SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
GIÁO DỤC LÒNG YÊU QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ TRUYỀN THỐNG NHÀ TRƯỜNG
TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUỲNH THÚC KHÁNG MÔN: LỊCH SỬ
NGHỆ AN - 2020
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT HUỲNH THÚC KHÁNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
GIÁO DỤC LÒNG YÊU QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ TRUYỀN THỐNG NHÀ TRƯỜNG TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUỲNH THÚC KHÁNG MÔN: LỊCH SỬ
Người thực hiện: NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG Tổ bộ môn: Điện thoại:
Xã hội 0919.555.157
NGHỆ AN - 2020
MỤC LỤC
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ ...................................................................................... 1
PHẦN II. NỘI DUNG ......................................................................................... 4
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN ........................................................................................ 4
1. Khái niệm lòng yêu quê hương nước .......................................................... 4
2. Tầm quan trọng của việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước ............... 5
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN ................................................................................... 6
III. NHỮNG YÊU CẦU CHUNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ................................ 8
1. Yêu cầu chung ............................................................................................. 8
1.1. Đảm bảo sự thống nhất giữa giáo dục lòng yêu quê hương với lòng yêu đất nước ..................................................................................................... 8
1.2. Đảm bảo tính toàn diện, tính khoa học ..................................................... 9
1.3. Đảm bảo tính sư phạm ............................................................................ 10
1.4. Đảm bảo sự thống nhất giữa nội dung kiến thức lịch sử địa phương với mục đích giáo dục của nhà trường .......................................................... 10
2. Một số biện pháp cụ thể ............................................................................. 11
2.1. Giáo dục lòng yêu quê hương thông qua các nhân vật lịch sử điển hình của địa phương ...................................................................................... 11
2.2. Sử dụng thơ, tư liệu, câu chuyện lịch sử địa phương để làm phong phú bài học đồng thời giáo dục tình yêu quê hương cho học sinh ................ 20
2.3. Giáo dục lòng yêu quê hương thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp .. 25
2.4. Giáo dục truyền thống trường Quốc học Vinh - Huỳnh Thúc Kháng .... 31
3. Kết quả đạt được ........................................................................................ 33
PHẦN III. KẾT LUẬN ..................................................................................... 34
1. Kết luận ...................................................................................................... 34
2. Kiến nghị ................................................................................................... 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 36
PHẦN PHỤ LỤC
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong hệ thống các giá trị truyền thống Việt Nam đã được hình thành suốt hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, nổi trội hơn cả là tinh thần yêu nước. Theo giáo sư Trần Văn Giàu: tình cảm, tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của dân tộc ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu của ngành giáo dục là “bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học…”. Tiếp đó, chỉ thị số 14/2011/CT-TTG ngày 11/06/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông có mục tiêu là: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tăng cường cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, yêu quê hương, gia đình, tinh thần tự tôn dân tộc”. Như vậy, giáo dục thế hệ trẻ hiện nay phải giáo dục con người có lòng yêu quê hương, đất nước.
Trong thời kỳ hội nhập phát triển, vấn đề hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại là một trong những vấn đề các nhà trường đều quan tâm coi trọng. Khi học sinh được bồi dưỡng, giáo dục tốt về truyền thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa… sẽ giúp các em được phát triển toàn diện, là nền tảng không thể thiếu để bước vào cuộc sống.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách con người Việt Nam… bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”.
Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã và đang ảnh hưởng xấu tới nhiều mặt trong đời sống xã hội của Việt Nam. Ngành giáo dục không thể đứng ngoài cuộc. Có rất nhiều ý kiến mang nặng sự lo lắng, trăn trở về những thách thức hiện nay mà ngành giáo dục đang phải đối mặt. Đâu đó vẫn còn tình trạng học sinh vi phạm nội quy, thiếu lễ độ với người lớn, thầy cô giáo, ham chơi, thờ ơ vô cảm hoặc phai nhạt lý tưởng, đặc biệt là tình trạng bạo lực học đường gây nên sự bức xúc lớn trong dư luận xã hội.
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh, giáo dục truyền thống cùng những đạo lý về đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn… là vô cùng quan trọng trong nội dung giáo dục của các nhà trường để hình thành nên phẩm chất cho những chủ nhân tương lai của đất nước.
Làm sao để sau khi ra trường mỗi học sinh đều phải có lý tưởng đẹp, có
1
tình yêu Tổ quốc, yêu quê hương và lòng tự hào tự tôn dân tộc, phát triển về trí tuệ và thể chất, kỹ năng sống tốt, năng động, sáng tạo, là nguồn nhân lực chất lượng cao, đóng góp tích cực vào sự phát triển của thủ đô, đất nước, hướng tới công dân toàn cầu.
Nhà văn Nga Ilia Erenbua đã từng chia sẻ rằng: “Lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu những vật tầm thường, yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu cái thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Điều đó suy rộng ra, muốn giáo dục cho các em lòng yêu Tổ quốc, yêu đồng bào thì đầu tiên phải giáo dục tình yêu gia đình, làng xóm, quê hương, yêu những gì thân thương gần gũi nhất”. Bởi lẽ, trong trái tim mỗi người dân Việt, dù ở nơi đâu trên hành tinh này đều luôn mang trong mình tình cảm sâu nặng, sắc son, thủy chung đối với nơi “chôn rau cắt rốn”, “nơi quê cha đất tổ”, nơi sinh ra, nuôi dưỡng ý chí, chắp cánh ước mơ và giúp ta khôn lớn trưởng thành.
Khi nhắc đến việc giáo dục lòng yêu nước cho học sinh, nhà giáo dục Xô Viết Sukhomlinski đã viết: “Đối với mỗi con người chúng ta, Tổ quốc bắt đầu từ một cái nhỏ bé dường như không lộng lẫy lắm và không có gì nổi bật. Cuộc sống của mỗi chúng ta, vĩnh viễn đến hơi thở cuối cùng chứa đựng một cái gì đó duy nhất và không gì thay thế được như bầu sữa mẹ, như sự âu yếm của mẹ, như lời nói thân yêu. Đó là miền quê thân yêu của chúng ta, nơi thể hiện hình ảnh sinh động của Tổ quốc”.
Lịch sử địa phương là một bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc. Dạy và học lịch sử địa phương không chỉ giúp học sinh hiểu về mảnh đất, con người nơi mình sinh ra và lớn lên, hun đúc niềm tự hào, giáo dục truyền thống, trách nhiệm công dân mà còn nhận thức sâu sắc thêm lịch sử dân tộc, có ý thức phấn đấu, học tập tu dưỡng góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp.
Như vậy, giáo dục lòng yêu nước cho học sinh phải bắt đầu từ việc giáo dục cho các em nhận thức được tình yêu quê hương, đất nước, ý thức xã hội chủ nghĩa gắn chặt với nhau, tạo nên sức mạnh của con người Việt Nam trong thời đại mới.
Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ là một nhiệm vụ bức thiết quyết định đến sự tồn vong và phát triển của dân tộc. Trong lĩnh vực giáo dục, nhiệm vụ này muốn hoàn thành tốt cần đến sự tác động tổng thể của tất cả các môn học, trong đó môn lịch sử giữ một vai trò quan trọng. Tuy nhiên những năm gần đây, thực trạng giáo dục truyền thống dân tộc cho học sinh trong môn Lịch sử ở trường phổ thông có rất nhiều bất cập, hiệu quả thấp. Học sinh đa phần ngán và sợ đối với môn lịch sử bởi sự hàn lâm, khô khan.
Nhiệm vụ đó đòi hỏi nhà trường một mặt phải chuẩn bị tình cảm và năng lực để học sinh tham gia sự nghiệp cách mạng chung của cả nước, mặt khác phải chú ý đến giáo dục các em lòng yêu quê hương, yêu những con người và truyền
2
thống tốt đẹp của địa phương có ý thức và năng lực sẵn sàng tham gia lao động sản xuất và chiến đấu để xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Giáo dục lòng yêu quê hương cho học sinh phổ thông được thực hiện thông qua các hoạt động của nhà trường nói chung, hoạt động giảng dạy các môn học nói riêng; trong đó việc dạy học lịch sử, hoạt động ngoài giờ lên lớp, đặc biệt là biết kết hợp giữa hoạt động ngoài giờ lên lớp với lịch sử địa phương. Đây là hoạt động có nhiều ưu thế hơn cả.
Giảng dạy lịch sử địa phương sẽ cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, con người ở địa phương trong lịch sử đấu tranh dựng nước và cứu nước, hiểu biết về các di tích lịch sử, di tích văn hóa, nghệ thuật và những kinh nghiệm lao động của nhân dân địa phương. Từ đó các em có nhận thức đúng đắn về cuộc sống của địa phương trong quá khứ và hiện tại.
Trên cơ sở hiểu biết đó, xây dựng cho các em niềm tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất, lao động cần cù, thông minh sáng tạo; tự hào về những cảnh đẹp thiên nhiên bình dị và thơ mộng, tự hào về những phong cách sinh hoạt văn hóa mang bản sắc độc đáo của địa phương. Chính niềm tự hào đó làm cho các em gắn bó với mảnh đất quê hương, có ý thức bảo vệ và phát huy những truyền thống tốt đẹp vốn có của địa phương một cách tự giác.
Như vậy, nghiên cứu giảng dạy lịch sử địa phương cần được tiến hành một cách thường xuyên với nội dung, phương pháp phù hợp sẽ giúp ích rất nhiều cho việc giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ trẻ, kích thích được lòng yêu quê hương, lòng tự hào dân tộc. Xuất phát từ thực tiễn dạy học, từ chủ trương đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục của Đảng và vai trò, vị trí của môn Lịch sử, tôi lựa chọn đề tài: “Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương và truyền thống nhà trường tại trường Trung học phổ thông Huỳnh Thúc Kháng” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.
3
PHẦN II. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm lòng yêu quê hương nước
Từ xưa đến nay, tình yêu quê hương đất nước là sợi chỉ đó xuyên suốt trong các tác phẩm văn học từ cổ kim đông tây. Ta đã bắt gặp “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt đến Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và hoàn thiện phát triển tới “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Bác Hồ đã từng nói, lòng yêu nước của nhân dân ta giống như một làn sóng nhấn chìm lũ bán nước và lũ cướp nước. Đó là hào khí của dân tộc, càng ngày càng qua các thời kì lịch sử tinh thần yêu nước và tinh thần tự hào, tự tôn của dân tộc
Một trong những truyền thống tốt đẹp của người Việt từ xưa đến nay chính là truyền thống yêu quê hương, đất nước: “Cá quen sông, chim luyến tổ, con người sao không yêu quê hương”. Yêu quê hương, đất nước là tình cảm tự nhiên của con người ở bất cứ dân tộc nào chứ không riêng gì ở Việt Nam. Song ở Việt Nam tình cảm ấy trở thành ý thức, tư tưởng, và cao hơn là chủ nghĩa yêu nước.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là “nguyên tắc đạo đức về chính trị mà nội dung là tình yêu, lòng trung thành, ý thức phục vụ Tổ quốc. Xã hội nguyên thủy đã có mầm mống của chủ nghĩa yêu nước, dựa trên tình cảm máu mủ giữa các thành viên của thị tộc hay bộ lạc. Từ khi xã hội nguyên thủy tan rã, tình cảm tự nhiên gắn bó với quê hương, tiếng mẹ đẻ, các truyền thống… kết hợp với nhận thức về nghĩa vụ của người dân đối với cả cộng đồng xã hội đã được thiết lập. Cùng với sự hình thành dân tộc và nhà nước dân tộc, chủ nghĩa yêu nước từ chỗ chủ yếu là một yếu tố trong tâm lý xã hội, đã trở thành hệ tư tưởng. Nó trở thành lực lượng tinh thần vô cùng mạnh mẽ, động viên mọi người đứng lên bảo vệ tổ quốc chống lại mọi cuộc xâm lược. Chủ nghĩa yêu nước chân chính thể hiện ở lòng trung thành với tổ quốc vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân, bảo vệ sự sinh tồn của dân tộc và đấu tranh cho sự phồn vinh của đất nước”.
Đối với người dân nước ta, tình cảm đối với quê hương là thứ tình cảm thiêng liêng, cao đẹp trở thành máu thịt, lẽ sống của con người “Quê hương mỗi người chỉ một, quê hương nếu ai không nhớ sẽ không lớn nổi thành người”. Nhưng nếu nói thế thì dường như con người chỉ yêu quê hương thì phải. Thực ra tình yêu quê hương, tình yêu đất nước luôn quyện chặt với nhau không tách biệt. Nói đến quê hương là nói đến đất nước và ngược lại bởi trong lòng người Việt Nam thì quê hương và đất nước là một. Quê hương hay quê hương nhỏ chính là xóm làng, là nơi có cha mẹ, anh chị em, họ hàng, mồ mả ông bà, là nơi có mái đình, cây đa, bến nước. Là nơi có những gì gần gũi, thân thuộc nhất.
4
2. Tầm quan trọng của việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước
Trong giai đoạn hiện nay, với xu thế “Toàn cầu hóa”, mọi giá trị truyền thống đang bị thay đổi thì việc giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước càng có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Tại Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu của ngành giáo dục là “bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học…”. Tiếp đó, chỉ thị số 14/2011/CT-TTG ngày 11/06/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông có mục tiêu là: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tăng cường cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, yêu quê hương, gia đình, tinh thần tự tôn dân tộc”. Như vậy, giáo dục thế hệ trẻ hiện nay phải giáo dục con người có lòng yêu quê hương, đất nước.
Thế hệ trẻ ngày nay, ngày ngày được cắp sách đến trường trong hoàn cảnh đất nước thống nhất, thanh bình, không có chiến tranh, kinh tế phát triển, đời sống no đủ. Chính vì vậy, các em chưa hiểu hết giá trị của những gì mà các em đang được hưởng thụ, các em có thái độ thờ ơ, lãnh đạm với quá khứ, các em không hiểu được rằng để có được cuộc sống thanh bình hạnh phúc như ngày hôm nay, đã có biết bao mồ hôi xương máu của những người đi trước đổ xuống mảnh đất này. Thực tế trong xã hội hiện nay, do tác động của môi trường xã hội, một bộ phận học sinh, thanh thiếu niên đang bị suy thoái về đạo đức, sống không có lý tưởng, thiếu bản lĩnh chính trị, rất bàng quan với sự phát triển đi lên của đất nước, không thấy được vai trò vị trí của mỗi cá nhân trong dòng chảy lịch sử dân tộc. Khi có một sự việc, vấn đề xảy ra trong xã hội thì không tự nhận định được vấn đề đó đúng hay sai, xử lý như thế nào, dẫn đến những hành vi thiếu đạo đức đáng tiếc.
Đất nước Việt Nam là dải đất cong cong hình chữ S, chứa trong đó bao cảnh vật đặc sắc. Mỗi một vùng quê đều mang một màu sắc riêng với những địa danh, phong tục. lễ hội cho trẻ được khám phá, tìm hiểu. Ở đó còn có bao vị quê, là vị mặn mòi của biển, là mùi thơm rơm rạ, là mát ngọt bát chè xanh… Những hình ảnh giản dị, thân thương ấy cứ như dòng suối nhỏ, mát ngọt, là mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn, tình cảm; trở thành cội nguồn sức mạnh của mọi suy nghĩ, hành động, sáng tạo trong mỗi con người. Thế hệ trẻ hôm nay đang lớn lên trong một thế giới hội nhập, thế giới của công nghệ thông tin đa chiều… tiếp xúc những nền văn hóa đa dạng nên nhiều học sinh, sinh viên sống trong thế giới ảo, vô cảm trước truyền thống văn hóa dân tộc, tình yêu quê hương, yêu gia đình… Chính vì thế giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho thế hệ trẻ luôn là việc làm cần thiết của gia đình, nhà trường và toàn xã hội.
Nghệ An là vùng đất cổ, gắn kết hữu cơ với tiến trình phát triển của dân tộc. Với tinh thần cần cù trong lao động sản xuất và anh dũng trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, nhân dân Nghệ An đã viết nên những trang sử vàng chói lọi, góp phần tô thắm lịch sử hào hùng của dân tộc. Nghệ An cũng là vùng
5
đất có bề dày văn hóa, truyền thống hiếu học và khoa bảng… Chính những điều đó đã tạo nên bản sắc riêng của con người và lịch sử Nghệ An. Bởi vậy, bên cạnh những những nội dung của lịch sử dân tộc thì nội dung của lịch sử địa phương, cũng góp phần quan trọng vào giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, đặc biệt truyền thống yêu quê hương, đất nước, giáo dục cho học sinh niềm tự hào về nơi “chôn rau cắt rốn” của mình, tự hào về dân tộc, về đất nước mình. Để từ đó các em có cái nhìn, ý thức đúng đắn về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay, cần có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng và giữ gìn các di sản văn hóa, di tích của địa phương. Do vậy, việc giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương là hết sức quan trong, cần thiết.
Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, tiền thân là trường Quốc học Vinh, được thành lập từ năm 1920 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Là ngôi trường lâu đời và có bề dày truyền thống bậc nhất của tỉnh Nghệ An và có thể xếp ngang hàng với Quốc học Huế (miền Trung), trường Bưởi (miền Bắc) và Petrus Ký ở miền Nam. Trong suốt gần 100 năm qua, trường Quốc học Vinh - Huỳnh Thúc Kháng chính là một phần quan trọng của lịch sử giáo dục Việt Nam, đã đào tạo hơn 50.000 học sinh, đóng góp tích cực cho sự nghiệp kiến thiết, xây dựng và đổi mới của đất nước, là nơi đào tạo và trưởng thành của rất nhiều thế hệ người Việt Nam, trong đó có những cán bộ lãnh đạo cấp cao của đất nước, các tướng lĩnh của quân đội, các nhà khoa học, nhà thơ, nhà văn, các nghệ sĩ nổi tiếng.
Với bề dày truyền thống đó trường đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều Bằng khen, cờ thi đua của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban nhân dân tỉnh Huân chương Lao động, Huân chương Độc lập và đặc biệt là trường THPT đầu tiên của Nghệ An được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.
Chính vì thế, việc học tập tìm hiểu về lich sử và truyền thống của nhà trường sẽ giúp học sinh hiểu, thêm yêu, thêm tự hào từ đó có thêm động lực phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện để viết tiếp những trang sử vàng của nhà trường luôn là việc làm hết sức cần thiết và ý nghĩa. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trong các môn học ở bậc trung học, môn Lịch sử là môn học có “sở trường và ưu thế trong việc giáo dục truyền thống dân tộc, nổi bật là lòng yêu nước”, có vai trò quan trọng trong việc giáo dục truyền thống dân tộc cho học sinh. Thông qua những bài học lịch sử, đặc biệt là những trang sử dân tộc học sinh sẽ nắm được truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của cha ông trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đó là yếu tố để vun đắp nên nền tảng đạo đức truyền thống dân tộc cho các thế hệ học sinh.
Để hiểu rõ thực trạng việc giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước trong giảng dạy lịch sử, chúng tôi đã tiến hành khảo sát đối với một số giáo viên dạy lịch sử trong tỉnh và học sinh các trường: THPT Hoàng Mai 2; THPT Tây Hiếu (Phiếu khảo sát ở Phụ lục).
6
Thu được kết quả như sau: Về phía giáo viên
Câu hỏi khảo sát
Kết quả khảo sát Thỉnh thoảng Không bao giờ Thường xuyên
15/25 60% 9/25 36% 1/25 4%
0
8/25 32% 7/25 28% 17/25 68% 16/25 64% 2/25 8%
13/25 52% 11/25 44% 1/25 4% Thầy/ cô đã tiến hành việc giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương với tần suất như thế nào? Thầy/ cô có thường xuyên sử dụng công nghệ thông tin trong giờ dạy của mình không? Thầy/ cô có thường xuyên hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động ngoại khóa không? Thầy/ cô có tiếp cận thêm những phương pháp dạy học mới để giúp học sinh tích cực hứng thú hơn trong học tập không?
THPT Tây Hiếu THPT Hoàng Mai 2 Câu hỏi khảo sát
Kết quả thu được về phía học sinh: THPT Huỳnh Thúc Kháng Có Không Có Không Có Không
231/250 92% 19/250 8% 225/250 90% 25/250 10% 188/250 75% 62/250 25%
240/250 96% 10/250 4% 202/250 81% 48/250 19% 228/250 91% 22/250 9%
105/250 42% 145/250 58% 125/250 50% 125/250 50% 158/250 63% 92/250 36%
200/250 80% 50/250 20% 165/250 66% 85/250 34% 170/250 68% 80/250 32%
80/250 32% 170/250 68% 95/250 38% 155/250 62% 107/250 43% 143/250 57%
Em có thích học lịch sử địa phương Nghệ An không? Theo em, trong trường THPT có cần thiết phải giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước không? Trong giờ học Lịch sử, giáo viên của các em có áp dụng đa dạng các phương pháp dạy học và sử dụng các phương tiện dạy học để giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước không? Theo em, để giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước thì hoạt động ngoại khóa có quan trọng không? Em có thường xuyên tìm hiểu nhân vật lịch sử và các sự kiện lịch sử diễn ra trên quê hương mình không?
7
Như vậy, khi khảo sát thực tiễn dạy học ở các môi trường khác nhau như trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, THPT Hoàng Mai 2, THPT Tây Hiếu; tôi nhận thấy đa phần giáo viên thấy được nhận thức đúng về tầm quan trọng và ý nghĩa của việc dạy học lịch sử địa phương, do đó đã chú ý nhiều hơn đến những tiết dạy phần lịch sử địa phương, kết hợp nhiều phương pháp trong giảng dạy. Học sinh hiện nay rất năng động sáng tạo, thích khám phá và trải nghiệm… cơ sở vật chất của các trường đã có nhiều cải thiện. Đó là những thuận lợi trong việc áp dụng những phương pháp dạy học tích cực mới. Tuy nhiên công tác giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, những bất cập đó là:
- Nhà trường chưa đặt đúng vị trí và chức năng của môn lịch sử trong hệ thống các môn học ở trường phổ thông, hầu như chỉ tập trung vào các môn như Toán, Lý, Hóa… khiến học sinh có xu hướng coi nhẹ môn Lịch sử, không thích học môn Lịch sử dẫn đến chất lượng môn lịch sử hiện nay rất thấp kém.
- Vẫn còn một số ít giáo viên và học sinh chưa chú ý đúng mức tới vai trò và ý nghĩa của việc dạy và học Lịch sử địa phương khiến cho nội dung dạy học lịch sử địa phương khô khan, không hấp dẫn làm cho hiệu quả giáo dục không cao. Không những vậy phương pháp dạy học buồn tẻ, truyền thụ một chiều, nặng về đọc chép là nguyên nhân góp phần làm cho học sinh không thích học lịch sử địa phương.
- Lịch sử địa phương với rất nhiều nguồn tư liệu phong phú là cơ sở để người giáo viên có thể khai thác để giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước song việc giáo dục chỉ có thể thực hiện tốt và thực sự hiệu quả khi người giáo viên xác định đúng nội dung và phương pháp trong quá trình dạy học.
Bởi vậy, hiệu quả của việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học
sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương còn hạn chế.
III. NHỮNG YÊU CẦU CHUNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Yêu cầu chung
1.1. Đảm bảo sự thống nhất giữa giáo dục lòng yêu quê hương với lòng yêu đất nước
Trong quá trình dạy học lịch sử địa phương, giáo viên cần chú ý đến mối quan hệ giữa lòng yêu quê hương và lòng yêu đất nước. Mỗi một địa phương là một bộ phận của Tổ quốc, vì vậy giáo dục lòng yêu quê hương cần kết hợp chặt chẽ với giáo dục lòng yêu nước. Giáo dục lòng yêu quê hương phải hướng lên giáo dục lòng yêu nước và ngược lại, giáo dục lòng yêu nước phải chú ý đến tình cảm với quê hương. Phải làm sao để bất cứ người dân ở vùng quê nào, khi Tổ quốc cần sẵn đi bất cứ nơi đâu để chiến đấu, để xây dựng, để bảo vệ dù cho
8
đó không phải là quê hương mình.
1.2. Đảm bảo tính toàn diện, tính khoa học
Tính toàn diện được thể hiện ở chỗ đảm bảo cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức cơ bản về lịch sử địa phương trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Để từ đó, các em có hiểu biết toàn diện về lịch sử, con người và truyền thống của quê hương mình. Tính toàn diện còn bao hàm cả ở việc rèn luyện, phát triển ở học sinh những kỹ năng, kỹ xảo và thái độ nhằm hình thành cho các em năng lực, phẩm chất, vừa phát triển trí tuệ, tình cảm và ý chí, vừa phát triển lý luận và khả năng thực tiễn.
Tính khoa học được thể hiện trong việc khai thác, lựa chọn nội dung kiến thức về lịch sử địa phương phải chính xác, tiêu biểu. Bởi chỉ có trên cơ sở lựa chọn, cung cấp cho học sinh những kiến thức khoa học, chính xác thì giáo viên mới có cơ sở để giáo dục tư tưởng, tình cảm cho các em.
Từ Nhận thức Tình cảm Niềm tin Hành động. Ở đây chúng ta cần khẳng định rằng những nội dung kiến thức lịch sử địa phương được cung cấp cho các em ở trường phổ thông đều phải là những kiến thức phản ánh sự tồn tại, phát triển của xã hội, lịch sử và con người ở địa phương đó. Điều này sẽ tạo nên trong đầu các em bức tranh chân thực về lịch sử, con người trên mảnh đất quê hương mình trong quá khứ. Nó có khả năng giúp các em hình thành thế giới quan khoa học, trong đó có sự thống nhất giữa niềm tin và hoạt động thực tiễn.
Bên cạnh việc lựa chọn nội dung kiến thức chính xác thì tính khoa học còn thể hiện ở việc lựa chọn những nội dung cơ bản. Sự kiện cơ bản trong dạy học lịch sử địa phương là những sự kiện tiêu biểu nhất, cơ bản nhất của lịch sử địa phương mình. Không phải sự kiện nào được nói đến cũng mang ra dạy cho học sinh mà người giáo viên phải biết lựa chọn những sự kiện nào tiêu biểu, có ảnh hưởng tới tiến trình lịch sử địa phương đó. Ở đây chúng ta cần khẳng định rằng những nội dung kiến thức lịch sử địa phương được cung cấp cho các em ở trường phổ thông đều phải là những kiến thức phản ánh sự tồn tại, phát triển của xã hội, lịch sử và con người ở địa phương đó. Điều này sẽ tạo nên trong đầu các em bức tranh chân thực về lịch sử, con người trên mảnh đất quê hương mình trong quá khứ. Nó có khả năng giúp các em hình thành thế giới quan khoa học, trong đó có sự thống nhất giữa niềm tin và hoạt động thực tiễn.
Để làm được như trên, người giáo viên phải có một vốn hiểu biết toàn diện, hệ thống và sâu sắc về lịch sử địa phương mình. Phải không ngừng tiếp thu, cập nhật kiến thức đồng thời rèn luyện khả năng sư phạm.
Không những vậy tính khoa học của nội dung bài học còn được thể hiện ở việc đánh giá, giải thích để tìm ra bản chất mối quan hệ nhân quả, sự phát triển hợp quy luật của các sự kiện, hiện tượng lịch sử, khi giải thích, đánh giá phải đảm bảo nguyên tắc của phương pháp luận sử học: quan điểm lịch sử kết hợp thống nhất với quan điểm giai cấp, tránh “hiện đại hóa”, xuyên tạc, bóp méo sự
9
thật lịch sử. Nghĩa là khi xem xét, đánh giá một sự kiện nào phải thống nhất giữa tính đúng và tính khoa học trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, vừa đảm bảo việc cung cấp cho học sinh kiến thức khoa học vừa có tác dụng giáo dục đối với học sinh.
1.3. Đảm bảo tính sư phạm
Ngoài yêu cầu đảm bảo tính toàn diện, tính khoa học thì để thực hiện tốt công tác giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT phải đảm bảo tính sư phạm. Từ đặc điểm nhận thức và tâm sinh lý của học sinh THPT nên khi tiến hành giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước trong dạy học lịch sử địa phương, giáo viên cần lựa chọn nội dung kiến thức lịch sử địa phương cho phù hợp với yêu cầu giáo dục, giáo dưỡng và kỹ năng giáo viên cần tìm hiểu và phân loại kiến thức cho phù hợp với các giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc.
Khi dạy lịch sử địa phương dù là trong bài nội khóa hay hoạt động ngoại khóa, giáo viên cũng phải chú ý đến thời gian học tập, giáo viên phải có kế hoạch sư phạm cụ thể, làm chủ kiến thức để cung cấp cho học sinh phù hợp với thời gian.
1.4. Đảm bảo sự thống nhất giữa nội dung kiến thức lịch sử địa phương với mục đích giáo dục của nhà trường
Vì giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương được thực hiện thông qua các hoạt động của nhà trường trên cơ sở cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người ở địa phương, giúp các em hiểu biết về lịch sử đấu tranh anh dũng của nhân dân địa phương trong lịch sử đấu tranh của cả nước, hiểu biết về những di tích văn hóa, nghệ thuật và những kinh nghiệm lao động của nhân dân địa phương, từ đó các em có nhận thức đúng đắn về cuộc sống của nhân dân địa phương trong quá khứ và hiện tại. Trên cơ sở những hiểu biết đố xây dựng cho các em niềm tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất, lao động cần cù, thông minh sáng tạo của địa phương, tự hào về những cảnh trí thiên nhiên bình dị, về phong cách sinh hoạt văn hóa, mang bản sắc địa phương độc đáo. Chính niềm tự hào đó làm cho các em thêm gắn bó với quê hương, có ý thức giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp vốn có của quê hương, đất nước.
Trong dạy học lịch sử nhất là lịch sử địa phương có nhiều ưu thế để tiến hành giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh. Truyền thống đó được thể hiện trong nội dung, trong từng mục, từng ý của mỗi bài học lịch sử. Tùy thuộc vào nội dung cụ thể của từng bài học mà ta có thể giáo dục học sinh, ở bài này có thể là tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất chống ngoại xâm, bài kia là truyền thống lao động cần cù, bài khác lại là truyền thống yêu quê hương, đất nước…
Trên đây là một số yêu cầu mang tính nguyên tắc khi giáo viên tiến hành
10
giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường phổ thông. Thực hiện đúng lời dạy của Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Lịch sử đâu có phải là một chuỗi sự kiện để người viết sử ghi lại, rồi người lịch sử đọc lại, người học lịch sử lại học thuộc lòng”, “dạy Sử là dạy yêu nước”.
2. Một số biện pháp cụ thể
2.1. Giáo dục lòng yêu quê hương thông qua các nhân vật lịch sử điển hình của địa phương
Lòng yêu quê hương đất nước được hình thành qua một thời gian lâu dài của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh cũng phải bắt đầu bằng những câu chuyện kể lịch sử đơn giản từ thời tiểu học như: chuyện kể về cuộc đời Bác Hồ, về những tấm gương anh hùng: Kim Đồng, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám, Trần Quốc Toản...
Ở bậc Trung học phổ thông, trong hầu hết các bài lịch sử dân tộc, giáo viên đều có thể khai thác, lồng ghép việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh. Bằng các sự kiện lịch sử chân thực, sinh động, những tấm gương anh dũng tuyệt vời của các anh hùng qua các giai đoạn lịch sử, những trận đánh quyết tử, những chiến thắng vẻ vang, những đóng góp vật chất lẫn tinh thần của những người đi trước để khơi dậy trong các em sự rung cảm mạnh mẽ về quá khứ, từ đó các em hiểu được rằng, để có được cuộc sống thanh bình, hạnh phúc như ngày hôm nay, đã có biết bao người ngã xuống trên mảnh đất này, giành giật từng tấc đất cho quê hương. Trong qua trình giảng dạy đối với những bài có liên quan đến các nhân vật lịch sử ở địa phương giáo viên dành thời gian để trình bày về các nhân vật lịch sử ở địa phương để qua đó giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho các em.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên, học sinh trong việc dạy và học lịch sử địa phương, Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An đã biên soạn cuốn Một số chuyên đề lịch sử địa phương Nghệ An gồm 4 chuyên đề, trong đó chuyên đề 2 đã giới thiệu đầy đủ về tiểu sử và những đóng góp của Hoàng đế Mai Thúc Loan; Cương quốc Công Nguyễn Xí và Nguyễn Xuân Ôn. Song trong quá trình giảng dạy những bài lịch sử dân tộc, chúng tôi đã cố gắng lồng vào để giới thiệu thêm nhiều nhân vật lịch sử tiêu biểu khác của Nghệ An để tăng thêm tính sinh động của giờ học và giúp học sinh hiểu lịch sử địa phương sâu sắc hơn, từ đó tăng thêm hiệu quả của việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước.
Những năm gần đây, chúng tôi đã sử dụng các phương án sau để giáo dục
lòng yêu quê hương thông qua các nhân vật lịch sử điển hình của địa phương.
2.1.1. Phân công cho các nhóm học sinh tìm hiểu và sưu tầm các tư liệu liên quan nhân vật lịch sử mà các em sắp được học
Sử dụng phương án này, sẽ phát huy được khả năng nghiên cứu, tập hợp tư liệu góp phần hình thành kĩ năng làm việc nhóm cho học sinh. Qua đó, các
11
em không những tiếp nhận thông tin một cách chủ động mà còn rèn luyện được kĩ năng làm việc nhóm - đây là kĩ năng hết sức quan trọng vừa mang lại hiệu quả công việc, tiết kiệm thời gian công sức, bổ sung những khiếm khuyết cho nhau vừa rèn cho các em tính kỉ luật và ý thức trách nhiệm.
Khi thực hiện phân công cho các nhóm học sinh, giáo viên cần lưu ý:
- Tùy theo số lượng công việc để chia nhóm học sinh bao nhiêu em một
nhóm (thường từ 5 đến 8 em).
- Trong một nhóm nên có cả học sinh nam và nữ.
- Học lực của các nhóm nên đồng đều nhau. Mỗi nhóm nên có cả học sinh giỏi, khá và trung bình, bởi mỗi học sinh có những thế mạnh riêng, điều này sẽ tạo điều kiện để các thành viên giúp đỡ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau.
- Để tránh mất thời gian của học sinh và nâng cao hiệu quả công việc, khi giao học sinh tìm hiểu nhân vật lịch sử nào giáo viên nên định hướng, giới thiệu cho học sinh nguồn tài liệu (từ sách, báo hay mạng internet, nếu từ sách, báo thì cần hướng dẫn học sinh tìm ở đâu…).
- Giáo viên cần định hướng cho học sinh tìm hiểu, sưu tập những gì về nhân vật lịch sử được giao. Chẳng hạn: yêu cầu tìm hiểu về tiểu sử, sự nghiệp, những cống hiến cho đất nước, quê hương, mẫu chuyện, những lời đánh giá nhận xét và tranh ảnh…
- Cử nhóm trưởng của các nhóm và yêu cầu nhóm trưởng phân công
nhiệm vụ cho các thành viên (thư kí, người thuyết trình…).
- Gợi ý cho học sinh cách trình bày sản phẩm: bằng sơ đồ tư duy,
powerpoint…
- Để công việc được giao đảm bảo tiến độ, giáo viên cần ấn định thời gian
cho các nhóm.
Sau khi học sinh báo cáo hay thuyết trình, giáo viên cần mời các nhóm
khác nhận xét sau đó giáo viên đánh giá để rút kinh nghiệm cho lần sau.
Giới thiệu một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914) (chương trình Lịch sử lớp 11- Ban cơ bản), giáo viên có thể giao nhiệm vụ và hướng dẫn cho một nhóm học sinh tìm hiểu về nhà Chí sĩ Đặng Thái Thân.
Để tìm hiểu về Chí sĩ Đặng Thái Thân, tôi giao cho nhóm gồm 5 học sinh, trong đó có 2 học sinh nam, 3 học sinh nữ, 2 em có học lực loại giỏi, 3 em loại khá. Công việc được giao là tìm những nét chính về tiểu sử; những cống hiến cho lịch sử dân tộc, cho quê hương; tinh thần chiến đấu kiên cường của Đặng Thái Thân, những nhận xét của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng về Đặng Thái Thân. Do tài liệu về Đặng Thái Thân chưa phong phú, nên tôi
12
hướng dẫn học sinh tìm hiểu tại Thư viện tỉnh và khai thác trên các bài báo của Đảng và địa phương.
Mục 1: Phan Bội Châu và xu hướng bạo động cùng với việc giới thiệu về Phan Bội Châu, giáo viên yêu cầu học sinh trình bày phần việc đã được giao chuẩn bị trước về Đặng Thái Thân, giáo viên nhận xét đánh giá về sản phẩm của học sinh, sau đó giáo viên đưa hình ảnh Đặng Thái Thân và chốt lại:
Đặng Thái Thân (hiệu là Ngư Hải), sinh năm 1873 tại làng Mỹ Chiêm (nay là xóm Phong Thái xã Nghi Phong, huyện Nghi Lộc) trong một gia đình nhà Nho làm nghề bốc thuốc chữa bệnh. Ngay từ nhỏ, Đặng Thái Thân đã nổi tiếng thông minh, hiếu học. Với học vấn uyên bác, ông từng thi đỗ đầu xứ nên gọi là “đầu xứ Đặng”. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, Đặng Thái Thân đã sớm hình thành lòng căm thù bọn thực dân, phong kiến bù nhìn và khát vọng cứu nước, cứu dân. Ngay từ rất sớm, Đặng Thái Thân đã được tiếp xúc và trở thành người bạn thân thiết của chí sỹ yêu nước Phan Bội Châu. Từ năm 1900 trở đi, chính Đặng Thái Thân là người đã tận tình giúp đỡ cho cụ Phan vào Nam ra Bắc tìm bạn đồng chí, tuyên truyền vận động yêu nước, gây dựng cơ sở quần chúng, tạo nguồn vật chất cho việc lớn sau này. Tháng 4 năm 1904, Đặng Thái Thân cùng với Phan Bội Châu và một số nhà yêu nước khác lập ra Hội Duy Tân, đề xướng phong trào Đông Du. Tháng 12 năm 1904, trong một cuộc họp tại Quảng Nam, Hội Duy Tân đã phân công Đặng Thái Thân nhận trọng trách lo chuẩn bị lực lượng trong nước. Ông đã phải lặn lộn khắp nơi để gây dựng lực lượng, giúp đỡ phong trào. Bên cạnh đó, ông còn tích cực vận động, lôi kéo những phần tử trong hàng ngũ địch. Chính ông là người đã trực tiếp vận động, tuyên truyền một Chánh suất đội phụ trách đội lính tập trong thành Nghệ An đem cả khí giới về với Hội Duy Tân. Ngày 1/3/1910, trong lúc về làng Phan Thôn (nay là xã Nghi Kim, TP Vinh) để hoạt động, do có kẻ chỉ điểm, Đặng Thái Thân đã bị giặc Pháp bao vây. Trước tình thế nguy cấp, để bảo vệ tài liệu mật và kiên quyết không để giặc bắt, Đặng Thái Thân đã bắn chết tên tay sai, hủy tài liệu mật và anh dũng tự sát. Lúc này, Đặng Thái Thân mới 37 tuổi. Cái chết oanh liệt của Đặng Thái Thân là một tổn thất to lớn cho tổ chức, cho phong trào, để lại lòng xót thương vô hạn cho đồng chí, đồng bào.
Phan Bội Châu ghi về ông: “Đặng quân vốn người hăng hái gan dạ, nhân
phẩm lại cao, trải mười năm vừa là thầy vừa là bạn tôi” (Ngục Trung Thư).
Huỳnh Thúc Kháng đề cao ông: “Người khảng khái, trầm tĩnh, học vấn uyên bác, đởm thức hơn người; cái năng lực gánh nặng đi đường xa không lộ ra ngoài, không phải là người đồng chí tâm giao thì không ai biết là người thế nào. Cụ Sào Nam ở ngoài, sau Tây Hồ và Tiểu La bị đày, mà trong khoảng vài năm phong trào Đông học còn ảnh hưởng lừng lẫy không dứt, chính nhờ sức Ngư Hải. Trong miền Nam thì có Sơn Tẩu (Đỗ Đăng Tuyển) và Nam Xương (Thái Phiên). Từ khi Ngư Hải mất, cụ Sào Nam như mất cánh tay, cái dây liên lạc trong ngoài bị đứt đoạn” (Thi tù tùng thoại).
13
Như vậy, việc giới thiệu về Chí sĩ Đặng Thái Thân không những giúp học sinh hiểu biết thêm về một nhân vật lịch sử của địa phương mà còn giúp học sinh hiểu được tình đồng chí giữa Phan Bội Châu và Đặng Thái Thân, hiểu thêm về hy sinh của các ông vì sự nghiệp cứu nước cứu dân, qua đó tăng thêm tính giáo dục cho học sinh.
Bài 15: Phong trào dân chủ 1936-1939 (chương trình Lịch sử 12- Ban cơ bản). Mục II Phong trào dân chủ 1936 -1939, mục 1: Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 7/1936.
Giáo viên đưa ra các câu hỏi định hướng để học sinh tìm hiểu:
1. Em hãy trình bày những nét cơ bản về thân thế và sự nghiệp của đồng
chí Lê Hồng Phong.
2. Công lao của đồng chí Lê Hồng Phong đối với cách mạng Việt Nam.
Sau khi các nhóm trình bày sản phẩm của mình, giáo viên trình chiếu hình ảnh đồng chí Lê Hồng Phong - người chiến sĩ cộng sản tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, nguyên là Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam, người học trò gần gũi và xuất sắc của Bác Hồ và chốt lại những ý cơ bản: Đồng chí có tên thật là Lê Huy Doãn, sinh ngày 6/9/1902, trong một gia đình nông dân ở làng Đông Thôn, tổng Thông Lạng, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, (nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An). Đồng chí Lê Hồng Phong mang sẵn trong mình lòng yêu nước, chí căm thù giặc và sớm giác ngộ rồi dấn thân vào con đường cách mạng cứu nước, cứu dân. Được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đào tạo, dẫn dắt, Lê Hồng Phong đã được học tập, rèn luyện rất toàn diện, bài bản cả về chính trị và quân sự, được Quốc tế Cộng sản tin cậy. Đồng chí có công lao to lớn trong việc khôi phục lại cơ quan lãnh đạo và các tổ chức cơ sở Đảng sau cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh.
Sau khi về nước, trực tiếp cùng Trung ương Đảng chỉ đạo phong trào cách mạng, khôi phục tổ chức Đảng, triển khai chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược khi tình hình thay đổi, đồng chí bị địch bắt, rồi đày ra Nhà tù Côn Đảo, tra tấn, hành hạ dã man cho đến lúc đồng chí hy sinh ngày 6/9/1942 khi tròn 40 tuổi.
Với 40 tuổi đời, gần 20 năm hoạt động cách mạng, Tổng Bí thư Lê Hồng Phong cùng các đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp vẻ vang của Đảng và của dân tộc ta, để lại tấm gương sáng chói về đạo đức cách mạng, suốt đời phấn đấu hy sinh cho độc lập dân tộc, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, son sắt, thủy chung với bạn bè, đồng chí, lạc quan tin tưởng vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng.
14
2.1.2. Sử dụng các đoạn phim tài liệu lịch sử để giới thiệu nhân vật lịch sử
Dựa trên cơ sở lý thuyết của khoa học thần kinh nhận thức, Jean Marc Dénommé và Madeleine Roy (2000) đã đưa ra một cách tiếp cận cơ bản - cách tiếp cận “Sư phạm tương tác”, trong đó chú trọng vào việc nghiên cứu sự tham gia của hệ thống thần kinh vào việc học. Theo quan điểm “Sư phạm tương tác” mỗi người có một “bộ máy học” bao gồm hệ thần kinh và các giác quan. Trong đó các giác quan được coi là cổng vào của tri thức. Càng nhiều giác quan tham gia vào quá trình học tập thì thông tin thu được càng nhiều. Vùng limbic có vai trò là “trung tâm hứng thú”, có thể chấp nhận hoặc loại bỏ thông tin mới. Do vậy để giúp học sinh học tập một cách hiệu quả giáo viên sử dụng các đồ dùng trực quan nhằm kích thích đa giác quan của học sinh và làm cho giờ học trở nên sinh động, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Lịch sử là những sự kiện, hiện tượng đã diễn ra trong quá khứ, học sinh không thể trực tiếp quan sát những sự kiện, hiện tượng đó, vì vậy việc nhận thức lịch sử là rất khó khăn. Tuy nhiên, học sinh có thể hình dung được quá khứ lịch sử qua các đoạn phim tư liệu - là loại phim được xây dựng dựa trên hình ảnh hoặc những thước phim ghi lại diễn biến sự kiện lịch sử tại thời điểm mà nó diễn ra. Do vậy, nó đảm bảo tính chính xác, chân thực của quá khứ. Âm thanh, hình ảnh sinh động của phim tư liệu lịch sử là phương tiện tác động đến thị giác, thính giác giúp cho quá trình thu nhận thông tin của “bộ máy học” dễ dàng hơn.
Đây là một biện pháp hay, giúp các em được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn hơn phương pháp đọc - chép truyền thống, có được những biểu hiện lịch sử chân thực, chính xác trong bối cảnh thời gian, không gian xác định ở những điều kiện cụ thể, qua đó giúp các em khôi phục được bức tranh quá khứ đúng như nó đã tồn tại, khắc phục hiện tượng “hiện đại hóa” lịch sử. Trên cơ sở đó, học sinh hiểu sâu sắc bản chất sự kiện, hiện tượng lịch sử và vận dụng vào cuộc sống.
Khi tiến hành biện pháp này giáo viên cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Căn cứ vào mục tiêu, nội dung bài học giáo viên lựa chọn biện pháp sử
dụng phim tài liệu lịch sử phù hợp nhằm đạt được hiệu quả dạy học.
- Nội dung của phim phải bám sát nội dung bài học, thông tin do đoạn
phim cung cấp phải đảm bảo độ chính xác, chân thực.
- Thời lượng mỗi đoạn phim tuỳ theo dung lượng của bài học, các đoạn
phim không nên quá dài.
- Số lần sử dụng phim cho một tiết học không nên quá ba lần vì giáo còn phải kết hợp sử dụng các phương pháp khác. Hơn nữa nếu số lần xem phim quá nhiều dễ làm cho học sinh không tập trung vào nội dung bài học.
- Các phương tiện kĩ thuật cần thiết để thực hiện giờ dạy có sử dụng phim tài liệu lịch sử là: máy vi tính, máy chiếu (Projector), màn chiếu. Trong trường
15
hợp không có các thiết bị trên chúng ta có thể sử dụng đầu đọc đĩa CD, màn hình vô tuyến cỡ lớn là có thể thực hiện được bài dạy.
- Điều chỉnh ánh sáng trong phòng học, sắp đặt vị trí của máy chiếu, màn chiếu, loa sao cho hợp lí, đảm bảo mọi học sinh trong lớp đều quan sát được phim và nghe rõ được âm thanh.
- Giáo viên phải định hướng nhiệm vụ học tập rõ ràng cho học sinh trước
khi xem phim nếu không giờ học sẽ biến thành giờ xem phim giải trí.
Giáo viên có thể tìm kiếm tư liệu phim lịch sử trên internet hoặc các đĩa tư liệu dạy học lịch sử do nhà xuất bản giáo dục phát hành đảm bảo tính chính xác và khoa học. Sau đó giáo viên lưu file, sắp xếp theo bài học, khối học cho phù hợp để phục vụ nội dung giảng dạy.
Việc sử dụng đoạn phim tài liệu khoa học trong dạy học lịch sử không chỉ làm phong phú thêm bài giảng, hạn chế tình trạng “thầy đọc - trò chép” mà còn giúp học sinh có cảm giác đang sống cùng và tham gia vào các sự kiện, hiện tượng lịch sử đó. Qua đó, hình thành ở các em lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc, sự biết ơn đối với những người có công với đất nước, lòng căm thù sâu sắc đối với quân xâm lược…
2.1.3. Sử dụng phương pháp đóng vai nhân vật lịch sử ở địa phương
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định hay một nhân vật nào đó. Đây là phương pháp nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được, giúp các em hiểu rõ thêm về nhân vật mà các em sắm vai.
Phương pháp đóng vai có thể góp phần tạo ra những thay đổi tích cực trong cách dạy của giáo viên và cách học của học sinh. Phương pháp này đã thể hiện được những ưu điểm nổi bật trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, gắn lí thuyết với thực tế, nâng cao khả năng thực hành cho người học và đáp ứng được các mục tiêu giáo dục mà Unessco đã đề ra, đó là “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”, phương pháp đóng vai cũng đáp ứng được tinh thần chỉ đạo mà nghị quyết Trung ương II (khóa VIII) đã chỉ rõ “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thói quen nền nếp tư duy sáng tạo cho người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và hiện đại vào quá trình dạy học”.
a. Một số yêu cầu khi vận dụng phương pháp đóng vai trong dạy học Lịch
sử ở trường phổ thông
* Đảm bảo mục tiêu giáo dục:
- Về kiến thức: phương pháp đóng vai hay bất kì một phương pháp dạy học nào phải đảm bảo yêu cầu cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ
16
thông, cơ bản và hiện đại, sát với thực tế đất nước trên cơ sở đó sẽ là nền tảng để học sinh đi sâu tự nghiên cứu, tự khám phá ở bậc học cao hơn, phù hợp với năng lực và sở thích của từng cá nhân.
- Về kĩ năng: Mỗi phương pháp dạy học phải đảm bảo rèn cho HS các kĩ năng tư duy như so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, đánh giá, khái quát hóa, trừu tượng hóa và các thao tác tư duy gồm tính quyết đoán, độc lập, mềm dẻo... phương pháp đóng vai là một phương pháp dạy học tích cực, càng có điều kiện giúp học sinh phát triển trí tuệ, phát huy các kĩ năng và thao tác tư duy thông qua hoạt động nhóm, hoạt động “đóng vai”, ứng xử tình huống... Việc hình thành và phát triển cho học sinh những kĩ năng và thao tác tư duy có vai trò rất quan trọng vì đây chính là phương tiện giúp học sinh tự mình khám phá tri thức khi rời nhà trường.
Bên cạnh yêu cầu cung cấp kiến thức, phát triển trí tuệ thì phương pháp đóng vai phải đảm bảo yêu cầu giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho người học. Đặc biệt lịch sử là môn học có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh, đó là tình yêu quê hương, đất nước; tự hào, biết ơn về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo về đất nước của cha ông; trân trọng những giá trị văn hóa của đất nước... trên cơ sở đó có ý thức, trách nhiệm xây dựng, bảo vệ, gìn giữ những giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần của tổ tiên để lại.
* Đảm bảo tính kế thừa và phát triển: Kế thừa những nội dung bài giảng đã học của học sinh, lấy những nội dung kiến thức mà các em đã được học làm nền tảng, làm cơ sở để tổ chức hoạt động.
* Đảm bảo tính khả thi:
- Khả thi về “kịch bản”: Kịch bản phải được xây dựng căn cứ vào mục tiêu, nội dung của bài học nhằm đảm bảo tính đúng lúc, đúng chỗ của việc sử dụng phương pháp dạy học; kịch bản phải có kịch tính để gây hứng thú, gây sự chú ý và mang tính thuyết phục cao về tư tưởng và hành vi; kịch bản phải có tính tích cực, mang lại hiệu quả giáo dục cao; kịch bản phải tôn trọng sự thật lịch sử. Đồng thời, giáo viên không thể bỏ qua khâu duyệt kịch bản trước khi để học sinh “diễn” trước lớp.
- Khả thi về thời gian: Thời gian luôn là một yếu tố gây trở ngại với giáo viên khi vận dụng phương pháp đóng vai, đặc biệt là vận dụng phương pháp đóng vai trong giờ nội khóa. Do vậy, việc lựa chọn nội dung phù hợp để vận dụng phương pháp đóng vai là vô cùng quan trọng; khả thi về điều kiện vật chất, phương tiện hỗ trợ dạy học: phương pháp sẽ phát huy tối đa hiệu quả của nó nếu có sự chuẩn bị tốt về cơ sở vật chất, trang thiết bị hỗ trợ dạy học. Đặc biệt với các chương trình ngoại khóa ngoài phạm vi lớp học cần thiết phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, đầu tư chu đáo.
17
* Đảm bảo khai thác kiến thức cơ bản, trọng tâm.
Kiến thức cơ bản, trọng tâm là những kiến thức đã được chọn lọc từ khối lượng tri thức đồ sộ của khoa học bộ môn và đưa vào chương trình, sách giáo khoa. Chương trình là pháp lệnh phải tuân theo.
* Đảm bảo phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh.
Hoạt động đóng vai phải phát huy được tính tập thể, tinh thần đoàn kết, khả năng hợp tác và làm việc theo nhóm của học sinh. Nhất là đóng vai trong bài học nội khóa và hoạt động ngoại khóa, học sinh thường phải làm việc theo nhóm, đòi hỏi sự tự giác và tích cực của tất cả các thành viên. Bên cạnh đó mỗi học sinh cần phát huy tinh thần độc lập của bản thân, chủ động tham gia vào hoạt động chung của nhóm, của cả lớp.
* Nguyên tắc tự nguyện của học sinh:
Nguyên tắc tự nguyện chính là sự tôn trọng của giáo viên đối với học sinh, chỉ có tôn trọng học sinh mới có thể đối thoại được với các em. Bất kỳ một phương pháp dạy học nào cũng cần tuân thủ nguyên tắc này, đặc biệt là phương pháp đóng vai. Phương pháp đóng vai có những đặc thù riêng khác với phương pháp dạy học truyền thống, đòi hỏi sự tự nguyện rất cao từ phía người học.
b. Các phương án đóng vai.
Thông thường chúng tôi sử dụng hai phương án đóng vai trong dạy học
lịch sử là: Đóng vai nhân vật và đóng vai tình huống.
Đóng vai nhân vật là người học được cung cấp thông tin về nhân vật sẽ đóng, các em có thể tìm hiểu về nhân vật thông qua sách, báo, tạp chí, sách lịch sử, hay phim ảnh. Đặc biệt với các danh nhân, danh tướng thì học sinh càng dễ dàng tìm nguồn tham khảo hơn, nhất là qua phim ảnh vì những nhân vật này thường được dựng thành phim. Bên cạnh đó còn một nguồn tham khảo rất giá trị đó là các tượng đài. Mỗi vai diễn sẽ có một đặc thù tính cách riêng và khó khăn nhất là khi thể hiện cái “thần” của nhân vật lịch sử bởi đó là những con người đã sống cách đây hàng trăm, hàng ngàn năm nên cách đi đứng, ăn nói cũng khác biệt rất nhiều so với thời đại mà học sinh đang sống.
Ví dụ, khi đóng vai nhân vật Quang Trung, học sinh tham khảo từ bộ tiểu thuyết lịch sử Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, có viết: “Nguyễn Huệ có một con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu… là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra bắc vào nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết…vẻ mặt rực rỡ, nghiêm nghị”. Cái khó của học sinh khi đóng vai là thể hiện được vẻ mặt “rực rỡ”, tức ánh hào quang rạng rỡ của người chiến thắng và vẻ mặt “nghiêm nghị”, tức cái uy vũ của vua Quang Trung khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ. Vì vậy để có được ngoại hình và thần thái giống như nhân vật lịch sử đòi hỏi học sinh phải tìm hiểu rất kĩ và thực sự say mê với vai diễn
18
của mình. Chính trong quá trình nhập vai đã không ít học sinh bộc lộ được tài năng diễn xuất và cũng từ đó các em có định hướng nghề nghiệp cho bản thân.
Nếu như trong đóng vai thể hiện hình tượng nhân vật, học sinh đã được giáo viên cung cấp thông tin về nhân vật hoặc có thể tìm hiểu về nhân vật từ nhiều nguồn tham khảo khác nhau thì đóng vai tình huống người học phải tự hình dung về nhân vật sẽ đóng thông qua các dữ liệu của tình. Còn đóng vai tình huống học sinh không bị đi vào lối mòn, không phải gò vai diễn theo bất kì một khuôn mẫu nào mà ngược lại các em được thỏa sức để trí tưởng tượng của mình bay bổng và sáng tạo.
Ví dụ: Em hãy tưởng tượng mình là một người dân tham gia cuộc biểu tình của nông dân huyện Hưng Nguyên ngày 12/9/1930 kể lại diễn biến của cuộc biểu tình để các bạn thấy được không khí sục sôi cách mạng cao trào cách mạng 1930 - 1931.
Muốn thể hiện tốt vai diễn đòi hỏi học sinh phải có kiến thức của bài học, phải tự mình tưởng tượng, sáng tạo để làm cho nhân vật của mình thực sự sinh động. Thông qua vai diễn tự tưởng tượng học sinh thể hiện được nhận thức, thái độ của mình trong các tình huống cụ thể và học sinh phải có cách ứng xử sao cho phù hợp với tình huống đó. Đồng thời học sinh được bộc lộ khả năng tự nhận thức, khả năng giao tiếp, tự giải quyết vấn đề, được rèn luyện khả năng thực hành và qua đó cũng thúc đẩy sự thay đổi nhận thức, hành vi thái độ của học sinh theo hướng tích cực.
c. Quy trình vận dụng
Bước 1. Giáo viên căn cứ vào nội dung, mục tiêu cụ thể của bài học, nêu
ra tình huống đóng vai.
Bước 2. Giáo viên chia nhóm và giao tình huống cụ thể (có thể học sinh tự chọn tình huống), quy định rõ thời gian chuẩn bị “kịch bản” và thời gian thể hiện vai diễn theo kịch bản của các nhóm.
Bước 3. Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản”, phân công vai diễn,
tập dượt diễn xuất trong nhóm.
Bước 4. Các nhóm thông qua “kịch bản” với giáo viên.
Bước 5. Các nhóm được phân công lên đóng vai theo “kịch bản” đã xây
dựng.
Bước 6. Nhận xét, đánh giá.
+ Đại diện nhóm tự nhận xét, đánh giá.
+ Các nhóm còn lại nhận xét, bổ sung, đặt câu hỏi, phản biện, tranh luận...
+ GV tổng kết, đánh giá. Giáo viên có thể phỏng vấn học sinh đóng vai
một số câu hỏi như:
19
Vì sao em lại ứng xử như vậy?
Cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử? Khi nhận được cách
ứng xử (đúng hoặc sai)
Lớp thảo luận, nhận xét:
Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp?
Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao?
Từ đó, giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống.
Bước 7. Kết luận và rút ra bài học nhận thức, kỹ năng.
Bước 8. Giáo viên cho điểm các nhóm (giáo viên cũng có thể cho học
sinh đánh giá chéo giữa các nhóm).
Phương pháp đóng vai có nhiều ưu điểm: như gây hứng thú, tạo không khí học tập sôi nổi và tranh luận; giúp học sinh thể hiện mình trước đám đông; tích cực chủ động hơn trong quá trình lĩnh hội tri thức và liên hệ với thực tế; để lại ấn tượng sâu hơn với bài học; phát huy khả năng sáng tạo và diễn xuất; hầu hết học sinh đều tỏ ra rất thích khi được đóng vai trong khi học môn lịch sử. Có thể nói, việc học sinh rất hứng thú với đóng vai là một thuận lợi rất lớn với giáo viên khi vận dụng phương pháp này trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hiện nay vì học sinh sẽ hưởng ứng và tích cực tham gia hợp tác với giáo viên và hợp tác các bạn trong nhóm, trong lớp. Khi học sinh tham gia đóng vai nhân vật lịch sử của địa phương chắc chắn các em sẽ có ấn tượng mạnh về nhân vật đó, nảy sinh tình cảm, sự khâm phục biết ơn đối với nhân vật lịch sử đã có công lao đối với Tổ quốc, điều này sẽ góp phần không nhỏ vào việc hình thành tình cảm yêu quê hương đất nước.
2.2. Sử dụng thơ, tư liệu, câu chuyện lịch sử địa phương để làm phong phú bài học đồng thời giáo dục tình yêu quê hương cho học sinh
Việc đưa những chất liệu thơ, tư liệu, câu chuyện lịch sử địa phương vào bài giảng lịch sử dân tộc sẽ là phương tiện làm phong phú sự hiểu biết của học sinh về quê hương, tự hào với những truyền thống tốt đẹp của quê hương: anh hùng, bất khuất trong đấu tranh; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, đoàn kết, tương thân tương ái... Từ đó giáo dục cho các em lòng yêu quê hương. Điều này có vai trò không nhỏ trong giáo dục tư tưởng - chính trị, đạo đức cho học sinh, góp phần hình thành lòng yêu nước chân chính kết hợp với tinh thần quốc tế vô sản cho thế hệ trẻ.
Tài liệu lịch sử địa phương được sử dụng trong dạy học lịch sử dân tộc trên lớp đòi hỏi giáo viên phải nắm được các giai đoạn phát triển nhiều mặt của lịch sử địa phương tương ứng với các giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc, tức là có sự phù hợp giữa tài liệu lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc. Phải tôn trọng sự thực lịch sử và việc nhận thức đúng lịch sử trong quá khứ để rút ra bài
20
học bổ ích cho hiện tại, phục vụ cho công cuộc đấu tranh cách mạng và lao động sáng tạo xây dựng đất nước ở địa phương. Có như vậy, tài liệu lịch sử đại phương mới trở thành nguồn nhận thức sinh động, hấp dẫn, tạo hứng thú học tập cho các em.
Việc lồng thơ, tư liệu, câu chuyện lịch sử địa phương vào bài học lịch sử dân tộc phù hợp không chỉ cung cấp, mở rộng kiến thức cho học sinh, giúp các em hình dung về các sự kiện, hiện tượng lịch sử một cách dễ dàng hơn, để bài học lịch sử dân tộc được sâu sắc hơn đối với các em, mà những tài liệu này còn gây ấn tượng mạnh mẽ cho học sinh, các em càng thêm tự hào về quê hương mình đã hết lòng, hết sức vì cách mạng, vì thắng lợi chung của cả dân tộc. Đồng thời các em cũng hiểu sâu sắc hơn về quê hương trong một thời kỳ lịch sử nhất định, hiểu được nhân dân Nghệ An đã góp phần vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam như thế nào. Từ đó, bồi dưỡng niềm tự hào về quê hương; bồi dưỡng lòng yêu quê hương, đất nước, ý chí đấu tranh, tinh thần đoàn kết dân tộc, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng nói chung và của quân dân tỉnh Nghệ An nói riêng, giúp các em suy nghĩ về vị trí, ý thức trách nhiệm của mình đối với quê hương hôm nay.
Khi dạy bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X - XV, phần 1 (II) Giáo dục, giáo viên cần liên hệ với giáo dục Nghệ An. Ngoài việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu các thành tích nổi bật của học trò Nghệ An, giáo viên có thể đưa hình ảnh “Con cá gỗ” và đọc bài thơ “Sự tích cá gỗ” [xem Phụ lục] để học sinh thấy được những học trò xứ Nghệ từ một vùng quê "nghèo rớt mồng tơi", đã phải "gồng mình đi lên như thế nào" để "vượt khó, vượt khổ". Trong cái "gian lao" ấy, tâm hồn và ý thức của họ thật lớn, trong cái sự "nghèo túng" ấy, người Xứ Nghệ đã biết "ước mơ", biết "khao khát" từ những việc tưởng như rất nhỏ hàng ngày, ẩn chìm và hiển hiện trong mỗi bữa cơm ăn, trong nỗi lo thường nhật, nhưng là khát vọng để vươn tới, để cố gắng, hình ảnh "cá gỗ" hay “dân cá gỗ” mãi là niềm tự hào, là biểu hiện sinh động cho tinh thần ham học của học trò xứ Nghệ. Qua đó, học sinh sẽ hiểu hơn về truyền thống “đất học” của quê hương mình và nuôi dưỡng trong tâm hồn học sinh ý thức về việc học tập, phấn đấu trở thành người có ích cho quê hương đất nước.
Khi dạy bài 14: “Phong trào cách mạng 1930 - 1935”, trong mục II - “Phong trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ Tĩnh”, 1 - “Phong trào cách mạng 1930 - 1931”, khi nói đến cuộc đấu tranh 1/5/1930, để giúp học sinh hiểu rõ được ý chí đấu tranh quật cường, tinh thần đoàn kết, yêu nước của nhân dân tỉnh nhà, giáo viên có thể sử dụng đoạn tư liệu sau đây:
“Sáng ngày mồng 1 tháng 5, tại thành phố Vinh - Bến Thủy và các huyện
Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Thanh Chương đã nổ ra biểu tình lớn.
Tại thành phố Vinh - Bến Thủy, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của xứ ủy Trung kỳ, Đảng bộ Vinh vận động 1.200 nông dân các làng ngoại ô như Lộc Đa, Đức Thịnh, Yên Dũng (Hưng Nguyên), An Hậu, Đức Hậu (Nghi Lộc) kéo vào thành
21
phố phối hợp với công nhân các nhà máy biểu tình, đưa yêu sách đến tên Công sứ và Tổng đốc Nghệ An. Khi nhận được tin về cuộc biểu tình, tên Công sứ Pháp ở Nghệ An huy động lính đến canh gác, bảo vệ các nhà máy và sai viên tri phủ Hưng Nguyên đưa lính đến ngăn cản đoàn biểu tình của nông dân đang trên đường hàng tỉnh Cửa Hội - Vinh kéo vào thành phố. Theo lệnh của tên công sứ Nghệ An, bọn giám binh, chánh mật thám, chánh cảnh sát thành phố huy động 10 chiếc ô tô chở đầy lính khố xanh, cảnh sát đến đàn áp quần chúng biểu tình. Gạt lưỡi lê, báng súng của kẻ thù, đoàn biểu tình của công nhân, nông dân vẫn xiết chặt hàng ngũ, vừa tiến bước, vừa hát vang bài ca quốc tế:
“Hỡi ai nô lệ trên đời,
Hỡi ai cực khổ đồng thời đứng lên,
Bất bình này chịu sao yên,
Phá cho tan nát một phen cho rồi”
Khí thế hiên ngang của đoàn biểu tình đã lôi cuốn thêm nhiều bà con nông dân các huyện Nghi Xuân, Can Lộc đang trên đường đi chợ Vinh cùng tham gia đấu tranh. Không ngăn cản được bước tiến của đoàn biểu tình, đế quốc Pháp xua lính xuống ngã ba Bến Thủy lập thành hàng rào chặn ngang trước cổng các nhà máy. Đoàn biểu tình mỗi lúc một đông thêm. Từ trong nhà máy công nhân ùa ra, ở ngoài nhà máy đoàn biểu tình ào ạt sát vào hàng rào lính. Tên giám binh Pháp luống cuống hô lính bắn. Hàng loạt súng nổ lên trời. Tên giám binh dùng báng súng đánh lính. Đồng chí Nguyễn Đôn Nhoãn, một đảng viên cộng sản, xông lên tát vào mặt tên giám binh và cướp súng của hắn đập xuống nền đường làm khẩu súng gãy đôi. Bọn chánh cảnh sát, chánh mật thám và chủ nhà máy diêm bắn xả vào đoàn biểu tình làm 6 người chết, 10 người bị thương. Đồng chí Nguyễn Đôn Nhoãn anh dũng hi sinh. Đoàn biểu tình tiếp tục xông lên xung đột với kẻ thù. Gần một trăm người đã bị chúng bắt đưa về giam ở nhà lao Vinh. Mặc dù bị địch khủng bố, nhưng các cán bộ, đảng viên vẫn ở lại cùng nhân dân lượm xác những người đã hi sinh đưa về mai táng và dìu dắt những người bị thương về nhà cứu chữa”.
Qua những đoạn tư liệu cụ thể, sinh động như thế sẽ tạo được cảm xúc thực cho học sinh, làm cho các em không chỉ hiểu rõ hơn truyền thống bất khuất của quê hương mà còn giáo dục cho các em lòng căm thù sâu sắc bọn xâm lược Pháp và tay sai. Cũng qua đó học sinh sẽ nhận thấy rằng, những thành quả cách mạng có được ngày hôm nay không hề dễ dàng, mà phải đánh đổi bằng xương máu của biết bao nhiêu người. Đồng thời giáo dục cho các em lòng khâm phục, kính yêu và biết ơn các chiến sỹ cộng sản, những người con kiên trung của Đảng đi đầu trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Khi dạy bài 16 “Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 - 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời”, trong mục III - “Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền”, 1 - “Khởi nghĩa từng phần (từ tháng
22
3 đến giữa tháng 8 - 1945)”, giáo viên có thể sử dụng một đoạn tư liệu để tạo biểu tượng về nạn đói khủng khiếp ngay trên quê hương để học sinh thấy được nỗi khổ cực của nhân dân tỉnh nhà trong nạn đói chung của cả nước như thế nào. “Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ ba tháng đầu năm 1945, hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã có 10 vạn người chết đói. Hàng vạn gia đình tan nát, hàng ngàn thôn xóm tiêu điều. Làng Đô Uyên ở Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh có 845 người thì 378 người bị chết đói. Ở Nghệ An có tới 2.250 gia đình bị chết đói cả nhà. Nhiều gia đình chỉ còn một vài người sống sót. Người đi xin ăn đầy đường, chật chợ. Người chết đói la liệt khắp nơi. Hàng ngày, bọn cầm quyền ở Vinh phải thuê xe bò đi nhặt xác người chết đói trên các lề đường, vỉa hè, đình chợ rồi đem đổ vào những cái hố chôn chung ở ngoài thành phố”.
Việc sử dụng các câu chuyện về lịch sử địa phương để kể cho học sinh nghe được xem là một trong những phương pháp có ưu thế để giáo dục truyền thống, đặc biệt là truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh. Thông qua những câu chuyện lịch sử có thật về con người, sự kiện, hiện tượng lịch sử… đã diễn ra trên quê hương mình không chỉ cung cấp kiến thức mới, sinh động mà còn tạo bầu không khí tò mò, hồi hộp nhưng vẫn hào hứng, thoải mái, tự hào… học sinh sẽ giảm bớt áp lực trong việc ghi nhớ kiến thức, khiến giờ học lịch sử địa phương trở nên thú vị và hấp dẫn hơn. Những câu chuyện hay tình tiết hấp dẫn sẽ có tác dụng rất lớn đối với việc giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
Đi cùng với các sự kiện lịch sử thường gắn với một nhân vật lịch sử cụ thể. Những nhân vật này có vai trò rất lớn với lịch sử dân tộc, do vậy trong dạy học giáo viên không thể lướt qua, bỏ qua mà phải khắc hoạ, tạo biểu tượng về các nhân vật đó. Sử dụng phương pháp kể chuyện có tác dụng tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử một cách sinh động, đậm nét từ đó giáo dục học sinh kính trọng, noi gương các anh hùng dân tộc.
Giáo viên có thể kể chuyện kết hợp với tranh ảnh để tạo biểu tượng. Trong bài nội khoá do thời gian có hạn giáo viên tạo biểu tượng về những nét chính, tiêu biểu đủ để khắc hoạ nên nhân vật đó.
Ngoài ra, giáo viên có thể sử dụng các giai thoại lịch sử để giải thích từ đó rút ra bản chất một sự kiện, một hiện tượng lịch sử. Để cho học sinh nắm được bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử tức là trả lời được câu hỏi vì sao thì giáo viên sử dụng các mẩu chuyện, các giai thoại lịch sử rồi từ đó nêu tình huống có vấn đề.
Trong quá trình vận dụng đòi hỏi giáo viên phải có sự sáng tạo, linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện cụ thể của từng lớp học, tiết học... Giáo viên cũng có thể sử dụng các câu chuyện lịch sử, các giai thoại lịch sử trong bài ngoại khoá.
Để sử dụng các câu chuyện, các giai thoại lịch sử trong dạy học lịch sử
23
một cách hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên phải tuân thủ một một số nguyên tắc sau:
- Đảm bảo tính cơ bản, khoa học; xác định đúng những câu chuyện có
liên quan đến các sự kiện mà bài học cần đáp ứng; đảm bảo tính vừa sức.
- Nội dung câu chuyện đưa vào dạy học phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi, hoàn cảnh và trình độ nhận thức của học sinh. Ngôn ngữ phải trong sáng, dễ hiểu, biểu cảm... Đồng thời, phát huy tính tích cực của học sinh.
- Giáo viên cần phải lựa chọn các câu chuyện lịch sử cho phù hợp với những kiến thức sự kiện lịch sử cơ bản, phục vụ cho bài học để từ đó học sinh hiểu sâu sắc bài học, kích thích sự ham học, khơi dậy nội lực của mình.
- Giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyện không đơn thuần là để minh hoạ mà còn để cụ thể hoá kiến thức, tái hiện nội dung kiến thức để tạo biểu tượng lịch sử, rút ra bài học lịch sử.
Có nhiều cách kể chuyện: kể lại tóm tắt nội dung một cuốn sách hay một câu chuyện được ghi chép thành tài liệu của chính người tham gia sự kiện thuật lại. Những câu chuyện mang ý nghĩa giáo dục cao thường là những câu chuyện về người anh hùng hay các chiến sĩ trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Họ có thể là những chiến sĩ có tên tuổi song cũng có thể là quần chúng đã không tiếc xương máu bảo vệ thành quả cha ông. Bằng phương pháp nêu gương này, chúng ta sẽ để lại cho học sinh những ấn tượng sâu sắc.
Khi dạy bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược, nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 - 1973), trong mục 2 (phần II) Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương. Giáo viên cần dành thời gian để giới thiệu về tuyến đường 15A và những chiến sĩ thanh niên xung phong ở Truông Bồn.
Sau “Chiến lược chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ đã mở rộng “Chiến lược chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và leo thang đánh phá miền Bắc. Mục tiêu chiến lược của chúng là nhằm cắt đứt sự chi viện của ta từ hậu phương miền Bắc đối với chiến trường miền Nam, phá hoại công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá. Sau khi đánh phong tỏa các tuyến đường sắt, đường sông, đường biển và quốc lộ 1A đi qua địa bàn Nghệ An, chúng đã huy động một lực lượng không quân khổng lồ, ồ ạt trút bom đạn xuống tuyến đường chiến lược 15A. Trọng điểm là chúng tập trung đánh phá Truông Bồn. Bởi vậy, trong thời điểm này có ngày cao điểm máy bay Mỹ đánh phá lên tới 131 lần, Truông Bồn suốt ngày đêm không ngớt tiếng bom đạn.
Nhưng, bom đạn giặc Mỹ không thể khuất phục được ý chí và quyết tâm sắt đá của quân và dân ta: “Sống bám cầu, bám đường - chết kiên cường dũng cảm”, “Tim có thể ngừng đập - nhưng đường không thể tắc”; “Tất cả cho tiền tuyến - Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, tinh thần lạc quan của các chiến sĩ thanh niên xung phong là động lực mạnh mẽ thôi thúc các lực lượng của
24
quân và dân ta làm nên chiến thắng Truông Bồn, làm nên một Truông Bồn Huyền thoại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc ta. Tiêu biểu là những chiến công và sự hy sinh oanh liệt ngày 31 tháng 10 năm 1968 của 13 chiến sĩ thanh niên xung phong “Tiểu đội thép”, “Tiểu đội cảm tử”, “Tiểu đội cọc tiêu sống” Anh hùng thuộc Đại đội Thanh niên xung phong 317, Đội 65, Tổng đội Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước, tỉnh Nghệ An.
Sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ thanh niên xung phong ở Truông Bồn đã trở thành bài ca vẫn vang vọng, là khúc tráng ca bất tử của tuổi trẻ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Máu, mồ hôi và nước mắt hòa quyện nơi đất thiêng Truông Bồn, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.
Cùng với việc giới thiệu, giáo viên có thể chọn lọc một vài câu chuyện trong cuốn “Đường tới Truông Bồn huyền thoại” của tác giả Văn Hiền, Nhà xuất bản Nghệ An kể cho học sinh để các em hiểu thêm những hy sinh mất mát của các chiến sĩ, từ đó các em hiểu được cái giá của độc lập tự do, xây dựng cho các em niềm tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất của quê hương. Chính niềm tự hào đó làm cho các em thêm gắn bó với quê hương, có ý thức giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp vốn có của quê hương, đất nước.
2.3. Giáo dục lòng yêu quê hương thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp
Giáo dục ngoài giờ lên lớp là một trong những hoạt động giáo dục cơ bản được thực hiện một cách có mục đích có tổ chức, có kế hoạch nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả quá trình phát triển nhân cách học sinh đáp ứng yêu cầu đa dạng hóa đời sống của xã hội. Thực chất đây là hoạt động do nhà trường tổ chức giáo dục ngoài giờ dạy học trên lớp; quá trình này được tổ chức xen kẽ đồng thời hay tiếp nối chương trình kế hoạch dạy học trong phạm vi nhà trường hoặc đời sống xã hội do nhà trường chỉ đạo diễn ra trong suốt năm học và cả thời gian nghỉ hè để “khép kín” quá trình dạy học. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một bộ phận cấu thành trong toàn bộ hoạt động giáo dục.
Các hình thức ngoại khóa có thể được tiến hành trong dạy học lịch sử địa phương nhằm giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh như sau:
2.3.1. Đọc sách lịch sử Nghệ An
Xã hội ngày càng phát triển, sự xuất hiện của mạng xã hội, công nghệ thông tin làm cho con người ngày càng thay đổi. Tuy nhiên tầm quan trọng của sách vẫn không hề giảm sút và đem lại nhiều giá trị cho con người. Mỗi quyển sách chứa đựng một nội dung, đề cập đến những giá trị nhân văn khác nhau và trở thành tiền đề gắn kết con người với kiến thức của nhân loại.
Từ nhiều đời nay, ông cha ta đã lưu giữ lại những kiến thức qua sách vở và để lại đời sau cho con cháu. Sách chứa đựng những thông tin, giá trị vật chất và tinh thần của nhân loại, chứa đựng những tình cảm vào trong những vấn đề
25
của cuộc sống. Mỗi cuốn sách lại là những chủ đề, lĩnh vực khác nhau nhưng đều với mục đích hướng tới cho bạn đọc những tri thức mới, giá trị nhân loại.
Sách chứa đựng nguồn kiến thức khổng lồ và giúp con người giao lưu với thế giới bên ngoài, tiếp cận với nền văn minh của nhân loại, nhờ có sách mà xã hội mới có thể phát triển được. Cho dù xã hội có phát triển tới đâu thì những giá trị to lớn mà sách đem lại cho con người vẫn không thể nào xóa bỏ được.
Việc gìn giữ những giá trị lịch sử cho đời sau và là nguồn tri thức quý giá thì chỉ có sách mới có thể đem lại cho con người được. Tầm quan trọng của sách đối với con người thì không phải ai cũng thấu hiểu được nhưng việc gìn giữ những giá trị ấy là điều cần thiết phải làm.
Đọc sách là một hình thức học sinh ngoại khóa khá phổ biến, có hiệu quả trong việc cung cấp kiến thức cho học sinh trong giờ nội khóa không chỉ thế nó còn góp phần rèn luyện cho học sinh về mặt tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, kỹ năng, thói quen hứng thú học tập bộ môn. Đây là hình thức đơn giản, dễ làm song lại có hiệu quả cao về mặt giáo dục, giáo dưỡng và phát triển học sinh. Tuy nhiên, thực tế hiện nay học sinh ít có hứng thú đọc sách lịch sử đặc biệt là những tư liệu về lịch sử địa phương mà các em dễ bị lôi cuốn, thu hút bởi tiểu thuyết trinh thám, võ hiệp hay tình cảm. Hoặc nếu có các em cũng thường thích đọc tiểu thuyết võ hiệp lịch sử hơn tài liệu lịch sử, tài liệu gốc… Vì vậy, muốn cho việc đọc sách của học sinh đạt hiệu quả cao giáo viên cần lưu ý:
* Thứ nhất, giáo viên giúp học sinh lập danh mục cần đọc cho mỗi khóa trình trong năm học. Trong danh mục nên có phần “tối đa” và phần “tối thiểu”, tức là những loại sách cần thiết phải đọc và loại sách đọc thêm nếu có thời gian.
* Thứ hai, giới thiệu về cuốn sách:
Về lịch sử Nghệ An, giáo viên có thể giới thiệu cho học sinh tìm đọc bộ sách như “Lịch sử Nghệ An”, Tập 1 Lịch sử Nghệ An từ nguyên thủy đến Cách mạng Tháng Tám 1945; Tập 2: Lịch sử Nghệ An từ năm 1945 đến năm 2005, do PGS.TS Trần Văn Thức chủ biên, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản. Nội dung cuốn sách có đề cập đến các giai đoạn phát triển của lịch sử Nghệ An từ nguyên thủy cho đến nay. Đọc cuốn sách các em có thể có cái nhìn tổng quát, toàn diện về tỉnh mình trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và con người nơi đây.
Ngoài ra, các em có thể tìm hiểu các cuốn sách: “Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh”, Nguyễn Đổng Chi (chủ biên) Nhà xuất bản Nghệ An, 1995; “Khoa bảng Nghệ An”, Đào Tam Tỉnh, Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An; “Nghệ An đất phát nhân tài”, tác giả: PGS. Ninh Viết Giao, Nhà xuất bản Nghệ An; “Văn hóa làng Nghệ An”, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Nghệ An, Nhà xuất bản Nghệ An; “Nghệ An suối nguồn văn hóa dân gian”, (Những công trình khoa học của hội viên) Nhà xuất bản Nghệ An… nội dung của các cuốn sách này có đề cập một cách tổng quan về các công trình, các di tích lịch
26
sử, phong tục tập quan, lễ hội ở Nghệ An, sẽ giúp các em hiểu thêm về tình hình giáo dục và các bậc nho sĩ Nghệ An thời phong kiến; hiểu thêm giá trị văn hóa, lịch sử, địa lý, con người và phong tục tập quán của Nghệ An trong suốt chiều dài lịch sử, tất cả những trang sách đó như cẩm nang gợi mở cho những ai muốn tìm hiểu về lịch sử địa phương mình.
Để có cái nhìn sâu sắc và cụ thể hơn về các địa danh, về các nhân vật lịch sử ở địa phương mình, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tìm đọc cuốn sách như: “Vinh xưa” của Phạm Xuân Cần; “Diễn Châu 1380 năm, Lịch sử - Văn hóa - Nhân vật”, (Ninh Viết Giao) Nhà xuất bản Nghệ An; “Lịch sử xã Diễn Kỷ - Diễn Châu “(sơ thảo), Đảng ủy - Ủy ban nhân dân xã Diễn Kỷ (1998), Nhà xuất bản Nghệ An, “Lịch sử huyện Yên Thành” tập 1, Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện Yên Thành (1990), Nhà xuất bản Nghệ Tĩnh. “Nghệ An - Những tấm gương Cộng sản”, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng - Tỉnh ủy Nghệ An, Nhà xuất bản Nghệ An; “Đồng chí Lê Hồng Phong với cách mạng Việt Nam và quê hương Nghệ An”, Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Nghệ An, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia; “Trương Vân Lĩnh, Lê Hồng Sơn - cuộc đời và sự nghiệp” (kỷ yếu tọa đàm khoa học) Sở Văn hóa Thông tin Nghệ An, Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh, Nhà xuất bản Nghệ An; “Đồng chí Phan Đăng Lưu”, Ngô Nhật Sơn, Nhà xuất bản Nghệ Tĩnh.
Sau khi giới thiệu sách, muốn khơi dậy tính tích cực, hứng thú, sự hiếu kỳ và lòng ham hiểu biết cái mới của học sinh, giáo viên có thể tóm tắt sơ lược nội dung cuốn sách. Để việc giới thiệu có hiệu quả nên dẫn một vài chi tiết, những đoạn nhỏ hấp dẫn để khơi dậy hứng thú tìm đọc tiếp của các em.
* Thứ ba, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách ghi chép theo mẫu sau:
- Tên sách
- Tác giả
- Thời gian đọc
- Nội dung chủ yếu của sách theo từng phần, từng chương, ghi chép
những câu thích thú.
- Những vấn đề rút ra sau khi đọc sách (những vấn đề liên quan đến bài học, vấn đề thích nhất, những thắc mắc cần giải quyết, ý định sử dụng những kiến thức đã thu được sau khi đọc sách).
Tất cả những vấn đề trên có thể ghi vào “hồ sơ học tập” của mình để có
thể mang ra trao đổi với giáo viên và các bạn trong giờ học lịch sử địa phương.
* Thứ tư, giáo viên nêu ra hình thức đọc sách đưa lại hiệu quả tốt là: Cá nhân tự đọc hoặc đọc chung ở lớp, ở tổ. Các hình thức này đều phải tiến hành với mỗi học sinh, tùy theo kế hoạch, điều kiện để tổ chức.
Việc tìm hiểu và đọc sách về lịch sử địa phương sẽ giúp các em mở rộng
27
tầm hiểu biết, đồng thời tăng thêm niềm say mê, hứng thú trong học tập lịch sử địa phương của các em. Việc đọc sách khoa học sẽ tạo thành một thói quen học tập tốt, việc làm đó không những để mỗi giờ học lịch sử ngày càng thú vị, hấp dẫn và đạt hiệu quả hơn, mà còn giúp các em hiểu rõ hơn về truyền thống của địa phương từ đó mang tới ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển rất quan trọng góp phần hình thành tình yêu quê hương đất nước.
2.3.2. Tổ chức cho học sinh tham quan học tập tại các di tích lịch sử của địa phương
Tham quan có một vị trí rất quan trọng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, đặc biệt là trong giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh bởi “những di tích - chứng nhân xác nhận của quá khứ - gây xúc động mạnh mẽ, cụ thể hóa kiến thức lịch sử, nâng cao hứng thú với hiện vật”.
Tham quan là một hoạt động được tiến hành ngoài lớp nên rất phù hợp với sở thích của các em. Nó không chỉ là cơ hội để các em thỏa mãn trí tò mò, khám phá những điều mới lạ mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dưỡng, giáo dục và phát triển học sinh. Trước hết nó góp phần tạo những biểu tượng lịch sử cụ thể về các sự kiện lịch sử sống động có liên quan, giúp các em nhớ chính xác, hiểu đúng các sự kiện lịch sử đó. Tham quan còn nhằm kiểm tra, sửa chữa, làm chính xác, cụ thể hóa thêm những tri thức đã học của học sinh, nâng cao chất lượng học tập. Đồng thời, các kỹ năng như quan sát, tư duy, thực hành bộ môn được rèn luyện, phát huy nhiều hơn. Ngoài ra các em còn thể hiện rõ cảm xúc lịch sử khi tham quan các di tích lịch sử của quê hương. Đó là niềm vui sướng, những rung cảm, ấn tượng khó phai khi tận mắt chiêm ngưỡng những di sản văn hóa. Từ đó làm tăng thêm tình yêu, lòng tự hào, ý thức trách nhiệm của mình với quê hương, đất nước.
Thực tế cho thấy những hoạt động ngoại khóa này có tác dụng vô cùng lớn đối với việc giáo dục, đặc biệt là giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh. Qua thăm dò ý kiến của học sinh, chúng tôi thấy rằng các em rất hào hứng với các hoạt động này. Các em thích đến thăm các di tích lịch sử, nơi diễn ra những sự kiện quan trọng, thích đến thăm bảo tàng, xem các hiện vật lịch sử, thích các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử địa phương… vì tham gia hoạt động ngoại khóa, các em được tự do, thoài mái hơn, không bị gò bó lại phù hợp với tâm lý thích khám phá những điều mới lạ.
a. Quy trình thực hiện tham quan học tập các di tích lịch sử ở địa phương
Để buổi tham quan di tích lịch sử địa phương đạt hiệu quả cao, tránh xảy ra sự cố cần phải có kế hoạch phương pháp tiến hành tốt hay nói cách khác công việc chuẩn bị có ý nghĩa quan trọng:
- Vào đầu năm học, giáo viên lịch sử phải đề xuất với nhà trường kế hoạch tham quan di tích lịch sử, người giáo viên phải xác định mục đích, ý nghĩa, tìm hiểu đối tượng cần tham quan chứ không phải thích thì dẫn học sinh đi.
- Giáo viên liên hệ với Ban quản lý di tích, gặp gỡ trao đổi với cán bộ
28
hướng dẫn, phụ trách di tích, trình bày rõ mục đích nhu cầu buổi tham quan để có kế hoạch phối hợp, tạo điều kiện cho hoạt động đạt kết quả cao, trong đó phải ấn định thời gian bắt đầu và kết thúc, dự kiến công việc của từng học sinh.
- Trước buổi tham quan giáo viên phải tập trung, nhắc nhở học sinh về phạm vi tham quan; thời gian tham quan phù hợp, nếu kéo dài hơn hứng thú của học sinh sẽ giảm; hướng dẫn các em quan sát, thu thập tài liệu, thảo luận làm cơ sở cho bài thu hoạch sau buổi thăm quan. Trong bài thu hoạch, ngoài những kiến thức lịch sử các em thu được các em còn nêu lên cảm nhận, suy nghĩ, đánh giá, thậm chí là cả những ý kiến đóng góp về địa điểm tham quan. Bài thu hoạch có thể viết bài dưới dạng chuyên đề hoặc biên tập các đoạn clip tạo thành một bài phóng sự hoàn chỉnh. Giáo viên có thể thu lại và chấm để biết được đánh giá của các em và rút kinh nghiệm cho lần sau.
b. Các di tích lịch sử tiêu biểu ở Nghệ An
Hiện nay, Nghệ An có 1.395 di tích đã được kiểm kê, phân cấp quản lý, trong đó có 375 di tích, danh thắng được xếp hạng, gồm 3 di tích Quốc gia đặc biệt, 137 di tích Quốc gia và 235 di tích cấp tỉnh. Các di tích lịch sử ở Nghệ An được chia làm 3 loại: Di tích lịch sử văn hóa, di tích cách mạng và di tích lưu niệm danh nhân.
Di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu có đền Cuông, đền thờ Mai Thúc Loan, đền Bạch Mã, đền thờ Nguyễn Xí, núi Lam Thành, núi Dũng Quyết - Phượng Hoàng Trung Đô, thành Cổ Vinh… Di tích lịch sử Nghệ An phản ánh lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của người dân xứ Nghệ trong từng giai đoạn lịch sử của dân tộc, đồng thời qua hệ thống di tích này, chúng ta có thể hiểu và khẳng định vai trò, vị trí của Nghệ An trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Di tích cách mạng là di tích ghi dấu những cơ sở cách mạng, những phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Nghệ An dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiêu biểu cho loại hình di tích này ở Nghệ An là hệ thống di tích Xô Viết Nghệ Tĩnh; những di tích thời kỳ chống Mỹ cứu nước như Truông Bồn, cột mốc số 0 - đường Hồ Chí Minh…
Di tích lưu niệm danh nhân là những di tích về danh nhân đã có nhiều cống hiến xuất sắc cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong số hàng chục di tích lưu niệm danh nhân trên địa bàn tỉnh, tiêu biểu là Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Kim Liên, Nam Đàn; nhà cụ Phan Bội Châu ở Nam Đàn; nhà đồng chí Lê Hồng Phong ở Hưng Nguyên; nhà đồng chí Phan Đăng Lưu ở Yên Thành; nhà thờ cụ Hồ Tùng Mậu ở Quỳnh Lưu…
Có thể nói, hệ thống di tích - danh thắng Nghệ An được sinh ra và nuôi dưỡng bằng tín ngưỡng, đạo lý và phong tục truyền thống của dân tộc nên có sức sống, sức lan tỏa lâu bền, mãnh liệt. Di tích danh thắng với mái đình, ngôi đền, chùa chiền, bến nước… là những ký ức đẹp về quê hương, gắn bó mật thiết với văn hóa làng xã, văn hóa tâm linh của mỗi người.
29
Tại trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, hàng năm thực hiện kế hoạch năm học của sở Giáo dục - đào tạo, thực hiện về đổi mới hoạt động dạy và học theo hướng phát triển năng lực học sinh, thực hiện kế hoạch hoạt động chuyên môn của nhà trường, Ban giám hiệu, Đoàn trường phối hợp với nhóm Lịch sử tổ chức hoạt động tham quan học tập cho học sinh khối 10, 11. Cụ thể: Khối lớp 10 tham quan học tập tại Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh; Bảo tàng Quân khu IV và Thành Cổ Vinh; Khối lớp 11 tham quan học tập tại Khu Di tích Kim Liên và Khu di tích Truông Bồn.
Tham quan học tập các di tích lịch sử là hoạt động trải nghiệm thực tế cuộc sống để đi đến nhiều nơi và tìm hiểu nhiều thứ hơn, đưa đến những tác động tích cực cho học sinh.
Trước tiên, những chuyến tham quan học tập tạo ra cơ hội tốt, tạo điều kiện cho học sinh được được hoạt động, học tập lẫn vui chơi lành mạnh, là dịp để các em cùng hoạt động và giao tiếp với các bạn, tình cảm bạn bè từ đó được gắn kết hơn. Không khí thoải mái của những chuyến đi kích thích hứng thú hoạt động, trí tò mò ở mỗi học sinh, thúc đẩy phản xạ và tư duy phát triển.
Sau mỗi chuyến tham quan học tập sẽ giúp các em giảm bớt áp lực học tập căng thẳng và những bài học lý thuyết khô khan, học sinh được thoải mái tự do về tâm lý. Các em sẽ chủ động khám phá và tiếp nhận tri thức thu được từ chính chuyến đi. Gần gũi hơn với cuộc sống thực tế tạo thuận lợi cho hoạt động và mục tiêu của mỗi cá nhân. Sau mỗi chuyến tham quan, học sinh sẽ tích lũy được thêm nhiều tri thức thú vị, tinh thần được giải tỏa thì chế độ ăn uống, nghỉ ngơi sẽ tốt hơn. Sức khỏe nhờ đó cũng được nâng cao.
Đến thăm những di tích lịch sử và nghe kể lại những câu chuyện gắn liền với di tích ấy, chắc chắn nhận thức của học sinh sẽ bị tác động. Các em sẽ ghi nhớ di tích lịch sử ấy và biết ơn các anh hùng dân tộc. Nếu đến thăm Khu di tích Truông Bồn - nơi các chiến sĩ thanh niên xung phong đã chiến đấu và hi sinh học sinh sẽ cảm động khi đứng trước ngôi mộ tập thể của các liệt sĩ, hay khi thăm Mộ bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu của Hồ Chủ tịch được nghe thuyết minh về những vất vả hy sinh của bà… Bài học lịch sử trên lớp không thể đem lại cảm xúc đó. Từ những cảm xúc chân thực sẽ hình thành tình cảm yêu quê hương mãnh liệt trong mỗi học sinh, đó chính bài học vô giá mà những chuyến tham quan học tập tại các di tích lịch sử mang lại.
Tóm lại, hoạt động ngoại khóa tham quan lịch sử thay vào giờ học nội khóa lịch sử địa phương thực sự bổ ích và đem lại hiệu quả giáo dục cao. Vì vậy, nhà trường phổ thông nên tổ chức thường xuyên cho học sinh, nhất là các di tích lịch sử quê hương trong những dịp lễ hội. Việc được quan sát bằng chính mắt mình, được chứng kiến “người thật, việc thật” sẽ gây cảm xúc sâu sắc đối với học sinh. Trên cơ sở đó, khơi dậy ở bản thân mỗi em lòng yêu quê hương, niềm tự hào về mảnh đất quê hương anh hùng.
30
2.4. Giáo dục truyền thống trường Quốc học Vinh - Huỳnh Thúc Kháng
Xứ Nghệ - vùng đất địa linh nhân kiệt, miền quê đằm thắm hữu tình “Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ” nổi tiếng với truyền thống yêu nước, ý chí quật cường trong đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam. Từ bao đời nay, nơi đây cũng chính là cái nôi nuôi dưỡng truyền thống hiếu học với biết bao tên tuổi làm rạng danh non sông đất nước. Trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng và hiếu học ấy, mái trường Quốc học Vinh - Trung Học Phổ Thông Huỳnh Thúc Kháng đến hôm nay đã trải qua chặng đường gần 100 năm xây dựng và phát triển.
Tại trường THPT Huỳnh Thúc Kháng việc tuyên truyền, giáo dục về truyền thống nhà trường luôn được Ban giám hiệu, Chi bộ và Đoàn trường quan tâm. Đây là nội dung chương trình nằm trong kế hoạch đào tạo của nhà trường, là việc làm thường xuyên, được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau. 2.4.1. Giáo dục truyền thống nhà trường và tiểu sử thân thế, sự nghiệp của cụ Huỳnh Thúc Kháng (dành cho học sinh khối 10)
Đối với học sinh đầu cấp, khi mới được vào học tập dưới mái trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, các em thường mang trong mình tâm thế vui tươi, hớn hở nhưng cũng không thể tránh khỏi sự tò mò và bỡ ngỡ. Đa phần các em còn lạ lẫm về lịch sử truyền thống nhà trường. Bởi vậy, việc giúp các em tìm hiểu về truyền thống nhà trường nhà chí sỹ yêu nước mà trường mang tên là vô cùng cần thiết. Đây là cơ hội để các em tìm hiểu về mái trường mình đang học, đồng thời là động lực phấn đấu cống hiến trong tương lai.
Ngay sau khi khai giảng năm học mới, để chuẩn bị cho việc học truyền thống của học sinh đầu cấp, nhóm Lịch sử chúng tôi thường vạch ra chương trình cụ thể như sau:
- Căn cứ vào nhiệm vụ năm học của Bộ Giáo dục và Đào tạo; căn cứ vào kế hoạch triển khai nhiệm vụ năm học của trường THPT Huỳnh Thúc Kháng; căn cứ vào kế hoạch chuyên môn của tổ Xã hội và nhóm Lịch sử, nhóm trưởng lập kế hoạch (Thời gian; phân công giáo viên tham gia giảng dạy, số tiết dạy, hình thức học tập; kiểm tra, địa điểm…) [xem Phụ lục].
- Trình hiệu trưởng và ban chuyên môn nhà trường phê duyệt. - Giáo viên tham gia giảng dạy thống nhất nội dung học tập, nội dung
kiểm tra đánh giá.
- Soạn giáo án giảng dạy và câu hỏi kiểm tra đánh giá nhận thức của các
em
- Thông báo cho giáo viên chủ nhiệm về lịch học để cùng phối hợp trong
việc quản lý học sinh.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu truyền thống nhà trường,
chúng tôi chia làm ba phần:
Thứ nhất, học tập tại lớp tiến hành trong thời gian 90 phút, giáo viên khái
31
quát về tiểu sử và sự những cống hiến cho cách mạng của cụ Huỳnh Thúc Kháng, quá trình hình thành và phát triển của trường Quốc học Vinh - Huỳnh Thúc Kháng để học sinh nắm được những nội dung cơ bản [xem Phụ lục].
Thứ hai, thực hiện trong thời gian 45 phút, hướng dẫn học sinh tham quan tại phòng Truyền thống của nhà trường - đây là nơi trưng bày, lưu giữ những hình ảnh, hiện vật… qua các thời kì phát triển của thầy và trò nhà trường giúp học sinh nhận thức sâu hơn những chặng đường, những thành tích của nhà trường. Từ những hiểu biết đó các em sẽ tin yêu, tự hào về ngôi trường mà các em sẽ gắn bó trong ba năm học tới, tạo thêm động lực phấn đấu trong học tập cho các em.
Thứ ba, hướng dẫn học sinh viết bài thu hoạch để kiểm tra mức độ nhận
thức và tình cảm của các em. 2.4.2. Giáo dục truyền thống nhà trường thông qua các hoạt động khác
Việc giáo dục truyền thống của trường Quốc học Vinh - Huỳnh Thúc Kháng không chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu thân thế, sự nghiệp cụ Huỳnh Thúc Kháng; quá trình hình thành và phát triển của nhà trường mà còn được tổ chức ở nhiều hoạt động khác trong suốt cả năm học:
* Trong giờ sinh hoạt 10 phút đầu mỗi buổi học: tập hát ca khúc truyền
thống của nhà trường; tuyên truyền các tấm gương học tốt…
* Trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp: + Lễ khai giảng năm học mới: nhà trường thường tổ chức khen thưởng những giáo viên đạt thành tích công tác giảng dạy, những học sinh đạt giải cao trong các kì thi THPT Quốc gia, học sinh giỏi cấp tỉnh, học sinh tham gia thi Khoa học - Kỹ thuật, học sinh có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong học tập. Hoạt động này không những tạo ra không khí vui tươi, phấn khởi đón chào năm học mới mà còn tạo ra động lực cho học sinh phấn đấu vươn lên để đạt thành tích tốt hơn trong học tập nhằm góp phần vào thành tích chung của nhà trường
+ Hoạt động chào đón các tân học sinh của nhà trường: Các khối lớp 11, 12 tổ chức sự kiện như: SWITCH, RADIO 196X, EPOCH… Những sự kiện này là những sân chơi thực sự bổ ích, không chỉ học sinh trong trường háo hức đón nhận mà còn thu hút được đông đảo học sinh trên địa bàn thành phố Vinh tham gia, tạo ra tình gắn kết giữa các thế hệ học sinh của trường tăng thêm niềm tự hào tình yêu của học sinh dành cho nhà trường.
+ Sinh hoạt theo chủ đề “Tôn sư trọng đạo” vào dịp kỉ niệm ngày nhà giáo Việt Nam 20/11 với hoạt động văn nghệ với những ca khúc, vở kịch hướng về quê hương, mái trường thầy cô, bè bạn. Đây là dịp để học sinh “tri ân” thầy cô giáo, thể hiện tình cảm với nhà trường, đồng thời tạo ra sân chơi cho các em thể hiện tài năng năng khiếu của bản thân.
+ Ngoài ra, vào các dịp kỉ niệm ngày sinh của cụ Huỳnh Thúc Kháng (ngày 1/10) hay ngày mất của cụ (ngày 21/4), thầy và trò của trường thường tổ
32
chức lễ dâng hoa và báo công trước Tượng đài của cụ. Thông qua buổi lễ học sinh được ôn lại những thành tích của nhà trường và quyết tâm ra sức học tập và rèn luyện để đạt những thành tích cao hơn.
+ Lễ bế giảng năm học và lễ Tri ân trưởng thành của học sinh 12: Đây là dịp thầy và trò tổng kết thành quả của một năm học, vinh danh những thành tích, là dịp để học sinh lớp 12 thể hiện tình cảm với thầy cô khi phải sắp rời xa mái trường, xa thầy cô, xa bè bạn.
Trong những năm qua, với việc tổ chức các hoạt động đa dạng phong phú như vậy, công tác giáo dục truyền thống tại trường THPT Huỳnh Thúc Kháng đã góp phần quan trọng trong việc đào tạo và rèn luyện các thế hệ học sinh đưa nhà trường không ngừng phát triển với những thành tích đáng ghi nhận, nhà trường luôn nằm trong tốp các trường THPT đứng đầu của tỉnh nhà. Nhiều thế hệ học sinh khi rời xa mái trường hễ có dịp đều muốn ghé lại để tỏ lòng “tri ân” thầy cô, được ôn lại những kỉ niệm tuổi học trò và đóng góp xây dựng nhà trường ngày càng khang trang hơn. 3. Kết quả đạt được
Nếu như trước đây, giáo viên dạy học bình thường theo phương pháp truyền thống, không đi sâu, nhấn mạnh đến những nội dung có tác dụng giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước, trong quá trình dạy học giáo viên làm việc là chủ yếu, học sinh thụ động nghe và ghi chép. Thêm vào đó, giáo viên không chú trọng đến công tác thực hành trong dạy học lịch sử địa phương, không tạo điều kiện và cơ hội cho học sinh thảo luận và trình bày quan điểm của mình. Giờ học diễn ra đơn điệu, tẻ nhạt. Học sinh không những không nắm được kiến thức mà ngược lại những nội dung trong bài không hề để lại ấn tượng gì trong óc các em, các em thấy bình thường, thờ ơ với những vấn đề đó. Do vậy, kết quả học tập không cao.
Còn khi sử dụng các biện pháp như chúng tôi đã đề xuất, giáo viên đã nghiên cứu kỹ lưỡng nội dung, giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh tài liệu về lịch sử địa phương mà còn gợi mở cho học sinh những tài liệu khác có liên quan đến bài học để học sinh tự tìm hiểu. Trong quá trình dạy giáo viên cho học sinh trao đổi, thảo luận, dạy học nêu và giải quyết vấn đề, tăng cường tính trực quan, hình ảnh, khả năng gây xúc cảm về các hiện tượng, nhân vật lịch sử. Giờ học diễn ra nhẹ nhàng, học sinh chăm chú nghe giảng, hứng thú học tập trên tinh thần chủ động khám phá, tích cực, không khí lớp học sôi nổi. Kết quả thu được từ bài kiểm tra đã có những thay đổi tích cực, phổ điểm > 8 chiếm tỉ lệ cao hơn. Quan trọng nhất là thông qua dạy học, đặc biệt là trong dạy học lịch sử địa phương, giúp học sinh có những hiểu biết sâu sắc hơn những kiến thức lịch sử địa phương, từ đó giáo dục cho các em truyền thống dân tộc, trong đó có truyền thống yêu quê hương đất nước. Điều đó khẳng định tính khả thi của các biện pháp giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương mà sáng kiến kinh nghiệm đã đưa ra.
33
PHẦN III. KẾT LUẬN
1. Kết luận
Qua thời gian áp dụng một số biện pháp để giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương tại trường THPT Huỳnh Thúc Kháng và trao đổi chuyên môn với các đồng nghiệp, tôi có một số nhận xét như sau: 1.1. Ưu điểm
- Nội dung bài giảng phong phú, giáo viên linh hoạt trong giờ lên lớp hơn. - Học sinh tập trung hơn do không bị gò bó một chỗ mà được tiến hành nhiều hoạt động, vừa được vui chơi và thực hành cũng như được nâng cao năng lực làm việc tập thể
- Học sinh nắm bài nhanh hơn do bài học được thể hiện đa dạng hơn - Học sinh tự tin trao đổi, đàm thoại với giáo viên và các bạn trong lớp, được trải nghiệm, được tiếp xúc với cách học tập mới, khắc phục được nhược điểm hay ngại ngùng rụt rè. 1.2. Hạn chế
- Người dạy phải đầu tư rất nhiều thời gian, tâm sức cho việc lên lịch, lập
kế hoạch, soạn thảo kịch bản.
- Do số lượng học sinh quá đông (>40 em) nên việc tổ chức sẽ gặp một số trở ngại như: không đủ không gian, thời gian, nếu không khống chế thời gian có thể “cháy” giáo án.
Môn Lịch sử nói chung, lịch sử địa phương nói riêng được xem là có ưu thế trong việc giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Lịch sử địa phương là một bộ phận không thể tách rời, có mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử dân tộc. Thông qua dạy học lịch sử địa phương, các em không chỉ nắm vững, hiểu sâu về lịch sử, con người, vùng đất, nơi mình sinh sống mà còn là cầu nối để giúp các em hiểu sâu về lịch sử dân tộc - làm hành trang không thể thiếu của các em trong cuộc sống. Trên cơ sở đó hình thành trong các em niềm tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng, cần cù lao động, thông minh sáng tạo, niềm tự hào về quê hương, đất nước mình. Và cũng chính niềm tự hào đó làm các em thêm gắn bó, thêm yêu mảnh đất quê hương. Từ đó có ý thức cũng như trách nhiệm bảo vệ quê hương, sống xứng đáng với thế hệ cha ông đi trước đã đổ mồ hôi, xương máu để bảo vệ quê hương, đất nước như hôm nay. Đây là chức năng giáo dưỡng, giáo dục và phát triển của bộ môn lịch sử trong đó có dạy học lịch sử địa phương.
Để giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử nói chung và dạy học lịch sử địa phương nói riêng đạt hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào người giáo viên. Họ phải là những người có định hướng giáo dục rõ ràng, có phương pháp dạy học tốt. Đặc biệt họ phải là những người “truyền lửa” truyền tình yêu quê hương, đất nước cho các em. Để làm được điều
34
này, trong quá trình dạy học, người giáo viên phải lựa chọn và sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp với nội dung kiến thức lịch sử địa phương để giáo dục cho học sinh là nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ. Trong thực tế dạy học lịch sử có rất nhiều phương pháp dạy học khác nhau, nhưng tôi xin đưa ra những biện pháp mà có tác dụng hơn trong việc giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương với hai hình thức chủ yếu là bài học nội khoá và hoạt động ngoại khoá. 2. Kiến nghị
* Đối với giáo viên: - Thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp cùng chuyên môn về biện pháp
giáo dục lòng yêu nước cho học sinh đặc biệt là đối với học sinh đầu cấp.
- Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh đặc biệt là với các em học sinh khối lớp đầu cấp học là một việc làm tương đối khó khăn do các em học sinh bước đầu làm quen với phương pháp học tập ở trung học phổ thông do vậy giáo viên phải kiên trì và thường xuyên thực hiện để tạo thói quen tốt cho các em và thường xuyên kiểm tra các em. Cần thường xuyên nhắc nhở, động viên các em có ý thức sưu tầm, tìm hiểu, tham gia các hoạt động liên quan tới các nhân vật lịch sử ở địa phương qua đó sẽ nâng tầm hiểu biết của các em về lịch sử của quê hương qua đó sẽ giáo dục các em lòng yêu, niềm tự hào về quê hương mình, đất nước mình.
- Nguồn tư liệu lịch sử địa phương còn rất phong phú, do vậy cần tích cực
sưu tầm tích lũy để bổ sung vào bài giảng đa dạng hơn.
* Đối với học sinh: - Phải có đủ phương tiện học tập: Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo,
tranh ảnh…; có thái độ học tập nghiêm túc, cầu tiến.
- Có ý thức tìm hiểu lịch sử của dân tộc, của địa phương, tích cực tham gia các hoạt động như: giữ gìn, bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử ở địa phương, tham gia sưu tầm các tư liệu về lịch sử địa phương, tham gia các lễ hội truyền thống ở địa phương... qua đó sẽ hun đúc thêm lòng yêu quê hương, đất nước.
* Đối với các cấp lãnh đạo: Cần quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất như: trang thiết bị máy tính, máy chiếu cho nhiều phòng học hơn; lớp học có kết nối Wifi; nhà trường mở các lớp bồi dưỡng về ứng dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học. Đặc biệt, các cấp lãnh đạo cần có quy hoạch dài hạn về quy định số lượng học sinh trong mỗi lớp học, diện tích phòng học… bởi với tình trạng học sinh quá đông (trên 40 học sinh), diện tích phòng học bé khó bố trí công cụ dạy học, khó sắp xếp bàn ghế theo nhóm… thì rất khó khăn để có thể áp dụng các phương pháp dạy học tiên tiến hiện nay.
35
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng - tỉnh ủy Nghệ Tĩnh (1987), Lịch sử Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ Tĩnh, tập 1 (1925 - 1954), NXB Nghệ Tĩnh - Vinh.
2. Ban nghiên cứu lịch sử tỉnh Nghệ Tĩnh (1984), Lịch sử Nghệ Tĩnh, tập I,
NXB Nghệ Tĩnh - Vinh.
3. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng - tỉnh ủy Nghệ Tĩnh (1981), Xô viết Nghệ Tĩnh,
NXB Sự thật Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch
sử, NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Lịch sử 12, NXB Giáo dục, Hà Nội. 6. Ninh Viết Giao (2007), Diễn Châu 1380 năm, Lịch sử - Văn hóa - Nhân vật,
NXB Nghệ An.
7. Phan Ngọc Liên (1996), Đổi mới việc dạy học lịch sử, NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
8. Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Thái Bình (2003), “Giáo dục lòng yêu quê hương cho học sinh qua dạy học lịch sử địa phương”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 69, trang 19 - 20.
36
PHẦN PHỤ LỤC Phụ lục 1 PHIẾU KHẢO SÁT
(DÀNH CHO GIÁO VIÊN)
Họ và tên: ………………………………………………… Tuổi: ……………………………………………………… Năm công tác: ……………………………………………. Trường THPT: …………………………………………… Để góp phần tìm hiểu việc giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phươn, xin thầy/cô vui lòng cho biết ý kiến về một số vấn đề sau (đánh dấu (X) vào ô trống và điền thông tin vào câu trả lời).
1. Thầy/ cô đã tiến hành việc giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương với tần suất như thế nào? Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ
2. Thầy/ cô có thường xuyên sử dụng công nghệ thông tin trong giờ dạy
của mình không?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ
3. Thầy/ cô có thường xuyên hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động
ngoại khóa không?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ
4. Thầy/ cô có tiếp cận thêm những phương pháp dạy học mới để giúp học
sinh tích cực hứng thú hơn trong học tập không? Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ
5. Ý kiến đề xuất của thầy/cô để giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất
nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương đạt hiệu quả cao.
PHIẾU KHẢO SÁT (DÀNH CHO HỌC SINH)
Họ và tên: ………………………………………………… Lớp: ……………..………………………………………… Trường: …...........………………………………………… (đánh dấu (X) vào ô trống và điền thông tin vào câu trả lời). 1. Em có thích học lịch sử địa phương Nghệ An không
Có Không
2. Theo em, trong trường THPT có cần thiết phải giáo dục truyền thống
yêu quê hương đất nước không? Có Không
3. Trong giờ học Lịch sử, giáo viên của các em có áp dụng đa dạng các phương pháp dạy học và sử dụng các phương tiện dạy học để giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước không?
Có Không
4. Theo em, để giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước thì hoạt
động ngoại khóa có quan trọng không?
Có Không
5. Em có thường xuyên tìm hiểu nhân vật lịch sử và các sự kiện lịch sử
diễn ra trên quê hương mình không? Có Không
Phụ lục 2 Bài thơ: SỰ TÍCH CON CÁ GỖ
Nhắc đến người miền Trung là nhắc đến sự chịu thương, chịu khó, nỗ lực vươn lên... bởi sinh ra trên mảnh đất khắc nghiệt, nắng thì gió Lào bỏng rát, mưa thì thối đất thối cát, chưa kể bão lụt hoành hành dữ dội. Chính trong bối cảnh ấy, người Xứ nghệ đã vượt lên, vươn xa, tỏa sáng. Sự tích con cá gỗ là hình ảnh đáng yêu trong gian khó, mà người miền Trung ai cũng biết... Ông đồ ham học lắm Chữ của làng hết rồi Ông cất đường lên tỉnh Tìm thầy toát mồ hôi Học chữ thì ông giỏi Cái nghèo giấu vào đâu Nằm vắt tay qua trán Suốt đêm ông ôm đầu
Xoa đầu con - cha kể Từ xa xưa tục truyền Có ông đồ hay chữ Người xứ Nghệ - quê mình Đói cơm còn chịu được Đói chữ thì khổ to Trong làng người già bảo Phải ra thị thành thôi Hôm sau ông lẳng lặng Mượn trăng khuya làm đèn Lấy một khúc củi nhỏ Ngồi gọt cả màn đêm Ông lật ngang lật dọc Trổ thêm vây thêm vi Con cá trông như thật Nhìn qua chẳng biết gì Con cá gỗ được nướng Toàn thân đã rộm vàng Lưng trông như cá chép Bụng lại giống cá tràu Thế rồi từ khúc củi Một con cá ra đời Một con cá bằng gỗ To bằng ba ngón tay Lựa một nơi quạnh vắng Xa tít tận ngoài đồng Ông cho rơm bén lửa Và đem cá lên hơ Thế rồi từ buổi đó Cứ bữa cơm hàng ngày Ông cho thêm nước mắm Bày cá gỗ ra mâm
Cứ mỗi lần ăn xong Nhè lúc không ai thấy Ông bọc lá chuối khô Giấu cá vào trong tráp
Cơm hết cá vẫn còn Ông toàn chan nước mắm Bạn bè không ai biết Xong rồi cá vẫn nguyên Ông ngày càng học giỏi Không còn ai chê nghèo Được ăn cơm với cá Nhà trọ khối người ghen.
Phụ lục 3 KỊCH BẢN: CHƯƠNG TRÌNH SỬ THI NGHỆ THUẬT Cuộc đời và sự nghiệp của Nhà chí sỹ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng Chào mừng ngày thành lập Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng và Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11
Mở màn: Màn trống hội - 5 trống (2-3 phút)
“Dân ta phải hiểu sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.”
Tự hào là ngôi trường mang tên HUỲNH THÚC KHÁNG
Âm nhạc hùng tráng, cảnh cụ Huỳnh cầm sách, xung quanh là cảnh núi
Sơn Ve và bãi đá Lò Thung, phía sau là ngôi nhà 150 tuổi.
Âm nhạc không lời, vui nhộn, màn múa mở đầu rực rỡ, cờ hoa lộng lẫy. 16 diễn viên nam nữ trên nền nhạc và lời giới thiệu về truyền thống của quê hương Tiên Cảnh, Tiên Phước.
Dẫn 1: Tiên Cảnh - Tiên Phước - quê hương cụ Huỳnh Thúc Kháng
Một miền quê địa linh nhân kiệt đã sinh ra bao bậc hiền nhân
Đất khoa bảng lừng danh
Theo dòng chảy thời gian kết thành truyền thống
Dẫn 2: Được chung cất từ tinh chất ngào ngọt của dòng chảy Lò Thung
Từ dáng đứng hiên ngang của non xa Sơn Ve
Dãy núi Sơn Ve dài như 1 bức tường thành
Phía trước là cánh đồng bậc thang
Dẫn 1: Một vùng non nước hữu tình
Linh khí đất trời hồn thiêng sông núi
Hết thảy như về đây tụ hội
Để bao đời Tiên Cảnh hóa lời ca
Huỳnh Thúc Kháng 8 tuổi đi học, 13 tuổi đã văn hay chữ tốt, 16 tuổi đi thi Hương, nổi tiếng ở Kinh đô Huế, sánh cùng Trần Quý Cáp, Phạm Liệu, được xếp vào hạng Tam hùng. Năm 29 tuổi ông đỗ Tiến sĩ được nhân dân gọi là Ngũ hổ.
Dẫn 2: Hãy ngược dòng lịch sử thuở cha ông
Phong trào Đông Du dựng cờ khởi nghĩa
Phong trào Nghĩa Hội tiếp bước theo sau
Và các bậc tiền nhân từ đất mẹ lớn lên
Lê Vĩnh Khang, Lê Vĩnh Huy, Lê Quý Liên
Lê Triêm, Lê Duyện, Lê Liễn
Dẫn 1: Khi phong trào kháng sưu cự thuế nổ ra khắp Trung Kỳ, cụ HUỳnh bị bắt đày ra Côn Đảo. Trở về đất liền ông là 1 trong những nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân mới, ứng cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ năm ông 51 tuổi, sau 2 năm ông từ chức. Ngày 10/8/1927 ông sáng lập ra nhà in và Báo Tiếng Dân. Suốt thời gian này ông vừa làm chủ nhiệm nhà in Huỳnh Thúc Kháng và chủ bút tờ báo Tiếng Dân. Ông đã được chủ tịch Hồ Chí Minh mời tham gia nội các Chính Phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa giữ chức Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ sau cách mạng tháng 8 thành công năm 1945. Đến năm 1946, khi Chủ Tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sang Pháp đàm phán, Huỳnh Thúc Kháng được cử làm Quyền Chủ Tịch nước.
“Cụ Huỳnh là người giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khó không làm nản chí, uy vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm làm giàu. Cả đời cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho nhân dân được tự do, nước được độc lập.”
(Trích lời Chủ Tịch Hồ Chí Minh)
Dẫn 2: Là tuổi trẻ thế hệ sau nối tiếp truyền thống cha ông lớp lớp học sinh thân yêu dưới mái trường mang tên Huỳnh Thúc Kháng ngay từ những buổi đầu mới thành lập đã phát huy tốt những kiến thức và lòng yêu nước từng bước vượt qua mọi khó khăn gian khổ, đạn bom lửa máu, đói sạch rách thơm, đồng cam cộng khổ trước những lần di dời sơ tán, vẫn một lòng bám trường bám lớp dưới sự dìu dắt của thầy cô để ngày hôm nay chúng em được lật từng trang sử vẻ vang ghi danh các thế hệ học trò xuất sắc, công ơn trời biển của thầy cô, lòng tự hào về mái trường mang tên Huỳnh Thúc Kháng.
Âm nhạc nổi lên: Màn múa sôi động. Tiếng trống khai trường cùng màn
múa hát với cờ hoa rực rỡ. 12 diễn viên múa trên nền nhạc.
Gốc lúa vàng trăng
Trên thành Vinh sắc hồng tươi rạng ngời
Rộn đất trời trong sắc nắng ngày vui
Cùng bên nhau học tập hăng say
Trọn mùa quả ngọt nhớ công ai vun trồng.
Đây ngôi trường quốc học Vinh trang sử vàng rạng rỡ
Công ơn thầy như trời biển, trò lớp lớp chăm ngoan ơ...
Ngôi trường đổi mới khang trang
Bên nhau ta cùng hò hẹn tô thắm từng trang sử vàng
Ví chuyển điệu:
Người ơi... Trải qua bao năm một chặng đường lịch sử
Bao thế hệ cha anh tô thắm đẹp mái trường
Bồi hồi nhớ lại năm nao
Vượt bao gian khó, Trường Huỳnh Thúc Kháng ta tự ơ hào
Dẫn 1: Âm nhạc (tốp múa đi vào - tốp học sinh đi ra - hình ảnh thầy dạy học)
Trường Trung học Phổ thông Huỳnh Thúc Kháng có tiền thân từ 2 trường Quốc Học Vinh và trường Chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng. Trường Quốc học Vinh thành lập ngày 1/9/1920, đại bộ phận trường Quốc Học Vinh là con em những nhà nho vùng đất Cách mạng, yêu nước và trong trường lại có những nhà giáo tiến bộ nên nhiều học sinh của trường đã tham gia các phong trào yêu nước và đấu tranh cách mạng. Tiêu biểu là ngay từ khóa đầu tiên như các ông Nguyễn Xiển (nguyên Phó chủ tịch Quốc hội), Tôn Quang Phiệt (nguyên tổng thư ký Ủy ban Thường Vụ Quốc hội), Đặng Thai Mai (nguyên Chủ Tịch hội nhà văn Việt Nam).
(Sử thi - Cảnh chiến tranh, Học sinh bị đàn áp)
Dẫn 2: Năm 1943, trường Quốc học Vinh đổi tên là Trường Quốc học Nguyễn Công Trứ. Cuối năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ trường sơ tán về huyện Nam Đàn, Nghệ An. Lúc này ở Huế, trường Quốc học Huế cũng chia ra một bộ phận đi theo kháng chiến thành lập trường chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng đóng ở huyện Đức Thọ rồi huyện Hương Khê, Hà Tĩnh. Năm 1950, trường Quốc học Nguyễn Công Trứ (tức là Quốc học Vinh) và trương Chuyên Khoa Huỳnh Thúc Kháng được sát nhập lại và lấy tên là Trường Phổ Thông cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng và là trường phổ thông cấp 3 đầu tiên của Tỉnh Nghệ An (gồm học sinh Nghệ Tĩnh và hơn 200 học sinh miền Nam), đóng ở xã Bạch Ngọc tức là xã Lam Sơn, huyện Đô Lương, Tỉnh Nghệ An ngày nay.
(Hình ảnh học sinh đội mũ rơm, vui vẻ đọc sách... trốn bom đạn)
Dẫn 1: Năm 1955, hòa bình đã được lập lại trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vào năm 1956 trường trở về thành phố Vinh. Năm 1962, do Tỉnh Nghệ An đã bắt đầu có nhiều trường phổ thông cấp 3 ở các huyện, trường đổi tên là Trường Phổ Thông cấp 3 Vinh. Năm 1965, đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, trường sơ tán về xã Hưng Tây huyện Hưng Nguyên. Đây cũng là thời kì gian khổ của trường, vừa tổ chức dạy học vừa phải phòng tránh bom đạn của giặc Mỹ. Thời kì từ năm 1955-1965, trường có nhiều học sinh đạt giải học sinh giỏi toàn miền Bắc và có nhiều học sinh sau này trở thành cán bộ lãnh đạo từ Tỉnh Nghệ An đến Trung Ương.
(Hình ảnh học sinh vui vẻ nô đùa)
Dẫn 2: Đến năm 1976 thành phố Vinh đã bắt đầu có nhiều trường cấp 3,
trường lại đổi tên là Trường phổ thông cấp 3 Vinh 1. Năm 1985, thể theo nguyện vọng của nhiều thế hệ cán bộ, giáo viên, học sinh và nhằm phát huy hơn nữa truyền thống lịch sử vẻ vang của trường, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh đã quyết định đổi lại tên trường là Trường Phổ Thông Huỳnh Thúc Kháng cho đến ngày nay.
(Hình ảnh cổng trường xuất hiện)
Âm nhạc chuyển... Tốp múa tạo hình
Thơ trung:
Nhớ những ngày đầu khai thiên lập địa
Đặt những viên gạch hồng trong mưa nắng gian nan
Ôi mái trường lịch sử sáng từng trang
Dẫn lối em đi đến những chân trời
Mỗi chuyến đò sang sông thầy cô là bến đợi
Bụi phấn nhuộm mái đầu dáng thầy cô lầm lụi, mắt vẫn dõi theo những
cánh chim không mỏi phía trời ơ xa...
Tứ hoa:
Mái trường thân thương như một mái nhà
Mà ngào ngọt bài ca nghề nhà giáo
Chăm bón cây đời giữa nắng mưa giông bão
Có tình mẹ cha và chữ đạo thầy cô
Nét chữ câu văn lớp học từng giờ
Trang sách mở trang đời thêm rộng mở
Rộn rã bài ca dưới nhành phượng đỏ
Để mỗi ngày đến trường ta có một niềm vui
Khúc tự hào:
Vang vang câu ca ta hát mừng ngày hội
Trên quê Bác Hồ dệt bao yêu thương
Non sông mai sau có sánh kịp năm châu
Lời bác năm nào cùng nhau ghi lòng
Bài ca Phượng Hồng
Rộn rã mái trường
Lời thầy cô - lời của Bác
Là hành trang - cho ngày mai... Xây đời.
Phụ lục 4 GIÁO ÁN GIẢNG DẠY PHÒNG TRUYỀN THỐNG “MÁI TRƯỜNG XỨNG DANH ANH HÙNG”
I. Mục đích yêu cầu
1. Về kiến thức: Giúp học sinh hiểu rõ:
- Thân thế sự nghiệp của cụ Huỳnh Thúc Kháng.
- 100 năm xây dựng và trưởng thành của trường THPT Huỳnh Thúc
Kháng.
- Những thành tích đạt được từ trước đến nay.
2. Về tư tưởng tình cảm:
- Giáo dục truyền thống cho học sinh, giúp các em nhận thức được những
giá trị truyền thống của nhà trường.
- Giáo dục cho học sinh thấy được trách nhiệm và bổn phận của mình tiếp nối truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước và thắp sáng tương lai cho thế hệ mai sau.
- Giúp học sinh vun đắp tình cảm, lòng biết ơn, tôn trọng và yêu quý đối với các thế hệ cha anh từ đó luôn học tập phấn đấu rèn luyện tu dưỡng bản thân…
3. Về kỹ năng: Bồi dưỡng học sinh kỹ năng quan sát, phân tích, nhận xát và đánh giá của học sinh…
II. Thiết bị tài liệu dạy - học:
- Tranh ảnh và các hiện vật trưng bày trong phòng truyền thống.
- Sách báo viết về cụ Huỳnh Thúc Kháng.
- Lịch sử trường Quốc học Vinh - THPT Huỳnh Thúc Kháng (1920-
2010).
III. Tiến hành tổ chức dạy học:
1. Bài cũ: Đã hướng dẫn học sinh về nhà tìm hiểu cuốn lịch sử trường và các tài liệu viết về cụ Huỳnh Thúc Kháng nên sẽ kiểm tra trong quá trình đọc bài.
2. Dẫn dắt và bài:
3. Tổ chức hoạt động dạy học trên lớp
Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm
I. Tiểu sử cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947):
Hỏi: Dựa vào những hiểu biết của mình em hãy trình bày về thân thế và sự nghiệp của Cụ Huỳnh Thúc Kháng? - Huỳnh Thúc Kháng tên thật là
Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm
Huỳnh Hanh. - HS trả lời Giáo viên kết luận:
- Sinh năm 1876 tại làng Thanh tỉnh Bình, huyện Tiên Phước, Quảng Nam.
+ Huỳnh Thúc Kháng tên thật là Huỳnh Hanh, tự: Đối Sanh, hiệu là Minh Viên; có nhiều bút danh như: Sĩ Bình Tử; Xa Túc Tử… sinh năm 1876 tại làng Thanh Bình, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình nho học.
- Năm 1904 đỗ tiến sỹ nhưng không ra làm quan. Ông tham gia tích cực vao phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ.
- Năm 1908: ông bị Pháp bắt và đày ra Côn Đảo.
- Năm 1921: được trả tự do và tiếp tục tham gia phong trào yêu nước.
- Cách mạng tháng 8 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời Cụ tham gia chính phủ liên hiệp, giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1946).
- Tháng 6 → 10/1946 Cụ được giao trọng trách quyền Chủ tịch nước. => Huỳnh Thúc Kháng là tấm gương tiêu biểu cho lòng yêu nước, tận trung với nước với dân. Cụ vừa là chiến sỹ cách mạng nhưng cũng là một nhà thơ lớn với thơ chữ Hán, chữ Nôm, chính luận.
- Tấm gương tiêu biểu cho lòng yêu nước, tận trung với nước, là nhà thơ lớn.
II. Lịch sử trường
1. Trường Quốc học Vinh (College De Vinh 1920 - 1945)
* Ngày đầu thành lập:
- GV hỏi: Trường được thành lập vào thời gian nào? Tên gọi khi mới thành lập là gì?
- Ngày 1/9/1920 Trường Quốc học Vinh (College De Vinh). Tiếp nhận học sinh ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. - HS nghiên cứu lịch sử trường và trả lời:
- GV kết luận
* Mục đích: đào tạo lớp người có trình độ học vấn cao để phục vụ cho chính sách cai trị của thực dân Pháp và truyền bá văn hóa Pháp.
=> Đào tạo quan lại và tay sai người bản xứ.
- Trường Quốc học Vinh được thành lập trên mảnh đất địa linh nhân kiệt. Xứ Nghệ là đất phát tích của nhiều nhân tài kiệt xuất của đất nước. Đặc biệt là nơi chôn rau cắt rốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trường ra đời trong khoảng thời - Trường được dạy bằng tiếng Pháp.
Hoạt động của giáo viên và học sinh gian mà phong trào yêu nước, phong trào đấu tranh của nhân dân vung Nghệ Tĩnh được dâng cao.
Kiến thức cần nắm Hiệu trưởng là người Pháp. Ông hiệu trưởng đầu tiên là Surrugue (1920) và hiệu trưởng cuối cùng là Michel (1941).
- Giáo viên: gồm người Pháp và Việt Nam.
- Ngày 1/9/1920 Trường Quốc học Vinh được thành lập theo cách gọi của người Pháp là College De Vinh. Tiếp nhận học sinh ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
- Sau khi tiếp thu nguồn tri thức mới học sinh của trường đã phát huy truyền thống yêu nước tích cực tham gia nhiều phong trào yêu nước như:
- 1924: biểu tình đội ân xá Cụ Phan Bội Châu. Khi mới thành lập trường chưa có đại điểm riêng và học tạm ở trường tiểu học Cao Xuân Dục và hội quan Trí Tri. Từ năm 1922 trường chính thức học ở quán Thầu đâu (gần bến xe Vinh).
- HS trả lời: 37 học sinh - 1927: Tham gia lễ truy điệu của cụ Phan Chu Trinh.
- Hỏi: Mục đích ban đầu của việc thành lập trường? Mục đích đó có đạt được hay không? Vì sao?
- HS: nghiên cứu trả lời
- GV kết luận: - 1929: Thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên của trường và là 1 trong 3 chi bộ đầu tiên ở Vinh. Đồng chí Nguyễn Tiềm học sinh của trường là bí thư đầu tiên của Đảng bộ Nghệ An.
- Giáo viên:
Hỏi: Trong thời gian trường mang tên Quốc học Vinh từ 1920 - 1945 đã có những giáo viên và học sinh tiêu biểu nào? + Người Pháp: Thầy hiệu trưởng Surrugue, thầy Hypolyte le Breton, thầy Boulerand, cô giáo người Pháp cô Surrugue, cô Vlaveanos…
Trong thời gian mang tên trường Quốc học Vinh đã có nhiều giáo viên và học sinh tiêu biểu người Pháp và người Việt. + Người Việt như: Lê Ấm; thầy Lê Thước; thầy Nguyễn Hiệt Chi; thầy Trần Đình Đàn…
+ Học sinh: Tôn Quang Phiệt; Đặng Thai Mai; Nguyễn Sỹ Sách; Nguyễn Tiềm; Phạm Tiều; Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Cảnh Toàn; Nguyễn Mạnh Cầm… - Người Pháp: Thầy hiệu trưởng Surrugue rất điềm đạm, thầy Hypolyte le Breton có uy tín với giáo viên và học sinh, thầy Boulerand rất đôn hậu và cô giáo người Pháp đức độ, tận tụy với học sinh như cô Surrugue, cô Vlaveanos…
2. Từ trường QHV đến trường phổ thông cấp 3 HTK (1945- 1950)
- Thầy giáo người Việt như: Lê Ấm (1897-1976) thầy Lê Thước (1891 - 1975); thầy Nguyễn Hiệt Chi (1970- 1935); thầy Trần Đình Đàn… * Thời kỳ chuyển tiếp trường QHV đến trường TH Đinh Công Trứ
Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm
(1945-1950)
- Hoàn cảnh nước ta sau CMT8
- Trong hoàn cảnh đó, trường QHV đổi thành tên trường TH Đinh Công Trứ.
- Học sinh tiêu biểu: Tôn Quang Phiệt (1900-1937); Đặng Thai Mai (1902- 1997); Nguyễn Sỹ Sách (1907-1929); Nguyễn Tiềm (1912-1932); Phạm Tiều (1904-1986); Hoàng Xuân Hãn (1908- 1996), Nguyễn Cảnh Toàn; Nguyễn Mạnh Cầm… thực hiện tiêu
- Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) thể kháng chiến, trường dời lên Nam Đàn. - GV giới thiệu về hoàn cảnh đổi tên trường QHV thành tên trường TH Đinh Công Trứ:
- Năm 1947- 1948: dời về Tân Hợp - Nam Đàn
- Năm 1950: sát nhập một phần của chuyên khoa HTK ở Đức Thọ và trương Nguyễn Công Trứ thành TH Huỳnh Thúc Kháng.
* Trường phổ thông cấp III Huỳnh Thúc Kháng (1950 -1951 -> 1953- 1954)
Thời kỳ này trường đóng ở xã Bạch Ngọc, Đô Lương. - Năm 1950 Sở giáo dục liên khu IV quyết định sát nhập một phần của chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng lúc đó đang đóng ở Đức Thọ (Hà Tĩnh) (Chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng có tiền thân là trường TH Khải Định- một phần của quốc học Huế tản cư ra Hà Tĩnh lấy tên nhà chí sỹ yêu nước là Huỳnh Thúc Kháng đặt tên cho trường) vào trường Nguyễn Công Trứ và đổi tên là TH Huỳnh Thúc Kháng chuyển lên xã Bạch Ngọc - Đô Lương - Nghệ An).
Hỏi: Thời kỳ này có những giáo viên tiêu biểu nào?
- Thầy trò hăng say học tập dạy tốt, học tốt, lao động sản xuất, tự túc sản xuất lương thực, tham gia vào kháng chiến chống Pháp…
- Thời kỳ này có nhiều giáo viên tận tụy với sự nghiệp giáo dục như thầy Lê Hải Châu, Nguyễn Trọng Di, Đào Đăng Hy, Lê Trí Viễn, Nguyễn Cảnh Toàn, Hà Thúc Chính…
- Học sinh là những giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ… như Nguyễn Đình Tứ, Hà Học Trạc, Đinh Ngọc Lân, Vũ Ngọc Khánh…
- Giáo viên giải thích trường mang tên cấp III Huỳnh Thúc Kháng với những lý do sau:
+ Do yêu cầu của giáo dục triển khai chương trình cải cách lần thứ 2.
Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm
+ Do việc sát nhập trường TH Nguyên Công Trứ với trường chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng từ năm học 1950- 1951. 3. Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng (những năm 1955-1975)
* Giai đoạn 1955-1965:
- Nhiều học sinh sau đó trở thành những người có tên tuổi như: Phan Hữu Dật, Trọng Bằng, Trần Thanh Đạm, Nguyễn Minh Châu, Đào Trọng Đức… - 1955 trường chuyển từ Bạch Ngọc về Vinh đóng ở xã Hưng Thủy.
- GV giới thiệu quá trình chuyển từ Bạch Ngọc về Vinh: - 1957 dời về đóng ở khu trường Sư phạm cấp 1.
- Năm 1960: trường dời về cơ sở mới xóm Trường Tiến, Hưng Bình sau đó đổi tên là trường cấp 3 Vinh.
* Giai đoạn từ 1965-1975:
+ Năm 1955 trường chuyển từ Bạch Ngọc về Vinh đống ở xã Hưng Thủy (nay là Bến Thủy, Trườn Đại học Vinh ngày nay), học sinh khắp nơi trong tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh xin vào học, học sinh Bình Trị Thiên vượt tuyến ra Bắc học.
- Năm 1965 Mĩ ném bom Miền Bắc, trường sơ tán nhiều nơi
+ 1965 lên Hưng Tây
+ Năm 1957 trường chuyển về trường sư phạm cấp 1. Hội đồng giáo viên được tăng cường thêm từ từ các trường về và giáo viên vừa tốt nghiệp đại học sư phạm. Phương pháp giảng dạy thay đổi, học sinh chăm lo và tự giác trong học tập.
- Năm 1960: trường dời về cơ sở mới xóm Trường Tiến, Hưng Bình. Năm học 1959- 1960 ở Đô Lương và Diễn Châu thành lập trường cấp 3 nên học sinh rút về học và sau đó đổi tên là trường cấp 3 Vinh.
+ 1968 chuyển lên nông trường 1/5 ở Nghĩa Đàn
Trường có nhiều học sinh đạt giải miền Bắc, có tỷ lệ đậu tốt nghiệp cao, liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến nhiều học sinh được cử đi học nước ngoài, nhiều em tình nguyện vào nam tham gia chiến đấu.
- Năm 1965 Mĩ ném bom bắn phá, trường bị hư hại nhiều và học sinh phải
Kiến thức cần nắm
+ 1970 trường chuyển về Vinh
+ 1971 sơ tán về Hưng Tây và Hưng Thái
Hoạt động của giáo viên và học sinh sơ tán về xã Hưng Tây. Thầy và trò đào lán lợp, đào hầm hào để đảm bảo an toàn cho các lớp học. Việc dạy học được thực hiện trong các căn hầm chữ A nửa nổi nửa chìm chứa được 50 học sinh. Trong những năm trường sơ tán lên Hưng Tây giặc Mỹ đã hơn 20 lần ném bom đạn gây nhiều thương vong cho trường, 05 em học sinh và một nhân viên của trường bị thiệt mạng.
+ Năm học 1971-1972 sơ tán lên xã Thanh Hà - Thanh Chương
- Năm 1968 giặc Mỹ ném bom bắn phá trường sơ tán từ Hưng Tây lên nông trường 1/5 ở Nghĩa Đàn. Thầy trò ở đan xen trong nhà công nhân, làm lán tre nứa, làm hầm chữ A. Học kỳ II năm 1968-1969 từ nông trường chuyển trường 1/5 về tạm học ở Hưng Tây.
- Vượt qua mưa bom bão đạn nhưng thầy trò vẫn hăng say học tập và đạt nhiều thành tích.
- Năm 1973 trường chuyển về Vinh - Năm 1970 trường từ Hưng Tây về Vinh, cơ ngơi của trường lại bị giặc Mỹ phá tan tành, thầy trò từng bước khắc phục xây dựng lại trường lớp, nhà trường phải đặt lớp học và nhà công vụ rải rác ở nhiều nơi trong đó có khoa sinh Trường Đại học Vinh ở Hưng Bình.
- Năm 1971 địch đánh phá thành phố Vinh trường lại sơ tán về Hưng Tây và Hưng Thái.
4. Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng (Những năm 1975 - 2010).
* Những năm 1975 - 1985. - Học kỳ I năm học 1971 - 1972 địch bắn phá thành phố Vinh và các vùng lân cận thầy trò vượt Sông Lam đến xã Nam Phúc huyện Nam Đàn. Nhưng trước bom đạn của giặc Mỹ ngày càng ác liệt và căng thẳng hết học kỳ I của năm học 1971-1972 trường rời xã Nam Phúc sơ tán lên xã Thanh Hà, huyện Thanh Chương.
- Sau khi hiệp định Pari được ký kết vào ngày 27/1/1973 Mỹ chấm dứt chiến tranh và rút quân khỏi Việt Nam.
Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm
Trường được lệnh chuyển về Vinh.
Năm 1976 do học sinh tăng lên nên chia làm hai trường cấp III Vinh I và cấp III Vinh II
Trong thời gian từ năm 1976 - 1985 trường mang tên là cấp III Vinh I
- Về Vinh trường được tọa lạc trên một mảnh đất rộng rãi trên đường Lê Hồng Phong (nay là trường Chính trị Nghệ An) hệ thống lớp học được mở rộng, học sinh tăng lên, cơ sở vật chất tăng lên, giáo viên và nhân viên cũng được tăng lên.
Thầy và trò hăng say xây dựng trường mới, hăng say học tập giảng dạy và đạt được nhiều thành tích tốt đẹp
GV Hỏi: Trong thời gian từ năm 1955 đến 1975 trường Huỳnh Thúc Kháng đã có những giáo viên và học sinh tiêu biểu nào?
* Những năm 1986 - 2010
Từ năm học 1986 - 1989 trường được xây dựng cơ sở mới ở phường Hưng Bình
- Trong thời gian này có nhiều thầy giáo tiêu biểu như: Nguyễn Cửu Cúc, Hoàng Kim Hải, Hoàng Triều, Nguyễn Đức Bính, Lê Trung Thuận, Nguyễn Tài Đại, Phạm Nhượng là nhưng thầy giáo hiệu trưởng của nhà trường từ năm 1955- 1975.
Từ năm 1989 - 1990 trường chuyển về đặt điểm ngày nay, cơ sở vật chất từng bước được xây dựng khang trang Thầy Nguyễn Văn Đàn, Hoàng Thiệu Khang, Nguyễn Văn Bàng, Ninh Viết Giao, Tôn Gia Các…
Thầy trò thi đua lập nhiều thành tích:
+ Liên tục đạt danh hiệu trường TTXS của tình:
Nhiều học sinh trong thời kỳ này đã nhận được những trọng trách ở nhiều lĩnh vực khác nhau: Hồ Tế (Bộ trưởng Bộ Tài chính), Nguyễn Chí Vu (Bộ trưởng Bộ công nghiệp nhẹ…
+ Tỷ lệ đậu TN, ĐH cao, có nhiều học sinh giỏi quốc gia;
+ Năm 1995: Huân chương lao động hạng 3
Sau khi thắng Mỹ năm 1975, Miền nam hoàn toán giải phóng, tổ quốc Việt Nam đã hoàn toán thống nhất. Cuối năm 1975 hợp nhất 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thành một tỉnh. Từ trong đổ nát của chiến tranh, Nghệ Tĩnh phải vượt qua thử thách nặng nề. Trong hoàn cảnh ấy Trường PTTH Huỳnh Thúc Kháng cùng với toàn ngành giáo dục tiếp tục phấn đấu vượt lên.Từ năm học 1976-1977 trường được mang tên mới là trường cấp III Vinh I, co 28 lớp với các thầy giáo và
Kiến thức cần nắm
Hoạt động của giáo viên và học sinh cô giáo tận tâm với nghề như thầy Phạm Nhượng, Phạm Nguyên Lượng, Nguyễn Xuân Phong, Đặng Văn Luyện, Ngô Quát, Nguyễn Cảnh Đính, Mai Xuân Bình, …
Đời sống của giáo viên và học sinh còn gặp nhiều khó khăn, vất vả nhưng thầy và trò vẫn hăng say xây dựng trường mới, hăng say học tập giảng dạy và đạt nhiều thành tích tốt đẹp. Tỷ lệ đậu tốt nghiệp hàng năm từ 92% - 100%. Tỷ lệ đỗ Đại học, Cao đẳng từ 48% - 62%. Học sinh giỏi tỉnh hằng năm từ 12 - 56 em. Trường liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến, nhiều năm đạt tiên tiến xuất sắc của tỉnh. Đặc biệt trường luôn là đơn vị dẫn đầu về chất lượng dạy và học thể hiện ở kết quả thi đại học và học sinh giỏi hằng năm.
Tiếp nối thời kỳ trước từ năm học 1985 - 1986 thầy và trò tiếp tục dạy và học ở cơ sở cũ tại phường Hưng Dũng. Từ năm 1986 - 1989 cơ sở mới được xây dựng tại phường Hưng Bình.
+ Năm 2000 được tặng huân chương độc lập hạng 3
+ Năm học 2007 - 2008 trường được công nhận là trường đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2001 - 2010;
Từ năm 1989 - 1990 trường chuyển về địa điểm ngày nay và đi vào ổn định. Thầy và trò tập trung vào nhiệm vụ giảng dạy học tập. Cơ sở vật chất từng bước được xây dựng khang trang trong khuôn viên mới với diện tích 16.000 m2 với 42 trường học, các thực hành Lý, Hoá, Sinh, Tin, nhà đa chức năng phục vụ cho các hoạt động tập thể, …
+ Năm 2010 trong dịp kỷ niệm 90 năm thành lập trường, trường đã vinh dự đón nhận danh hiệu anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới do chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết phong tặng - GV hỏi: Từ năm 1986 đến nay thầy và trò trường THPT Huỳnh Thúc Kháng đã đạt được những thành tích tiêu biểu nào?
4. Củng cố:
- Qua những buổi học Truyền thống các em nắm được
+ Tiểu sử cụ Huỳnh Thúc Khàng;
+ Các giai đoạn của nhà trường;
+ Các thành tích đạt được.
5. Bài tập thu hoạch
Câu 1: Mục đích của việc học tập phòng truyền thống?
Câu 2: Suy nghĩ của em khi được tìm hiểu phòng truyền thống và lịch sử
trường?
Câu 3: Các giai đoạn phát triển của nhà trường và thành tích đạt được?
Câu 4: Em hãy kể tên một số giáo viên và học sinh tiêu biểu của trường
qua các thời kì?
Câu 5: Là học sinh của trường, em sẽ làm gì để viết tiếp những trang sử
vàng của THPT Huỳnh Thúc Kháng?
Phụ lục 5 MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP TẠI TRƯỜNG THPT HUỲNH THÚC KHÁNG
Tiết mục Sử thi nghệ thuật: Cuộc đời và sự nghiệp nhà chí sỹ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng và quá trình phát triển của nhà trường
Chương trình chào đón K98: RADIO 196X
Chương trình chào đón K99: EPOCH
Tuổi trẻ trường THPT Huỳnh Tháng Kháng tham gia “Lễ thắp nến tri ân”
Tham quan học tập tại di tích lịch sử Truông Bồn
Hoạt cảnh “Cô dân quân làng Đỏ”
Phụ lục 6 MỘT SỐ BÀI THU HOẠCH CỦA HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP