng dân số quy định quy mô, cơ cấu, chất lượng, sự phân

bố các ngành nghề, các lĩnh vực sản xuất của xã hội. Sản xuất cho ai; sản

xuất cái gì, khi nào, ở đâu, chất lượng sản phẩm hàng hoá ra sao...là do số

lượng, cơ cấu, chất lượng dân số quy định. Cụ thể:

- Quy mô dân số tăng, nhu cầu về lượng hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng

tăng lên. Để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng tăng lên đó đòi hỏi phải mở rộng

12

sản xuất, đa dạng hoá các ngành nghề hoạt động. Điều đó dẫn đến nhiều

ngành nghề mới ra đời, dẫn đến số chỗ làm việc mới cũng được tạo ra

nhiều hơn, cơ cấu việc làm cũng biến đổi theo.

- Cơ cấu dân số quyết định cơ cấu tiêu dùng. Mỗi độ tuổi, giới tính, ngành

nghề, tôn giáo, dân tộc.... đều có tâm lý, sở thích tiêu dùng khác nhau, nhu

cầu tiêu dùng về số lượng, chủng loại, chất lượng hàng hoá, dịch vụ cũng

khác nhau. Để thoả mãn đầy đủ nhu cầu tiêu dùng cho các đối tượng đó tất

yếu phải mở rộng, phát triển sản xuất, thay đổi cơ cấu sản xuất, đa dạng

chủng loại hàng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm; thay đổi cơ cấu ngành

nghề. Nghĩa là số lượng việc làm được tạo ra nhiều hơn, phát triển đa dạng

hơn.

- Mức sinh tăng hay giảm cũng ảnh hưởng đến tạo việc làm. Mức sinh cao,

số trẻ em mới được sinh ra nhiều, nhu cầu tiêu dùng, đặc biệt là của trẻ em

tăng lên. Các khoản chi phí cho giáo dục, y tế, chăm sóc sức khoẻ và nhiều

lĩnh vực hoạt động khác đều tăng, các dịch vụ khác ăn theo cũng phát triển

hơn, cơ cấu việc làm thay đổi..Nghĩa là cùng với mức sinh tăng lên, nhiều

việc làm mới được tạo ra, quy mô, cơ cấu việc làm đa dạng hơn. Còn mức

sinh giảm nghĩa là số người già đông hơn, vì nhiều lý do mà họ phải gia

nhập trở lại thị trường lao động, áp lực về việc làm tăng lên, tạo việc làm

cho người già trở nên nan giải.

- Mức chết: sự biến đổi của mức chết cũng tác động đến vấn đề tạo việc

làm. Mức chết tăng lên, nhất là mức chết của dân cư trong độ tuổi lao động

cao dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực, nhiều chỗ việc làm không

có người đảm nhận. Hơn nữa khi mức chết tăng cao, số người chết trung

bình hàng năm nhiều lên, dịch vụ phục vụ tang lễ và nhiều hoạt động khác

đi kèm cũng thay đổi, cơ cấu việc làm cũng biến đổi theo. Mức chết giảm

xuống, nhất là mức chết của dân số trong độ tuổi lao động giảm, cung lao

13

động tăng lên tương đối, nhu cầu và áp lực việc làm tăng theo. Mức chết

giảm xuống, dân số có xu hướng già hoá, số người giá đông hơn, tuổi thọ

trung bình trong dân cư tăng lên....việc làm cho người già, các dịch vụ

chăm sóc người già cũng tăng theo.

- Di dân làm cho quy mô, cơ cấu, chất lượng và phân bố dân số ở vùng đi

và vùng đến thay đổi. Di dân thường xảy ra đối với những người đang

trong độ tuổi lao động sẽ dẫn đến cung lao động ở vùng đến tăng lên, ở

vùng đi giảm xuống. Cơ cấu dân số cũng thay đổi: ở vùng đến cơ cấu dân

số thường trẻ hơn, ở vùng đi cơ cấu dân số già đi. Từ đó dẫn đến nhu cầu

tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ sẽ thay đổi. Vùng đến nhu cầu tiêu dùng tăng

lên đòi hỏi phải mở rộng sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm. Nhiều ngành

nghề mới ra đời, tạo ra ra nhiều chỗ làm mới.

Cung lao động.

Cung cầu lao động có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Quy mô, cơ

cấu, phân bố và chất lượng lao động quy định quy mô, phân bố, cơ cấu và

chất lượng việc làm. Ở đâu và khi nào lao động được cung ứng lớn thì nơi

đó, khi đó việc làm được tạo ra nhiều hơn và ngược lại.

Cung lao động là nam hay nữ, già hay trẻ... đều tác động đến cơ cấu việc

làm. Bởi vì mỗi độ tuổi, giới tính khác nhau đều có những ưu thế riêng

trong lĩnh vực hoạt động, trong sản xuất kinh doanh. Nếu khai thác và sử

dụng hiệu quả thế mạnh từ khía cạnh tuổi và giới tính của người lao động

sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực. Khi cơ cấu lao động thay đổi, cơ cấu

các ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân nói chung, nhiều lĩnh vực khác

nói riêng tất yếu phải có sự điều chỉnh cho phù hợp. Điều đó dẫn đến đặc

điểm hoạt động nghề nghiệp, tính chất của việc làm sẽ thay đổi.

Chất lượng lao động được đánh giá trên các mặt về sức khoẻ, trình độ,

phẩm chất. Vấn đề được nói đến nhiều khi đề cập đến chất lượng lao động

14

là trình độ của người lao động. Kinh tế ngày càng phát triển, khoa học kỹ

thuật ngày một tiên tiến, đòi hỏi người lao động phải có trình độ nhất định

đáp ứng yêu cầu công việc. Người lao động có trình độ càng cao thì cơ hội

tìm được việc làm càng dễ dàng. Hầu hết những người thất nghiệp chủ yếu

là những người có trình độ thấp, không đáp ứng được yêu cầu của những

công việc đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Do đó, người lao động

muốn kiếm được việc làm và nhất là việc làm có thu nhập cao phù hợp cần

phải có các thông tin thị trường lao động, biết các cơ hội việc làm và đặc

biệt là đầu tư vào vốn con người cả về thể lực và trí lực. Mỗi người lao

động cần tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mình, tranh thủ

các nguồn tài trợ để tham gia giáo dục, đào tạo, phát triển sức lao động

nhằm nâng cao kiến thức, nhận thức, kinh nghiệm. Đó cũng chính là điều

kiện cần thiết để duy trì việc làm, tạo cơ hội việc làm có thu nhập, nâng cao

vị thế bản thân mỗi người lao động.

Cơ chế, chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước.

Cơ chế chính sách của chính phủ quốc gia, của chính quyền địa phương,

các quy định của chủ doanh nghiệp là nhóm nhân tố quan trọng tạo việc

làm cho người lao động. Trong mỗi thời kỳ khác nhau, chính phủ sẽ đề ra

những chính sách cụ thể, tạo hành lang pháp lý cho phát triển sản xuất, cải

thiện đời sống, mở rộng hoặc thu hẹp việc làm của ngành này hay ngành

khác, tạo môi trường để người sử dụng lao động và người lao động gặp

nhau. Chẳng hạn, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần làm thay

đổi cơ cấu kinh tế, do đó cơ cấu lao động theo ngành kinh tế, theo vùng

cũng thay đổi.

Đảng ta đã xác định phương hướng cơ bản là: “ Nhà nước cùng toàn dân

ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế

xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân mọi nhà đầu tư

15

mở mang ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều

được tự do hành nghề, thuê mướn lao động theo pháp luật. Phát triển dịch

vụ việc làm, tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước,

tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh, quốc

phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động”.

Trong Bộ luật lao động của nước ta quy định: “Người lao động có quyền

làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và bất kỳ chỗ nào mà pháp

luật không cấm”(khoản 1, điều 16). Điều 13 ghi rõ: “Giải quyết việc làm,

bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là

trách nhiệm của nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”.

II. Một số mô hình lý thuyết tạo việc làm.

1.Mô hình lựa chọn công nghệ phù hợp, khuyến khích giá, tạo việc làm. Quan điểm cơ bản của mô hình khuyến khích giá cho rằng để sản xuất ra

một mức sản lượng mong muốn, các nhà sản xuất đứng trước hai lựa chọn

lớn: một là có nhiều mức giá khác nhau để mua vốn, lao động, nguyên vật

liệu...phải lựa chọn mức giá sao cho chi phí sản xuất là thấp nhất. Hai là để

tối ưu hoá lợi nhuận, các nhà sản xuất phải lựa chon công nghệ phù hợp

(công nghệ sử dụng nhiều vốn hay công nghệ sử dụng nhiều lao động ).

Nếu giá vốn cao hơn giá lao động thì nhà sản xuất sẽ lựa chọn công nghệ

sử dụng nhiều lao động. Ngược lại, nếu giá lao động tương đối cao thì nhà

sản xuất sẽ lựa chọn công nghệ sử dụng nhiều vốn.

Trong bối cảnh các nước đang phát triển thường có nguồn lao động dồi

dào, nhưng lại ít vốn thì các hãng chủ yếu sản xuất thiên về sử dụng nhiều

lao động. Do đó, các chính sách nhằm điều chỉnh giá cả thông qua việc hạ

thấp giá tương đối của lao động sẽ góp phần không chỉ tạo thêm nhiều việc

làm mà còn sử dụng tốt hơn các nguồn vốn khan hiếm nhờ áp dụng công

16

nghệ phù hợp.

2.Mô hình phát triển của Lewis.

Lewis đưa ra lý thuyết này trong việc giải thích về sự di chuyển lao động

từ nông nghiệp sang công nghiệp ở một nước vừa mới công nghiệp hoá.

Đây là mô hình phổ biến nhất trong tất cả các mô hình tạo việc làm có liên

hệ cụ thể với các nước đang phát triển. Tác giả cho rằng: “ một nền kinh tế

kém phát triển bao gồm hai khu vực: một là khu vực nông nghiệp tự cung,

tự cấp truyền thống, lao động dư thừa có năng suất bằng không hoặc rất

thấp; hai là khu vực công nghiệp thành thị hiện đại có năng suất cao mà lao

động khu vực nông nghiệp dần chuyển sang. Tăng sản lượng trong khu vực

hiện đại dẫn đến lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và gia tăng công

ăn việc làm tại thành thị.

Mô hình này dựa trên ba giả định:

- Một là, tốc độ di chuyển lao động và tăng công ăn việc làm tỷ lệ thuận với

tốc độ tích luỹ vốn. Tốc độ tích luỹ vốn càng nhanh thì tốc độ tăng trưởng

tại khu vực hiện đại và tăng việc làm ở thành thị càng cao.

- Hai là, ở khu vực nông thôn thừa lao động, trong khi có sự toàn dụng lao

động ở thành thị.

- Ba là, mức lương thực tế ở thành thị sẽ không đổi cho đến khi nguồn cung

cấp lao động dư thừa ở khu vực nông thôn trở nên cạn kiệt.

3. Mô hình thu nhập dự kiến về sự di cư nông thôn – thành thị.(Harris- Todaro) Quá trình đô thị hoá diễn ra đồng thời với quá trình công nghiệp hoá. Do

đó, di dân từ nông thôn ra thành thị là xu hướng tất yếu khách quan của các

nước trong quá trình phát triển. Những người di cư so sánh mức thu nhập

dự kiến có được trong một khoảng thời gian nhất định ở thành thị với mức

thu nhập trung bình đang có ở nông thôn. Quyết định di cư sẽ được thực

17

hiện nếu thu nhập dự kiến cao hơn thu nhập thực tế. Thu nhập dự kiến thu

được của người lao động di chuyển tuỳ thuộc vào khả năng có thể kiếm

việc làm ở thành thị, mức lương ở thành thị, độ tuổi di cư. Todaro đề xuất

chính phủ giảm mức lương ở thành thị, xoá bỏ những méo mó về giá cả

của các nhân tố sản xuất, tăng cường việc làm ở nông thôn, áp dụng công

nghệ và chính sách phù hợp.

III. Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động.

Tạo việc làm có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế. Vì sự phát

triển kinh tế phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng các nguồn lực như tài nguyên,

vốn, lao động, công nghệ, trong đó việc sử dụng lao động có vai trò quan

trọng và quyết định tới sự phát triển. Tạo việc làm cho người lao động nói

chung và người nông dân bị thu hồi đất nói riêng có vai trò quan trọng

không chỉ đối với xã hội mà còn đối với doanh nghiệp và bản thân người

lao động. Cụ thể là:

1. Đối với xã hội.

Công nghiệp hoá là xu hướng tất yếu của các quốc gia muốn nhanh chóng

thoát khỏi tình trạng kinh tế nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, mức sống

thấp sang nền kinh tế công nghiệp, năng suất cao. Trong quá trình đó sẽ

dẫn dến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, và kéo theo chuyển dịch cơ cấu lao

động. Hoạt động sản xuất mới ra đời, hoạt động sản xuất cũ mất đi, thất

nghiệp phát sinh. Cho nên, tạo việc làm cho người lao động là cần thiết

nhằm giảm thất nghiệp, hạn chế sự di chuyển lao động từ nông thôn ra

thành thị, giảm gánh nặng cho các thành phố lớn trong vấn đề tạo việc làm.

Đồng thời, tạo việc làm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, hạn chế

tiêu cực xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo và bình ổn xã hội. Tạo việc

làm cho người lao động là biện pháp trung tâm của mọi quốc gia, nó cho

18

phép giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội.

2.Đối với doanh nghiệp.

Tạo việc làm là trách nhiệm của doanh nghiệp như trong điều 13 Bộ luật

lao động nước CHXHCN Việt Nam đã quy định. Tạo việc làm cho người

lao động chính là duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Người

lao động là một trong những yếu tố cấu thành nên doanh nghiệp, quyết định

sự thành bại của doanh nghiệp. Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động sẽ

làm tăng thu nhập, sức mua cũng tăng lên, thúc đẩy sản xuất phát triển.

Một doanh nghiệp không thể tồn tại chỉ với những cỗ máy mà nó phải được

vận hành bởi con người, có sự tác động của con người. Đặc biệt trong điều

kiện của nước ta hiện nay, các doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp vừa

và nhỏ, vốn ít, sản xuất chủ yếu sử dụng nhiều lao động.

3. Đối với người lao động.

Tạo việc làm cho người lao động đáp ứng quyền lợi của người lao động,

quyền có việc làm và nghĩa vụ phải làm việc của người trong độ tuổi lao

động, có khả năng lao động như Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam đã ghi nhận.

Có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, từ đó nâng cao vị thế của người

lao động trong gia đình và xã hội. Nếu không có việc làm sẽ không có thu

nhập và không có điều kiện thoả mãn các nhu cầu chính đáng về vật chất

và tinh thần của người lao động, chất lượng cuộc sống giảm sút, nảy sinh

những hàng động, suy nghĩ tiêu cực, gia tăng các tệ nạn xã hội, kìm hãm sự

phát triển của đất nước.

Đối với người nông dân nói riêng: Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng

của người nông dân. Với nông dân, có đất coi như là đã sống vì ít nhất họ

19

cũng đủ cơm ăn từ những thửa ruộng của mình. Giờ đây, khi đất canh tác

của người nông dân bị quy hoạch làm khu công nghiệp khu đô thị làm cho

nông dân rơi vào tình trạng tư liệu sản xuất bị mất hoặc giảm đi. Ngoài việc

cày cấy ra, họ không biết làm gì. Không nghề nghiệp, không trình độ.

Người thì bỏ đi làm ăn xa, lao động trẻ bỏ đi cầu thực nơi xa, chỉ còn phụ

nữa, người già, trẻ nhỏ ở lại. Trong khi, họ là những người thường rất dễ bị

tổn thương trước sự chi phối của quy luật thị trường. Cùng với tâm lý lo sợ

rủi ro, lối tư duy “ăn chắc, mặc bền”, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún càng làm

cho cơ hội tìm kiếm việc làm của người nông dân càng trở nên khó khăn.

Tình cảnh “ nghèo thì nghèo thêm, giàu thì giàu hơn” đang là tác nhân

chính khoét sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo giữa người giàu và người

nghèo, giữa nông thôn và thành thị. Do đó, tạo việc làm cho nông dân là rất

cần thiết, nhất là những nông dân bị mất đất canh tác. Nông dân là cái nền

của xã hội. Xã hội sẽ không yên nếu cái nền không yên. Mọi sự phát triển,

mọi bước đi sẽ trở nên chông chênh. Không thể đền bù với mức giá thấp

như hiện nay rồi bỏ mặc nông dân trong vòng xoáy của thất nghiệp. Điều

này liên quan đến một loạt các chính sách về giáo dục, đào tạo, đặc biệt đối

với thanh niên, bởi đây là lực lượng nòng cốt, là xương sống để phát triển

kinh tế nông thôn, duy trì bản sắc dân tộc. Nông thôn đang mất đi một lực

lượng lao động quan trọng, khiến cho sự phát triển kinh tế khu vực này bị

kìm hãm. Nếu đẩy mạnh công nghiệp hoá và đô thị hoá không gắn liền với

quyền lợi và công ăn việc làm của người dân nông thôn thì sẽ tạo ra sự mất

ổn định tại nông thôn và làm chậm tiến trình công nghiệp hoá. Việc làm

20

cho nông dân, hướng đi để phát triển nông thôn bền vững.

IV. Kinh nghiệm của một số nước châu Á trong vấn đề tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất.

1. Kinh nghiệm của Trung Quốc.

Theo quy luật phát triển của xã hội, công nghiệp hoá và đô thị hoá là sự

lựa chọn tất yếu của các quốc gia. Trung Quốc, nước đông dân nhất thế

giới, và cũng là nước có nền nông nghiệp phát triển mạnh. Trong những

năm gần đây, tiến trình đô thị hoá ở Trung Quốc diễn ra rất nhanh, nhưng

cũng đồng thời lấy đi nhiều diện tích đất nông nghiệp. Thống kê cho thấy,

khi tỷ lệ đô thị hoá nâng lên 1,5% thì nhu cầu sử dụng đất tăng lên 1%. Từ

năm 2000 đến năm 2005, diện tích đất canh tác của Trung Quốc bị thu hồi

đã lên đến 7,3 triệu ha. Do ruộng đất bị thu hồi thì hàng năm có hàng triệu

nông dân Trung Quốc mất đất, thất nghiệp; trung bình mỗi năm tăng thêm

từ 2,5 đến 3 triệu người. Theo tính toán cứ 2 mẫu đất bị thu hồi thì có 3

người nông dân thất thiệp. Vì vậy, sau khi bị thu hồi đất, vấn đề giải quyết

việc làm cho người nông dân trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.

- Tích cực phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp sẽ tạo điều kiện cho

người nông dân có việc làm là chính sách lâu dài mà Trung Quốc đang tập

trung giải quyết. Các địa phương ở Trung Quốc đã có nhiều cách làm khác

nhau để giải quyết vấn đề này như:

- Thành lập quỹ đào tạo, bồi dưỡng nghề cho những nông dân bị thu hồi

đất; khuyến khích các đơn vị ưu tiên sắp xếp công ăn việc làm cho người

nông dân bị thu hồi đất; khuyến khích nông dân lập nghiệp, tạo điều kiện

cho các hộ nông dân bị thu hồi đất vào thành phố mở doanh nghiệp và

được hưởng các chính sách ưu đãi như các đối tượng thất nghiệp ở thành

phố.

- Áp dụng chính sách hỗ trợ bảo hiểm xã hội cho người nông dân bị thu

21

hồi đất. Tất cả các đơn vị tuyển dụng người nông dân bị thu hồi đất vào

làm việc phải ký hợp đồng lao động cho những người này từ 3 năm trở lên,

mức lương hàng tháng không thấp hơn 120% mức lương tối thiểu của địa

phương.

2. Kinh nghiệm của Thái Lan.

Trong những năm gần đây diện tích đất nông nghiệp của Thái Lan đang

giảm dần do tốc độ công nghiệp hoá, sự mở rộng các khu công nghiệp, giải

trí, khu đô thị, kém theo hiện tượng lơ là trong việc áp dụng các kỹ thuật

canh tác mới theo phương châm bền vững khiến đất canh tác bị rửa trôi, xói

mòn hoặc nhiễm mặn. Điều đó khiến người nông dân không mặn mà với

nghề nông, bỏ lại ruộng vườn đến những thành phố lớn kiếm việc, tạo áp

lực việc làm tại các thành phố lớn. Vậy Thái Lan đã giải quyết vấn đề này

như thế nào?

- Bên cạnh những chính sách khuyến khích và hỗ trợ nông dân thì vấn đề

liên quan đến “tính mềm” như đào tạo kỹ thuật, nâng cao nhận thức của

người nông dân được coi trọng hướng đến. Nhiều trường đại học, cao đẳng,

trung học và các khoá học tại chỗ về kỹ thuật canh tác, chuyển giao công

nghệ được mở rộng với nhiều ưu đãi nhằm thu hút và nâng cao trình độ

nguồn nhân lực nông thôn.

- Tăng cường công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giảm rủi ro trong

sản xuất nông nghiệp cho người nông dân, xoá bỏ thuế nông nghiệp.

- Triển khai chương trình điện khí hoá nông thôn, xây dựng hệ thống

thuỷ lợi bảo đảm tưới tiêu.

- Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cải tạo đất trồng, cải tạo những vùng

đất thoái hoá, khô cằn nâng cao độ màu mỡ cho đất. Điều này giúp tăng

22

diện tích đất canh tác cho nông dân, góp phần sử dụng hiệu quả quỹ đất.

3. Kinh nghiệm của Nhật Bản.

Với diện tích đất canh tác có hạn, dân số đông, đơn vị sản xuất nông

nghiệp chính tại Nhật Bản vẫn là những hộ gia đình nhỏ, mang đậm tính

chất của một nền văn hoá lúa nước. Nhật Bản đã có một số biện pháp phát

triển khôn khéo và có hiệu quả sau:

- Nhật Bản đã chú trọng phát triển, xây dựng, hoàn thiện kết cấu hạ tầng,

hệ thống năng lượng và thông tin liên lạc.

- Phân bổ các ngành công nghiệp chế biến dùng sản phẩm của nông

nghiệp làm nguyên liệu trên địa bàn nông thôn.

- Chính phủ Nhật Bản thường xuyên có chính sách trợ giá nông sản cho

các vùng nông nghiệp mũi nhọn. Từ đó tạo việc làm cho nông dân, ngăn

23

chặn làn sóng lao động rời bỏ nông thôn ra thành thị.

CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TẠO VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM

I. Đặc điểm huyện Gia Lâm.

1.Điều kiện tự nhiên.

Sau khi quận Long Biên được thành lập năm 2003, diện tích tự nhiên của

huyện là 114,7299 km2 với dân số hiện tại là 209.676 người. Mật độ dân

số bình quân 1800 người/km2, đứng thứ 3 trong số các huyện ngoại thành.

- Vị trí địa lý: Gia Lâm là 1 huyện ngoại thành nằm phía Đông Bắc Hà Nội.

Hiện nay, huyện có 22 đơn vị hành chính gồm 20 xã và 2 thị trấn: xã Cổ Bi,

Văn Đức, Kim Lan, Ninh Hiệp, Dương Xá, Yên Viên, Đình Xuyên, Đông

Dư, Lệ Chi, Đặng Xá, Trung Mầu, Dương Quang, Phú Thị, Kim Sơn, Kiêu

Kỵ, Đa Tốn, Phù Đổng, Dương Hà, Yên Thường, Bát Tràng, thị trấn Yên

Viên, thị trấn Trâu Quỳ. Phía Bắc giáp huyện Đông Anh và tỉnh Bắc Ninh;

phía Đông giáp tỉnh Hưng Yên; phía Tây giáp quận Long Biên, Tây Nam

giáp quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì.

- Khí hậu: Gia Lâm nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên chịu ảnh

hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, với 4 mùa trong năm: xuân, hạ, thu,

đông. Trong đó, mùa hè nóng, mưa nhiều; mùa đông lạnh, mưa ít. Nhiệt độ

trung bình năm khoảng 23,4 độ C. Độ ẩm trung bình năm khoảng 85%.

Lượng mưa từ 1600-1800 mm/năm thuận lợi cho việc chăn nuôi, trồng trọt

quanh năm.

- Địa hình: tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình là 16 m so với mặt

nước biển.

- Giao thông: huyện Gia Lâm có điều kiện giao thông thuận lợi với tuyến

quốc lộ 5A chạy qua và có ga Phú Thuỵ tạo điều kiện thuận lợi cho việc

giao lưu kinh tế, thương mại, trao đổi, giao lưu văn hoá với các vùng lân

24

cận.

- Đất đai: Theo số liệu thống kê của bộ Tài nguyên và Môi trường năm

2005, tổng diện tích tự nhiên của huyện Gia Lâm là 11472,98 ha. Trong đó,

diện tích đất nông nghiệp là 6437,60 ha bao gồm đất sản xuất nông nghiệp

(6165,57 ha), đất lâm nghiệp (51,34 ha), đất nuôi trồng thuỷ sản (171,93

ha), đất nông nghiệp khác ( 48,76 ha); diện tích đất phi nông nghiệp là

4853,67 ha; diện tích đất chưa sử dụng là 187,71 ha.

Bảng 1 . Diện tích đất của các xã, thị trấn thuộc huyện Gia Lâm.

Diện tích đất ( ha )

Đất

Đất phi chưa

Đất nông nông sử

STT Đơn vị nghiệp nghiệp dụng Tổng

1 Thị trấn Yên Viên 0 100,43 1,22 101,65

2 Xã Yên Thường 574,02 285,20 2,93 862,15

3 Xã Yên Viên 140,19 206,19 14,70 361,08

4 Xã Ninh Hiệp 263,42 225,09 0,35 488,86

5 Xã Đình Xuyên 183,14 128,09 3,28 314,51

6 Xã Dương Hà 135,14 130,47 1,81 267,42

7 Xã Phù Đổng 687,02 394,60 84,03 1165,65

8 Xã Trung Mầu 222,97 205,23 0 428,20

9 Xã Lệ Chi 437,79 366,99 5,33 810,11

10 Xã Cổ Bi 261,97 230,94 10 502,91

11 Xã Đặng Xá 321,59 258,24 7,37 587,20

12 Xã Phú Thị 322,42 143,84 4,01 470,27

13 Xã Kim Sơn 392,69 236,63 0,66 629,98

25

14 Thị trấn Trâu Quỳ 382,75 342,03 0 724,78

15 Xã Dương Quang 358,62 169,06 0,99 528,67

316 Xã Dương Xá 278,32 205,33 4,02 487,67

17 Xã Đông Dư 210,39 143,22 0 353,61

18 Xã Đa Tốn 472,67 243,38 0 716,05

19 Xã Kiêu Kỵ 300,38 256,18 4,46 561,02

20 Xã Bát Tràng 21,02 142,48 0,53 164,03

21 Xã Kim Lan 118,47 161,06 12,4 291,93

22 Xã Văn Đức 352,62 278,99 23,62 655,23

Tổng 6437,60 4853,67 181,71 11472,98

Nguồn: Thống kê, kiểm kê diện tích đất huyện Gia Lâm theo đơn vị hành

chính. Ban hành kèm theo Thông tư số 03/2004/TT-BTNMT ngày

01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Bảng 2. Diện tích các loại đất nông nghiệp của huyện Gia Lâm.

tích

STT Loại đất nông nghiệp 1

trồng cây hàng

Diện (ha) 6165,57 6017,08 4095,61 79,26 1842,21

Đất sản xuất nông nghiệp 1.1.Đất năm 1.1.1.Đất trồng lúa 1.1.2.Đất cỏ dùng trong chăn nuôi 1.1.3.Đất trông cây hàng năm khác 1.2.Đất trồng cây lâu năm Đất lâm nghiệp Đất nuôi trồng thuỷ sản Đất nông nghiệp khác 2 3 4 148,48 51,34 171,93 48,76

Nguồn: Thống kê, kiểm kê diện tích đất huyện Gia Lâm theo đơn vị hành

chính. Ban hành kèm theo Thông tư số 03/2004/TT-BTNMT ngày

01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

26

Trong một vài năm gần đây, diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn huyện

giảm dần. Do đất bị thu hồi để phục vụ các dự án xây dựng các khu công

nghiệp, khu đô thị, các cụm làng nghề. Trên địa bàn huyện có 12 xã - thị

trấn bị thu hồi đất với tổng diện tích đất bị thu hồi là 2.869.972 m2 bằng

tương đương với 4,46% diện tích đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân

mỗi hộ bị thu hồi 517,3 m2. Trong đó, một số xã có diện tích đất bị thu hồi

tương đối lớn như xã Dương Xá, Lệ Chi, Trâu Quỳ, Ninh Hiệp.

Bảng 3. Diện tích và số hộ bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn

huyện Gia Lâm từ năm 2006 đến 2008.

Số người Số hộ Số trong độ Diện tích bị thu STT ĐƠN VỊ khẩu tuổi lao bị thu hồi hồi (người) động ( m2) (hộ) (người)

1 Xã Phú Thị 265 1.100 608 202.200

2 Xã Dương Xá 636 2.380 1.730 400.000

3 Xã Cổ Bi 320 1.162 744 129.957

4 TT Trâu Quỳ 700 2.443 1.189 233.533

5 Xã Đặng Xá 900 3.917 1.378 275.513

6 Xã Kiêu Kỵ 552 2.019 1.211 267.000

7 Xã Yên Thường 100 461 290 24.453

8 Xã Lệ Chi 405 1.523 818 640.000

9 Xã Trung Mầu 300 1.082 590 50.000

27

10 Xã Phù Đổng 167 669 316 24.300

11 Xã Ninh Hiệp 1.100 5.001 2.699 636.313

12 Xã Bát Tràng 103 402 278 157.143

Tổng cộng 5.548 22.159 11.851 2.869.972

Nguồn: Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Gia Lâm: Bảng

tổng hợp diện tích và số hộ bị thu hồi đất nông nghiệp các xã - thị trấn thuộc

huyện Gia Lâm.

- Làng nghề: Một số làng nghề tại huyện Gia Lâm: Bát Tràng ( sản xuất

gốm sứ); Kiêu Kỵ ( dát bạc, sơn son thếp vàng ); Ninh Hiệp ( trồng và kinh

doanh thuốc bắc, buôn bán vải vóc). Hiện nay, làng Bát Tràng vẫn duy trì

sản xuất mặt hàng gốm sứ với hơn 500 hộ gia đình sản xuất, hơn 50 doanh

nghiệp kinh doanh hàng gốm sứ, thu hút trên 10.000 người/ngày; doanh thu

đạt 283 tỷ/năm. Nghề trồng và kinh doanh thuốc bắc ở Ninh Hiệp đã bị mai

một, còn 1 xóm duy nhất làm nghề này, những xóm khác đã chuyển sang

buôn bán vải vóc. Cũng trong tình cảnh như ở Ninh Hiệp, xã Kiêu Kỵ còn

khoảng trên dưới 20 hộ duy trì nghề làm quỳ vàng, nhiều hộ chuyển sang

nghề may da và giả da với trên 300 hộ chuyên sản xuất TTCN quy mô nhỏ,

thu hút 1.035 lao động chuyên và 3.106 lao động thời vụ.

2. Đặc điểm kinh tế, xã hội.

Quán triệt Nghị quyết 15/NQ-TW của Bộ chính trị về phương hướng phát

triển Thủ đô, Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIV,

Chương trình 05-Ctr/TU của Thành uỷ Hà Nội về phát triển kinh tế ngoại

thành và từng bước hiện đại hoá nông thôn giai đoạn 2006-2010, chính

quyền huyện đã chỉ đạo xây dựng, phát triển kinh tế toàn diện. Trong

những năm qua, kinh tế Gia Lâm đã có những bước phát triển vượt bậc:

- Giá trị sản xuất các ngành kinh tế chủ yếu tăng bình quân 14,1%/năm;

28

trong đó công nghiệp-xây dựng cơ bản tăng 17,5%; thương mại dịch vụ

tăng 15,1%; nông nghiệp tăng 4,0%. Trong nông nghiệp: trồng trọt tăng

bình quân 1,5%; chăn nuôi tăng 5,6%.

Bảng 4. Giá trị sản xuất các ngành của huyện Gia Lâm (2005-2008)

Đơn vị: tỷ đồng.

STT Ngành 2005 2006 2007 2008

1 CN-XDCB 102,82 120,3 141,36 166,81

2 Nông nghiệp 48,22 50,49 52,77 55,41

3 Dich vụ 51,58 59,63 68,88 79,42

Nguồn: Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Gia Lâm: Báo cáo

đánh giá kết quả thực hiện các đề án phát triển kinh tế huyện Gia Lâm.

- Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng giá trị

ngành công nghiệp, dịch vụ; giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp: năm 2005

CN-XDCB 53,3%; nông lâm thuỷ sản 23,4%; thương mại dịch vụ 23,1%.

Đến năm 2008 tỷ trọng tương ứng là 55,3% - 18,37% - 26,33%. Công

nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ, các doanh nghiệp tăng

nhanh cả về số lượng và quy mô. Hiện tại, trên địa bàn huyện có 118 doanh

nghiệp công nghiệp, 4 HTX công nghiệp, 16 HTX phi nông nghiệp, gần

3.000 hộ sản xuất cá thể, 6 cụm công nghiệp đã và đang hình thành.

Bảng 5. Cơ cấu kinh tế huyện Gia Lâm ( 2005-2008)

Đơn vị: %

STT Cơ cấu kinh tế 2005 2006 2007 2008

1 CN-XDCB 53,5 54,14 54,76 55,3

2 Nông nghiệp 23,4 22,38 20,2 18,37

3 Dịch vụ 23,1 23,48 25,04 26,33

4 Tổng 100 100 100 100

Nguồn: Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Gia Lâm: Báo cáo

đánh giá kết quả thực hiện các đề án phát triển kinh tế huyện Gia Lâm.

29

- Hàng năm giải quyết việc làm cho khoảng 7.500 người; các trường, trung

tâm và cơ sở dạy nghề đã đào tạo 2.545 người mỗi năm; giảm 626 hộ

nghèo. Hàng tháng trợ cấp từ nguồn ngân sách địa phương cho 2.294 người

là người cao tuổi, người nghèo tàn tật, ốm đau, trẻ mồ côi…100% xã, thị

trấn có trạm y tế đạt chuẩn; 22 trường học đạt chuẩn quốc gia.

3. Đặc điểm dân số, lao động.

Hiện nay trên địa bàn huyện có 50.960 hộ với 209.685 nhân khẩu. Tốc độ

tăng dân số bình quân 2,67%/năm ( trong đó tỷ lệ tăng cơ học là 1,85%; tỷ

lệ tăng tự nhiên là 1,65%). Với 70% dân số làm nông nghiệp.

- Số người trong độ tuổi lao động là 114.588 người, trong đó có việc làm là

96.272 người; không có việc làm là 7.508 người. Số lao động đang làm

việc theo ngành kinh tế: công nghiệp, xây dựng là 25.076 người, nông

nghiệp là 48.085 người, dịch vụ là 23.111 người. Số lao động đang làm

việc theo thành phần kinh tế: khu vực nhà nước là 12.374 người; tập thể là

11.974 người; tư nhân là 61.074 người; liên doanh với nước ngoài là 8.876

30

người.

Bảng 6. Tình hình dân số, lao động, việc làm trên địa bàn huyện Gia Lâm.

Tình trạng

việc làm của

những người

Số người trong

trong độ tuổi

Số lao động đang làm

Số lao động đang làm việc theo

Số

độ tuổi lao động

lao động

việc theo ngành kinh tế

thành phần kinh tế

Số hộ

nhân

(người)

( người)

( người)

( người)

STT Xã - thị trấn

( hộ)

khẩu

Số có

(người)

khả

không

Công

Khu

năng

nghiệp,

vực

Ld với

việc

Tổng

lao

việc

xây

Nông

Dịch

nhà

Tập

nước

làm

số

động

làm

dựng

nghiệp

vụ

nước

thể

nhân

ngoài

1 Cổ Bi

1862

6767

4333

4194

3916

278

1380

1992

544

1098

1447

657

714

2 Văn Đức

1910

6930

4216

4161

4074

87

543

3336

195

137

104

3692

141

3 Kim Lan

1266

5207

3325

3183

3183

0

1061

1827

295

170

59

2935

19

4 Ninh Hiệp

3434

15615

8430

8205

8166

39

791

1831

5544

350

123

7656

37

5 Dương Xá

2204

8250

5997

5714

5262

452

2074

2141

1047

1230

1123

1921

988

6 Yên Viên

2540

12230

6218

6056

5474

582

1738

2041

1695

1678

1488

2183

125

31

7 Đình Xuyên

2123

8871

5498

5302

4780

522

999

2456

1325

920

132

3666

62

8 Đông Dư

1196

4284

2820

2766

2494

272

355

1728

411

366

98

1901

129

1175

3235

840

1227

2415

9 Lệ Chi

2193

10141

5448

5203

4733

470

323

251

10 Đặng Xá

2095

9119

3209

3127

2420

707

569

1537

314

268

366

1464

322

11 Trung Mầu

1308

5413

2954

2882

2533

349

132

1437

964

160

149

1542

682

12 Dương Quang

2644

10921

10021

6749

6367

382

674

5567

126

328

707

4110

1222

13 Phú Thị

1752

7278

4025

3404

3126

278

453

2536

137

524

56

2496

50

14 Kim Sơn

2754

10847

6842

6249

5890

359

572

1484

3834

481

325

3881

1203

15 Kiêu Kỵ

2915

10662

1979

1904

1754

150

603

1024

127

286

978

415

75

16 Đa Tốn

2684

11606

7303

6649

6214

435

913

538

4065

1236

351

4088

1237

17 Phù Đổng

3137

12565

5929

5497

5199

298

613

2724

1862

554

614

3087

944

18 Dương Hà

1584

5943

3015

2825

2547

278

728

1473

346

408

872

1203

64

19 Yên Thường

3345

15437

4257

3914

3754

160

774

2183

797

243

1052

2356

103

20 Bát Tràng

1660

6487

4495

4255

4038

217

2539

2

1497

205

22

3788

23

21 TT Yên Viên

2811

12743

8256

6583

5708

875

2131

15

3562

325

213

4928

242

22 TT Trâu Quỳ

3543

12369

6018

4958

4640

318

243

1236

1963

1441

1265

468

690

32

Cộng 50960 209685 114588 103780 96272 7508 25076 48085 23111 12374 11974 61074 8876

Nguồn: Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Gia Lâm: Biểu ghi chép về lao động ở xã, thị trấn.

33

- Số người bước vào độ tuổi lao động hàng năm khoảng 4.000 - 4.500

người. Số người trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng, trung học

chuyên nghiệp, dạy nghề là 2.500 người. Nguồn lao động trẻ, phân bố

không đều, tập trung chủ yếu ở những thị trấn, các khu công nghiệp và các

vùng ven thị trấn chiếm 60%, ở nông thôn chiếm 40%.

- Về chất lượng lao động: tỷ lệ lao động qua đào tạo ở ngành công

nghiệp là 75,15%; ngành dịch vụ là 25,5%; nông nghiệp chỉ có 3%.

- Đối với những lao động trong các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp: Theo

bảng 4, việc thu hồi đất nông nghiệp trong những năm gần đây ở huyện đã

gây ảnh hưởng đến 5.548 hộ dân với 11.851 người trong độ tuổi lao động.

Trong đó, số người trong độ tuổi lao động cần giải quyết việc làm là 4.293

người bằng 36,22 % tổng số người trong độ tuổi lao động. Đặc điểm của

những lao động này là:

+ Về tuổi: 1.844 người trong nhóm 15-30 tuổi chiếm 42,95%; 1.468 người

trong độ tuổi từ 30-45 chiếm 34,2%; còn lại 981 người trong nhóm 45-60

tuổi chiếm 22,85%. Đây là những lao động trẻ, phần lớn trong độ tuổi sung

sức, lại là lao động chính trong gia đình.

+ Về giới tính: số nam và nữ tương đương nhau, không có sự chênh lệch

lớn. Số nam là 2.169 chiếm 50,52%, số nữ là 2.124 chiếm 49,48%. Số nam

nhiều hơn số nữ sẽ ảnh hưởng đến vấn đề tạo việc làm sau này.

+ Về trình độ văn hoá: 1.797 người tốt nghiệp tiểu học ( 41,85%); 1.466

người tốt nghiệp trung học cơ sở ( 34,15%); 1.030 người tốt nghiệp PTTH

(24%). Nhìn chung, trình độ văn hóa của những lao động cần giải quyết

việc làm thuộc những hộ mất đất còn thấp. Số người tốt nghiệp tiểu học và

trung học cơ sở chủ yếu nằm trong nhóm 30-45 tuổi và 45-60 tuổi.

+ Về nghề nghiệp: Trước khi bị thu hồi đất, những lao động này làm ruộng

34

và chăn nuôi. Trồng lúa vẫn là công việc chiếm tỷ trọng thời gian cao nhất,

trung bình một lao động dành khoảng 75% thời gian để làm việc trên ruộng

lúa, 7% dành cho trồng trọt các loại cây hoa màu khác, 21% dành cho chăn

nuôi. Ngoài thời vụ, phần lớn họ chuyển sang các lao động phổ thông khác

như gia công thêm một số mặt hàng thủ công truyền thống; bán buôn, bán

lẻ các mặt hàng rau quả, lương thực, thực phẩm; chuyên chở vật liệu xây

dựng, phụ việc ở các công trình xây dựng… Sau khi mất đất, đa số lao

động không có việc làm, nếu có thì chỉ là những công việc tạm thời thu

nhập không cao, không ổn định, cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Do đó, họ

rất cần những chính sách, biện pháp từ phía chính quyền các xã, thị trấn;

chính quyền huyện và thành phố để có thể có việc làm mới, ổn định cuộc

35

sống.

Bảng 7. Số người trong độ tuổi lao động bị thu hồi đất nông nghiệp cần giải quyết việc làm.

Tiêu chí đánh giá

Tuổi

Giới

Trình độ văn hoá

Tốt

Tốt

nghiệp

Tổng

nghiệp

trung

Tốt

số

tiểu

học cơ

nghiệp

STT Xã - thị trấn

(người)

15-30

30-45

45-60 Nam Nữ

PTTH

sở

học

364

1

Cổ Bi

180

127

57

118

97

202

162

149

270

2

Ninh Hiệp

82

105

83

92

65

143

127

113

302

3

Dương Xá

166

80

56

104

72

145

157

126

321

4

Lệ Chi

145

96

80

112

77

167

154

132

827

5

Đặng Xá

372

289

166

287

193

426

401

347

6

Trung Mầu

480

192

178

110

153

121

236

244

206

420

7

Phú Thị

155

121

144

142

102

201

219

176

470

8

Kiêu Kỵ

211

178

81

167

115

228

242

188

160

9

Phù Đổng

72

56

32

54

38

84

76

68

36

10

Yên Thường 150

64

55

31

73

77

62

49

39

11

Bát Tràng

208

83

58

67

107

101

89

73

46

12

Trâu Quỳ

321

122

125

74

157

164

141

115

65

Cộng 4.293 1.844 1.468 981 2.169 2.124 1.797 1.466 1.030

Nguồn: UBND huyện Gia Lâm, Phòng lao động, thương binh và xã hội: Kết quả tổng hợp nhu cầu việc làm và nhu cầu

học nghề của lao động nông thôn vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất huyện Gia Lâm.

37

II. Phân tích thực trạng tạo việc làm cho nông dân sau khi bị thu hồi đất.

Trước tình trạng đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, người nông dân

không có việc làm, đời sống gặp nhiều khó khăn. Chính quyền huyện Gia

Lâm đã phối hợp với chính quyền các xã, thôn; các doanh nghiệp cùng với

người dân thuộc diện bị thu hồi đất giải quyết vấn đề này. Trong những

năm qua, huyện Gia Lâm đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm tạo việc làm

cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp. Bước đầu đã đạt được một số kết

quả như sau:

1. Số lượng.

- Số người có việc làm mới sau khi bị thu hồi đất là 2.746 người bằng

63,96% số người trong độ tuổi lao động có nhu cầu tìm việc làm. Bình

quân mỗi xã có 229 lao động được giải quyết việc làm. Trong đó số người

có công việc ổn định là 2.216 người bằng 80,7%; công việc tạm thời là 530

người bằng 19,3%.

Bảng 8. Kết quả giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất

nông nghiệp ở huyện Gia Lâm.

Đơn vị: người.

Kết quả giải quyết việc làm

Công việc ổn định

khu vực ngoài nhà

nước khu Công

vực Công việc

Tổng nhà ty Công tạm

STT Xã - thị trấn số nước XKLĐ HTX TNHH ty LD thời

Cổ Bi 218 22 30 102 28 29 1 7

38

Ninh Hiệp 180 0 5 143 0 32 2 0

Dương Xá 213 42 4 64 25 61 17 3

Lệ Chi 142 0 5 28 71 23 15 4

Đặng Xá 425 38 108 171 8 57 43 5

Trung Mầu 279 0 0 80 70 62 67 6

Phú Thị 278 0 0 67 77 64 70 7

Kiêu Kỵ 350 17 20 52 89 76 96 8

Phù Đổng 126 37 1 22 32 4 30 9

35 10 Yên Thường 115 0 20 30 15 15

11 Bát Tràng 153 0 0 45 50 43 15

12 TT Trâu Quỳ 267 28 4 0 69 64 102

498 Cộng 2.746 219 49 521 929 530

Nguồn: Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Gia Lâm. Kết quả

giải quyết việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở

huyện Gia Lâm.

2. Cơ cấu việc làm mới.

2.1. Cơ cấu theo tuổi và giới tính.

2.1.1. Cơ cấu theo tuổi.

Do đặc điểm lao động trong những hộ bị thu hồi đất chủ yếu thuộc nhóm

từ 15-30 tuổi và từ 30-45 tuổi, nên huyện cũng đã tập trung giải quyết việc

làm cho nhóm đối tượng này.

Bảng 9. Kết quả giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất theo

tuổi.

STT Tuổi số người Tỷ lệ (%)

1 15-19 11,94 328

39

2 20-29 27,49 755

3 30-39 717 26,11

4 40-49 516 18,79

5 50-60 430 15,67

6 Tổng cộng 2.746 100

Nguồn: Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Gia Lâm: Kết quả

điều tra lao động có nghề trên địa bàn huyện Gia Lâm.

Nhìn vào bảng 9, nhóm tuổi được tạo nhiều việc làm là nhóm từ 20 đến 39

tuổi với 1800 người, chiếm 65,54%. Ở nhóm tuổi này, khả năng tiếp thu

kiến thức khoa học kỹ thuật vẫn còn khá cao. Cho nên đào tạo nghề cho

nhóm lao động này sẽ đem lại hiệu quả. UBND huyện đã tổ chức thực hiện

chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn vùng chuyển đổi mục đích

sử dụng đất. Từ năm 2006 đến 2008 trung tâm dạy nghề của huyện đã có

876 lao động được đào tạo nghề như: may công nghiệp, nấu ăn, cơ khí,

hàn, sửa chữa xe máy, điện dân dụng…Trong đó:

- Nghề may: 95 người.

- Nghề sửa chữa xe máy: 274 người.

- Nghề nấu ăn : 219 người.

- Nghề cơ khí : 288 người.

Bảng 10. Tổng hợp kết quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn

vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất huyện Gia Lâm.

Hình thức

Nghề đào tạo đào tạo

Nghề Sửa chữa xe Cơ Nấu Ngắn Dài

STT Xã - thị trấn may máy khí ăn hạn hạn

1 Cổ Bi 6 17 19 15 39 18

40

2 Ninh Hiệp 0 0 0 0 0 0

3 Dương Xá 8 22 23 15 46 21

4 Lệ Chi 11 30 32 30 71 32

5 Đặng Xá 11 30 32 25 71 29

6 Trung Mầu 11 30 32 25 71 29

7 Phú Thị 11 35 36 25 75 32

8 Kiêu Kỵ 6 13 16 10 32 14

9 Phù Đổng 11 35 36 25 75 32

10 Yên Thường 8 22 23 20 50 21

11 Bát Tràng 4 13 13 10 28 11

12 TT Trâu Quỳ 8 27 26 19 57 22

Cộng 95 274 288 219 615 261

Nguồn: Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Gia Lâm: Kết quả

điều tra lao động có nghề trên địa bàn huyện Gia Lâm.

Hình thức đào tạo có thể là ngắn hạn hoặc dài hạn. Trong số 876 người

được đào tạo, có 615 người đào tạo theo hình thức ngắn hạn chiếm 70,2%;

261 người đào tạo dài hạn chiếm 29,8%. Những nghề này cũng gắn liền với

nhu cầu của lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đồng thời gắn

liền với sản xuất của doanh nghiệp tại các khu công nghiệp. Trong quá trình

đào tạo, Chính quyền huyện đã hỗ trợ trực tiếp cho người lao động nông

nghiệp tham gia đào tạo nghề với thời gian và mức kinh phí hỗ trợ như sau:

Bảng 11. Thời gian hỗ trợ kinh phí và mức kinh phí hỗ trợ dạy nghề.

Kinh phí hỗ

trợ (đồng/học

Thời gian hỗ viên/khoá

41

STT Nghề đào tạo trợ ( tháng) học)

1 Nghề may 5 1.500.000

Nghề sửa chữa xe máy 5 2 1.500.000

3 Nghề nấu ăn 5 1.500.000

4 Nghề cơ khí 5 1.500.000

Nguồn: Phụ lục: Thời gian hỗ trợ kinh phí và mức kinh phí hỗ trợ dạy nghề

theo nghề ( Kèm theo Quyết định số 3486/QĐ-UBND ngày 05/09/2007 của

UBND thành phố Hà Nội).

Mức hỗ trợ cho mỗi học viên là 300.000 đồng/học viên/tháng. Sau khi học

nghề, bồi dưỡng tay nghề, nhiều người đã tự tạo được việc làm, lập cơ sở

sản xuất, hoặc vào làm trong các khu công nghiệp.

Mặt khác, các doanh nghiệp được phép xây dựng trên diện tích đất bị thu

hồi cũng đã có cam kết ưu tiên cho con em những hộ dân có đất bị thu hồi

vào làm trong doanh nghiệp. Mặt hàng sản xuất của doanh nghiệp chủ yếu

là đòi hỏi phải có sức khoẻ như sản xuất bao bì, lắp ráp xe máy, may da,

sản xuất gốm sứ…nên việc làm tạo ra cho nhóm đối tượng từ 15-39 tuổi

nhiều hơn.

Trong khi đó, nhóm từ 40 tuổi trở lên, việc làm tạo ra giảm dần với 946

lao động bằng 34,45%. Do khả năng tiếp thu giảm dần theo tuổi tác, nên

việc học nghề hay vào làm trong các khu công nghiệp gặp nhiều khó khăn.

Đây chủ yếu là những lao động thuần nông, trình độ văn hoá không cao.

Ngoài làm ruộng, họ không đáp ứng được những công việc yêu cầu trình

độ cao. Để giải quyết việc làm cho những người này, chính quyền các cấp

đã tiến hành một số biện pháp như: đưa nhóm đối tượng này vào các HTX

nông nghiệp (521 người), tạo điều kiện cho họ được làm việc trong các

doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, cấp một phần đất sát với

42

khu công nghiệp để người dân có thể tổ chức các hoạt động dịch vụ như

buôn bán hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày, dịch vụ ăn uống,

sửa chữa phương tiện…Ngoài ra, họ đã được tham dự lớp đào tạo nghề

nông; được học các phương pháp trồng rau an toàn, nuôi thuỷ sản, chăn

nuôi gia súc, gia cầm, công tác thú y và trồng cây ăn quả góp phần giải

quyết tình trạng thiếu việc làm do bị thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho

xây dựng công trình giao thông và khu công nghiệp.

2.1.2. Cơ cấu theo giới tính.

Bảng 7, số nam có nhu cầu giải quyết việc làm là 2.169 người, số nữ là

2.124 người. Số lao động nam có việc làm mới là 1.829 người chiếm

66,6%; số lao động nữ là 917 người chiếm 33,4%. Số lao động nữ được

giải quyết việc làm còn khá ít. Đây là một thực trạng đáng buồn. Vì hiện

nay lao động nữ ở nông thôn nói chung và lao động nữ thuộc hộ bị thu hồi

đất nông nghiệp nói riêng có trình độ học vấn thấp. Do tâm lý cha mẹ vẫn

còn nếp suy nghĩ cũ “ con gái học nhiều cũng chẳng nên cơm cháo gì”.

Điều này khiến cho lao động nữ nông thôn rơi vào tình trạng khó tìm việc

khi ruộng đất bị thu hẹp. Mặt khác, các trường cao đẳng, trung cấp nghề lại

chỉ tập trung đào tạo các ngành: cắt gọt kim loại, hàn, điện lạnh, cơ

khí…lại không phù hợp với lao động nữ. Một số trường có khoa thiết kế

thời trang hay may mặc, nữ chiếm đa số nhưng chỉ tiêu tuyển sinh lại ít hơn

các ngành khác. Hiện nay, trong thời kỳ suy thoái kinh tế, ngành may mặc

cũng đang bị cắt giảm hoặc thiếu việc làm trầm trọng. Do đó, việc làm cho

43

lao động nữ đang gặp nhiều khó khăn.

2.2. Cơ cấu theo ngành kinh tế.

Bảng 12. Kết quả giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất

nông nghiệp ở huyện Gia Lâm theo ngành kinh tế.

Đơn vị: người.

STT Xã- thị trấn Cổ Bi 1 Ninh Hiệp 2 Dương Xá 3 Lệ Chi 4 Đặng Xá 5 Trung Mầu 6 Phú Thị 7 Kiêu Kỵ 8 Phù Đổng 9 Yên Thường 10 Bát Tràng 11 TT Trâu Quỳ 12 Cộng Tổng số 218 180 213 142 425 279 278 350 126 115 153 267 2.746 Ngành kinh tế Công nghiệp 150 67 54 82 106 87 112 281 34 55 68 168 1.264 Nông nghiệp 30 27 85 30 164 174 136 33 57 37 0 41 814 Dịch vụ 38 86 74 30 155 18 30 36 35 23 85 58 668

Nguồn: Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Gia Lâm. Kết

quả giải quyết việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng

đất ở huyện Gia Lâm.

Với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành

CN-XDCB và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, việc giải quyết

việc làm cho những lao động thuộc diện bị thu hồi đất được tiến hành theo

hướng này. Cụ thể như sau:

- Khu vực công nghiệp, xây dựng: 1.246 người chiếm 46,03%.

- Khu vực nông nghiệp : 814 người chiếm 29,64%.

44

- Khu vực dịch vụ : 668 người chiếm 24,33%.

24,33%

46,03%

29,64%

công nghiệp nông nghiệp dịch vụ

Hình 1. Cơ cấu việc làm mới theo ngành kinh tế.

Ta thấy, sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp thì cơ cấu lao động đã có sự

chuyển dịch. Số người làm trong khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch

vụ tăng lên, số người làm trong khu vực nông nghiệp giảm đi. Điều này

cũng phù hợp với thực tế. Vì sau khi bị thu hồi đất, nhiều hộ nông dân

không còn đất để canh tác, trong khi họ vẫn phải đảm bảo những nhu cầu

tối thiểu như ăn ở, mặc, đi lại. Cho nên họ cần tìm một công việc mới để

kiếm sống. 80% diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi được sử dụng vào mục

đích xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp, cụm

làng nghề. Trên địa bàn huyện hiện có một số khu công nghiệp và cụm

công nghiệp như cụm công nghiệp nhỏ và vừa Phú Thị, khu công nghiệp

Dương Xá, khu công nghiệp Ninh Hiệp… với 118 doanh nghiệp đã hoạt

động thu hút một lượng lớn lao động thuộc diện bị thu hồi đất nông nghiệp.

Làm công nhân trong khu công nghiệp là hình thức chủ yếu, một số khác

xin vào làm trong các xưởng sản xuất gốm sứ, hay may da. Bên cạnh sự

giúp đỡ và hỗ trợ từ phía UBND huyện và chính quyền các xã, thôn, có

45

nhiều hộ dân bị mất đất đã chủ động tìm lối ra, tự tạo công ăn việc làm. Họ

dùng tiền đền bù nhận được mua sắm phương tiện như xe máy để chạy xe

ôm, chở vật liệu xây dựng, chở hàng. Nghề này đơn giản, không yêu cầu

chi phí cao, không yêu cầu tay nghề, trình độ kỹ thuật, phù hợp với những

người trung tuổi ( 30-45 tuổi). Ngoài ra, một số hộ chuyển sang kinh doanh

buôn bán. Chủ yếu kinh doanh ăn uống, buôn bán hàng tạp hóa, vật liệu

xây dựng, kinh doanh Internet, cho thuê nhà trọ…Số khác được hỗ trợ

chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi như: tận dụng diện tích mặt nước để

nuôi cá, xây dựng trang trại chăn nuôi bò sữa, nuôi lợn thịt; quy hoạch

vùng sản xuất rau an toàn…góp phần tạo việc làm cho 814 người.

2.3. Cơ cấu theo thành phần kinh tế.

Khu vực nhà nước: 219 lao động chiếm 7,97%.

HTX: 521 lao động chiếm 18,97%.

Công ty TNHH: 929 lao động chiếm 33,83%.

Công ty liên doanh: 498 lao động chiếm 18,13%.

929

521

498

) i ờ ư g n ( g n ợ ư l

219

ố s

49

1000 900 800 700 600 500 400 300 200 100 0

K V N N

C.ty L D

H T X C.ty T N H H

thành phần kinh tế

46

Hình 2. Số lượng việc làm mới theo thành phần kinh tế.

Để vào được khu vực nhà nước làm việc cần có trình độ cao, đòi hỏi bằng

cấp nên khu vực này chỉ thu hút 219 lao động. Khu vực ngoài nhà nước thu

hút được nhiều lao động hơn với 70,93%. Trong đó công ty TNHH chiếm

33,83%, công ty liên doanh là 18,13%, HTX là 18,97%. Đó là do mặt bằng

trình độ của lao động thuộc hộ bị thu hồi đất không cao, mà yêu cầu của

các công ty khi tuyển dụng lao động lại không quá khắt khe. Cho nên người

dân đi xin việc ở khu vực ngoài nhà nước dễ dàng hơn.

2.4. Cơ cấu theo trình độ chuyên môn kỹ thuật.

Với mặt bằng trình độ không cao của lao động thuộc diện bị thu hồi đất,

thì số chỗ việc làm mới được tạo ra vẫn sử dụng nhiều lao động phổ thông,

chưa qua đào tạo 2.113 người chiếm 76,95%; công việc đòi hỏi trình độ

cao đẳng, đại học là 68 người tương ứng 2,47%; trung học chuyên nghiệp

là 243 người tương ứng 8,85%; công nhân kỹ thuật không có bằng là 322

người tương ứng 11,73%. Ngay cả những doanh nghiệp, công ty TNHH khi

tuyển dụng họ cũng không đòi hỏi tay nghề cao. Với trình độ trung học

chuyên nghiệp hoặc công nhân kỹ thuật là có thể tìm được việc trong khu

công nghiệp, có trường hợp chỉ xét trình độ văn hóa tốt nghiệp cấp 3, thậm

chí cả những lao động học hết cấp 2 không thi đỗ vào cấp 3 vẫn được tuyển

vào làm. Còn những công việc đòi hỏi trình độ cao đẳng, đại học chủ yếu

thuộc bộ phận quản lý, bộ phận kế toán trong công ty nên chỉ có 2,47% số

47

lao động đáp ứng yêu cầu này.

Hình 3. Cơ cấu việc làm mới theo trình độ chuyên môn kỹ thuật.

CĐ,ĐH, 2.47%

THCN, 8.85%

CNKT , 11.73%

LĐPT, 76.95%

2.5. Cơ cấu theo xã.

Vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất cũng cần xem xét

điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của từng xã. Trong 12 xã-thị trấn bị thu

hồi đất, 2 xã có làng nghề là xã Bát Tràng và xã Kiêu Kỵ; thị trấn Trâu Quỳ

có diện tích đất bị thu hồi phục vụ cho những công trình công cộng của nhà

nước; 9 xã còn lại diện tích đất thu hồi nhằm xây dựng khu công nghiệp,

khu đô thị. Do đó, giải quyết việc làm cho nông của từng xã cũng khác

nhau.

Với các xã có làng nghề truyền thống như Bát Tràng, Ninh Hiệp, Kiêu Kỵ

người lao động cùng chính quyền xã chủ động, phối hợp với các hộ gia

đình, các doanh nghiệp kinh doanh nhận lao động bị thu hồi đất vào làm

việc. Vì ở Bát Tràng mỗi ngày thu hút trên 10.000 lao động thời vụ; Kiêu

Kỵ thu hút 1.035 lao động chuyên và 3.106 lao động thời vụ; góp phần giải

48

quyết việc làm cho 507 lao động mất đất.

Riêng thị trấn Trâu Quỳ, diện tích đất bị thu hồi được sử dụng vào mục

đích công cộng và lợi ích quốc gia, không sử dụng vào việc xây dựng khu

công nghiệp nên xu hướng chung của các hộ dân là chuyển sang công việc

buôn bán. Ở Trâu Quỳ có quốc lộ 5A chạy qua, có trường đại học Nông

nghiệp I, trường Tư thục Lê Quý Đôn nên các hộ sau khi mất đất có điều

kiện kinh doanh các loại hình dịch vụ như: buôn bán hàng tạp hoá, văn

phòng phẩm, hàng ăn uống, dịch vụ Internet, sửa chữa xe máy, bán vật liệu

xây dựng, kinh doanh nhà trọ…thu nhập khá cao và ổn định. Ngoài ra, một

số hộ xin cho con em mình đi làm tại khu công nghiệp hay các nhà máy

gần đó như: khu công nghiệp Sài Đồng B, công ty may 10, công ty may

Đức Giang, công ty kim khí Thăng Long…giải quyết việc làm cho 168 lao

động. Trong đó có 110 lao động nữ, 58 lao động nam.

Với các xã có dự án xây dựng khu công nghiệp, hướng giải quyết việc làm

cho lao động thuộc hộ bị thu hồi đất là làm công nhân trong khu công

nghiệp. 60% lao động làm công nhân; 30% số hộ chuyển đổi cơ cấu cây

trồng vật nuôi như sản xuất rau an toàn ở Đặng Xá, Lệ Chi; vùng trồng hoa,

cây giống, cây cảnh ở Trung Mầu; vùng chăn nuôi bò sữa ở Trung Mầu,

Phù Đổng; chăn nuôi bò thịt ở Lệ Chi; chăn nuôi lợn nạc ở Yên Thường,

Ninh Hiệp, Trung Mầu, Dương Xá, Đặng Xá, Phú Thị; vùng nuôi trồng

thuỷ sản ở Yên Thường, Phú Thị, Lệ Chi…10% số hộ chuyển sang kinh

49

doanh nhà trọ và buôn bán nhỏ.

425

450

400

350

350

279

278

300

267

250

218

213

Hình 4. Số lượng việc làm mới theo xã.

i ờ ư g n

180

200

153

142

ố s

150

126 115

100

50

0

Bát Tràng

xã-thị trấn

III. Hiệu quả của tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp.

Hiệu quả của tạo việc làm là tạo ra chỗ việc làm mới cho người lao động

có thể xét trên nhiều góc độ: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả

tinh thần. Xét hiệu quả kinh tế của tạo việc làm thường dựa vào số chỗ việc

làm mới được tạo ra trong tổng số chi phí bỏ ra để tạo việc làm, chi phí

bình quân tạo một chỗ việc làm mới.

Chi phí bình quân tạo một chỗ làm việc hay còn gọi là mức đầu tư cho

một chỗ làm việc là chỉ tiêu phản ánh số lượng tiền vốn đầu tư để tạo một

chỗ làm việc mới. Chi phí tạo một chỗ làm việc mới = Tổng số vốn đầu

tư/ tổng số lao động được thu hút hay tổng số chỗ làm việc mới được

tạo ra. Theo chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn vùng chuyển

50

đổi mục đích sử dụng đất huyện Gia Lâm, kinh phí đào tạo bao gồm kinh

phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là 1.500.000 đồng/người/khoá ( 1 khoá

học = 5 tháng) và từ nguồn học viên đóng 40.000 đồng/người/tháng nghĩa

là 200.000 đồng/người/khoá. Chi phí bình quân để tạo ra một chỗ làm việc

mới là 1.700.000 đồng/người. Nếu xét theo chi phí đào tạo như trên thì đầu

tư tạo việc làm qua chương trình vốn vay quỹ hỗ trợ quốc gia hỗ trợ việc

làm có hiệu quả. Vì với chi phí vốn vay thấp nhưng tạo ra được nhiều chỗ

việc làm. Tuy nhiên, với cách quản lý vốn đào tạo như hiện nay là nhà

nước rót vốn cho cơ sở đào tạo, ngoài việc trả kinh phí cho giảng viên,

nông dân dự khoá đào tạo được hỗ trợ tiền ăn ở khi học thì thực tế nhiều

khóa học do kinh phí hạn hẹp nên học ít khai nhiều, ít có thông tin phản hồi

giữa người học nghề với cơ sở đào tạo nghề để đánh giá hiệu quả. Dưới đây

là một số hiệu quả đạt được và những hạn chế trong vấn đề tạo việc làm

cho nông dân bị thu hồi đất của huyện Gia Lâm:

1.Hiệu quả đạt được.

Gia Lâm là một huyện ngoại thành có tốc độ phát triển kinh tế tương đối

cao của thành phố. Trong những năm gần đây, huyện đã được thành phố

quan tâm tạo mọi điều kiện trong phát triển kinh tế thương mại, dịch vụ

như: xây dựng hệ thống đường giao thông, xây dựng các khu vui chơi, giải

trí, xây dựng siêu thị, tu bổ lại các chợ….nên đời sống tinh thần và vật chất

của người dân không ngừng nâng cao. Mặc dù việc thu hồi đất nông nghiệp

đã làm cho một bộ phận lớn nông dân không có việc làm, đời sống gặp khó

khăn. Song nhờ sự phối hợp giữa chính quyền địa phương và người nông

dân, đã giải quyết việc làm cho nhiều hộ nông dân bị mất đất canh tác.

Điều này đã đem lại một số hiệu quả sau:

Thứ nhất, tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp là tạo điều

kiện nâng cao thu nhập cho họ. Như thực tế hiện nay, 1 sào ruộng người

51

dân cấy 2 vụ lúa, chăm sóc tốt mỗi năm cũng chỉ thu được 1,6 triệu đồng.

Nhưng sau khi bị thu hồi đất, người dân được đền bù một khoản tiền lớn,

bằng 40 năm trồng lúa. Còn đối với những người có việc làm mới, thu nhập

cũng tăng lên đáng kể. Công nhân may lương tháng 1,2 triệu

đồng/người/tháng; công nhân cơ khí là 1,6 triệu đồng/người/tháng. Với

những hộ kinh doanh, buôn bán thu nhập bình quân 3 triệu đồng/tháng tăng

40% so với trước khi thu hồi đất. Xu hướng thu nhập từ hoạt động nông

nghiệp giảm dần, thu nhập từ hoạt động phi nông nghiệp tăng lên, bình

quân 37,45 triệu đồng/hộ/năm. Từ đó, người dân có điều kiện nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần, giảm dần sự cách biệt giữa lao động chân tay và

lao động trí óc, giữa nam và nữ, giữa thành thị và nông thôn, rút ngắn

khoảng cách giàu nghèo.

Thứ hai là góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp

hoá, hiện đại hoá. Tăng tỷ trọng ngành công nghiệp- xây dựng cơ bản, dịch

vụ; giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp: công nghiệp-xây dựng cơ bản là

55,3%; thương mại-dịch vụ là 26,33%; nông nghiệp là 18,37%. Tốc độ

phát triển kinh tế của huyện bình quân 14%/năm. Trong đó, công nghiệp-

xây dựng cơ bản tăng 17%/năm; thương mại-dịch vụ tăng 15%/năm; nông

nghiệp tăng 3,5-4%/năm.

Thứ ba, về mặt tinh thần: Có việc làm người nông dân cảm thấy vui vẻ,

thoải mái, bớt lo âu, có niềm tin đối với xã hội.

Thứ tư là góp phần xoá đói, giảm nghèo và giảm tệ nạn xã hội. Trên địa

bàn huyện, số hộ nghèo giảm 626 hộ, số hộ cận nghèo giảm 661 hộ, tỷ lệ

hộ nghèo giảm xuống còn 2,3%; không có điểm, tụ điểm mại dâm công

cộng; số người nghiện ma tuý giảm 74 người.

Thứ năm, thay đổi bộ mặt nông thôn. Với thu nhập cao hơn từ công việc

mới và số tiền được đền bù, những ngôi nhà cao tầng mọc lên ngày càng

52

nhiều tại các thôn, xã thay thế cho những ngôi nhà ngói, nhà tranh. Điện đã

về tận các hộ gia đình, đường làng, ngõ xóm được mở rộng, làm mới;

100% đường liên thôn, xã được bê tông hoá; trạm y tế xã, trường học trên

địa bàn cũng được sửa sang, xây mới, trang bị nhiều máy móc, đồ dùng

phục vụ cho việc giảng dạy. Các sản phẩm công nghiệp, những tiện nghi

mà người nông dân mơ ước đã thâm nhập vào mỗi gia đình như xe máy,

tivi, tủ lạnh, nồi cơm điện, quạt điện, máy điều hoà nhiệt độ… Họ được

tiếp cận với tri thức mới, văn hoá mới, hiện đại hơn, tiến bộ hơn. Nông

thôn ngày nay đã mang một diện mạo khác hẳn vài chục năm trước. Phát

triển nông nghiệp, nông thôn bền vững đồng nghĩa với việc làm cho cuộc

sống của người nông dân tốt hơn, nâng cao hơn. Muốn vậy phải tạo việc

làm cho họ. Chứ không phải lấy đất xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị

rồi để mặc hàng vạn nông dân tự tìm lối ra.

2.Hạn chế.

2.1. Số lượng việc làm tạo ra còn ít, chất lượng việc làm chưa cao.

Số lượng việc làm mới tạo ra mới chỉ đạt 63,96% so với nhu cầu cần giải

quyết việc làm. Trong đó, 76.95% là công việc đòi hỏi trình độ lao động

phổ thông, chỉ có 2,47% cần trình độ cao đẳng, đại học. Thực trạng này xảy

ra là do những nguyên nhân sau đây:

Một là, công tác đào tạo nghề còn nhiều bất cập.

Mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu, nhưng thực tế cho thấy việc

triển khai nhiệm vụ dạy nghề cho nông dân ở khu vực bị thu hồi đất những

năm qua vẫn còn nhiều bất cập.

- Ngành nghề đào tạo chưa đa dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu của người

học nghề. Chỉ tiêu đào tạo những nghề phù hợp với lao động nữ ít hơn so

với những nghề dành cho lao động nam, trong khi nhu cầu giải quyết việc

53

làm của lao động nữ lại khá cao.

- Các trung tâm dạy nghề vẫn bị động trong việc tìm kiếm thông tin cần

thiết để điều chỉnh những nội dung giảng dạy cho phù hợp với nhu cầu của

nhiều đối tượng sử dụng lao động khác nhau. Trang thiết bị của trường dạy

nghề thì lạc hậu, giáo viên cần đào tạo lại.

- Trong số lao động được học nghề thì do nhiều nguyên nhân khác nhau

nên học viên nghỉ học, bỏ tiết gây khó khăn cho các cơ sở dạy nghề trong

việc quản lý lớp. Một trong những nguyên nhân khiến nông dân không mặn

mà với chuyện học nghề là họ chưa quen với những việc cần phải suy nghĩ,

học các kiến thức mới.

- Vẫn còn tình trạng học viên sau khi tốt nghiệp các khoá đào tạo nhưng

trình độ tay nghề không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động nên

không có việc làm hoặc việc làm không đúng nghề được đào tạo, thu nhập

thấp. Điều này được lý giải là do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ

sở dạy nghề với nhà tuyển dụng. Các doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư

để đào tạo tại chỗ; sự tham gia của các doanh nghiệp được giao đất sản

xuất kinh doanh dịch vụ còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện

đúng cam kết trước khi nhận đất.

- Người dân còn thiếu nhiều thông tin về chuyển nghề, đào tạo nghề; các

chương trình mục tiêu về hướng nghiệp còn đơn lẻ, dàn trải chưa có sự kết

hợp thường xuyên; các tổ chức, các doanh nghiệp chưa thường xuyên quan

tâm đến đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người dân, đặc biệt là những

lao động lớn tuổi.

- Riêng đối với đào tạo thợ thủ công: chỉ có 3% được dạy nghề tại trường

và truyền nghề tại doanh nghiệp, 97% số thợ còn lại học theo hình thức

“cha truyền con nối”. Các trường dạy nghề thường không quan tâm hỗ trợ

cho các làng nghề. Trong khi thanh niên trong làng nghề lại không đủ điều

54

kiện về văn hoá để tuyển sinh, hơn nữa họ phải nuôi gia đình không thể bỏ

làm việc để xa nhà theo học hàng năm trời trong trường dạy nghề. Với

những thợ đang làm thuê cho doanh nghiệp trong làng nghề thì không dám

đi học vì sợ đi học sẽ mất việc. Điều này dẫn đến kết quả là hai hình thức

đào tạo bị tách biệt nhau: trường chủ yếu đào tạo cho các đối tượng xã hội,

làng nghề phải tự lo đào tạo cho con em mình.

Hai là, việc sử dụng tiền đền bù đất của nông dân chưa hợp lý.

Bảng 13. Bảng giá đất nông nghiệp.

- Đối với đất trồng cây hàng năm.

Hạng Giá đất ( đồng)

1 108000

2 90000

3 72000

4 54000

5 45000

6 38000

- Đối với đất trồng cây lâu năm.

Hạng Giá đất (đồng)

1 126.000

2 108.000

3 84.000

4 63.600

5 48.000

- Đối với đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất.

Hạng Mức giá (đồng)

55

1 25.500

2 21.000

3 16.600

4 12.200

5 7.650

Nguồn: Bảng giá đất nông nghiệp theo quy định của UBND Thành phố Hà

Nội (Kèm theo quyết định số 05/2006/QĐ-UB ngày 31-01-2006 của UBND

Thành phố Hà Nội).

Theo quy định của thành phố Hà Nội, mức đền bù và hỗ trợ cho nông dân

sau khi bị thu hồi đất bao gồm các khoản sau:

- Đơn giá đền bù: 108.000 đồng/m2.

- Mức hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp: 30.000 đồng/m2.

- Mức hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất: 35.000 đồng/m2.

- Thưởng tiến độ bàn giao mặt bằng: 3000 đồng/m2.

- Bồi thường cây cối, hoa màu.

Tổng các khoản thì cứ 1m2 đất nông nghiệp bị thu hồi trên địa bàn huyện

Gia Lâm được bồi thường cao nhất là 184.000 đồng. Mỗi sào đất sẽ được

hỗ trợ là 66.240.000 đồng tương đương với hơn 40 năm trồng lúa. Với số

tiền đền bù lớn như vậy thì người nông dân sẽ làm gì? Theo kết quả khảo

sát cho thấy:

- 56 % số hộ dùng tiền đền bù để sửa sang nhà cửa hoặc xây nhà mới và

nhà trọ cho thuê.

- 96% dùng vào việc mua sắm đồ dùng, phương tiện sinh hoạt như xe máy,

tivi, tủ lạnh…

- 12,8% gửi tiết kiệm. Một hình thức sinh lời an toàn nhưng kém hiệu quả

hơn đầu tư kinh doanh. Qua điều tra thực tế, những hộ thuần nông kém

năng động, sợ rủi ro, không tìm được hướng sản xuất kinh doanh mới, kể

56

cả những hộ năng động chưa tìm được cơ hội đầu tư nên họ chọn giải pháp

an toàn nhất là gửi số tiền đó vào ngân hàng để hưởng lãi suất mặc dù lãi

suất khá thấp.

- Một số hộ dùng tiền đền bù để đi xin việc cho con, chủ yếu là vào làm

công nhân cho các nhà máy sau khi tốt nghiệp cấp II, cấp III.

- Chỉ có 10% số hộ dùng tiền để đầu tư vào những việc có ảnh hưởng lớn

đến việc làm, thu nhập trong tương lai như mua sắm phương tiện, tài sản

cho sản xuất kinh doanh, cho con em đi học nghề. Trong khi trình độ

chuyên môn kỹ thuật của lao động ở đây khá thấp. Do đó, nhiều hộ nhận

được tiền đền bù nhưng không tìm được việc làm và chỉ trong vòng 2-3

năm đã trắng tay, giờ lại thành hộ nghèo.

Ba là, chất lượng lao động trong các hộ bị thu hồi đất nhìn chung là

thấp.

- Về trình độ học vấn: Lao động đã tốt nghiệp cấp III chiếm 23,4%; đáng

chú ý là tỷ lệ lao động chỉ mới tốt nghiệp cấp I khá cao 36,14%. Nếu đánh

giá theo giới tính thì trình độ của nữ giới thấp hơn nam giới, số năm đi hcọ

trung bình của nữ giới thấp hơn nam giới. Trình độ học vấn thấp sẽ hạn chế

trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, vấn đề đào tạo nghề gặp

nhiều trở ngại.

- Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Chủ yếu là lao động phổ thông chưa

qua đào tạo chiếm 78,57%. Tỷ lệ lao động có trình độ CĐ, ĐH chỉ có

2,17%; Trung học chuyên nghiệp là 7,84%; công nhân kỹ thuật không có

bằng 11,42%. Vì chưa qua đào tạo nên vấn đề tìm việc làm mới cho các hộ

dân bị thu hồi đất sản xuất gặp nhiều khó khăn. Doanh nghiệp trên địa bàn

chủ yếu tuyển dụng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật nên bộ phận

lao động phổ thông không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Nếu

có được tuyển dụng thì cũng chỉ nhận được mức lương thấp, làm cho người

57

lao động ở địa phương làm được một thời gian rồi lại bỏ. Theo báo cáo của

liên minh HTX thì 55% lao động trong các cơ sở chuyên ngành nghề chưa

qua đào tạo, 36% không có chuyên môn kỹ thuật, 82,6% lao động làm việc

tại các tổ, HTX, liên minh HTX chưa qua đào tạo nghề.

Bảng 14. Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao

động trong những hộ dân bị thu hồi đất.

Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật Số tuyệt Tỷ

đối trọng

(người) (%)

Trình Đã tốt nghiệp Tiểu học 1.797 41,85

độ học Đã tốt nghiệp Trung học cơ sở 1.466 34,15

vấn Đã tốt nghiệp PTTH 1.030 24

Tổng cộng 4.263 100

Chưa qua đào tạo 3.370 78,49 Trình

CN kỹ thuật không có bằng cấp 490 11,41 độ

Trung học - Công nhân kỹ thuật 336 7,83 chuyên

Cao đẳng - Đại học 97 2,27 môn kỹ

thuật Tổng cộng 4.263 100

Nguồn: Kết quả điều tra lao động có nghề trên địa bàn huyện Gia Lâm,

Phòng lao động, thương binh và xã hội huyện Gia Lâm.

2.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu

vực phi nông nghiệp diễn ra chậm chạp và tự phát.

Việc làm của nông dân về cơ bản vẫn là thuần nông, trồng trọt và chăn

nuôi. Dịch vụ nông thôn bị thả lỏng, công nghiệp nông thôn tự phát, quy

mô nhỏ làm cho tình trạng nông dân không có việc làm càng trở nên phổ

58

biến. Đa số những hộ nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp có tư tưởng

trông chờ vào chính sách hỗ trợ của nhà nước, mà không chủ động tìm

kiếm việc làm, chưa chủ động tìm kiếm thông tin trên thị trường lao động.

Sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, năng lực ứng dụng khoa học,

công nghệ vào thực tiễn rất hạn chế. Sau khi mất đất, 51% nông dân vẫn

giữ nguyên nghề sản xuất nông nghiệp, 13% chuyển sang nghề mới, 36%

không có việc làm hoặc việc làm không ổn định. Từ đó, thu nhập của họ

thấp, khả năng chuyển đổi nghề khi bị mất đất hoặc cơ hội tham gia vào

môi trường lao động công nghiệp đòi hỏi kỹ năng và tính kỷ luật cao là

không dễ dàng. Trong số các hộ dân bị thu hồi đất, lao động từ 35 đến 60

tuổi chiếm 44,95%. Giải quyết việc làm cho đối tượng này gặp nhiều khó

khăn, một mặt do sức khoẻ và khả năng thích ứng với nghề mới, nhất là

những nghề đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao của họ hạn chế. Mặt khác, các

doanh nghiệp chủ yếu chỉ tuyển những lao động trẻ khoẻ, từ chối tiếp nhận

những đối tượng này vào làm việc. Trong khi một bộ phận lao động trẻ

ham chơi, thích hưởng thụ, không chịu được vất vả nên cũng khó đào tạo

để chuyển đổi nghề.

2.3. Hoạt động của HTX nông nghiệp gặp nhiều khó khăn.

Vai trò nổi bật và quan trọng hàng đầu của HTX là hỗ trợ và thúc đẩy các

hộ xã viên, các thành viên là các hộ kinh tế gia đình, tiểu chủ, doanh nghiệp

nhỏ trong phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế; là cầu nối giữa

kinh tế hộ và thị trường. Song hiện nay, hoạt động của các HTX nông

nghiệp đang gặp nhiều khó khăn như:

- Hoạt động dịch vụ của HTX còn khó khăn, quy mô và doanh số còn

nhỏ. Chất lượng dịch vụ ở nhiều HTX chưa đáp ứng được yêu cầu của xã

viên. Nhìn chung, hiệu quả sản xuất-kinh doanh, dịch vụ của HTX còn

thấp, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển kinh tế trong giai đoạn

59

qua. HTX chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường, chưa có sức hấp dẫn,

lôi cuốn xã viên và người lao động gắn bó, tích cực xây dựng HTX. Toàn

huyện có 42 HTX, trong đó 31 % số HTX hoạt động tốt, 44% hoạt động

trung bình, 25% hoạt động yếu kém.

25%

31%

hoạt động tốt

hoạt động trung bình hoạt động yếu kém

44%

Hình 5. Phân loại HTX.

- Cơ sở vật chất, kỹ thuật của HTX còn nghèo nàn, chưa được đầu tư, đổi

mới công nghệ để có thể phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ theo nền

kinh tế thị trường.

- Đội ngũ cán bộ quản lý HTX còn bất cập do trình độ văn hoá cũng như

trình độ chuyên môn chưa đáp ứng đòi hỏi của một đơn vị kinh tế tập thể

60

hoạt động theo cơ chế thị trường.

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM

I. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của huyện trong thời gian tới.

Nắm vững Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX đề ra là “Khai

thác có hiệu quả mọi nguồn lực và phát huy hết sức mạnh tổng hợp trên địa

bàn; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong nông nghiệp-nông

thôn theo hướng CNH-HĐH; xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh, nâng

cao trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết tốt các vấn đề

xã hội bức xúc; cải thiện đời sống, vật chất và tinh thần của nhân dân…”

UBND huyện đã đề ra một số chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội rong thời

gian tới như sau:

1. Kinh tế.

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế: 15-16%/năm. Trong đó: CN-XDCB tăng 18-

19%/năm; Thương mại-dịch vụ tăng 16-17%/năm; Nông nghiệp- Thuỷ

sản tăng 4-5%/năm.

- Cơ cấu kinh tế của huyện đến năm 2010 là: CN-XDCB chiếm 56,5%;

thương mại,dịch vụ chiếm 29,5%; nông nghiệp, thuỷ sản chiếm 15%.

- Giá trị sản xuất trên 1 ha canh tác đạt 60-65 triệu đồng. Phấn đấu giá trị

sản xuất của khối hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp tăng bình quân

2,4%/năm; tỷ trọng giá trị sản xuất của HTX dịch vụ nông nghiệp trong

toàn ngành đạt 3% vào năm 2010, 70% số HTX hạot động sản xuất kinh

doanh có hiệu quả.

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2010 xuống dưới 1,85%.

- Thu nhập bình quân đầu người là 9,85 triệu đồng.

2. Dân số, lao động, việc làm.

- Giảm tỷ lệ gia tăng dân số xuống 1,55%.Tỷ lệ lao động trong độ tuổi

61

tham gia lực lượng lao động khoảng 78%.

- Hàng năm tạo việc làm mới cho khoảng 7.500-8.000 người. Giảm tỷ lệ

thất nghiệp xuống dưới 6%. Nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu

vẹc nông thôn lên 90%. Tổ chức dạy nghề cho khoảng 3000 người.

- Cơ cấu lực lượng lao động trong các ngành: CN-XDCB, nông nghiệp,

dịch vụ đạt tỷ lệ tương ứng là 52% - 28% - 20%. Tỷ lệ lao động đã qua

đào tạo đạt 55-60%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 20-25%.

II. Những giải pháp chủ yếu.

1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo nghề.

Thực tiễn cho thấy, dạy nghề để chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm

cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp được coi là giải pháp hữu hiệu

nhằm đáp ứng nhu cầu của đông đảo nông dân thiếu việc làm và thất

nghiệp, đồng thời cũng góp phần tích cực trong việc ổn định kinh tế, xã hội

trên địa bàn huyện. Đào tạo nghề sẽ tạo ra nguồn nhân lực có khả năng đáp

ứng được yêu cầu của CNH, HĐH; tạo ra một đội ngũ nhân lực đông đảo,

có trình độ cần thiết theo một cơ cấu thích hợp, có khả năng thích ứng

nhanh với mọi biến động của quá trình sản xuất. Để đẩy mạnh công tác đào

tạo nghề cần làm tốt những công việc sau:

1.1. Đối với UBND huyện, UBND các xã.

Cần rà soát, gắn quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp với phát triển các

ngành nghề; quy hoạch đất dịch vụ và đất liền kề các khu công nghiệp;

đồng thời tiếp tục xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các cơ

chế, chính sách, giải pháp hỗ trợ người lao động bị thu hồi đất về dạy nghề

và việc làm phù hợp với tình hình thực tiễn của mỗi thôn, mỗi xã. Chủ

động xây dựng kế hoạch hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm cho người lao

động ngay trong quá trình xây dựng quy hoạch và kế hoạch thu hồi đất

62

nông nghiệp; tăng cường kinh phí đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm trong

chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và giáo dục đào tạo để hỗ trợ

lao động bị thu hồi đất sớm chuyển đổi nghề, ổn định việc làm.

Thường xuyên rà soát, tổng hợp, dự báo nhu cầu học nghề của lao động

bị thu hồi đất trên địa bàn huyện để xây dựng phương án hỗ trợ dạy nghề.

Thông báo công khai kế hoạch hàng năm về chỉ tiêu và kinh phí được

duyệt cho huyện, cho các xã và các cơ sở dạy nghề trên địa bàn để đăng ký

số lượng học viên; giao nhiệm vụ và hướng dẫn các cơ sở dạy nghề đủ điều

kiện để tổ chức các khoá dạy nghề cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp

theo kế hoạch và mức chi đã được duyệt. Đặc biệt, các địa phương cần có

cơ chế khuyến khích để thu hút các cơ sở doanh nghiệp tham gia vào dạy

nghề, ưu tiên cho vay vốn từ quỹ quốc gia đối với những người đã học

nghề cần vốn để tạo việc làm; chỉ đạo, kiểm tra thực hiện kế hoạch hàng

năm về dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện.

1.2. Đối với các doanh nghiệp.

Phải cam kết sử dụng lao động tại chỗ. Doanh nghiệp phải công khai số

lượng tuyển dụng lao động trong dự án và theo tiến độ tuyển dụng trong

từng thời kỳ, số lượng cần tuyển bao nhiêu, yêu cầu nghề nghiệp, trình độ,

tay nghề ra sao. Khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo công nhân bằng

chính sách hỗ trợ một phần kinh phí dạy nghề cho công nhân, nhân viên

mới tuyển chưa có chứng chỉ nghề.

1.3. Đối với các cơ sở dạy nghề.

Tham gia dạy nghề cho lao động khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng

đất, mở rộng số lượng nghề đào tạo phù hợp với định hướng phát triển kinh

tế xã hội của huyện, với thực tiễn sản xuất và yêu cầu thực tế của doanh

nghiệp. Việc chọn nghề và nội dung dạy nghề cần xuất phát từ nhu cầu

thực tiễn của địa phương, phải là các nghề có nhu cầu đào tạo ở đại phương

63

và có nhiều thanh niên tham gia học nghề. Trên cơ sở xác định rõ mục tiêu

cần dạy theo yêu cầu, mục tiêu của người học, biên soạn chương trình hoặc

chuyên đề cho phù hợp. Cùng với việc dạy cũng cần đẩy mạnh việc liên kết

với các doanh nghiệp trên địa bàn để vừa đào tạo, vừa giải quyết việc làm

cho học viên.

2. Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống trên địa bàn

huyện. Từ rất lâu rồi, huyện Gia Lâm vẫn nổi tiếng với làng nghề truyền thống

như làng nghề làm dược liệu ở Ninh Hiệp, làng nghề dát quỳ vàng, bạc ở

Kiêu Kỵ, làng nghề gốm sức Bát Tràng. Sự phát triển làng nghề truyền

thống luôn gắn với sự phát triển của văn hoá dân tộc. Sản phẩm của làng

nghề truyền thống là sự kết tinh của lao động vật chất và lao động tinh

thần. Nó được tạo ra từ bàn tay tài hoa, khéo léo và bộ óc sáng tạo, tinh tế

của người thợ thủ công. Vì thế, các sản phẩm thường mang phong cách văn

hoá riêng. Mỗi làng, thậm chí mỗi nhà có nét tinh xảo riêng. Đấy cũng

được coi là bí quyết nghề nghiệp. Song điều quan trọng là thông qua các

sản phẩm xuất khẩu đã gián tiếp giới thiệu được nét đẹp văn hoá độc đáo

của địa phương với bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay các làng nghề đã bị

mai một; làng nghề Bát Tràng vẫn còn hoạt động song gặp nhiều khó khăn.

Hầu hết, các nghệ nhân giỏi của các làng nghề đều là những người cao tuổi,

trong khi lớp trẻ lại không mặn mà với việc học nghề. Vì vậy, khôi phục và

phát triển các làng nghề này là yêu cầu bức xúc nhằm phát huy nội lực,

khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương, góp phần giải quyết việc làm,

tăng thu nhập, làm chuyển dịch cơ cấu lao động, góp phần đẩy mạnh CNH,

HĐH nông nghiệp, nông thôn; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá riêng

của địa phương. Một số giải pháp khôi phục và phát triển làng nghề truyền

64

thống:

2.1. Khảo sát, điều tra, đánh giá một cách toàn diện các làng nghề

truyền thống.

Xem xét các tiềm năng, lợi thế của từng ngành nghề, sản phẩm truyền

thống, những thứ gì được ưa chuộng, cái gì lạc hậu, hạn chế, so sánh với

sản phẩm cùng loại trên thị trường, kể cả tay nghề, ngày công, năng suất,

mẫu mã, thiết bị công nghệ, thị trường...để có những định hướng đúng khôi

phục và phát triển nghề. Trên cơ sở đó, tiến hành xây dựng đề án khôi phục

phát triển đối với từng làng nghề.

Đồng thời cũng khẩn trương tiến hành quy hoạch chi tiết các cụm làng

nghề để triển khai đầu tư hạ tầng kỹ thuật đáp ứng nhu cầu mặt bằng sản

xuất của các cơ sở sản xuất; Chú ý quy hoạch vùng nguyên liệu cho các

làng nghề; việc triển khai đề án khôi phục và phát triển làng nghề gắn với

công nhận làng nghề đạt tiêu chuẩn, vừa để tôn vinh nghề, làng nghề, vừa

tập trung các nguồn lực đầu tư phát triển làng nghề.

2.2. Quan tâm, hỗ trợ nguồn nhân lực phục vụ cho việc khôi phục và

phát triển làng nghề.

Phát hiện và thu hút đội ngũ doanh nhân giỏi, kiện toàn đội ngũ doanh

nhân giỏi, kiện toàn đội ngũ quản lý công nghiệp các cấp có năng lực, có sự

phân công , phân cấp rõ ràng; có chính sách tôn vinh và đãi ngộ nghệ nhân,

hỗ trợ truyền nghề và học nghề tại địa phương. Đồng thời cũng quan tâm

hỗ trợ, gửi đi đào tạo nghề ở các địa phương khác trong nước. Bên cạnh đó,

quỹ khuyến công hàng năm lồng ghép với các chương trình, dự án khác

trên địa bàn, tiếp tục đẩy mạnh chương trình đào tạo nghề, khởi sự doanh

nghiệp, tham quan học tập, cập nhật thông tin...cho các đối tượng thuộc các

thành phần kinh tế đầu tư và các nghề và làng nghề truyền thống để nâng

cao trình độ quản lý của chủ cơ sở, nâng cao tay nghề của người thợ, tiếp

65

cận với sản xuất hàng hoá của kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập;

sớm thành lập các hội nghề để tạo mối liên doanh liên kết giữa các cơ sở

sản xuất từng ngành nghề, làng nghề. Đối với các làng nghề, Nhà nước nên

đầu tư cho các làng nghề này xây dựng trường hay trung tâm dạy nghề

riêng, vừa dạy cho người trong làng nghề, vừa đào tạo cho các làng nghề

khác và cho các đối tượng ngoài xã hội.

2.3. Huy động vốn đầu tư phát triển làng nghề.

Trước hết, đẩy mạnh cải cách hành chính tạo môi trường đầu tư thông

thoáng, bổ sung, điều chỉnh các chính sách khuyến công, ưu đãi đầu tư cho

phù hợp; kêu gọi các thành phần kinh tế, các tổ chức và cá nhân trong tỉnh,

trong nước và quốc tế, các doanh nghiệp trong nước, bà con việt kiều ở

nước ngoài, huy động vốn trong dân, vốn tín dụng, các nguồn vốn ngân

sách ưu tiên cho đền bù giải toả, hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật thiết yếu,

xúc tiến thương mại, đào tạo nghề, hỗ trợ thương hiệu..., tiếp tục triển khai

chương trình khuyến công và lồng ghép với các chương trình dự án liên

quan trên địa bàn, đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

và sở hữu nhà để nhân dân, cơ sở sản xuất có điều kiện vay vốn tín dụng

đầu tư, phát triển, tạo thuận lợi cho việc tổ chức lại sản xuất của các cơ sở

sản xuất trong làng nghề, hình thành sự liên doanh, liên kết trong sản xuất

kinh doanh và các doanh nghiệp đầu tư mối...Trong những tháng gần đây,

suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam và

bộ phận bị tác động nặng nhất là các doanh nghiệp làng nghề. Vì vậy, cần

có chính sách ưu đãi với làng nghề trong vấn đề vay vốn và hỗ trợ lãi suất,

dành một phần số tiền trong gói kích cầu ưu tiên cho các làng nghề và

66

doanh nghiệp nông thôn.

2.4. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, quảng bá, tiếp thị các sản phẩm

của làng nghề.

Quảng bá và tiếp thị sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng,

tờ rơi, internet, thông qua hội chợ, triển lãm, các kỳ Festival, các điểm

trưng bày bán sản phẩm, các tour du lịch làng nghề...Khuyến khích các

doanh nghiệp xây dựng thương hiệu hàng hoá, các làng nghề xây dựng

nhãn hiệu tập thể và xuất xứ sản phẩm. Hàng năm tổ chức hội thi sáng tác

mẫu mới hàng thủ công mỹ nghệ, hàng lưu niệm. Xây dựng website về giới

thiệu sản phẩm, đào tạo nghề, cung cấp thông tin cho làng nghề...

2.5. Tập trung hình thành các doanh nghiệp, đơn vị làm đầu mối tiêu

thụ sản phẩm, làm "bà đỡ" cho các làng nghề.

Đây là khâu đột phá quan trọng, tạo nên đầu ra cho sản phẩm làng nghề.

Một mặt họ thu gom sản phẩm của làng nghề đưa đến nơi tiêu thụ, mặt

khác họ thường xuyên cung cấp các thông tin giúp các cơ sở sản xuất thay

đổi mẫu mã, chất lượng kịp thời, tạo sức cạnh tranh sản phẩm, và có thể hỗ

trợ một lượng vốn, hỗ trợ đào tạo kỹ thuật cho các làng nghề. Nhờ đó, các

cơ sở sản xuất trong làng nghề sẽ có điều kiện để hợp tác, liên kết, hoặc

chuyên môn hoá một số công đoạn trong sản xuất, đồng thời chú trọng hơn

đến việc xây dựng nhãn hiệu cho sản phẩm làng nghề.

2.6. Tăng cường ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất và đổi mới

mẫu mã sản phẩm.

Trong thời đại ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển rất nhanh chóng,

việc ứng dụng các thành tựu của nó trong sản xuất là cần thiết, tuy nhiên

việc ứng dụng và chuyển giao các công nghệ mới cho các ngành nghề, làng

nghề truyền thống phải phù hợp với loại ngành nghề và năng lực của cơ sở

sản xuất, áp dụng trong một số công đoạn của sản xuất, riêng công đoạn thể

67

hiện tính độc đáo, tinh tuý của sản phẩm thì cần sử dụng bí quyết, công

nghệ truyền thống. Có như vậy, sản phẩm làm ra có chất lượng ổn định,

năng suất tăng, giá thành hạ và có điều kiện bảo vệ môi trường tốt hơn.

Đồng thời vẫn giữ được bản sắc văn hóa địa phương. Tuy nhiên, để tăng

sức cạnh tranh đáp ứng nhu cầu thị trường, sản phẩm của làng nghề phải

luôn đổi mới về mẫu mã.

2.7. Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống gắn với hình

thành các tour du lịch làng nghề.

Đây là điều không mới với các nước trên thế giới, thậm chí nhiều làng

nghề trong nước cũng đã tận dụng thế mạnh về văn hoá truyền thống để

làm các tour du lịch từ lâu nhưng chưa hiệu quả. Điểm yếu ở đây là hầu hết

các làng nghề hiện nay cơ sở hạ tầng, giao thông còn kém phát triển; khâu

tiếp thị vừa thiếu lại vừa yếu, người dân làng nghề chưa có đủ kiến thức về

cách phục vụ khách du lịch…Do đó, để phát triển làng nghề gắn với du lịch

thì yếu tố hạ tầng cơ sở đóng vai trò quan trọng. Du lịch làng nghề đòi hỏi

tính văn hoá cộng đồng nên bên cạnh sự quan tâm của các cấp chính quyền,

cần phát huy vai trò chủ động hợp tác của cộng đồng dân cư trong làng

nghề và các doanh nghiệp du lịch.

Hiện nay, tại làng nghề Bát Tràng đã mở dịch vụ chở du khách bằng xe

trâu. Dịch vụ tuy mới mẻ nhưng sẽ thu hút khá nhiều du khách bởi sự lạ

lẫm, độc đáo cũng như nét thôn quê của nó. Với giá 5 đô la/người/chuyến

du khách có thể thưởng ngoạn và thăm thú làng nghề, vừa trò chuyện rôm

rả, vừa có thể chụp hình. Hay một dịch vụ khác cũng sẽ thu hút được nhiều

du khác đó là dịch vụ tự làm sản phẩm gốm. Phí dịch vụ đối với một đoàn

khách từ 30 người trở lên là 10.000 đồng/người/ngày; với những khách đi

lẻ thì tiền dịch vụ sẽ gộp vào tiền bán sản phẩm do tự khách làm ra, giao

động từ 5.000 đến 40.000 đồng/sản phẩm. Ngoài ra các chủ xưởng còn

68

cung cấp dịch vụ ăn uống, nghỉ ngơi nếu khách có nhu cầu. Khách du lịch

có thể thoả thích sáng tạo để có thể mang về những sản phẩm ưng ý. Trung

bình mỗi tháng Bát Tràng thu hút từ 25.000 đến 30.000 lượt khách trong

nước và khoảng 5.000 lượt khách quốc tế đến tham quan, du lịch. Cần có

thêm những loại hình dịch vụ du lịch làng nghề khác để đáp ứng nhu cầu

của du khách như du lịch các chùa và nhà thờ họ…

3. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động.

Xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp được nhiều địa phương

quan tâm và sử dụng. Thông qua xuất khẩu lao động không chỉ giảm bớt

gánh nặng về việc làm trước mắt mà hàng năm số lượng ngoại tệ người lao

động gửi về làm tăng thu nhập cho bản thân người lao động, gia đình và

nhà nước. Ở Malayxia thu nhập bình quân 2-3 triệu đồng/tháng, có nghề 5-

7 triệu đồng/tháng; ở Đài Loan thu nhập 300-500 USD/tháng; Hàn Quốc

thu nhập 900-1000 USD/tháng; Nhật Bản trên 1000 USD/tháng. Mặt khác

thông qua xuất khẩu lao động, người lao động học hỏi và tiếp nhận được kỹ

thuật hiện đại, phương pháp làm việc tiên tiến, tác phong công nghiệp. Để

tiếp tục phát triển lĩnh vực đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài cần tiến

hành những giải pháp sau:

3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đưa người lao động Việt Nam đi

làm việc ở nước ngoài.

Từ năm 1996 đến nay, Chính phủ đã lần lượt ban hành 4 Nghị định, đặc

biệt năm 2006, Quốc hội đã ban hành Luật Người lao động Việt Nam đi

làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2007.

Với luật này, hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài có

69

một khung pháp lý vững chắc và đầy đủ để phát triển trong thời gian tới.

3.2. Đàm phán để ký kết các thoả thuận với các nước nhận lao động

Việt Nam sang làm việc.

Cho đến nay, Việt Nam đã ký các hiệp định với các nước Hàn Quốc,

Malayxia, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Ô-man, Qatar; đang đàm phán

và chuẩn bị ký kết các hiệp định với Các tiểu Vương quốc Arập Thống

Nhất, Ba-ranh, Libi, Liên bang Nga… Đối với các nước nhận lao động Việt

Nam nhưng chưa có hiệp định hoặc thoả thuận, chúng ta đã tiếp xúc, đàm

phán và tạo ra sự hợp tác chính thức với Chính phủ các nước trên thực tế

nhằm phối hợp quản lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam.

3.3.Tổ chức bảo vệ quyền lợi người lao động làm việc ở nước ngoài.

Chính phủ Việt Nam giao cho các đại diện Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ

quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người lao động. Tại các các nước có

nhiều lao động Việt Nam làm việc, đã thành lập các Ban Quản lý lao động

trong cơ quan đại diện để thực hiện nhiệm vụ này. Ngoài ra, luật pháp Việt

Nam cũng quy định các doanh nghiệp làm dịch vụ đưa người lao động Việt

Nam đi làm việc ở nước ngoài phải có trách nhiệm cử đại diện các nước

nhận lao động để bảo vệ quyền lợi người lao động.

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cùng các bộ ngành liên quan và

chính quyền địa phương thường xuyên theo dõi, phát hiện xử lý nghiêm các

hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, gây ảnh hưởng đến quyền lợi

của người lao động.

3.4. Hỗ trợ người lao động.

Mọi người đi làm việc ở nước ngoài được đào tạo, bồi dưỡng về tay nghề,

ngoại ngữ, kiến thức pháp luật, phong tục tập quán, các ứng xử trong công

việc và cuộc sống của nước sẽ đến làm việc để người lao động có đủ năng

lực, kiến thức làm việc ở nước ngoài, tránh tình trạng người lao động vi

70

phạm kỷ luật lao động nước sở tại, bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp.

4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn.

Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã được Đảng ta xác

định:

- Phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, đa dạng, bền vững có

chất lượng hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Tốc độ tăng trưởng bình

quân đạt 3%-3,5%/năm.

- Xây dựng một nông thôn mới giàu đẹp, có kinh tế, kết cấu hạ tầng hiện

đại, môi trường sinh thái sạch đẹp, bản sắc văn hoá được giữ gìn.

- Nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tăng

thu nhập của nông dân đạt khoảng 2000-2500 USD/năm. Xây dựng người

nông dân thành người lao động văn minh có văn hoá, có kiến thức kinh tế-

kỹ thuật, biết kinh doanh và có đời sống khá giả.

Vì vậy, để đạt được mục tiêu đó thì việc đào tạo nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực nông thôn được coi là giải pháp trọng điểm. Trình độ

chuyên môn kỹ thuật, tay nghề có được nâng cao thì người nông dân mới

có điều kiện, có nhiều cơ hội hơn, có khả năng cạnh tranh trên thị trường

lao động. Một số biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn:

Thứ nhất, đào tạo nghề nông cho nông dân, chủ yếu là tập huấn, bồi

dưỡng kiến thức cho lao động nông nghiệp qua trung tâm học tập cộng

đồng tại thôn. Sử dụng các mô hình mẫu của chương trình khuyến nông.

Kết hợp hình thức đào tạo, bồi dưỡng ở trình độ cao hơn tại các trường cao

đẳng, trung cấp nông nghiệp. Xây dựng các mô hình trình diễn ngay trên

đồng ruộng, chuồng trại, ao hồ…sau đó mời nông dân đến tham quan, học

tập huấn luyện, tập huấn kỹ thuật ngay trên những mô hình trình diễn.

Người nông dân có thể đến học tại Trường Đại học Nông nghiệp I hay mời

thầy dạy là các chuyên gia giỏi của các Trung tâm khuyến nông, các

71

chuyên gia của công ty giống cây trồng, v.v..Người học nghề cũng có thể

đến trang trại của các nông dân làm kinh tế giỏi để học chăn nuôi thuỷ sản,

cách trồng cây ăn quả, làm nấm, trồng hoa, chế biến nông sản…Lao động

trẻ ở nông thôn hiện nay không chỉ thiếu kiến thức chuyên môn mà kiến

thức xã hội, giao tiếp công đồng, phát triển bản thân còn nhiều khiếm

khuyết. Ở họ dạy nghề thôi chưa đủ mà cần đưa cả kỹ năng sống vào

chương trình giảng dạy, giúp họ có được tác phong làm việc nghiêm túc,

tuân thủ kỷ luật lao động và có tinh thần đồng đội khi làm việc ở bất cứ

môi trường nào.

Thứ hai, đào tạo những nghề thuộc khu vực công nghiệp-dịch vụ cho lao

động nông thôn, chủ yếu là thanh niên, học sinh mới tốt nghiệp phổ thông

hoặc bổ túc văn hoá giúp họ chuẩn bị sẵn điều kiện chuyển sang lao động

phi nông nghiệp. Với lực lượng lao động này, cần đặc biệt coi trọng dạy

nghề, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu lao

động. Hình thức đào tạo chủ yếu qua các cơ sở dạy nghề trên địa bàn

huyện.

Thứ ba, nâng cao kiến thức và năng lực cho đội ngũ cán bộ xã. Nội dung

đào tạo cho đội ngũ cán bộ xã chủ yếu là về kiến thức pháp luật, quản lý

kinh tế- xã hội, kỹ năng tổ chức thực hiện các chủ trương, đề án của cấp

trên ở địa bàn thôn xã. Thực hiện chuẩn hoá đội ngũ cán bộ cơ sở trước hết

là ở những thôn, xã khó khăn theo các tiêu chí cơ bản: cán bộ tối thiểu phải

có trình độ học vấn trung học cơ sở và có chứng chỉ được đào tạo sơ cấp về

quản lý nhà nước. Và chỉ bố trí cán bộ vào bộ máy lãnh đạo, quản lý ở cơ

sở khi học có đủ tiêu chuẩn.

Thứ tư, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông nông thôn. Liệu chất

lượng đào tạo có đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội không?

Muốn vậy công tác giảng dạy, đào tạo luôn phải đổi mới, cập nhật và chuẩn

72

hoá giáo trình cũng như đội ngũ giáo viên. Về nội dung này cần tập trung

thực hiện đồng bộ nâng cấp cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng đôi ngũ

giáo viên. Tiếp tục đầu tư kinh phí cho kiên cố hoá phòng học ở khu vực

nông thôn chưa hoàn thành. hỗ trợ 100% kinh phí sách giáo khoa, sinh hoạt

phí cho học sinh thuộc diện hộ nghèo hoặc đối tượng chính sách xã hội. Có

chính sách đưa cán bộ khoa học-kỹ thuật về nông thôn thông qua việc yêu

cầu thực hiện chế độ nghĩa vụ đối với sinh viên đại học học các ngành liên

quan đến nông nghiệp, nông thôn về công tác tại cơ sở xã thời hạn từ 3 đến

5 năm.

5. Tăng cường hoạt động của hệ thống thông tin thị trường lao động.

Đẩy mạnh hoạt động của hệ thống thông tin thị trường lao động nhằm tạo

môi trường để người lao động và người sử dụng lao động gặp nhau trên thị

trường lao động là rất cần thiết. Các biện pháp đẩy mạnh hoạt động của

thông tin thị trường lao động như:

- Tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng của các trung tâm dịch vụ

việc làm, hội chợ việc làm, các trang web việc làm trên internet….nhằm tạo

cơ hội cho người lao động tiếp cận với các chủ sử dụng lao động.

- Nâng cao tính chuyên nghiệp và hiện đại hoá thiết bị kỹ thuật của các cơ

quan thống kê và cung ứng thông tin thị trường lao động các cấp.

- Cung cấp thông tin cho người dân biết về số lượng tuyển dụng của các

doanh nghiệp, yêu cầu về độ tuổi, trình độ, ngành nghề tuyển dụng.

6. Khuyến khích nông dân tự tạo việc làm.

Sự tham gia hỗ trợ, giúp đỡ của nhà nước cũng như chính quyền các cấp

chỉ ở một mức độ nhất định. Nhu cầu giải quyết việc làm thì nhiều, song

nhà nước và chính quyền các cấp chỉ có thể giải quyết được một phần nhu

cầu đó. Nếu cứ ỷ lại, trông chờ vào nhà nước thì vấn đề việc làm cho nông

73

dân bị thu hồi đất sẽ trở nên nan giải hơn rất nhiều. Vì vậy, người nông dân

cần chủ động, dựa vào những điều kiện mà bản thân mình và gia đình có

được tìm hướng đi cho mình. Để làm được điều đó cần nâng cao nhận thức

về tự tạo việc làm cho người nông dân. Thay vì sử dụng tiền đền bù thông

thường, có thể hướng dẫn người dân sử dụng bằng những cách hiệu quả

hơn như:

+ Trích một khoản tiền được bồi thường góp vốn vào các dự án khu công

nghiệp hoặc doanh nghiệp trong khu công nghiệp, trở thành các cổ đông.

Các cổ đông cá nhân không chỉ hưởng cổ tức mà còn tập hợp cổ phần, cử

người đại diện tham gia quản lý trong công ty.

+ Sử dụng nguồn tiền làm kinh tế hộ gia đình hoặc thành lập hợp tác xã,

doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông qua các hợp đồng cung ứng

nguyên vật liệu, dịch vụ…tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn huyện.

+ Sử dụng tiền đền bù cho mình và con em mình học nghề, chuyển đổi

nghề nghiệp.

7. Hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất.

Một thực tế trong thời gian qua là giá đền bù đất nông nghiệp thấp nhưng

sau khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất và giao cho doanh nghiệp, giá đất

lại tăng lên hàng chục lần với khoản chênh lệch rơi vào túi nhà đầu tư.

Trong khi việc làm không có, cuộc sống bất ổn. Vì vậy, nhà nước cần có

những biện pháp hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất như:

- Hỗ trợ nông dân tận dụng quỹ đất nông nghiệp còn lại chuyển sang phát

triển nông nghiệp đạt hiệu quả cao, áp dụng các tiến bộ khoa học mới nhằm

tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích. Quy hoạch khu vực sản xuất

nông nghiệp tập trung như vùng chăn nuôi bò sữa, bò thịt, lợn nạc; đẩy

mạnh dồn điền, đổi thửa, phát triển hình thức kinh tế trang trại; đào tạo

người dân có kiến thức sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, hiện

74

đại. Tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân, phát triển

dịch vụ công, tài chính công, các loại hình tín dụng để giải quyết vấn đề về

vốn.

- Thành lập Quỹ hỗ trợ ổn định đời sống, phổ cập giáo dục, học nghề và

việc làm cho các hộ bị thu hồi trên 30% đất sản xuất. Hỗ trợ tiền học phí,

tiền đóng góp cơ sở vật chất trường học cho con em nông dân là học sinh

trong độ tuổi phổ thông. Trợ cấp kinh phí khó khăn, hỗ trợ 100% kinh phí

BHYT cho người trên 60 tuổi đối với nam, trên 55 tuổi đối với nữ. Hỗ trợ

một lần kinh phí đào tạo nghề cho người trong độ tuổi lao động, có nhu cầu

học nghề bằng hình thức cấp thẻ học nghề.

- Xã hội hoá các hoạt động dịch vụ tại các khu đô thị, khu công nghiệp,

tạo điều kiện cho người dân có đất bị thu hồi được tham gia kinh doanh,

nhất là những lao động lớn tuổi, không tìm được việc làm trong các khu

công nghiệp.

8. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX.

HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có

nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra để phát huy sức

mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có

hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần, góp phân phát triển kinh tế xã hội, đất nước. HTX thực hiện vai

trò “ bà đỡ” thúc đẩy kinh tế xã viên phát triển. HTX xúc tiến các dịch vụ

quan trọng nhất phục vụ sản xuất của các hộ xã viên và cộng đồng, khâu

tưới tiêu nước, cung cấp cây, con giống, hướng dẫn kỹ thuật…; HTX tiến

hành các hoạt động sản xuất, chế biến, giúp đỡ tiêu thụ nông phẩm…Nhờ

tham gia HTX mà những hộ nghèo có điều kiện ổn định và nâng cao năng

lực sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh. Ở

khu vực nông thôn, các HTX dịch vụ nông nghiệp đã tạo ra một số thay đổi

75

đáng kể trong quá trình sản xuất nông nghiệp; đồng thời tạo ra nhiều việc

làm mới cho xã viên, người lao động thông qua việc triển khai các dịch vụ

phục vụ đời sống và phát triển ngành nghề. Hướng tạo việc làm này đã

giảm sức ép về số lượng lao động trên một đơn vị diện tích đất sản xuất

nông nghiệp và như vậy sẽ có tác dụng tăng hiệu suất sử dụng thời gian lao

động ở khu vực nông thôn. Với vai trò quan trọng như trên, cần phải có

những biện pháp phát huy hơn nữa hieeuj quả hoạt động của HTX. Cụ thể

là:

- Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động các khâu dịch vụ của các HTX

nông nghiệp, mở rộng các loại hình dịch vụ khác như dịch vụ tiêu thụ sản

phẩm, dịch vụ tín dụng nội bộ, các dịch vụ đời sống, các ngành nghề mới…

- Hướng dẫn thực hiện các chính sách hỗ trợ kinh tế tập thể như chính sách

đất đai, tín dụng đầu tư, hỗ trợ khoa học công nghệ, thông tin, thị trường và

chế độ đối với người lao động và xã viên HTX.

- Rà soát đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ HTX, phối hợp với các

sở ngành của Thành phố hỗ trợ kinh phí cho cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp

vụ HTX tham gia các lớp đào tạo trung và dài hạn. Hằng năm tổ chức các

lớp tập huấn nâng cao trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán

bộ HTX.

- Tăng cường liên kết giữa các HTX, giữa HTX với doanh nghiệp; củng cố

hoạt động của các câu lạc bộ trong HTX.

- Chuyển giao kỹ thuật và công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp cho

nông dân, gắn quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá và vùng sản xuất nguyên

liệu cho công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông

76

sản.

III. Một số kiến nghị trong vấn đề tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất.

1. Đối với thành phố Hà Nội.

- Tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước với các vấn đề xã hội, đặc

biệt là tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất. Sửa đổi, bổ sung các chính

sách, giải pháp cụ thể đối với những vùng, khu vực có đất nông nghiệp bị

thu hồi. Xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến việc

thu hồi đất và giải quyết tốt quyền lợi và tạo môi trường thuận lợi cho nông

dân.

- Căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất,

quy hoạch xây dựng, quy hoạch công nghiệp đã được phê duyệt để có dự

báo, tính toán về nhu cầu đào tạo chuyển nghề cho nông dân.

- Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không sinh sôi nảy nở thêm được. Vì

vậy, trong quá trình lập quy hoạch công nghiệp, đô thị cần nghiên cứu, xem

xét nên quy hoạch tại những khu vực đất nông nghiệp có năng suất thấp,

đất xấu, không nên quy hoạch tại những vùng có điều kiện thuận lợi cho

phát triển nông nghiệp năng suất cao, để đảm bảo sử dụng hợp lý nguồn tài

nguyên đất, an toàn lương thực và phát triển cân bằng, bền vững.

- Quy hoạch sử dụng đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới

cần thông báo sớm, công khai cho nhân dân được biết. Việc thu hồi đất nên

theo nguyên tắc: nhu cầu đến đâu thì thu hồi đến đó. Đền bù, giải phóng

mặt bằng phải tính đến yếu tố giá cả thị trường trong từng thời điểm nhất

định.

- Nhận thức đúng đắn và cần thiết về vị trí, vai trò chủ thể của nông dân

trong quá trình phát triển nông thôn. Nông dân là chủ thể của quá trình phát

triển nông thôn, cũng có nghĩa là đặt nông dân trở lại đúng vị trí, vai trò

77

của họ trong sự phát triển, vì mục đích cuối cùng của công cuộc phát triển

đất nước là sự phát triển toàn diện của con người. Nông dân phải được

tham gia ý kiến vào quá trình quy hoạch đô thị và khu công nghiệp cũng

như trong quá trình đền bù, giải toả đất nông nghiệp; mọi hoạt động của cơ

quan nhà nước, của các đoàn thể, tổ chức xã hội phải hướng vào nâng cao

đời sống tinh thần và vật chất của nông dân, bảo đảm cho nông dân quyền

được hưởng thụ những lợi ích xứng đáng với những đóng góp của họ.

2. Đối với chính quyền địa phương.

- Cần có những quy định cụ thể, chặt chẽ và kiểm tra thường xuyên đối với

các doanh nghiệp trong vấn đề ưu tiên tuyển dụng và đào tạo nghề cho lao

động ở địa phương có đất bị thu hồi.

- Nhanh chóng triển khai việc bồi thường đất nông nghiệp bằng đất dịch

vụ. Quy hoạch vị trí đất làm dịch vụ gắn với quy hoạch đất khu công

nghiệp, khu đô thị trên cơ sở tham khảo ý kiến của dân.

- Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ quy trình bồi thường, tái định cư, giải

phóng mặt bằng, công khai đến người dân có đất bị thu hồi; đảm bảo việc

cấp phép đầu tư, giao đất, cho thuê đất theo đúng quy định của pháp luật,

tránh tình trạng vội vàng chạy theo phong trào, thu hút đầu tư để giải phóng

mặt bằng khi các vấn đề bồi thường, tái định cư, hướng nghiệp ổn định

cuộc sống người dân chưa được giải quyết.

- Tuyên truyền, động viên, khuyến khích lao động trẻ đi học nghề để nâng

cao tay nghề. Thay đổi nhận thức của người nông dân về việc làm thông

qua các phương tiện thông tin truyền thông, các chương trình phổ cập giáo

dục quốc gia, tổ chức các chương trình tư vấn các mô hình, phương thức

phát triển kinh tế và hỗ trợ các khoá đào tạo kỹ năng, kiến thức kinh tế ứng

78

dụng cơ bản.

KẾT LUẬN

Trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế

nước ta phải chấp nhận một “sân chơi” bình đẳng trong quan hệ kinh tế

quốc tế, sẽ không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ nội địa và

nhập khẩu; phải mở cửa thị trường, bảo hộ hạn chế, dỡ bỏ hàng rào thuế

quan…Đây là những thách thức lớn đối với các ngành sản xúat trong nước,

đặc biệt đối với sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại

hoá nông nghiệp, nông thôn là xu hướng tất yếu của hầu hết các quốc gia

trên thế giới. Đối với Hà Nội nói chung và huyện Gia Lâm nói riêng, đô thị

hoá nông thôn đã và đang mang lại cho người nông dân ngoại thành nhiều

cơ hội phát triển, cải thiện đáng kể đời sống dân sinh. Tuy nhiên chính tốc

độ đô thị hóa quá nhanh đó đã đẩy hàng chục vạn nông dân bị mất đất rơi

vào cảnh thất nghiệp. Trong những năm qua, Nhà nước đã triển khai nhiều

chính sách hỗ trợ cho người dân những vùng bị thu hồi đất như chính sách

định cư tại chỗ, hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề, nhưng do nhiều yếu

tố khách quan và chủ quan nên số lượng nông dân mất việc làm, thiếu việc

làm vẫn chưa thể khắc phục triệt để. Vậy đâu là lời giải cho bài toán này?

Trước tình hình đó, đề tài “Giải pháp tạo việc làm cho nông dân bị thu

hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm” đã đánh giá và đưa ra

một số giải pháp giải quyết vấn đề này. Đề tài đã đạt được những kết quả

như sau:

- Xác định được vai trò của tạo việc làm.

- Hệ thống hoá kinh nghiệm giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi

đất ở một số nước châu Á.

- Phân tích công tác thu hồi đất trên địa bàn huyện Gia Lâm và tình hình

tạo việc làm cho nông dân. Từ đó rút ra những thuận lợi, khó khăn trong

79

quá trình tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất.

- Đề xuất một số nhóm giải pháp tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất,

đồng thời đưa ra một số kiến nghị với nhà nước và chính quyền địa phương

để có thể làm tốt hơn vấn đề tạo việc làm cho nông dân.

Các giải pháp tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp nhằm

đạt được những mục tiêu về hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả xã hội.

Những kết luận nêu trên tuy còn nhiều hạn chế và bất cập nhưng cũng sẽ có

những đóng góp nhất định cho vấn đề tạo việc làm cho nông dân mất đất,

80

nhất là trong thời kỳ hội nhập.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo số 08/BC-UB của UBND huyện Gia Lâm về mục

tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của các đề án phát triển kinh tế giai đoạn 2006-

2010.

2. Bộ luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam đã được sửa

đổi, bổ sung năm 2002 và năm 2006.

3. Giáo trình Dân số và phát triển, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế

quốc dân, năm 2007.

4. Giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực, Nhà xuất bản Đại học

Kinh tế quốc dân năm 2008.

5. Luật đất đai năm 2003.

6. Nghị định 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư khi Nhà nước thu hồi đất.

7. PGS.TS.Nguyễn Tiệp ( Hiệu trưởng trường đại học Lao động-

Xã hội). Việc làm cho người lao động trong quá trình chuyển đổi mục

đích sử dụng đất.

Tạp chí cộng sản, Số 22/2008. 8.

Ths. Nguyễn Thị Tuyết Mai. Chiến lược phát triển nông 9.

nghiệp của một số nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

MỘT SỐ TRANG WEB

1. http://www.dangcongsan.vn

2. http://www.kinhtenongthon.com.vn

3. http://www.laodong.com.vn

4. http://www.tapchicongsan.org.vn

81

5. http://www.tinkinhte.com