
Trường Trung cấp Tây Sài Gòn
GIÁO TRÌNH ĐÔNG DƯỢC Trang 1
TRƯỜNG TRUNG CẤP TÂY SÀI GÒN
GIÁO TRÌNH
ĐÔNG DƯỢC
(Dùng đào tạo Y sỹ YHCT)
Tài liệu lưu hành nội bộ
Tp.HCM. 07/2020

Trường Trung cấp Tây Sài Gòn
GIÁO TRÌNH ĐÔNG DƯỢC Trang 2
MỤC LỤC
Đại cương về Y học cổ truyền ............................................................................................. 3
Các học thuyết cơ bản của Y học cổ truyền. ...................................................................... 14
Các tính năng của thuốc (tính năng dược vật)…………………………………… 23
Các nguyên nhân gây bệnh và nguyên tắc chữa bệnh theo YHCT .................................... 29
Tạng phủ và các hội chứng của tạng phủ ........................................................................... 43
Phân loại đôn dược…………………………………………………………………58
Thuốc giải biểu .......................................................................................................... 58
Thuốc khử hàn .......................................................................................................... 73
Thuốc thanh nhiệt .......................................................................................................... 81
Thuốc hóa đờm, chi khái, bình suyễn .............................................................................. 107
Thuốc an thần ........................................................................................................ 117
Thuốc lý khí ........................................................................................................ 122
Thuốc lý huyết ........................................................................................................ 129
Thuốc lợi thủy ........................................................................................................ 140
Thuốc trừ thấp ........................................................................................................ 147
Thuốc tả hạ ........................................................................................................ 155
Thuốc tiêu đạo ........................................................................................................ 161
Thuốc cổ sáp ........................................................................................................ 164
Thuốc bổ dưỡng ........................................................................................................ 168
Tài liệu tham khảo ........................................................................................................ 183

Trường Trung cấp Tây Sài Gòn
GIÁO TRÌNH ĐÔNG DƯỢC Trang 3
Chương 1
ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐÔNG DƯỢC
(BÀI ĐỌC THÊM)
MỤC TIÊU:
Sau khi học xong, học sinh có khả năng:
1. Trình bày được đặc điểm lịch sử của nền y học và dược học dân tộc Việt Nam
qua các thời đại.
2. Trình bày khái quát 3 ý nghĩa của việc kết hợp y học hiện đại với y học cổ
truyền.
3. Trình bày được những biện pháp cơ bản để thực hiện việc kết hợp y học hiện
đại với y học cổ truyền.
NỘI DUNG:
1. Sơ lược lịch sử y học dân tộc Việt Nam qua các thời đại:
Nền y học cổ truyền Việt Nam được bắt nguồn từ một nền y học dân gian
phong phú, thông qua thực tiễn nhiều đời, các kinh nghiệm quý báu đã được đúc kết
và truyền lại cho đến ngày nay. Cơ sở lý luận của y học cổ truyền dựa trên các lý luận
triết học duy vật cổ đại (học thuyết âm dương, ngũ hành…) và được vận dụng vào
mọi lĩnh vực, từ phòng bệnh chẩn trị, xây dựng phương thuốc, bào chế thuốc, đến sử
dụng thuốc. Y học cổ truyền vốn có một nền tảng vững chắc, dựa trên hệ thống lý
luận đã được ghi chép thành văn bản. Nền y học dân gian Việt Nam lại được bổ sung
thêm các kinh nghiệm dân gian, càng làm tăng tính phong phú cho y học cổ truyền. Vì
thế, đây là một nền y học của dân, do dân, vì dân, có tính chất quần chúng rộng rãi,
tính sáng tạo và tính nhân đạo sâu sắc. Y học cổ truyền Việt Nam được tiếp thu tinh
hoa của nền y học nước ngoài. Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông là người đầu tiên có
công Việt Nam hóa nền y học cổ truyền Việt Nam. Ngày nay, dưới ánh sáng các nghị
quyết của Đảng cộng sản Việt Nam và được quan tâm của Bác Hồ vĩ đại, y học cổ
truyền dân tộc Việt Nam ngày càng được phát triển.
1.1. Tình hình Y học cổ truyền thời thượng cổ:
Căn cứ vào những di chỉ được khảo sát ở các hang người vượn ở Thẩm
Khuyến, Thẩm Hai (Lạng Sơn), Thẩm Óm (Nghệ An), những di tích sở kỳ đồ đá ở
núi Đọ (Thanh Hóa), lưu vực sông Đồng Nai,… đã chứng minh rằng trên lãnh thổ
Việt Nam, con người đã từng sinh sống cách đây hàng chục vạn năm. Các chứng
minh quá trình phát triển từ người vượn thành người hiện đại ở Việt Nam diễn ra khá
sớm, thông qua các dấu tích của người hiện đại (Homo-Sapiens) ở Hang Hùm (Hoàng
Liên Sơn), Kéo Lèng (Lạng Sơn), hang Thung Lang (Hà Nam Ninh).

Trường Trung cấp Tây Sài Gòn
GIÁO TRÌNH ĐÔNG DƯỢC Trang 4
Thời Hồng Bàng và các vua Hùng 2879 - 257 trước công nguyên, từ năm 1110
TCN, người Việt Nam đã có tục ăn trầu (nhai lá Trầu tươi với hạt Cau, Vôi và rễ Vỏ),
đồng thời có tục lệ nhuộm răng đen bằng phèn (Cánh kiến đỏ, Vỏ Lựu, Ngũ bội tử).
Phong tục ăn trầu, nhuộm răng với mục đích bảo vệ răng miệng, làm chắc răng, thơm
miệng, tránh sâu răng, giúp da mặt ấm áp, hồng hào, tươi tắn. Thói quen sử dụng
Gừng, Tỏi, Ớt làm gia vị trong ăn uống hằng ngày, vừa giúp tiêu hóa tốt, vừa giúp
phòng chống các bệnh đường ruột. Người dân miền núi còn có tập tục ăn Ý dĩ và
uống nước củ Riềng để chống ẩm thấp và phòng chống sốt rét rừng.
Từ thế kỷ III TCN, nhân dân nước Âu Lạc (tên nước ta thời đó) đã biết nấu
rượu để uống và làm thuốc.
Cuối thế kỷ III TCN, ở Nam Việt Giao Chỉ đã phát hiện các cây thuốc như Sắn
dây, Gừng, Riềng, Đậu khấu, Ích trí, lá Lốt, Sả, Quế, Quan âm, Vông nem…
Năm 218, Tần Võ Đế dùng hoa Đậu khấu phá khí, tiêu đờm, tăng tửu lượng rất
hiệu nghiệm; hoa Sơn khương trị khí lạnh, sản xuất ở Cửu Chân Giao Chỉ, Ông An
Kỳ sinh đã lấy Xương bồ 9 đốt ở núi Lạng Gián (Đông Triều) Phía đông thành Phiêu
Ngung ( Cổ loa) để uống rồi thành tiên. Hạp đẳng (Bàm bàm) còn gọi là Đậu voi dùng
để giải các loại thuốc độc. Tân lang (Cau) ăn với Trần để hạ khí, tiêu cơm. Sau đó,
hàng loạt các vị thuốc khác đã được phát hiện và sử dụng như: Mộc hương, An tức
hương, Hương phụ, Giáng chân hương, Quế, Tê giác.
1.2. Tình hình y học cổ truyền từ 179 TCN đến 938 sau công nguyên:
Từ năm 179 TCN, nước Âu Lạc đã sát nhập với nước Việt Nam của Triệu Đà.
Đến năm 111 TCN, cả nước Việt Nam đã bị nhà Hán thôn tính. Từ đó, nước ta đặt
dưới quyền đô hộ của các triều đại Hán, Ngụy, Tần, Tống, Tề, Tùy, Đường. Đến năm
938 sau công nguyên, nước ta mới giành được độc lập. Trong thời gian này, người
Trung Quốc đã lấy nhiều vị thuốc của chúng ta để đem về nước như: Ý dĩ, Sử quân tử,
Hoắc hương, Đậu khấu, Sắn dây, Sả,…
Trong thơi gian này, nhiều thầy thuốc Trung Quốc cũng sang Việt Nam để
hành nghề khám và trị bệnh. Năm 1187 - 226, Đồng Phụng đã sang chữa bệnh cho Sĩ
Nhiếp. Năm 479 - 501, Lâm Thắng sang Việt Nam để trị khỏi bệnh thấp, bụng trướng
của vợ Âm Kiên. Thân Quang Tôn đã thành công trong việc dùng Gừng khô, Hồ tiêu
để trị bệnh buốt óc cho Tôn Trọng Ngạc.
Những sự kiện trên đã chứng tỏ rằng: sự giao lưu y học cổ truyền giữa Việt
Nam và Trung Quốc đã có từ rất lâu.
1.3. Y học cổ truyền dưới các triều Ngô, Đinh, Lê, Lý (938 - 1224)
Năm 938, nền độc lập của nhà nước phong kiến Việt Nam được thiết lập. Mở
đầu là nhà Ngô, tiếp theo là nhà Đinh, Lê, Lý. Dưới các triều đại này, chưa tìm thấy
tài liệu nào ghi chép về hệ thống tổ chức y tế.
Đến nhà Lý, nước ta đã có nhiều thầy thuốc chuyên nghiệp, triều đình đã có Ty
thái y, trong đó có các ngự y chuyên chăm sóc sức khỏe cho vua. Năm 1136, vua Lý

Trường Trung cấp Tây Sài Gòn
GIÁO TRÌNH ĐÔNG DƯỢC Trang 5
Thân Tông phát bệnh điên cuồng, mình mọc đầy lông dài, miệng luôn gào thét, đã
được Minh Không thiền sư điều trị khỏi bằng cách cho tắm nước Bồ hòn.
1.4. Y học cổ truyền dưới triều nhà Trần (1225 - 1399)
Thời kỳ này, Nho học phát triển mạnh. Về y học, có Ty thái y sau nâng lên
thành Viện thái y với chức năng chăm sóc sức khỏe cho vua quan trong triều đình,
đồng thời có nhiệm vụ quản lý y tế trong cả nước. Khi có bệnh dịch, triều đình đã có
chủ trương phát thuốc cho dân để chữa bệnh. Năm 1362, vua Trần Dụ Tông đã cho
cấp phát tiền gạo và thuốc viên Hồng ngọc sương hoàn để chống dịch cho nhân dân ở
hạt Tam Đới (Phú Thọ) và phủ Thiên Tường (Hà Nam Ninh).
Từ năm 1201, nhà Trần đã mở các khóa thi để tuyển lương y vào làm việc
trong Viện thái y. Viện thái y đã chỉ đạo việc đào tạo thầy thuốc và có kế hoạch thu
trữ, cấp phát dược liệu, phục vụ công tác trị bệnh cho vua quan và quân đội. Viện thái
y đã thường xuyên tổ chức đi hái thuốc mọc hoang ở núi An Tử, Đông Triều. Lúc
này, Phạm Ngũ Lão phụ trách việc trồng thuốc ở Phả Lại (vườn thuốc Vạn An và
Dược Sơn xã Hưng Đạo, huyện Chi Lih ngày nay) để tự túc thuốc men, không phụ
thuộc vào thuốc Trung Quốc (vì lúc này đang có sự bất hòa với phong kiến Nguyên
Mông). Như vậy, ông cha ta đã tiến hành việc trồng thuốc và thu hái thuốc mọc hoang
từ khá sớm. Trong thời này, Tuệ Tĩnh, một nhà sư, cũng là một lương y, đã gây dựng
phong trào trồng thuốc ở các đền chùa, vườn nhà để phục vụ việc trị bệnh cho dân.
Cũng từ đó, xuất hiện ý thức trồng cây thuốc trong cộng đồng người Việt, có những
làng chuyên trồng thuốc như Đại Yên (Ba Đình - Hà Nội), Nghĩa Trai (Văn Lâm - Hải
Hưng) mà ngày nay vẫn còn truyền thống.
Song song với việc dùng thuốc để trị bệnh, phương pháp châm cứu cũng được
tin dùng hơn trước. Trâu Canh là con Trâu Tôn, thầy thuốc của quân Nguyên Mông bị
bắt và xin ở lại Việt Nam làm nghề thuốc đã cứu sống Trần Hạo (Trần Dụ Tông), khi
đó mới 4 tuổi, khỏi bị chết đuối.
Dưới thời nhà Trần, đã xuất hiện một số thầy thuốc tiêu biểu của Việt Nam
như:
- Phạm Công Bân (Cẩm Bình - Hải Dương) giữ chức Thái y lệnh từ 1278 -
1314, ngoài việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, ông còn bỏ tiền riêng để
mua sắm thuốc men, dựng nhà nuôi dưỡng bệnh nhân nghèo bị tàn tật, hoặc
trẻ mồ côi cơ nhỡ.
- Tuệ Tĩnh còn gọi là Nguyễn Bá Tĩnh đã đề xuất tư tưởng “Nam dược trị
Nam nhân - thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt”, dùng thang thuốc tại
chỗ để chữa bệnh kịp thời. Ông đã biên soạn cuốn Nam dược thần hiệu với
499 vị thuốc và các phương thuốc nam dùng điều trị 184 loại bệnh. Quyển
sách của ông đã được Hòa thượng bản lai biên tập, bổ sung và in khắc lại
năm 1761. Quyển Nam được chỉnh bản (có tựa của Chúa Trịnh-1717) gồm
2 quyển Nam dược quốc ngũ phủ gồm 590 vị thuốc và Trực giải chỉ nam
dược tính phủ gồm 220 vị. Sau này đổi tên là Hồng nghĩa giác tư y thư.