Luận văn

Những giải pháp vượt qua

hàng rào phi thuế quan đối

với xuất khẩu thủy sản của

Việt Nam vào thị trường EU

và Mỹ

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 2 PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN VÀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ ............................................................................................ 5 I.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN .............................................. 5 I.1.1. Khái niệm và vai trò của hàng rào phi thuế quan .......................................................... 5 I.1.2. Các loại hàng rào phi thuế quan .................................................................................... 5 I.1.2.1. Hạn ngạch nhập khẩu ............................................................................................ 6 I.1.2.2. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện ................................................................................. 6 I.1.2.3. Biện pháp liên quan đến quản lý giá ...................................................................... 7 I.1.2.4. Biện pháp liên quan đến doanh nghiệp .................................................................. 8 I.1.2.5. Biện pháp liên quan đến tiêu chuẩn kỹ thuật .......................................................... 8 I.1.2.6. Biện pháp quản lý hành chính................................................................................ 9 I.2. CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ ......................................................... 9 I.2.1. Chính sách thương mại chung của liên minh Châu Âu (EU) ..................................... 9 I.2.1.1. Chính sách thương mại nội khối ........................................................................ 9 I.2.1.2. Chính sách ngoại thương của EU ...................................................................... 9 I.2.1.3. Quy chế nhập khẩu chung của EU ................................................................... 10 I.2.2. Chính sách thương mại của Mỹ .............................................................................. 13 I.2.2.1. Quy định về hải quan ...................................................................................... 13 I.2.2.2. Quy chế nhập khẩu chung của Mỹ ................................................................... 14

PHẦN II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM VÀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG THỦY SẢN VIỆT NAM XUẤT KHẨU VÀO EU VÀ MỸ ............................................................................................................................ 18 II.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 18

II.1.1. Tình hình sản xuất, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản ............................................. 18 II.1.2. Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào các thị trường ........................... 20

II.2. CÁC HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN CHỦ YẾU CỦA EU VÀ MỸ ĐỐI THỦY SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ............................................................................... 26 II.2.1. Đối với thị trường EU ......................................................................................... 26 II.2.2. Đối với thị trường Mỹ .......................................................................................... 30

PHẦN III: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VƯỢT QUA HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM VÀO . 33 THỊ TRƯỜNG EU VÀ MỸ .................................................................................................. 33 III.1.ĐỊNH HƯỚNG CHUNG ............................................................................................ 33 III.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ..................................................................................... 34 III.2.1. Chính sách tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu ................................... 34 III.2.2. Chính sách thị trường ........................................................................................... 35 III.2.3. Chính sách tạo vốn .............................................................................................. 35 III.2.4. Chính sách công nghệ .......................................................................................... 36 KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 38 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................... 40

1

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với liên minh Châu Âu

(EU) vào ngày 20/10/1990, (kí hợp đồng buôn bán hàng dệt may với EU ngày

15/12/1992) và hiệp định khung với EU ngày 17/7/1995. Các sự kiện quan trọng

trên chính là yếu tố thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam – Liên minh

Châu Âu phát triển mạnh trên cả ba lĩnh vực : thương mại, đầu tư và viện trợ,

đặc biệt là lĩnh vực thương mại.

Hiện nay EU thực sự là thị trường tiềm năng của Việt Nam. Điều này

được thể hiện ở chỗ EU là một trong những trung tâm tiêu thụ lớn trên thế giới,

có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về hàng hóa, nhu cầu nhập khẩu hàng năm

của EU về những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là rất lớn. Đồng

thời chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam đang dần hoàn thiện. Hơn

nữa EU là khu vực phát triển kinh tế khá ổn định trên thế giới, cùng với sự ra

đời của đồng EURO, vị thế của EU ngày càng được nâng cao trên trường quốc

tế. Tại thời điểm này, Việt Nam lại đang thực hiện chiến lược “Công nghiệp hóa

hướng vào xuất khẩu”. Do vậy, thị trường EU là môi trường lí tưởng cho các

nhà xuất khẩu Việt Nam thể hiên sức mạnh của mình.

Bên cạnh đó, một thị trường tiềm năng không kém thị trường EU là Hoa

Kỳ. Kể từ ngày B.Clinton ký quyết định xóa bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam

(3/2/1994), thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai nước (28/1/1995) và

đặc biệt sau khi hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu

lực (10/12/2001), quan hệ thương mại Việt - Mỹ đã có những bước phát triển

đáng kể, kim ngạch hàng hóa hai chiều tăng mạnh, mở ra cho các doanh nghiệp

hai nước cơ hội đầu tư, kinh doanh bình đẳng cùng có lợi, tạo đà quan trọng cho

tiến trình phát triển Việt Nam – Hoa Kỳ sau bình thường hóa quan hệ.

Trên thị trường thế giới, hàng thủy sản đựợc xếp vào nhóm sản phẩm cơ

2

bản, luôn trong tình trạng cung không đáp ứng nổi cầu trên quy mô toàn cầu.

Trong mấy năm vừa qua, Việt Nam luôn được xếp vào nhóm những nước xuất

khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, tính đến hết tháng 11 năm 2006 kim ngạch xuất

khẩu của Việt Nam đã vượt ngưỡng trên ba tỷ USD (3,08 tỷ USD, tăng gần 25%

so với cùng kỳ năm trước). Cơ hội còn rất nhiều, áp lực cạnh tranh cũng rất lớn,

nếu muốn trụ vững trên thương trường quốc tế, đặc biệt khi một số nước tham

gia xuất khẩu tăng lên và mở rộng năng lực sản xuất, đồng thời các nước nhập

khẩu sẽ đưa ra những hàng rào thương mại ngày càng khắt khe hơn mà nhất là

những rào cản phi thuế quan của hai thị trường lớn là EU và Mỹ. Để xuất khẩu

thủy sản Việt Nam trụ vững trên thương trường thế giới, đồng thời đẩy mạnh

xuất khẩu thủy sản vào hai thị trường lớn này, chúng ta phải làm gì để vượt qua

được hàng rào phi thuế quan đó?

Xuất phát từ thực tế nêu trên và là một trong những người quan tâm đến

vấn đề này , em tiến hành nghiên cứu đề tài:

“Những giải pháp vượt qua hàng rào phi thuế quan đối với xuất khẩu

thủy sản của Việt Nam vào thị trường EU và Mỹ”

2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

a. Mục tiêu chung

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam,

từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm vượt qua hàng rào phi thuế

quan của hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU và Mỹ.

b. Mục tiêu cụ thể

- Tìm hiểu những rào cản phi thuế, cụ thể ở thị trường EU và Mỹ.

- Đánh giá thực trạng xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam và tìm ra các nguyên

nhân chủ yếu.

- Đề xuất định hướng và đưa ra một số giải pháp cụ thể để vượt qua hàng

rào phi thuế quan của ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam trên hai thị trường EU

3

và Mỹ.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

a. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan về xuất khẩu hàng thủy

sản và một số hàng rào phi thuế quan.

b. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về nội dung: Tập trung vào nghiên cứu hàng rào phi thuế quan và

các giải pháp vượt qua các hàng rào phi thuế quan của hàng xuất khẩu thủy sản

của Việt Nam trên hai thị trường EU và Mỹ.

4

Phạm vi về thời gian: tìm hiểu vấn đề chủ yếu qua các năm 2000 - 2006

PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN

VÀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ

I.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN

I.1.1. Khái niệm và vai trò của hàng rào phi thuế quan

Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống các quan điểm, nguyên

tắc, mục tiêu, biện pháp và các công cụ mà các quốc gia sử dụng nhằm điều

chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế phù hợp với các lợi thế quốc gia trong

từng thời kỳ nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho quốc gia từ thương mại quốc tế.

Khi tham gia vào thương mại quốc tế, các quốc gia sẽ phát huy được các

thế mạnh của nước mình, tận hưởng được những lợi thế từ thị trường thế giới.

Nhưng mặt khác cũng sẽ bộc lộ những mặt yếu kém và bất lợi của chính quốc

gia đó. Do vậy các quốc gia thường phải sử dụng một hệ thống các cộng cụ để

điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế. Trong đó phải kể đến việc sử dụng

hàng rào phi thuế quan – một công cụ được coi là linh hoạt, tác động nhanh,

mạnh.

Hiện nay có nhiều quan niệm về hàng rào phi thuế quan, tổ chức Hợp tác

và Phát triển kinh tế (OECD) năm 1997 đã định nghĩa : “Hàng rào phi thuế quan

là những biện pháp biên giới nằm ngoài phạm vi thuế quan có thể được các quốc

gia sử dụng, thông thường dựa trên cơ sở lựa chọn, nhằm hạn chế nhập khẩu”.

Như vậy vai trò chính của hàng rào phi thuế quan chính là nhằm hạn chế

nhập khẩu, một quốc gia khi sử dụng hàng rào phi thuế quan này thực chất

là việc bảo hộ cho nền sản xuất trong chính quốc gia đó. Ngoài ra, hàng

rào phi thuế quan không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo hộ thị trường nội

địa, hướng dẫn tiêu dùng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế khá có hiệu quả mà

còn là công cụ dùng để phân biệt đối xử trong quan hệ đối ngoại.

I.1.2. Các loại hàng rào phi thuế quan

5

Các hàng rào phi thuế quan chủ yếu mà các nước thường áp dụng là:

I.1.2.1. Hạn ngạch nhập khẩu

Hạn ngạch nhập khẩu được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng

cao nhất của một mặt hàng hoặc một nhóm hàng được phép nhập khẩu từ thị

trường nhất định trong một khoảng thời gian nhất định thông qua hình thức cấp

giấy phép.

Hạn ngạch nhập khẩu đưa tới sự hạn chế số lượng hàng nhập khẩu đồng

thời gây ra ảnh hưởng đến giá nội địa của hàng hóa, do mức cung hàng hóa thấp

đi làm cho giá cân bằng cao hơn so với giá trong thương mại tự do. Hạn ngạch

nhập khẩu tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước thực hiện quy mô sản

xuất với hiệu quả thấp hơn so với điều kiện thương mại tự do. Hạn ngạch nhập

khẩu là một công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược sản xuất thay thuế nhập

khẩu bảo hộ nền sản xuất nội địa.

I.1.2.2. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện

Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là biện pháp hạn chế xuất khẩu mà theo đó

một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế bớt lượng hàng

xuất sang nước mình một cách “tự nguyện”, nếu không các quốc gia nhập khẩu

sẽ áp dụng các biện pháp cần thiết để buộc các quốc gia xuất khẩu phải giảm bớt

số lượng hàng hóa xuất khẩu sang nước mình.

Thực chất hạn chế xuất khẩu tự nguyện là những cuộc thương lượng mậu

dịch giữa bên xuất khẩu và bên nhập khẩu để hạn chế bớt sự xâm nhập của hàng

hóa nhập khẩu nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định ở các nước nhập khẩu,

chẳng hạn: tạo công ăn việc làm, bảo hộ những ngành công nghiệp non trẻ có

tiềm năng... Khi thực hiện hạn chế xuất khẩu tự nguyện nó có tác động kinh tế

tương tự như hạn ngạch nhập khẩu. Tuy nhiên hạn ngạch nhập khẩu mang tính

chủ động và thường là biện pháp tự bảo vệ thị trường trong nước còn hạn chế

xuất khẩu tự nguyện thực ra mang tính miễn cưỡng và gắn với những điều kiện

nhất định. Hình thức này thường được áp dụng đối với những quốc gia có sản

6

lượng xuất khẩu quá lớn ở một số mặt hàng nào đó.

I.1.2.3. Biện pháp liên quan đến quản lý giá

Các biện pháp quản lý giá nhập khẩu hoặc giá bán trong nước có thể tác

động trực tiếp hoặc gián tiếp tới xuất nhập khẩu hàng hóa. Việc tính giá tùy tiện

sẽ gây nên những khó khăn lớn cho thương mại quốc tế vì giá tính thuế cao thì

giá của sản phẩm nhập về sẽ cao, khả năng thanh toán sẽ giảm. Một số nước

ngoài mục tiêu tránh gian lận thương mại họ khéo sử dụng biện pháp liên quan

đến việc xác định trị giá tính thuế hải quan như một công cụ gián tiếp bảo hộ sản

xuất trong nước. Trị giá tính thuế hải quan cao hoặc thấp sẽ tác động trực tiếp

đến khoản thuế nhập khẩu mà các doanh nghiệp phải nộp và qua đó tác động lên

giá bán của sản phẩm.

Ở một số nước phát triển thường không sử dụng giá bán thực tế ghi trên

hóa đơn để tính thuế mà dùng trị giá tính thuế tối thiểu hoặc giá tham khảo.

Thậm chí có nước còn sử dụng giá hóa đơn cao nhất của sản phẩm cùng loại

nhập khẩu từ bất kì nước nào trong thời gian trước đó để xác định trị giá tính

thuế. Cách xác định trị giá tính thuế như vậy khiến các nhà xuất khẩu phải chịu

giá cao một cách vô lý và không thể dự đoán được khả năng cạnh tranh về giá

sản phẩm của mình.

Hiệp định xác định trị giá tính thuế quan của tổ chức thương mại thế giới

quy định giá tính thuế hàng nhập khẩu là giá giao dịch, tức giá đã trả hoặc phải

trả cho hàng hóa khi được bán để xuất khẩu đến nước nhập khẩu có tính đến

những điều chỉnh nhất định như phí hoa hồng, môi giới, đóng gói…

Tổ chức thương mại thế giới không cho phép xác định trị giá tính thuế

quan theo giá nhập khẩu tối thiểu và giá bán trong nước của hàng hóa tương tự

được sản xuất tại nước nhập khẩu. Giá bán tối đa trong nước đối với một hàng

hóa nào đó cũng có thể hạn chế nhập khẩu. Chính vì vậy Tổ chức thương mại

thế giới thừa nhận các biện pháp quản lý giá tối đa dù cho có phù hợp với

nguyên tắc không phân biệt đối sử cũng có thể tác động xấu tới lợi ích của các

7

nước thành viên xuất khẩu.

I.1.2.4. Biện pháp liên quan đến doanh nghiệp

Với các hình thức sở hữu khác nhau nếu Nhà nước ban cho doanh nghiệp

Nhà nước những độc quyền nhất định thì có thể gây ra những trở ngại nhất định

đối với hoạt động thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp Nhà nước được quyền

kinh doanh xuất nhập khẩu đã tạo ra một rào cản đối với hoạt động mua bán trên

thị trường thế giới. Các nước sử dụng biện pháp này thường cho rằng họ cần

phải bình ổn giá cả và khối lượng của các mặt hàng có ảnh hưởng lớn đến các

cân đối lớn của nền kinh tế. Tuy nhiên trên thực tế biện pháp này đã hạn chế

quyền kinh doanh xuất nhập khẩu tạo độc quyền cho một số doanh nghiệp nhất

định.

I.1.2.5. Biện pháp liên quan đến tiêu chuẩn kỹ thuật

Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đều là những quy định về vệ sinh

đo lường, an toàn lao động, bao bì, đóng gói ….Các tiêu chuẩn này thường được

các nước áp dụng, một mặt chúng tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế bằng

cách giúp cho người mua đánh giá được quy cách chất lượng sản phẩm, mặt

khác chúng dễ trở thành rào cản thương mại nếu quá khác biệt giữa các nước.

Trên thực tế một sản phẩm nhập khẩu nếu không đáp ứng được các quy

định của yêu cầu kỹ thuật thì sẽ không được phép bán ra trên thị trường; về mặt

tiêu chuẩn, nếu hàng nhập khẩu không tuân thủ các tiêu chuẩn đặt ra thì vẫn

được phép bán ra trên thị trường mặc dù có thể bị người tiêu dùng không ưa

chuộng. Nói chung những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật là xuất phát từ đòi hỏi

thực tế của đời sống xã hội phản ánh trình độ phát triển mà con người đã đạt

được.

Tuy nhiên, trên thực tế người ta thường khéo sử dụng các quy định này

một cách thiên lệch giữa các doanh nghiệp trong nước với các công ty nước

ngoài để biến chúng trở thành công cụ cạnh tranh trong quan hệ thương mại

quốc tế. Để khắc phục tình trạng này người ta tìm cách ban hành các tiêu chuẩn

8

kỹ thuật quốc tế thống nhất.

I.1.2.6. Biện pháp quản lý hành chính

Mặc dù hầu hết các nước trên thế giới đều có mục tiêu chung là tự do hóa,

thuận lợi hóa thương mại quốc tế. Nhưng trên thực tế vì những lý do kinh tế

chính trị nhất định mà mỗi nước áp dụng những biện pháp khá tinh vi nhằm cản

trở tự do hóa thương mại quốc tế. Ví dụ như: quy định về thanh toán, quy định

về đặt cọc, quy định về quảng cáo…

I.2. CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ

I.2.1. Chính sách thương mại chung của liên minh Châu Âu (EU)

Liên minh Châu Âu (EU) ngày nay được xem như một đại quốc gia ở

Châu Âu, bởi vậy chính sách thương mại của EU cũng giống như chính sách

thương mại của một quốc gia, gồm: chính sách thương mại nội khối, chính sách

ngoại thương và quy chế nhập khẩu chung của EU .

I.2.1.1. Chính sách thương mại nội khối

Chính sách này tập trung vào việc xây dựng và vận hành thị trường chung

Châu Âu nhằm xóa bỏ việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc gia, biên giới hải

quan (xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan) để tự do lưu thông hàng hóa,

sức lao động, dịch vụ và vốn, điều hòa các chính sách kinh tế xã hội của các

nước thành viên.

I.2.1.2. Chính sách ngoại thương của EU

Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương

chung đối với các nước ngoài khối. Ủy ban Châu Âu (EC) là người đại diện duy

nhất cho liên minh trong việc đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại và dàn

xếp tranh chấp trong lĩnh vực này.

Chính sách ngoại thương của EU gồm: chính sách thương mại tự trị và

chính sách thương mại dựa trên cơ sở hiệp định. Các biện pháp được áp dụng

phổ biến trong chính sách này là: thuế quan, hạn chế về số lượng (Quota), hàng

rào kỹ thuật (TBT: Technical Barrier to Trade), hàng rào an thực phẩm và dịch

bệnh thủy sản (SPS: Sanitary and Phitosanitary), chống bán phá giá

9

(Untidumping), và trợ cấp xuất khẩu.

Hiện nay, 25 nước thành viên EU (bao gồm 15 nước cũ và 10 nước mới

gia nhập ngày 1/5/2004) đều áp dụng một biểu thuế quan chung đối với hàng

hóa xuất nhập khẩu, EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hóa: đẩy

mạnh tự do hóa thương mại (giảm thuế quan đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu

và tiến tới xóa bỏ hạn ngạch). Đối với hàng hóa xuất khẩu vào EU, mức thuế

trung bình đánh vào hàng nông sản là 18%, còn hàng công nghiệp chỉ là 2%.

Chính sách phát triển ngoại thương của EU từ năm 1951 đến nay gồm

những nhóm chính sách chủ yếu sau: chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính

sách thay thế nhập khẩu, chính sách tự do hóa thương mại. Việc ban hành và

thực hiện các chính sách này có liên quan chặt chẽ đến tình hình phát triển kinh

tế, tiến trình nhất thể hóa Châu Âu và khả năng cạnh tranh trong từng thời kỳ

của các sản phẩm trong liên minh trên thị trường thế giới. Ngoài các chính sách

trên, EU còn có Quy chế nhập khẩu chung.

EU không chỉ sử dụng các biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh

trong thương mại mà còn sử dụng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập GSP

(General System of Preferences) – một biện pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh

thương mại với các nước đang phát triển và chậm phát triển. Bằng cách này, EU

có thể làm cho nhóm các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam ) và các

nước chậm phát triển dễ dàng thâm nhập vào thị trường của mình. Nhóm các

nước chậm phát triển được hương ưu đãi cao hơn nhóm các nước phát triển. EU

áp dụng chương trình thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP) cho thời kỳ từ 1/7/1999

đến 31/12/2001.

I.2.1.3. Quy chế nhập khẩu chung của EU

Tất cả các nước thành viên EU đều áp dụng chính sách thương mại chung

đối với những nước ngoài khối. Để thực thi chính sách thương mại, ngoài các

biện pháp thuế quan và phi thuế quan, EU còn ban hành và thực hiện Quy chế

nhập khẩu chung.

Các nhà xuất khẩu có thể xâm nhập vào thị trường EU với điều kiện có

10

các hiệp định thương mại song phương, vượt qua hàng rào thuế quan và phi thuế

quan, tuân thủ quy chế nhập khẩu chung và các yêu cầu của thị trường về chất

lượng, an toàn cho người sử dụng và bảo vệ môi trường. Hiện nay hàng rào kỹ

thuật (TBT), quy chế nhập khẩu chung và các yêu cầu của thị trường chính là

những rào cản khó vượt qua đối với hàng xuất khẩu của các nước đang phát

triển, trong đó có Việt Nam.

Quy chế nhập khẩu chung của EU chính là quy định cụ thể để thực hiện

chính sách nhập khẩu của EU như sau:

i. Về thuế

1. Thuế nhập khẩu: một trong những việc đáng chú ý nhất của việc hình

thành thị trường chung là các thủ tục thông quan đồng nhất và thuế nhập khẩu

chỉ phải thanh toán tại cảng vào EU. Khi đã vào EU thì không cần các thủ tục

thông quan tại biên giới nội địa. Bởi vậy, hàng có thể được vận chuyển nhanh

với giá cước rẻ trong phạm vi EU.

Thuế nhập khẩu được áp dụng đối với tất cả các sản phẩm nhập khẩu vào

EU. Nhờ chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập và các hiệp định thương mại mà

xuất khẩu từ các nước đang phát triển có thể miễn thuế nhập khẩu hoặc chịu một

mức thuế thấp. Trong các trường hợp đặc biệt, hàng hóa có thể được miễn thuế

vì các lý do khác nhau: vận chuyển hàng mẫu không có giá thương mại, hàng

hóa để sửa chữa hoặc các sản phẩm nhập khẩu tạm thời.

2. Thuế nhằm bảo hộ

Các sản phẩm thực phẩm: chính sách nông nghiệp chung (CAP) đã được

ban hành và thực thi ở EU trong nỗ lực để bảo hộ sản xuất thực phẩm nội địa.

Một đặc điểm quan trọng của CAP là hệ thống thuế. Các loại thuế được hợp nhất

thành hệ thống giá khởi điểm. Nếu giá nhập khẩu nằm dưới giá khởi điểm tối

thiểu, một mức thuế bổ sung được đánh thêm vào thuế hải quan.

Thuế chống bán phá giá: thuế chống bán phá giá là thuế đánh vào các sản

phẩm nhập khẩu được bán ở EU với mức giá thấp hơn so với mức giá được bán

ở các nước sản xuất. Khi các sản phẩm nhập khẩu gây ảnh hưởng tiêu cực

11

nghiêm trọng đối với ngành công nghiệp nội địa của EU, ngành công nghiệp này

có thể gửi đơn kiện đến Brussels. Nếu qua điều tra nhận thấy có hiện tượng bán

phá giá thì thuế chống bán phá giá được áp dụng trên cơ sở điều khoản 113 của

hiệp ước EU. Thuế này có thể đánh vào hàng hóa ngay khi thông báo.

3. Thuế tiêu thụ

Thuế tiêu thụ áp dụng đối với một số sản phẩm phụ thuộc vào dung lượng,

được áp dụng phổ biến đối với các sản phẩm nội địa và hàng nhập khẩu. Mức

thuế tiêu thụ đối với một sản phẩm nhất định có thể rất khác biệt giữa các nước

thành viên EU.

Thuế giá trị gia tăng (VAT): Tất cả sản phẩm bán ở EU là đối tượng chịu

thuế VAT. Nhìn chung mức thuế áp dụng đối với các sản phẩm thiết yếu là thấp

và mức thuế áp dụng đối với các sản phẩm xa xỉ là cao. Mặc dù mục tiêu ban

đầu là hài hòa thuế quan, các miền thuế đã được thu hẹp, nhưng sự khác biệt vẫn

còn tồn tại giữa các nước thành viên EU.

ii.Giấy phép nhập khẩu

Giấy phép nhập khẩu có thể được yêu cầu đối với hàng nhạy cảm và hàng

chiến lược, trong số này có hàng dệt, các sản phẩm đá, thép và vũ khí. Giấy

phép nhập khẩu thông thường được cấp không có quá nhiều khó khăn và các nhà

nhập khẩu có trách nhiệm viết đơn xin giấy cấp phép.

iii.Hạn ngạch

Hạn ngạch là sự hạn chế về số lượng nhập khẩu hoặc xuất khẩu và được

sử dụng để điều chỉnh nguồn cung. Hạn ngạch phổ biến nhất ở EU là hạn ngạch

số lượng. Các quốc gia EU đang tiến hành hủy bỏ dần hạn ngạch nên hệ thống

hạn ngạch đang bị tháo dỡ ở một số nước. Sự điều chỉnh hoạt động nhập khẩu

hàng nông sản vẫn được thực hiện thông qua hệ thống thuế và giá khởi điểm.

Như vậy hạn ngạch sẽ không tồn tại lâu.

iv. Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật

Các quy định kiểm dịch thực vật có thể áp dụng đối với các sản phẩm tươi

như hoa quả. Điều đó có nghĩa là giấy chứng nhận phải được cung cấp bởi nước

12

có sản phẩm xuất khẩu trong điều kiện đảm bảo sức khỏe. Sản phẩm phải được

giám định bởi cơ quan giám định thực phẩm có thẩm quyền của nước sản xuất

để đảm bảo rằng không bị côn trùng và dịch bệnh.

v. Lệnh cấm

EU ban hành lệnh cấm đối với một số sản phẩm, điều này có nghĩa là sản

phẩm nhập khẩu bị cấm hoặc chỉ cho phép trong những điều kiện nhất định.

Lệnh cấm này chủ yếu được áp dụng đối với việc mua bán các sản phẩm nguy

hiểm như: phế thải hóa chất, thuốc tân dược, thuốc trừ sâu. Thực phẩm, cây

trồng và vật nuôi nhập khẩu cũng có thể là đối tượng bị cấm trên cơ sở cân nhắc

về an toàn và sức khỏe. Các luật quốc tế đối với sản phẩm này là: luật về chất

thải hóa chất và công ước thương mại quốc tế về các loại hàng hóa gây nguy

hiểm.

vi. Chính sách hóa chất – rào cản mới của EU

Ủy ban Châu Âu (EC) đang chuẩn bị ban hành chính sách hóa chất trên

lãnh thổ EU nhằm ngăn ngừa tác hại của hóa chất đối với sức khỏe con người và

môi trường. Theo đó, chính sách mới sẽ ban hành những quy định về đăng ký,

kiểm tra, cấp phép và hạn chế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu hành

và sử dụng hóa chất được sử dụng làm nguyên liệu đầu vào và hóa chất để xử lý

nguyên liệu trong quá trình sản xuất.

I.2.2. Chính sách thương mại của Mỹ

Dù là một nước chủ trương tự do hóa thương mại, nhưng Mỹ cũng có

những chính sách về nhập khẩu nhằm bảo vệ người tiêu dùng và sản xuất trong

nước.

I.2.2.1. Quy định về hải quan

Hải quan Mỹ là cơ quan thực thi và áp dụng các quy định của luật thuế

quan và những luật lệ khác của các bộ để điều chỉnh việc nhập khẩu hàng hóa.

Họ cũng phụ trách việc chống các hành vi buôn lậu, vi phạm quyền sở hữu trí

tuệ, hàng gian, hàng giả được nhập khẩu.

Ngoài các yêu cầu khắt khe của hải quan và nhà nhập khẩu, doanh nghiệp

13

phải chú ý đến xuất xứ của các linh kiện hoặc nguyên liệu được dùng để sản

xuất. Hải quan không cho phép lô hàng nhập khẩu nào có linh kiện hay nguyên

liệu từ các nước bị lệnh cấm vận và trừng phạt của Mỹ như: Cuba, Iran… Sản

phẩm do phạm nhân, trẻ em dưới tuổi vị thành niên tại các trại lao động cải tạo

làm ra cũng bị coi bất hợp pháp và không được hải quan Mỹ chấp nhận.

Hải quan Mỹ cũng có quyền bắt giữ và phạt rất nặng những lô hàng nhập

khẩu bị nghi ngờ là hàng giả, hàng ăn cắp bản quyền và những lô hàng ghi nhãn

hiệu, thành phần … sai với thực tế kiểm tra của hải quan.Một nhà nhập khẩu có

thể bị khép tội lừa dối khách hàng nếu không ghi chi tiết, thành phần sản phẩm

ngay trên nhãn hiệu bao bì.

I.2.2.2. Quy chế nhập khẩu chung của Mỹ

a) Về thuế

Điều này ở Mỹ được căn cứ trên bảng hệ thống điều hòa trong mô tả và

mã hàng (HS – Harmonized tarriff System) của hội đồng hợp tác hải quan. Bảng

này liệt kê các loại hàng hóa và mã số của chúng với mức thuế áp dụng. Giá tính

thuế của Mỹ dựa trên cơ sở giá FOB chứ không phải giá CIF, áp dụng cho cả

hàng xuất và nhập khẩu, do đó chi phí vận tải và bảo hiểm không bị gộp vào giá

trị hàng hóa để tính thuế.

Hoa Kỳ ấn định thuế quan theo ba cách:

Thứ nhất, thuế tính theo giá (ad valorem ) là thuế tính theo tỷ lệ phần trăm

trên giá hàng hóa nhập khẩu. Cách tính này chiếm tỷ lệ lớn trong biểu thuế của

Hoa Kỳ.

Thứ hai, thuế đặc định hay thuế theo lượng (specific) là thuế đánh theo

trọng lượng hay dung tích hàng hóa.

Thứ ba, thuế hàng hóa được tính dựa trên cơ sở cả hai cách tính trên.

Ngoài ra có một số mặt hàng phải chịu thêm thuế doanh thu hay mua bán

(ngoài thuế quan) như rượu, bia, thuốc lá, nước hoa và các sản phẩm dầu khí.

b) Lệ phí

14

Lệ phí gồm có: phí xử lý hàng và phí bảo dưỡng cảng.

Phí xử lý hàng: được đánh vào từng chuyến tàu hàng. Biểu thuế dành cho

việc nhập hàng chính thức (tức là hàng có giá trị trên 1500 USD, gọi là hàng

mậu dịch) liệt kê các loại phí khác nhau từ 21 đến 400 USD cho mỗi lần nhập

cùng với một số phí đánh theo tỷ lệ của món hàng này là 19%. Cũng chi phí này

nhưng cho loại hàng hóa nhập không chính thức (tức là phi mậu dịch) thì mức

phí là 2 USD cho hàng xử lý bằng máy, 4 USD cho hàng xử lý bằng tay mà

không phải do hải quan Mỹ làm và 8 USD do họ làm. Giá trị cho hàng phi mậu

dịch lớn nhất là 2500 USD. Một vài mặt hàng như vải sợi không được nhập theo

lối phi mậu dịch và nếu có thì giá trị tối đa cũng rất thấp.

Phí bảo dưỡng cảng: là phí tính theo giá trị % của chuyến tàu hàng nhập

vào, phí này là 0,125% trên giá trị tiền hàng và trả hàng quý.

c) Hạn ngạch (quota)

Hạn ngạch là sự kiểm soát về mặt số lượng hàng nhập khẩu trong một thời

gian nhất định vào Mỹ. Có một số mặt hàng nằm trong sự hạn chế này theo luật

của Quốc hội, quy định của các cơ quan quản lý theo lệnh của Tổng thống. Có

hai loại hạn ngạch:

 Hạn ngạch ấn định theo mức thuế quan: loại này cho người nhập được

đem vào Mỹ một mặt hàng nhất định nào đó với mức thuế được giảm bớt trong

một khoảng thời gian nhất định. Số hàng nào nhập vào mà vượt quá số lượng

cho phép sẽ bị đánh thuế cao. Các mặt hàng này thường là: sữa, kem, cá hồi…

 Hạn ngạch tuyệt đối: cho phép nhập một số lượng của mặt hàng nào đó

trong một khoảng thời gian nhất định. Hàng đem vào quá hạn ngạch sẽ bị trả về

hay cho vào kho để chờ đưa vào trong thời gian có hiệu lực của hạn ngạch mới.

Các mặt hàng này là: một vài loại cồn, sữa đặc, bơ hỗn hợp…

d) Giấy phép nhập khẩu

Những mặt hàng dưới đây khó đem vào Mỹ, muốn nhập phải xin giấy

phép cơ quan có thẩm quyền: vũ khí đạn dược,rượu và thức uống có cồn, sản

15

phẩm từ sữa, thuốc, vật liệu sinh học và côn trùng, các loại giống gây nguy hiểm

hay có tính đe dọa, các chất độc hại, côn trùng, gia súc, thịt và các sản phẩm từ

thịt, máy móc động cơ, các chất phống xạ và phản ứng hạt nhân.

Yêu cầu giấy phép nhập khẩu có thể là một biện pháp duy trì sự kiểm soát

trong quản lý ngoại hối, quota, và thuế quan. Giấy phép nhập khẩu cũng có thể

được sử dụng tương tự như quota để hạn chế số lượng hàng hóa nhập vào.Sự

khác nhau giữa quota và giấy phép nhập khẩu là quota kiểm soát lượng hàng đưa

vào một nước, còn chế độ giấy phép nhập khẩu mềm mại hơn. Nói chung quota

chỉ nêu ra một giai đoạn thời gian nhất định, còn giấy phép thì hạn chế số lượng

dựa trên cơ sở trù tính cho từng ngày.

e) Các tiêu chuẩn kỹ thuật bắt buộc

Có nhiều mặt hàng cả nội lẫn ngoại bán ở Mỹ đều phải tuân thủ những

tiêu chuân về chất lượng an toàn. Ai nhập khẩu vào Mỹ những mặt hàng này đều

phải xin giấy xác nhận đạt chuẩn. Giấy này phải được xuất trình cùng lúc với

hàng rào và người nhập phải nộp số tiền kí quỹ đảm bảo để chắc chắn là hàng

phù hợp với tiêu chuẩn đòi hỏi. Các mặt hàng thuộc loại này thường là: xe hơi

và phụ tùng, sản phẩm men,đò điện gia dụng…

f) Ghi dấu hiệu

* Nước xuất xứ: Thông thường, người nhập hàng phải ghi rõ ở bên ngoài

sản phẩm một nhãn hàng bằng tiếng Anh của nước sản xuất hay chế tạo món

hàng. Dấu hiệu phải ghi ở nơi dễ thấy, rõ ràng và bền như chính tuổi thọ của sản

phẩm. Nếu sản phẩm không có nhãn hàng đúng cách, khi nhập vào nước Mỹ thì

người nhập phải trả một khoản thu bằng 10% của tiền thuế quan đóng cho sản

phẩm đó.

* Ghi dấu đặc biệt: Ngoài những yêu cầu về ghi nước xuất xứ của hàng

hóa, có một số mặt hàng đòi hỏi phải có dấu hiệu đặc biệt như: chữ không được

phai, chữ nổi, chữ lõm cho những mặt hàng như ống sắt hay thép, khung, xi

lanh, các dụng cụ kỹ thuật, kéo kim…Có những cơ quan chỉ dẫn việc ghi những

nhãn hiệu đặc biệt này. Trong trường hợp sản phẩm bị ghi sai làm người tiêu thụ

16

hiểu nhầm sẽ không được nhập khẩu.

g) Các biện pháp hỗ trợ thương mại

* Thuế chống bán phá giá: Luật chống bán phá giá phân tích hành vi định

giá của các nhà sản xuất nước ngoài. Việc phân tích luôn được thực hiện theo

cách riêng biệt đối với từng công ty. Khái niệm đơn giản nhất về chống bán phá

giá tại thị trường Mỹ là bán một sản phẩm ở Mỹ với mức giá thị trường thấp hơn

giá của chính sản phẩm đó tại thị trường nước xuất khẩu. Mỹ sẽ áp dụng quy

định tính tỷ lệ lợi nhuận đặc biệt đối với các nước mà họ coi là nền kinh tế phi

thị trường như Trung Quốc, Việt Nam …Giá sản phẩm ở những nước này không

được công nhận với lý do là nền kinh tế do Chính phủ điều tiết.

Một vấn đề tiếp theo được xem xét là việc xét duyệt hành chính nhằm xác

định mức thuế phá giá thực tế mà người nhập khẩu phải nộp. Nếu chưa được xét

duyệt, khoản tiền mặt đặt cọc nộp cho hải quan Mỹ sẽ chính thức là mức thuế

chống bán phá giá. Việc định giá này có thể được thực hiện hàng năm. Còn một

lệnh chống bán phá giá có thể có hiệu lực vô hạn, mặc dù cứ 5 năm một lần

công tác đánh giá lại được tiến hành.

* Thuế chống trợ giá: Luật pháp Mỹ quy định những hình thức trợ giúp

doanh nghiệp của Chính phủ bao gồm: trợ cấp tiền mặt,trợ cấp xuất khẩu, các

khoản cho vay với lãi suất ưu đãi, các khoản bảo lãnh tín dụng, xóa nợ, giảm

thuế. Giống như trong một vụ điều tra thuế chồng bán phá giá, số tiền trợ cấp

được định lượng và tính theo tỷ lệ % để làm cơ sở áp thuế theo giá hàng vào tất

17

cả các sản phẩm nhập khẩu được trợ giá.

PHẦN II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT

NAM VÀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG

THỦY SẢN VIỆT NAM XUẤT KHẨU VÀO EU VÀ MỸ

II.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI

GIAN QUA

II.1.1. Tình hình sản xuất, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản

Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về NTTS với diện tích mặt nước nội

địa khoảng 1 triệu ha, vùng triều khoảng 0,7 triệu ha và hệ thống đầm phá ven

biển có thể phát triển NTTS. Trong khi diện tích có khả năng NTTS của cả nước

ước tính khoảng gần 2 triệu ha thì mới chỉ sử dụng 902.900 ha (năm 2004).

Từ giữa thập kỷ 90 trở lại đây, NTTS của Việt Nam phát triển rất nhanh.

Qua bảng dưới ta cũng có thể thấy tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản

của nước ta trong mấy năm qua tăng rất nhanh, tăng từ 641,9 nghìn ha năm 2000

lên đến 959,9 nghìn ha năm 2005.

Bảng 1: Diện tích mặt nước nuôi trồng và sản lượng thuỷ sản

giai đoạn 2000 – 2006

1) Năm

2000 2001 2002 2003 2004 2005

2006 (ước tính)

A.Tổng số diện tích nuôi trồng (nghìn ha)

1.Diện tích nước mặn, lợ

24,7

50,0

11,2

13,1

14,3

Nuôi cá Nuôi tôm Nuôi hỗn hợp và thuỷ sản khác Ươm, nuôi giống thuỷ sản

31,9 0,3

24,5 0,3

32,7 0,4

22,5 0,5

22,4 0,2

2. Diện tích nước ngọt

Nuôi cá Nuôi tôm Nuôi hỗn hợp và thuỷ sản khác

641,9 755,2 797,7 867,6 920,1 959,9 397,1 502,2 556,1 612,8 642,3 677,2 16,5 324,1 454,9 509,6 574,9 598,0 616,9 43,4 0,4 244,8 253,0 241,6 254,8 277,8 282,7 225,4 228,9 232,3 245,9 267,4 272,1 6,5 1,2

16,4 2,2

21,8 0,5

6,6 0,4

5,5 1,0

6,4 1,1

0,8

1,8

2,3

2,4

2,9

2,9

Ươm, nuôi giống thuỷ sản B. Tổng sản lượng thuỷ sản (nghìn tấn) Khai thác Nuôi trồng

2250,5 2434,7 2647,4 2859,2 3142,5 3432,8 3707,4 1660,9 1724,8 1802,6 1856,1 1940,0 1995,4 2155,0 589,6 709,9 844,8 1003,1 1202,5 1437,4 1552,4

18

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Những nỗ lực trong việc đổi mới đã đem lại kết quả đáng khích lệ là

ngành thuỷ sản phát triển toàn diện trên các mặt nuôi trồng, khai thác, chế biến

và xuất khẩu.

Cũng từ đầu năm 2006 đến nay, toàn ngành đã khai thác được gần 3,5

triệu tấn, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó sản lượng thu được từ

nuôi trồng thuỷ sản trên 1,5 triệu tấn và còn lại là từ khai thác biển. Tốc độ tăng

bình quân hàng năm của giá trị sản xuất thuỷ sản thời kỳ 1986 – 2006 đạt mức

cao, gần 10%. Theo Bộ Thủy sản, tính đến ngày 24-11, kim ngạch xuất khẩu

thủy sản của cả nước đã đạt gần 3,1 tỉ USD, bằng 110,06% kế hoạch đề ra cho

cả năm (3 tỉ USD) và tăng 24,45% so với cùng kỳ.

Quá trình tăng trưởng sản lượng thuỷ sản diễn ra đồng thời với quá trình

tăng trưởng diện tích NTTS. Tuy nhiên, tốc độ tăng sản lượng nhanh hơn do

năng suất nuôi trồng tăng lên.

Bảng 2:Xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch sang các thị trường

năm 2005

Thị trường Giá trị(USD)

Số lượng(tấn)

131559.9 378035774

Châu Á (không kể Nhật Bản) Châu Âu Mỹ Nhật Bản Thị trường khác Total 115696.6 89025.6 123078.8 177018.9 636379.8 380904754 617172589 785875894 576737747 2738726758

Nguồn: Trung tâm Tin học - Bộ Thủy sản

Tuy vậy, trong quá trình phát triển và nuôi trồng thủy sản cũng đã thể

hiện nhiều bất cập như: diện tích nuôi tôm và diện tích thâm canh ở nhiều địa

phương tăng quá nhanh, chưa có hoặc không theo quy hoạch đang diễn ra ở

nhiều nơi. Việc quản lý chất lượng con giống và quản lý an toàn vệ sinh trong

nuôi trồng thủy sản còn chưa đáp ứng yêu cầu, mặc dù đã đầu tư khá nhiều. Cả

19

nước chỉ có 7 phòng kiểm nghiệm lớn,nhiều địa phương thiếu cán bộ và phương

tiện kiểm tra. Nhiều doanh nghiệp thực hiện HACCP theo kiểu đối phó…

Những bất cập trên đã tác động không nhỏ đến môi trường sinh thái và hình

thành nguy cơ cho sự phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững.

II.1.2. Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào các thị trường

II.1.2.1. Đối với thị trường EU

Từ những năm 1980, sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đã xuất

hiện trên thị trường EU dưới một nhãn hiệu chung là Seaprodex. Ngay từ những

năm đầu thâm nhập thị trường EU, sản phẩm thủy sản được xuất khẩu chung với

các sản phẩm nông sản khác với số lượng ít nhưng đã gây được cảm tình của

người tiêu dùng châu Âu. Vào năm 1985, 1986, Công ty xuất nhập khẩu thuỷ

sản Việt Nam SEAPRODEX đã được trao tặng danh hiệu “ Nhãn hiệu sản phẩm

thủy sản uy tín”.

Nhận thức được rằng, quá trình tiêu thụ sản phẩm cuối cùng, đặc biệt là

tiêu thụ với giá trị gia tăng thông qua xuất khẩu, là động lực bảo đảm cho sự

tăng trưởng và phát triển của các hoạt động sản xuất khai thác và nuôi trồng, bên

cạnh việc giữ vững các thị trường truyền thống, ngành thuỷ sản đã chủ trương

tích cực đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, trong đó EU là một trong những lựa

chọn hàng đầu. Do đây là một thị trường lớn, ổn định, giá tốt nhưng có đòi hỏi

rất cao về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là sau những vụ ngộ

độc thực phẩm, nên để thu được thành công ở thị trường này, ngành đã xác định

không ngừng nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn sản phẩm là nhiệm vụ quan

trọng hàng đầu trong chiến lược xúc tiến thâm nhập thị trường. Ngành đã hướng

dẫn các doanh nghiệp phấn đầu liên tục nhiền năm để tạo nên những bước

chuyển biến tích cực theo hướng này. Từ Bộ Thuỷ sản đến các doanh nghiệp đã

thực hiện hàng loạt biện pháp, từ cải thiện hệ thống thể chế, hoàn thiện văn bản

quy phạm pháp luật, nâng cao năng lực các cơ quan thẩm quyền, đổi mới cách

tiếp cận trong quản lý chất lượng, an toàn sản phẩm, cho đến đầu tư đổi mới

công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cấp điều

20

kiện sản xuất nhằm thoả mãn các điều tương đồng với các nước nhập khẩu về hệ

thống pháp lý, năng lực của cơ quan thực thi pháp lý và điều kiện sản xuất của

các doanh nghiệp.

Từ một hệ thống nhà máy chế biến lạc hậu và cũ kỹ, phụ thuộc hầu như

hoàn toàn vào thị trường Nhật, với quyết tâm đổi mới cơ bản về điều kiện vệ

sinh và công nghệ sản xuất, áp dụng các hệ thống đảm bảo chất lượng tiên tiến

nhất theo yêu cầu của thị trường tiêu thụ, gần 200 nhà máy chế biến thủy sản

của Việt Nam đã gần như trải qua một cuộc lột xác với quá trình tiếp cận những

phương pháp công nghệ, quản lý an toàn vệ sinh tiến tiến,... quá trình đổi mới

trong chế biến phục vụ hoạt động xuất khẩu được tiến hành trên mọi mặt: từ

nâng cấp điều kiện sản xuất; đổi mới công nghệ thiết bị; thay đổi cách tiếp cận

trong quản lý an toàn, chất lượng theo HACCP, từ quản lý sản phẩm đầu cuối

sang quản lý toàn bộ quá trình sản xuất; tăng cường hệ thống luật pháp; tăng

cường năng lực hệ thống thanh, kiểm tra; đổi mới cách tiếp cận thị trường từ

“bán cái mình có” sang “bán cái khách hàng cần”, chủ động tìm đến với khách

hàng.

Việt Nam cũng đã thực hiện các chương trình giám sát dư lượng các hoá

chất độc hại có trong thủy sản nuôi từ vùng nuôi đến nhà máy chế biến, giám sát

vùng thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ và được EU đánh giá cao. Và cùng với

nguồn nguyên liệu nhiệt đới phong phú về chủng loại và khối lượng, chất lượng

cao, thủy sản Việt Nam đã hội tụ đầy đủ những điều kiện cần thiết để trở thành

một đối tác lớn xuất khẩu thủy sản cho bạn hàng EU.

Những nỗ lực đó đã đem lại kết quả rõ rệt. Từ tháng 11/1999, Việt Nam

được công nhận vào danh sách 1 (List A) các nước xuất khẩu thuỷ sản vào EU,

sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã chính thức được công nhận về pháp lý để

khẳng định được chỗ đứng tại 15 nước EU. Đến 01/01/2006, Việt Nam có 171

doanh nghiệp (trong tổng số 394 doanh nghiệp chế biến thủy sản lớn của cả

nước) đủ tiêu chuẩn được cấp phép (code) xuất khẩu thủy sản vào thị trường

21

EU.

Từ năm 1996 – 1999, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang

EU tăng rất nhanh với tốc độ trung bình hàng năm 54,92%. Theo số liệu thống

kê của EU, năm 1996 kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản từ Việt Nam đạt 26,9 triệu

USD, năm 1998 tăng lên 92,5 triệu USD. Theo số liệu thống kê của Trung tâm

Tin học Bộ Thuỷ sản, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU năm

1999 đạt 89,1 triệu. Trong những năm 2000 – 2002, hoạt động xuất khẩu bị

chững lại và có xu hướng giảm sút, sau khi EU tăng cường kiểm tra dư lượng

các chất kháng sinh và hạ thấp ngưỡng phát hiện dư lượng các chất này trong

sản phẩm. Nhờ những nỗ lực khắc phục của các cơ quan quản lý, các doanh

nghiệp và nông ngư dân Việt Nam, từ năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thủy sản

của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng trở lại. Năm 2003, kim ngạch xuất

khẩu thuỷ sản Việt Nam sang EU đạt 116, 7 triệu đôla, năm 2004 - 231,5 triệu

đôla, năm 2005 - 367,3 triệu đôla. Hàng thủy sản hiện là mặt hàng có kim ngạch

đứng thứ tư trong số các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU. Tuy

nhiên, cho đến nay, tỷ trọng nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam hàng năm chỉ

bằng 0,3-0,4% trị giá nhập khẩu thủy sản của toàn EU. Khối lượng thuỷ sản xuất

khẩu của Việt Nam vào EU năm 2005 mới đạt gần 120 nghìn tấn, trị giá 380,9

triệu USD, chiếm 7% kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước.

Bảng 3: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU

Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Kim ngạch 71,8 90,7 73,7 116,7 231,5 380,9 (triệuUSD)

Khối lượng 115.696, 20.290,8 26.659,1 28.612,8 38.186,8 73.459,2 (tấn) 6

(Nguồn: Trung tâm Tin học, Bộ Thuỷ sản)

Sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam chủ yếu là cá, tôm, mực, bạch tuộc, cá

ngừ, đồ hộp. Trong giai đoạn từ 2000-2001, mặt hàng có khối lượng nhập khẩu

22

lớn nhất của EU từ Việt Nam là tôm đông lạnh. Kim ngạch xuất khẩu tôm đông

lạnh năm 2000 đạt 38,6 triệu đôla, năm 2001 - 43,6 triệu đôla. Năm 2002, kim

ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam có giảm sút, chỉ còn 15,7 triệu đôla. Thời

gian đó, một số lô tôm đông lạnh của Việt Nam xuất sang EU bị phát hiện có dư

lượng kháng sinh cao quá mức cho phép và bị huỷ, gây thiệt hại lớn cho nhà

xuất khẩu. Nguyên nhân của tình trạng trên là do chúng ta chưa đáp ứng được

yêu cầu vệ sinh thực phẩm từ khâu nuôi trồng đến bàn ăn được công bố trong

Sách Trắng của EU đối với thực phẩm chế biến nhập khẩu. Thực hiện chính

sách bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng EU quy định “cấm” sử dụng 16 loại

hoá chất trong đó có chloramphenicol và nitrofuran có trong thực phẩm, tức phải

hiểu là “dư lượng kháng sinh bằng 0”. Trong thực tế EU cho phép dư lượng

kháng sinh dưới 0,3 phần tỷ là đạt yêu cầu.

Từ năm 2002, thương mại tôm giữa Việt Nam và EU đã có những dấu

hiệu phục hồi và có sự gia tăng cả về giá trị và khối lượng tôm xuất sang thị

trường này trong năm 2003 và 2004. Năm 2003, Việt Nam đã xuất khẩu hơn

5316 tấn tôm sang EU, tăng 28% so với 4000 tấn năm 2002. Năm 2004, tôm

Việt Nam đã thâm nhập mạnh hơn vào các thị trường mới tại khu vực EU, khi

các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam chuyển hướng từ Bỉ, thị trường truyền thống số

một tại EU, sang các thị trường khác như Anh, Đức, Italy. Đối với mặt hàng tôm

của Việt Nam, vấn đề quan trọng nhất là đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm,

ngoài ra không bị cản trở bởi các biện pháp phi quan thuế nào khác.

Cá đông lạnh cũng là mặt hàng có mức tăng xuất khẩu sang EU đều và

đáng kể. Xuất khẩu cá của Việt Nam sang thị trường này đã vượt xa tôm không

những về khối lượng mà cả về giá trị, vươn lên đứng trên Nhật (66 triệu USD

năm 2003), chỉ sau Mỹ (141 triệu USD) và chiếm 20% tổng giá trị xuất khẩu cá

của Việt Nam (552 triệu USD). Năm 2004, xuất khẩu cá của Việt Nam sang EU

tiếp tục tăng trưởng với giá trị xuất khẩu đạt 231,5 triệu USD, gấp 3 lần so với

năm 2003, chiếm gần một nửa giá trị xuất khẩu thủy sản sang EU. Sản phẩm cá

chủ lực của Việt Nam xuất sang thị trường này là cá tra, cá basa (pangasius) và

23

cá ngừ.

II.1.2.2. Đối với thị trường Mỹ

Trước năm 1994, do chính sách cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam,

sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam không thể xuất trực tiếp sang Hoa Kỳ. Tuy

nhiên, thuỷ sản Việt Nam vẫn xuất sang Hoa Kỳ thông qua nước hoặc vùng lãnh

thổ thứ ba mà chủ yếu là Singapo và Hồng Kông. Tháng 2 năm 1994 Hoa Kỳ

chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế với Việt Nam. Tháng 7 năm 1994 lô

hàng thuỷ sản đầu tiên của Việt Nam do Công ty Cafatex xuất khẩu cập cảng

tiểu bang Florida, mở đầu cho một giai đoạn mới trong quan hệ thương mại thuỷ

sản giữa hai nước. Năm 1995 Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức bình thường hoá

quan hệ và quan hệ ngoại giao giữa hai nước chính thức được thiết lập. Kể từ đó

Việt Nam và Hoa Kỳ đã hình thành và phát triển quan hệ hợp tác trong lĩnh vực

thuỷ sản, cả về quản lý, khoa học công nghệ và thương mại. Bộ Thuỷ sản Việt

Nam, Hiệp hội chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) thường xuyên

có liên hệ, trao đổi với Cục nghề cá biển Hoa Kỳ (MNFS), Cục quản lý thực

phẩm và dược phẩm (FDA). Phía Hoa Kỳ đã cử nhiều đoàn đại biểu sang làm

việc với Việt Nam và toạ đàm về áp dụng HACCP đối với các cơ sở chế biến

xuất khẩu. Năm 1998, hai nước đã ký biên bản thoả thuận hợp tác giữa nghề cá

hai nước và kể từ đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ đã tăng

đáng kể.

Sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực tháng

12/2001, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã phát triển nhảy vọt.

Hiệp định đã tác động rất lớn tới việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản của

Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, đưa Hoa Kỳ trở thành một trong những thị

24

trường nhập khẩu thuỷ sản hàng đầu của Việt Nam.

Bảng 4 : Mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ

năm 2000 - 2004

Đơn vị : Nghìn USD

i. Mặt hàng

2000

2001

2002

2003

2004

Tôm nước lợ

185,12

308,70

368,62

468,93

277,45

Cá sống

175

201

271

357

216

Cá sấy khô, ướp muối, hun khói …

374

722

1,005

3,549

596

Hải sản thân mềm, nhuyễn thể

8,17

6,16

5,82

7,44

6,18

Cá đông lạnh (không bao gồm cá

6,80

10,22

9,23

10,70

14,71

filê hoặc cá thịt khác)

Cá tươi (không bao gồm cá filê

9,59

16,64

24,67

23,66

25,38

hoặc cá thịt khác)

Cá filê và cá thịt khác tươi, hoặc

32,61

41,72

69,17

56,45

78,36

đông lạnh

Nguồn : Số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ

Năm 2000, cơ cấu thị trường nhập khẩu Hoa Kỳ có sự điều chỉnh mạnh và

Việt Nam đã nắm bắt cơ hội chen chân vào thị trường rộng lớn này. Xuất khẩu

thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng đột ngột lên 2,14 lần so với năm 1999

và là mức tăng nhanh nhất trong số các quốc gia xuất khẩu thuỷ sản vào Hoa

Kỳ. Trong các mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ, tôm chiếm tỷ

trọng chính 74% tổng giá trị hàng thuỷ sản xuất khẩu. Việt Nam vươn lên vị trí

thứ tư về giá trị xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ (về khối lượng đứng hàng thứ 7).

Cá tra, ba sa philê đông lạnh là mặt hàng độc đáo của Việt Nam tại thị trường

Hoa Kỳ.

Năm 2002, khối lượng các mặt hàng xuất khẩu đã tăng lên 98.664 tấn, đạt

654.98 triệu USD, chiếm 32,4% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.

Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hải sản (kể cả chế biến) đạt

777.66 triệu USD, tiếp tục xếp vị trí thứ hai sau hàng dệt may trong bảng xuất

25

khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ, chiếm 35,3% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản

của Việt Nam. Trong nhóm hàng thuỷ sản, tôm đông lạnh đạt kim ngạch 469

triệu, chiếm 64% tổng kim ngạch nhóm hàng thuỷ sản. Tôm và cua chế biến đạt

162 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu cá phi lê giảm khoảng 19% so với trước do

tác động của thuế chống bán phá giá.

Năm 2004, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu vào Hoa Kỳ các mặt hàng như

mực đông lạnh, bạch tuộc đông lạnh, tôm đông lạnh, cá ngừ, cá đông lạnh, mực

khô, các khô và các mặt hàng khác với tổng số lượng đạt 91.380.6 tấn, trị giá là

602.9 triệu USD. Hoa Kỳ chiếm 25,1% thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt

Nam. Trong đó, tôm đông lạnh đạt 37.060 tấn, trị giá 397 triệu USD, cá đông

lạnh đạt 33.680 tấn, trị giá 119 triệu USD.

Năm 2005, do tác động đồng thời của việc áp thuế chống bán phá giá cá

tra, cá ba sa philê đông lạnh và tôm đông lạnh, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam

sang Hoa Kỳ có phần giảm sút, thị trường Hoa Kỳ chỉ chiếm 23% thị phần xuất

khẩu của Việt Nam.

II.2. CÁC HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN CHỦ YẾU CỦA EU VÀ MỸ ĐỐI THỦY

SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

II.2.1. Đối với thị trường EU

Các nước đang phát triển đóng vai trò quan trọng trong cung cấp thủy sản

vào thị trường EU, chủ yếu là các loại thủy sản nước ấm. Thị trường EU là môi

trường lý tưởng cho các nhà xuất khẩu của Việt Nam thể hiện sức mạnh của

mình vì đây là thị trường tương đối ổn định. Nhưng để xâm nhập và chiếm lĩnh

thị trường này các nhà xuất khẩu của Việt Nam cần phải vượt qua những rào cản

thương mại chủ yếu là hàng rào phi thuế quan ngày càng có xu hướng chặt chẽ

hơn.

EU là thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) nên có chế độ quản

lý nhập khẩu dựa trên nguyên tắc của tổ chức này. Các mặt hàng quản lý bằng

hạn ngạch không nhiều, nhưng lại sử dụng khá nhiều những biện pháp phi thuế

quan. Mặc dù thuế quan của EU thấp hơn so với các cường quốc kinh tế lớn và

26

có xu hướng giảm nhưng EU vẫn là một thị trường bảo hộ rất chặt chẽ vì có

những rào cản kỹ thuật và hàng rào an toàn thực phẩm, dịch bệnh thủy sản rất

nghiêm ngặt.Rào cản kỹ thuật chính là quy chế nhập khẩu chung và các biện

pháp bảo vệ quyền lợi ngươi tiêu dùng của EU, được cụ thể hóa bằng năm tiêu

chuẩn của sản phẩm là: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm,

tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu

chuẩn về lao động.

* Đối với tiêu chuẩn chất lượng: hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000

gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu

sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy, các nước

đang phát triển ở Châu Á trong đó có Việt Nam, hàng của những doanh nghiệp

có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều

so với hàng hóa của những doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này. ISO

9000 là hệ thống quản lý chất lượng. Nói một cách khái quát, ISO 9000 do tổ

chức tiêu chuẩn quốc tế đặt ra để giúp các đơn vị sản xuất cải tiến hệ thống quản

lý nhằm đạt được các mục tiêu tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm

lãng phí và tỷ lệ phế phẩm, để duy trì một dạng sản phẩm luôn có chất lượng

đồng nhất, phù hợp với giá thành.

* Đối với tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm: các công ty chế biến thực phẩm

phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Về phương diện này, việc áp dụng

hệ thống HACCP là rất quan trọng và gần như là yêu cầu bặt buộc đối với các xí

nghiệp chế biến thủy, hải sản của các nước đang phát triển muốn xuất khẩu sản

phẩm vào thị trường EU. Dần dần HACCP trở thành đòi hỏi chung của các nhà

xuất khẩu của các nước đang phát triển nếu không muốn mất thị trường, chỉ còn

cách áp dụng hệ thống HACCP trong sản xuất để thuyết phục các nhà nhập khẩu

EU rằng họ đã đi theo đúng các nguyên tắc của hệ thống phòng ngừa nguy cơ

này.

* Đối với tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng: ký mã hiệu trở nên quan

27

trọng số một trong việc lưu thông hàng hóa trên thị trường EU. Các sản phẩm có

liên quan tới sức khỏe mà người tiêu dùng phải có ký mã hiệu theo quy định của

EU.

* Đối với tiêu chuẩn bảo vệ môi trường: thị trường EU yêu cầu hàng hóa

có liên quan đến môi trường phải dán nhãn hiện theo quy định (nhãn sinh thái,

nhãn tái sinh…)và có chứng chỉ được quốc tế công nhận. Ngoài ra, còn có các

tiêu chuẩn về hệ thống quản lý môi trường (các tiêu chuẩn ISO 14000) và các bộ

luật mang tính xã hội về đạo đức. Tiêu chuẩn The Social Accountability 8000 sẽ

ngày càng trở nên quan trọng trong nhưng năm tới. ISO 14000 là hệ thống quản

lý môi trường, được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận quốc tế, bao gồm các yêu

cầu đối với các yếu tố cơ bản có thể điều chỉnh được, để thiết lập nên hệ thống

quản lý có khả năng cải thiện môi trường một cách liên tục tại các tổ chức cơ sở.

Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 đem đến cách tiếp cận hệ thống cho việc quản lý môi

trường và cung cấp các công cụ hỗ trợ có liên quan như đánh giá môi trường,

nhãn môi trường, phân tích chu trình sống của sản phẩm…cho các doanh nghiệp

và các cơ sở khác để quản lý tác động các hoạt động của họ đối với môi trường,

ngăn ngừa ô nhiễm và liên tục cải thiên môi trường với sự cam kết của lãnh đạo

và sự tham gia có ý thức của mọi thành viên cơ sở, từ người sản xuất trực tiếp

đến các cán bộ quản lý. Việc thừa nhận cam kết áp dụng ISO 14000 đã trở thành

một tiêu chí để duy trì sự cạnh tranh tại thị trường EU. Bằng phương pháp trên

các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh và uy tín của

mình trên thị trường này.

* Đối với tiêu chuẩn về lao động: Ủy ban Châu Âu đình chỉ hoạt động của

các xí nghiệp sản xuất nội địa ngay khi phát hiện ra các nghiệp này sử dụng lao

động cưỡng bức và cấm nhập khẩu những hàng hóa mà quá trình sản xuất sử

dụng bất kì một hình thức cưỡng bức nào như lao động tù nhân, lao động trẻ

em…được xác định trong các Hiệp ước Gơnevơ ngày 25/9/1926 và ngày

7/7/1956 và các Hiệp ước lao động quốc tế số 29,205. Có thể nói rằng ISO 9000,

ISO 14000 và HACCP chính là chìa khóa để các doanh nghiệp Việt Nam mở

28

cánh cửa vào thị trường EU .

EU sử dụng “rào cản kỹ thuật – TBT”là biện pháp chủ yếu để bảo hộ sản

xuất và tiêu dùng nội địa hiện nay vì thuế nhập khẩu vào EU đang giảm dần. Bởi

vậy, yếu tố quyết định việc hàng hóa của các nước đang phát triểncó thâm nhập

được vào thị trường EU hay không chính là hàng hóa đó có vượt qua được rào

cản kỹ thuật của EU hay không.

Ngoài ra, theo Bộ Thương Mại Việt Nam , ỦY ban Châu Âu sắp tới sẽ

ban hành chính sách hóa chất mới trên toàn lãnh thổ EU nhằm ngăn ngừa tác hại

của hóa chất đối với con người và môi trường. Chính sách nay sẽ có những ảnh

hưởng bất lợi trực tiếp đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành công

nghiệp hóa chất và các ngành có liên quan. Nhìn chung các nhà sản xuất tại các

nước đang phát triển sẽ phải đối mặt với những chướng ngại mới mà chính sách

hóa chất của EU yêu cầu. Theo đánh giá của các chuyên gia, rào cản này trên

thực tế còn tai hại hơn cho các nước đang phát triển nếu các cơ quan có thẩm

quyền của EU không công nhận các cuộc xét nghiệm, trắc nghiệm được thực

hiện tại những nước này. Do vậy, các doanh nghiệp cần sớm chủ động nghiên

cứu, chuẩn bị các giải pháp kinh doanh, kỹ thuật, quản lý để sẵn sàng đáp ứng

các yêu cầu kỹ thuật mới của chính sách trên và ứng phó với các biến động thị

trường do chính sách này gây ra.

Liên minh châu Âu (EU) là khu vực thị trường tiêu thụ thủy sản và nông

sản nhiều nhất thế giới. Từ đầu năm 2006, liên minh này đưa ra luật mới đối với

mặt hàng thủy sản nhập khẩu. Luật mới được xem là nhất thể hóa qui định của

EU. An toàn vệ sinh thực phẩm chính là yêu cầu và cũng là mục tiêu của chính

sách và qui định mới đối với mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào EU được áp dụng

từ đầu năm nay. Truy xuất xuất xứ nguồn gốc được yêu cầu đối với các doanh

nghiệp có mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào EU từ đầu năm nay. Tuy nhiên, do

Việt Nam có tính chất đặc thù về quy trình sản xuất nên qui định này được bắt

đầu trễ hơn, sau năm 2008. Tại Việt Nam, Cục quản lý và an toàn vệ sinh và thú

y thủy sản (NAFIQUAVED) là cơ quan giám sát được EC công nhận. Luật mới

29

của EC không có sự phân biệt, các nhà sản xuất trong liên minh hay ngoài liên

minh đều phải tuân thủ các qui định đã được nhất thể hóa và hài hòa hóa của

EC.

II.2.2. Đối với thị trường Mỹ

Hiện nay, Mỹ là một trong những nước phát triển mà thị trường trong

nước được bảo hộ rất chặt chẽ bằng hàng rào phi thuế quan ngày càng tinh vi.

Hạn ngạch nhập khẩu là một trong những biện pháp đầu tiên mà Mỹ áp

dụng, Mỹ duy trì hạn ngạch đối với 844/932 mặt hàng.

Biện pháp thứ hai trong số các hàng rào phi thuế quan mà Mỹ áp dụng với

hàng thủy sản Việt Nam là hàng rào kỹ thuật (TBT) và các biện pháp kiểm dịch

thực vật (SPS) như một hàng rào hạn chế nhập khẩu. Thí dụ như năm 2000, Mỹ

định ngăn chặn việc nhập khẩu cá ba sa của Việt Nam vì cho rằng Chính Phủ

Việt Nam đã trợ giá cho người nuôi hoặc trợ giá cho nhà xuất khẩu. Cùng năm

đó, đoàn chuyên gia Mỹ tới Việt Nam kiểm tra môi trường và chương trình kiểm

soát dư lượng hóa chất độc hại trong vùng nuôi cá trra, cá ba sa. Đồng thời cũng

cử thanh tra đến Việt Nam kiểm tra chương trình HACCP của 15 doanh nghiệp

xuất khẩu hàng thủy sản vào Mỹ. Năm 2001, một số nghị sĩ Mỹ trình Quốc hội

không cho cá tra, cá ba sa Việt Nam mang tên catsfish dù catsfish là tên tiếng

Anh dùng chung cho các loài cá da trơn. Chỉ trong tháng 12 năm 2003, 56 lô

hàng của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ bị cơ quan Quản lý

thực phẩm và dược phẩm (FDA) giữ lại sau khi kiểm tra “có vấn đề” vệ sinh an

toàn thực phẩm. Các lô hàng này sẽ bị tiêu hủy, trả lại hay bị phạt, như vậy, uy

tín của doanh nghiệp sẽ bị tổn thất rất lớn.

Biện pháp thứ ba là chống bán phá giá, đây là công cụ được Mỹ sử dụng

thường xuyên,ở góc độ thương mại các vụ kiện chống bán phá giá đối với hàng

hóa chỉ là một phương tiện để bảo hộ hàng hóa trong nước. Bán phá giá là một

hành vi không lành mạnh nhằm thâu tóm thị phần, thanh toán các đối thủ cạnh

tranh khác, nhưng điều đáng nói là những vụ kiện chống bán phá giá đối với

hàng thủy sản Việt Nam nói riêng, hàng hóa của Việt Nam nói chung tại nước

30

ngoài là không có căn cứ. Về thực tế không thể phủ nhận rằng: Việt Nam có

nhiều ưu thế về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, giá đầu vào thấp

nên giá thành thấp là điều tất yếu.

Những biện pháp gắn với môi trường, chống khủng bố sinh học và tiêu

chuẩn lao động để hạn chế nhập khẩu là một loại rào cản mới mà nước Mỹ là

nước áp dụng rào cản này rất triệt để. Về môi trường, Mỹ đơn phương áp dụng

các tiêu chuẩn của mình để hạn chế cá hồi và tôm. Mỹ cấm nhập khẩu cá hồi từ

nước mà Mỹ cho rằng phương pháp đánh bắt của họ làm ảnh hưởng xấu tới cá

heo và cấm nhập tôm từ những nước sử dụng lưới quét có hại cho rùa biển.

Thực tế cho thấy, trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, để đối phó với

những nước đang phát triển, nhiều khi những người khổng lồ cũng phải tìm đến

chính sách bảo hộ đã quá lỗi thời, dẫu họ thường là những người lớn tiếng ủng

hộ cho tự do cạnh tranh. Trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đã chủ

trương tự do thương mại và chấp nhận sự cạnh tranh lành mạnh. Những người

nuôi, chế biến, xuất khẩu cá tra, cá ba sa Việt Nam hiểu rất rõ rằng khi nghề

nuôi trồng thủy sản phát triển và được hoàn thiện dần trên quy mô toàn cầu, nó

sẽ làm đảo lộn những thị trường thủy sản truyền thống, làm nảy sinh mâu thuẫn

giữa người nuôi với ngư dân, giữa người nuôi với người nuôi, giữa người mua

với người bán, giữa nước này với nước khác. Sự vận động đó sẽ chẳng bao giờ

được chấm dứt, bởi nó chính là động lực để thúc đẩy kinh tế phát triển, mang lại

lợi ích cho nhười tiêu dùng. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là có thế chấp

nhận những kiểu cạnh tranh không bình đẳng, những hoạt động bất chấp luật lệ

và các công ước quốc tế của một số nước, bất chấp quyền lợi của người tiêu

dùng ngay tại nước mình. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc dựng

nên các hàng rào kỹ thuật đang được nhiều nước, nhất là các nước phát triển áp

dụng như một thứ ”bảo bối” nhằm ngăn hàng nhập khẩu từ bên ngoài, bảo vệ

nền sản xuất trong nước.

Trong số các hàng rào trên thì chống bán phá giá là vũ khí mà Hoa Kỳ hay

áp dụng nhất để ngăn cản hàng hóa của nước khác vào nước này. Các vụ kiện

31

chống bán phá giá vừa qua là bài học thức tỉnh các doanh nghiệp Việt Nam

không chỉ quan tâm sản xuất và tìm kiếm thị trường mà còn phải giữ vững thị

trường và làm cho nó ngày một lớn mạnh.

Tranh chấp thương mại là chuyện bình thường trong đời sống kinh tế hiện

nay. Tuy vậy,chúng ta cần có yêu cầu khi có tranh chấp thì hai bên phải ngồi lại

với nhau trên cơ sở tôn trọng các thỏa thuận, cam kết đã ký kết, hợp tác từng

bước tháo gỡ khó khăn, tìm kiếm tiếng nói chung đưa quan hệ song phương

32

ngày càng tốt đẹp.

PHẦN III: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VƯỢT QUA HÀNG

RÀO PHI THUẾ QUAN NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU

HÀNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM VÀO

THỊ TRƯỜNG EU VÀ MỸ

III.1. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG

Tính đến hết tháng 11 năm 2006, hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam

đã vượt ngưỡng 3 tỷ USD (3,08 tỷ USD, bằng 110.06% kế hoạch đề ra, tăng

24,45% so với cùng kỳ năm 2005 và đã hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu đề ra là

mức 2,8 tỷ USD). Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của cả nước dự kiến sẽ đạt

43,8 tỷ USD. Theo mục tiêu này, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2007 dự

kiến đạt là 3,3 tỷ USD.Chúng ta còn được các chuyên gia đánh giá là có tiềm

năng thủy sản lớn hơn Thái Lan.

Năm 2007,để dạt được mục tiêu dự kiến là kim ngạch xuất khẩu đạt 3,3 tỷ

USD, để tăng cường xuất khẩu và đạt mục tiêu đã đề ra ngành thủy sản Việt

Nam cần phải giải quyết một số tồn tại sau:

Trước hết, phải khắc phục những yếu kém liên quan đến đảm bảo nguyên

liệu cho chế biến với số lượng phù hợp, giá cả phải chăng đối với cả người mua

và người bán, tổ chức lại việc cung ứng nguyên liệu một cách tiên tiến và lành

mạnh để bớt đi những thất thoát vô lý, giữ gìn vệ sinh cho nguyên liệu chế biến

xuất khẩu.

Sự chấp nhận hay từ chối của thị trường về vệ sinh không chỉ phụ thuộc

vào một công đoạn trong nhà máy chế biến. Việc quản lý vệ sinh trong nuôi

trồng, khai thác thủy sản đến khi vào nhà máy cần phải chặt chẽ.

Từng bước đa dạng hóa các sản phẩm nuôi trồng kể cả nuôi nước biển và

nuôi nước ngọt, tăng tỷ trọng xuất khẩu từ hải sản khai thác như cá biển… để

tránh phụ thuộc quá lớn vào một mặt hàng. Đây là một trọng tâm của Bộ thủy

sản liên quan đến các hoạt động chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành và trong

33

khối nông nghiệp.

Công tác xúc tiến thương mại và giúp đỡ các doanh nghiệp chủ động trong

quá trình hội nhập, tăng cường công tác thông tin, tiếp thị, mở rộng thị trường là

một việc mà thủy sản ở mức nào đó đã thành công. Tuy nhiên việc nay cần phải

đẩy mạnh hơn nữa.

Đặc biệt hiện nay khi mà Việt Nam đã gia nhập WTO thì để hỗ trợ công

tác xuất khẩu, Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho rằng cần tiếp tục hỗ trợ và khuyến

khích doanh nghiệp xuất khẩu nhưng phải đảm bảo không trái với các quy định

của WTO. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng các hàng rào kỹ thuật phù hợp với

quy định của WTO đối với những mặt hàng hạn chế nhập khẩu. Các biện pháp

nâng cao năng lực cạnh tranh và xúc tiến thương mại cần được tiến hành đồng

bộ và có hiệu quả nhất.

Công tác tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn vệ sinh thực phẩm sẽ được lưu ý

hết sức. Theo đó, Việt Nam sẽ xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với

quốc tế và thúc đẩy sự công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh thực

phẩm và kiểm dịch nhất là đối với các bạn hàng lớn như EU, Mỹ, Nhật... nhằm

tránh thiệt hại cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.

III.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

Hiện nay, theo Bộ thủy sản, cả nước có trên 300 doanh nghiệp chế biến

thủy sản xuất khẩu. Để sản xuất và xuất khẩu thủy sản một cách bền vững, ổn

định và tăng cường được vị thế trên các thị trường xuất khẩu quan trọng, đặc

biệt là EU và Mỹ thì Việt Nam cần phải tiếp tục thực hiện các biện pháp nâng

cao sức cạnh tranh của thủy sản nước nhà. EU và Mỹ là hai thị trường lớn, nhu

cầu tiêu thụ thủy sản không phải là nhỏ, đồng thời lại rất đa dạng. Nhưng do các

thị trường này đòi hỏi một lượng hàng ổn định và có chất lượng cao.Vì vậy

chung ta cần thực tốt các chính sách sau:

III.2.1. Chính sách tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu

Trong khi nguồn tài nguyên ven bờ ở nước ta đã bị cạn kiệt do khai thác

34

quá công suất chỉ còn tiềm năng tăng sản lượng bằng cách đánh bắt xa bờ, đánh

bắt nước sâu và nuôi trồng thủy sản. Theo Bộ thủy sản, hiện chúng ta mới chỉ

khai thác được 13% trữ lượng và 25-26% khả năng khai thác cho phép.

Điều kiện của nước ta rất thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản, đặc

biệt là tôm sú và tôm càng xanh, có giá trị xuất khẩu cao, để xuất sang thị trường

Nhật Bản, EU và Mỹ. Tuy nhiên cần phải có sự quản lý và trợ giúp tài chính, kỹ

thuật …của Nhà nước và cộng đồng quốc tế để đảm bảo cung cấp đủ nguyên

liệu chất lượng cao cho chế biến thủy sản xuất khẩu, đáp ứng được đòi hỏi về

chất lượng ngặt nghèo từ phía các nhà nhập khẩu EU và Mỹ.

III.2.2. Chính sách thị trường

Bằng cách đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, đăng ký thương hiệu

sản phẩm trên thị trường thế giới, cần thực hiện tốt việc nghiên cứu thị trường,

công tác quảng cáo, tiếp xúc khách hàng và hoàn thiện dịch vụ khách hàng.

Trong chiến lược cạnh tranh cần chú ý tới chiến lược giá, chất lượng hàng vì các

rào cản thương mại mà EU, Mỹ sử dụng có luật bán phá giá và các hàng rào kỹ

thuật. Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cần chủ động

phối hợp tốt hơn với Hiệp hội các nước xuất khẩu để đấu tranh chống lại việc áp

đặt các hàng rào thương mại của các nước nhập khẩu, tăng cường sự liên kết

giữa các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra, cá ba sa, tôm… Chỉ có như vậy

mới có thể tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng thủy sản Việt Nam

trên thị trường EU và Mỹ.

III.2.3. Chính sách tạo vốn

Chính sách này vận dụng linh hoạt chính sách tài chính tín dụng trong các

đơn vị kinh doanh nhằm khuyến khích xuất khẩu hàng thủy sản. Nhà nước cần

thực hiện nhất quán chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia

đầu tư vào mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, sớm ban hành chính

sách phù hợp và đồng bộ để khuyến khích đầu tư nước ngoài vào nuôi trồng

khai thác và chế biến thủy sản xuất khẩu. Mặt khác, cần hướng vốn đầu tư nước

ngoài tập trung vào khu vực đánh bắt xa bờ, đánh bắt nước sâu, nuôi trồng thủy

35

sản, nuôi tôm công nghiệp, chế biến kỹ thuật cao, sản xuất thiết bị lạnh chất

lượng cao… nhằm đáp ứng đầy đủ yêu cầu kỹ thuật mà các thủy sản nhập khẩu

đòi hỏi.

III.2.4. Chính sách công nghệ

Chính sách công nghệ thích hợp và có hiệu quả nhất trong ngành thủy

sản ở giai đoạn trước mắt là phải kết hợp nhiều trình độ công nghệ khác nhau,

chú trọng loại công nghệ tạo việc làm tốn ít vốn. Trong ngành thủy sản, hình

thành cơ cấu công nghệ nhiều tầng, cần chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển

khai, nắm bắt và làm chủ được công nghệ mới, công nghệ cơ bản, lựa chọn một

số vĩnh vực, ngành nghề, đối tượng mà ta có khả năng và lợi thế để nghiên cứu

“đón đầu”. Hướng trọng điểm nghiên cứu là công nghệ thông tin, công nghệ

sinh học trong đánh bắt nuôi trồng và chế biến các sản phẩm chủ lực nhằm tạo ra

bước đột phá về công nghệ và kinh tế.

Nhà nước cần sớm ban hành các chính sách khuyến khích các doanh

nghiệp nhập khẩu các công nghệ hiện đại, bí quyết công nghệ, thuê chuyên gia

giỏi của nước ngoài và tăng đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới,

phát triển các mặt hàng mới.

Cải tiến chất lượng an toàn vệ sinh hàng thủy sản xuất khẩu theo tiêu

chuẩn HACCP, đảm bảo giống tốt và công nghệ nuôi trồng tiên tiến để đạt tiêu

chuẩn vệ sinh, đổi mới công nghệ chế biến, thực hiện nghiêm ngặt các tiêu

chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngoài việc phấn đấu giảm giá thành, tăng sức

cạnh tranh hàng thủy sản, còn phải chú trọng tăng số lượng doanh nghiệp đủ tiêu

chuẩn theo HACCP để được xuất khẩu vào các thị trường EU và Mỹ. Đồng thời

khuyến khích xây dựng tiêu chuẩn hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và

ISO 14000, vì những đòi hỏi của các thị trường này còn bao gồm các yêu cầu về

thẩm mỹ, độ tiện dụng, an toàn, các dịch vụ khách hàng….và cũng nhờ các bộ

tiêu chuẩn này mà Việt Nam có thể chủ động hơn trong sản xuất và tiêu thụ sản

phẩm của mình.

Làm quen với các vụ kiện tụng, giải quyết tốt các tranh chấp. Thông qua

36

các vụ kiện trong thời gian vừa qua cho thấy một mặt các doanh nghiệp phải thật

am hiểu về luật pháp của Mỹ, EU, cũng như luật thương mại quốc tế. Mặt khác

phải có đội ngũ chuyên viên thành thạo, đủ sức đối phó với các tranh chấp

thương mại, sớm nắm bắt được thông tin để tư vấn cho các doanh nghiệp, giúp

các doanh nghiệp có thể điều chỉnh kịp thời trước những biến động của thị

trường. Cùng với nó, một sự hợp tác liên kết và học tập kinh nghiêm xử lý của

các nước cũng bị kiện như mình là rất quan trọng. Nhà nước cần sớm có các quy

định công nhận địa vị pháp lý của các tổ chức liên kết, các doanh nghiệp như

các Hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, hội nghề nghiệp… nhằm pháp chế hóa

các quy tắc, luật lệ của tổ chức này khi bị vi phạm. Đồng thời Nhà nước cần xây

dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và các tổ chức liên kết để giải

quyết các tranh chấp thương mại và đàm phán để khắc phục những rào cản

thương mại, cản trở các hoạt động thương mại nhằm bảo hộ sản xuất trong nước

của các thị trường nhập khẩu thủy sản lớn như EU và Mỹ nhưng không vi phạm

các thỏa thuận song phương và đa phương.

Để ổn định và không ngừng tăng nguồn hàng xuất khẩu vào thị trường thế

giới, đặc biệt là các thị trường EU và Mỹ, giải pháp chung cho toàn ngành thủy

sản Việt Nam là tiếp tục thực hiện 3 chương trình lớn đã được Chính phủ phê

duyệt, đó là: Chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình phát triển nuôi trồng

thủy sản thời kỳ 1999 – 2010 và chương trình xuất khẩu thủy sản, đưa ngành

thủy sản nước ta từng bước chuyển sang một ngành sản xuất có hiệu quả và phát

triển bền vững, là một ngành kinh tế mũi nhọn với mục tiêu kim ngạch xuất

37

khẩu 5 tỷ USD vào năm 2010.

KẾT LUẬN

Việt Nam nằm trên một bán đảo gần trung tâm Đông Á với bờ biển dài

3260 km, nhiều sông ngòi, đầm, kênh, rạch, lại nằm trong khu vực nhiệt đới gió

mùa, nắng lắm, nhiều mưa, tài nguyên thủy sản phong phú. Đó là điều kiện hết

sức thuận lợi cho một nghành thủy sản phát triển mạnh mẽ và tăng khả năng

xuất khẩu.

Do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do trình độ kinh tế phát triển không

đồng đều, các nước đều duy trì các rào cản thương mại nhằm bảo hộ nền sản

xuất nội địa vì thế mà các hàng rào phi thuế quan ra đời và ngày càng trở nên đa

dạng.

Trước tình trạng hàng xuất khẩu của Việt Nam bị các nước nhập khẩu áp

dụng nhiều rào cản thương mại, đặc biệt khi kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt

hàng tăng mạnh, việc giải quyết những khó khăn từ những tranh chấp thương

mại với Việt Nam là rất cần thiết. Thực tế cho thấy trong thời gian qua chúng ta

liên tục phải đối đầu với những vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ làm thu hẹp

thị trường xuất khẩu dẫn tới giảm giá trị kim ngạch xuất khẩu.

Hiện nay, không một nước nào trên thế giới lại từ bỏ việc áp dụng các

biện pháp thuế quan và phi thuế quan, mà coi nó như một công cụ để bảo hộ sản

xuất trong nước hay để đạt được một số mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.Theo

quy định của WTO, các nước sẽ phải xóa bỏ một số hàng rào thương mại, đặc

biệt là các biện pháp hạn chế định lượng. Tuy nhiên,cùng với tiến trình đó việc

tạo ra và sử dụng các công cụ thương mại mới tinh vi hơn là điều không thể

tránh khỏi. Là một nước đang phát triển, đặc biệt khi Việt Nam đã trở thành một

thành viên của WTO, Việt Nam cần hiểu rõ các hàng rào thương mại, đặc biệt là

các hàng rào phi thuế quan nhằm đẩy mạnh và bảo vệ ngành xuất khẩu mũi nhọn

và bảo hộ có hiệu quả các ngành sản xuất non trẻ trong nước trước sức ép cạnh

tranh khốc liệt của thị trường thế giới trong quá trình hội nhập.

Tóm lại, Mỹ và EU là hai thị trường khắt khe, phức tạp nhưng không phải

38

chúng ta không thể vượt qua những rào cản của nó. Việc ngành thủy sản có đáp

ứng được những mong đợi của Việt Nam hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự

nỗ lực của mỗi cơ sở, mỗi doanh nghiệp trong ngành, kết hợp với sự hỗ trợ đồng

bộ, có hiệu quả từ phía Nhà nước và các cơ quan quản lý. Chúng ta hoàn toàn có

thể hy vọng vào một triển vọng tăng trưởng bền vững không chỉ ở thị trường Mỹ

và EU mà còn ở các thị trường tiềm năng khác, phục vụ đắc lực cho công cuộc

39

phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Đỗ: "Những hạn chế nhập khẩu vào Hoa Kỳ" - Thời báo Kinh

tế Việt Nam - số 128 ngày 25/10/2000.

2. Trần Thuý Hà: "Năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam

trong bối cảnh hội nhập" - Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới - Số 2 năm

2002.

3. Bảo Minh: "Phải làm gì sau USA chính thức khởi kiện Việt Nam bán

phá giá tôm?" - Tạp chí Đầu tư chứng khoán - ngày 05/01/2004 - số 213.

4. Phùng Thị Vân Kiều: "Thị trường EU với hàng rào phi thuế quan" - Tạp

chí Thương mại - số 27 năm 2002.

5. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ: "Hàng rào phi thuế quan - các rào cản đối với

thương mại quốc tế" - Tạp chí Thương mại - số 18 năm 2002.

6. Trần Thị Miêng: "Thị trường xuất khẩu thuỷ sản và các giải pháp chủ

yếu đẩy mạnh xuất khẩu trong những tháng cuối năm" - Tạp chí Thuỷ sản -

số7/2004.

7. Nguyễn Thị Thanh Hà, Nguyễn Văn Tiến: "Ngành thuỷ sản Việt Nam:

Thực trạng và thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế" - Nghiên cứu kinh tế

- số 321 - tháng 2/2005.

8. Nguyễn Hữu Khải - Hàng rào phi thuế quan trong chính sách thương

mại quốc tế.

9. “Kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 43,8 tỷ USD năm 2007” -

http://ppd.gov.vn/loadasp/tn/tn-spec-nodate-detail.asp?tn=tn&id=1395959

10. “Luật mới xuất khẩu thuỷ sản vào EU” -

http://www.ffa.com.vn/index.pl/new_vn/ext_economy_vn?wid=7880&func=vie

w&templateId=1005

11. “Xuất khẩu tháng 11 vượt mức 3 tỷ USD” -

http://www.baomoi.com/Home/KinhTe/2006/12/418270.epi?refer=www.baothu

40

ongmai.com.vn/article.aspx?article_id=32086

12. “Xuất nhập khẩu của EU và Mỹ” -

http://www.fistenet.gov.vn/VSTP/index_.asp?menu=xnk_EU#3.3.2

13. “Diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản” – “Sản lượng thuỷ sản”

41

http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=430&idmid=3