intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Kỹ năng sống (Nghề: Công tác xã hội) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình

Chia sẻ: Calliope09 Calliope09 | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:98

93
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Kỹ năng sống với mục tiêu giúp các bạn có thể trình bày được khái niệm, tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống trong trường học nói riêng và ngoài cuộc sống nói chung. Nhận biết được những kỹ năng sống quan trọng trong việc phát triển bản thân của nhân viên công tác xã hội và các bước thực hiện các kỹ năng đó.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Kỹ năng sống (Nghề: Công tác xã hội) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN: KỸ NĂNG SỐNG NGHỀ: CÔNG TÁC XàHỘI TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG/TRUNG CẤP Ban hành kèm theo Quyết định số:    /QĐ­TCGNB, ngày…….tháng….năm 2018 của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình
  2. Ninh Bình, năm 2018 TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể  được pháp dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và  tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh  doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
  3. LỜI GIỚI THIỆU Giáo dục kĩ năng sống là môn học hiện nay đang được hơn 155 nước trên  thế  giới quan tâm và đưa vào nhà trường, trong đó có 143 nước đã đưa vào  chương trình học chính khóa.  Ở  một số  nước,  kĩ năng sống được hướng vào   giáo dục vệ sinh, dinh dưỡng và phòng bệnh. Một số nơi khác, giáo dục kĩ năng  sống nhằm vào giáo dục hành vi, cách cư xử, giáo dục an toàn trên đường phố,  giáo dục bảo vệ  môi trường, giáo dục phòng chống HIV/AIDS hay giáo dục  lòng yêu hòa bình… Ở  Việt Nam trong khoảng một vài năm trở  lại đây giáo dục kỹ  năng  sống cũng đã bắt đầu được triển khai rộng rãi tại các trường học nhưng đa  phần chủ yếu tại các thành phố lớn. Đối với học sinh, sinh viên học nghề đây  là một môn học khá mới mẻ nhưng lại rất bổ ích với các em. Nhất là với các   em sinh viên học ngành công tác xã hội thì việc các em có nhận thức về chính  bản thân mình, có được các kỹ  năng  ứng xử  phù hợp với bản thân và cuộc   sống thì lại càng trở  nên cấp thiết hơn; vì chỉ  khi các em có các kỹ  năng tự  giúp chính mình các em mới có thể giúp đỡ những người khác.  Với nhận thức đó, dựa trên cơ  sở  chương trình khung đã ban hành của  Tổng cục dạy nghề về chương trình môn học kỹ  năng sống, cũng như  tham   khảo một  số chương trình viết về môn học này dành cho học sinh THPT và  một số  tài liệu khác có liên quan,  chúng tôi đã biên soạn tập bài giảng môn   học này để  làm tài liệu nội bộ  trong trường và khoa để  sinh viên các ngành   công tác xã hội trong trường thuận lợi hơn trong việc học tập và nghiên cứu.  Tuy nhiên, do đây là môn học còn khá mới mẻ, chương trình giáo trình,  tài liệu tham khảo còn rất thiếu thốn. Mặt khác do năng lực cũng như  thời  gian của giáo viên biên soạn còn nhiều hạn chế do vậy tập bài giảng này còn  nhiều thiếu sót. Chúng tôi xin trân trọng cảm  ơn và mong muốn nhận được  nhiều sự đóng góp từ các thầy cô giáo cũng như của các em sinh viên, để tập  bài giảng sẽ được chỉnh sửa, bổ sung ngày càng hoàn thiện hơn. Xin trân thành cảm ơn!                                  Ninh Bình, ngày…....tháng…...năm 2018
  4. Tham gia biên soạn: 1. Nguyễn Thị Lành 2.  3.  MỤC LỤC
  5. GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN Tên mô đun:  Kỹ năng sống Mã mô đun: MĐ 11 Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của mô đun:  ­ Vị trí mô đun: Kỹ năng sống là mô đun đào tạo cơ sở quan trọng trong  chương trình đào tạo cao đẳng nghề  công tác xã hội. Một nhân viên công tác  xã hội cần phải có những kỹ  năng sống thiết thực   liên quan tới việc phát  triển bản thân mình và từ đó trợ giúp đối tượng một cách có hiệu quả.  ­ Tính chất của mô đun: Là mô đun đào tạo cơ sở bắt buộc. Mục tiêu của mô đun:  ­ Kiến thức + Trình bày được khái niệm, tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống  trong trường học nói riêng và ngoài cuộc sống nói chung. + Nhận biết được những kỹ năng sống quan trọng trong việc phát triển  bản thân của nhân viên công tác xã hội và các bước thực hiện các kỹ năng đó ­ Kỹ năng: + Vận dụng các kỹ  năng vào thực tế  cuộc sống bản thân và tập huấn  cho các đối tượng mình phục vụ ­ Năng lực tự chủ và trách nhiệm:   + Rèn luyện được sự  tự  tin trong cuộc sống, cởi mở  trong giao tiếp,   thiết lập mục tiêu phù hợp cho bản thân, sống tích cực. Nội dung của mô đun: BÀI 1: KHÁI NIỆM CHUNG VỀ KỸ NĂNG SỐNG Mã bài: MĐ 05 – B01
  6. Mục tiêu ­ Kiến thức: + Trình bày được khái niệm kỹ  năng sống, tầm quan trọng của giáo  dục kỹ năng sống cho sinh viên. + Nhận biết được các kỹ  năng cần rèn luyện và vận dụng trong cuộc   sống. ­ Kỹ năng: + Áp dụng được kiến thức đã học trong việc phân biệt ký năng sống   với các loại kỹ năng khác ­ Năng lực tự chủ và trách nhiệm: + Ý thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống đối với bản thân và   người khác Nội dung chính:  1. Khái niệm kỹ năng sống Kỹ năng sống (Life skill) là tập hợp các khái niệm nói một cách rộng ra   có nghĩa là “giáo dục cách sống”. Kỹ năng sống là những khả  năng cho phép  con người thích nghi và đối mặt với những đòi hỏi cũng như những thử thách   hàng ngày, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn đối phó với sự  thay đổi   của môi trường hay thiên nhiên. Các kỹ năng sống trọng yếu là các kỹ năng cá nhân hay xã hội giúp mỗi  người truyền đạt những điều họ  biết (Kiến thức), những gì họ  suy nghĩ hay  cảm nhận (Thái độ) và những gì họ  tin tưởng (Giá trị) trở  thành khả  năng  thực tiễn về những gì cần làm và làm như thế nào (Hành vi). Hiện nay, có nhiều cách định nghĩa về kĩ năng sống như:  Theo Tổ  chức Y tế  Thế giới (WHO):  Kĩ năng sống là những kĩ năng  mang tính tâm lí xã hội và kĩ năng về  giao tiếp được vận dụng trong những  tình huống hàng ngày, để  tương tác một cách hiệu quả  với người khác, để  giải quyết vấn đề và những căng thẳng phát sinh trong cuộc sống
  7. Theo Quĩ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF):  Kĩ năng sống là tập  hợp rất nhiều kĩ năng tâm lí xã hội và giao tiếp cá nhân giúp cho con người   đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển   các kĩ năng tự xử lí và quản lí bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành  mạnh và có hiệu quả. Từ  kĩ năng sống thể  hiện thành những hành động cá  nhân và những hành động đó sẽ  tác động đến hành động của những người   khác cũng như  dẫn đến những hành động nhằm thay đổi môi trường xung   quanh, giúp nó trở nên lành mạnh.  Tuy có nhiều cách hiểu về  kỹ  năng sống là khác nhau nhưng chúng ta   có thể nhận thấy những nội dung tương đồng, kĩ năng sống là những bài học   về thực hành giúp các cá nhân phát triển bản thân (hiểu bản thân, tự tin), có   mối quan hệ  tốt với người khác, với công việc và tạo dựng một môi trường   sống lành mạnh.    Một số đặc điểm của kĩ năng sống: ­ Kĩ năng sống là những kĩ năng được hình thành trong một môi trường   xã hội nhất định. Nó không phải là một sản phẩm tất yếu của tự nhiên mà nó  có quá trình hình thành và phát triển trong môi trường xã hội của loài người. ­ Vai trò, vị  trí xã hội của mỗi người  ở  những hoàn cảnh xã hội khác  nhau sẽ qui định việc hình thành, phát triển và vận dụng những kĩ năng sống   khác nhau. ­ Đặc trưng tâm lí, văn hoá xã hội, địa lí của mỗi dân tộc, vùng miền sẽ  qui định việc hình thành, phát triển và vận dụng các kĩ năng sống khác nhau.   Ví dụ như người vùng biển sẽ cần những kĩ năng sống khác với người vùng   núi, người khu vực Châu Á có những kỹ năng sống khác với người Châu Âu,   người Việt Nam có những kỹ năng sống khá khác biệt với người Nhật… Mặc dù có nhiều thành phần khác nhau tham gia vào việc hình thành kĩ   năng sống nhưng người ta thường tập trung vào những kĩ năng cơ  bản nhất   để  tăng cường sức khỏe tâm lí và sự  lành mạnh về  tinh thần như  kỹ  năng  
  8. nhận thức, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng kiên định và từ chối, kỹ năng xác   định mục tiêu và lập kế hoạch... 2. Khái niệm giáo dục kỹ năng sống Giáo dục kĩ năng sống được áp dụng theo nhiều cách khác nhau. Ở một  số nơi, kĩ năng sống được hướng vào giáo dục vệ sinh, dinh dưỡng và phòng  bệnh. Một số  nơi khác, giáo dục kĩ năng sống nhằm vào giáo dục hành vi,  cách cư  xử, giáo dục an toàn trên đường phố, giáo dục bảo vệ  môi trường,   giáo dục phòng chống HIV/AIDS hay giáo dục lòng yêu hòa bình… Có thể  hiểu: Giáo dục kỹ  năng sống là hình thành cách sống tích cực   trong xã hội hiện đại, là xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi   những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức,   giá trị, thái độ và các kỹ năng thích hợp (Chuyên đê ̀“Ky ̃năng sống” – PGS.TS  Phan Thanh Bình). Như vậy giáo dục kỹ năng sống có thể hiểu  là giáo dục cách sống tích   cực của mỗi người trong xã hội dựa trên cơ sở mỗi người thay đổi kiến thức,   thái độ, giá trị và mục tiêu đạt đến là thay đổi hành vi của họ. 3. Sự cần thiết phải giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên Lứa tuổi học sinh sinh viên học nghề đang nằm trong lứa tuổi vị thành  niên và giai đoạn đầu của tuổi thanh niên, lứa tuổi này các em đang trong giai   đoạn trưởng thành về  mặt thể  chất và tinh thần. Do vốn kiến thức và kinh  nghiệm còn hạn chế nên các em khó thích ứng với hoàn cảnh và yêu cầu của   môi trường cũng như  của xã hội. Do vậy việc giảng dạy môn học kỹ  năng  sống là hết sức cần thiết giúp các em có thêm kiến thức, lĩnh hội được những   kinh nghiệm và tăng cường khả  năng tự  tin, độc lập của các em trong cuộc   sống. Cụ thể những đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi này như thế nào chúng  ta cùng tìm hiểu mục 3.1 dưới đây:
  9. 3.1 Đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh sinh viên    Lứa tuổi học sinh học nghề từ 15­20 tuổi hoặc 25 tuổi trở lên. Đây là  lứa tuổi mới lớn, đang trong thời kỳ trưởng thành về cả mặt thể chất và tinh   thần, là thời kỳ  xác định về  mặt xã hội, tích cực tham gia các hoạt động xã  hội, chuẩn bị cho cuộc sống tự lập.  a. Sự thích nghi của học sinh, sinh viên với cuộc sống và hoạt động mới ­ Hoạt động học tập, hoạt động xã hội và môi trường sống của học  sinh học nghề có những nét đặc trưng và đòi hỏi khác về chất so với lứa tuổi   trước đó. Để  hoạt động học tập có kết quả, trong thời gian  ở  trường dạy   nghề học sinh phải thích nghi với hoạt động học tập, hoạt động xã hội cũng  như các sinh hoạt trong đời sống tập thể học sinh.  Quá trình thích nghi này tập trung chủ yếu ở các mặt: + Nội dung học tập mang tính chuyên ngành + Phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu khoa học.  + Môi trường sinh hoạt mở rộng phạm vi quốc gia, thậm chí quốc tế + Nội dung và cách thức giao tiếp với thầy cô giáo bạn bè và các tổ  chức xã hội phong phú đa dạng... Vì vậy, cần có một thời gian nhất định để học sinh làm quen, thích ứng  với những vấn đề  trên. Sự  thích  ứng này đối với mỗi học sinh không hoàn   toàn như nhau,  tuỳ thuộc vào những đặc điểm tâm lý cá nhân và môi trường  sống cụ  thể  của họ  quy định. Có những học sinh dễ  dàng nhanh chóng hoà   nhập với môi trường xã hội mới, nhưng lại gặp khó khăn trong phương pháp,  cách thức học ở trường dạy nghề. Có người cảm thấy ít khó khăn trong việc  tiếp   thu   tri   thức,   dễ   vượt   qua   cách   học   chuyên   sâu   ở   các   trường   chuyên  nghiệp, nhưng lại lúng túng, thiếu tự  nhiên trong việc hoà nhập với bạn bè,   với các nhóm hoạt động trong lớp, trong trường dạy nghề. Một số sống hoà  đồng, cởi mở với mọi người, trong khi một số khác lại thường  ở  dạng thận  trọng khép kín. 
  10. Nhìn chung, sau một thời gian học tập  ở  trường dạy nghề  đa số  học   sinh thích ứng khá nhanh chóng với môi trường xã hội mới trên cơ sở tình bạn  của những người trẻ  tuổi. Khó khăn có tính chất bao trùm hơn vẫn là phải   thích nghi được với nội dung, phương pháp học tập mới có tính chất nghiên   cứu khoa học và học nghề. Mức độ  thích nghi này có  ảnh hưởng trực tiếp   đến thành công trong học tập của họ.  Ở  đây bản thân người học  gặp một   loạt mâu thuẫn cần phải giải quyết, chẳng hạn: ­ Mâu thuẫn giữa  ước mơ, kỳ  vọng của học sinh với khả  năng điều   kiện để thực hiện ước mơ đó.  ­ Mâu thuẫn giữa mong muốn học tập, nghiên cứu sâu môn học mà  mình yêu thích với yêu cầu thực hiện toàn bộ chương trình học theo thời gian  biểu nhất định.  ­ Mâu thuẫn giữa lượng thông tin rất nhiều trong xã hội hiện tại với   khả năng và thời gian có hạn... Để  phát triển, học sinh phải giải quyết các mâu thuẫn này một cách  hợp lý.  b. Sự phát triển về nhận thức và trí tuệ      Bản chất hoạt động nhận thức của những người học sinh học nghề là   đi sâu,  tìm hiểu những môn học, những chuyên ngành khoa học cụ  thể một  cách chuyên sâu để  nắm được đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp, quy luật  của các khoa học đó với mục đích trở thành những chuyên gia về các lĩnh vực  nhất định. Hoạt động nhận thức của họ  một mặt phải kế thừa một cách có  hệ thống những thành tựu của khoa học kỹ thuật và có tính cập nhật thời sự.   Chính vì vậy, nét đặc trưng cho hoạt động học tập của học sinh là sự  căng  thẳng về  trí tuệ, sự  phối hợp của nhiều thao tác tư  duy như: phân tích, tổng   hợp, so sánh, trừu tượng hoá, khái quát hoá. Có thể nêu các đặc điểm sau đây   trong hoạt động nhận thức của học sinh học nghề: 
  11. + Học sinh học tập nhằm lĩnh hội các tri thức, hệ thống khái niệm khoa  học,  những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển nhân cách.  + Hoạt động học tập của học sinh học nghề  diễn ra một cách có kế  hoạch, mục đích, nội dung chương trình, phương thức phương pháp đào tạo  theo thời gian một cách chặt chẽ, không chỉ  bó hẹp trong chương trình môn   học mà mở rộng ra ở những lĩnh vực khác.  + Phương tiện hoạt động nhận thức của học sinh học nghề được mở  rộng và phong phú với các thư  viện phòng đọc, phòng thực nghiệm...Do đó,  phạm vi hoạt động nhận thức của họ đa dạng vừa rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo   nghề nghiệp vừa phát huy việc học nghề một cách rõ rệt.  + Hoạt động học tập của học sinh học nghề mang tính độc lập tự chủ,   sáng tạo cao. Hoạt động tư duy của học sinh trong quá trình học tập chủ yếu  là theo hướng phân tích diễn giải...  Học sinh phải tìm ra phương pháp học tập mới ở bậc chuyên nghiệp. * Tóm lại hoạt động nhận thức của học sinh thực sự  là hoạt động trí  tuệ đích thực, căng thẳng, cường độ cao có tính lựa chọn rõ rệt.   c. Sự phát triển động cơ học tập và khuynh hướng nghề nghiệp  ­ Động cơ  học tập chính là nội dung tâm lý của hoạt động học tập.   Động cơ  này bị  chi phối bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Có thể  là những  yếu tố  tâm lý của chính chủ  thể  như  hứng thú, tâm thế, niềm tin, thế  giới   quan, lý tưởng sống...Cũng có thể đó là những yếu tố nằm ngoài bản thân chủ  thể như những yêu cầu của gia đình, xã hội.  ­ Động cơ  học tập cũng có thể  nảy sinh do chính hoạt động và những  hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của hoạt động mang lại.  Động cơ  hoạt động của học sinh học nghề  rất phong phú và thường  bộc lộ rõ tính hệ thống. Trong đó việc học tập của họ không chỉ  bị  chi phối   bởi một động cơ mà thường là một số động cơ nào đó.
  12. + Những động cơ có tính chất nhận thức đối với chính quá trình nghiên  cứu,  học tập như khao khát có tri thức, có trình độ hứng thú, với những vấn   đề lý luận,  những vấn đề  khoa học, những nội dung có tính nghề nghiệp rõ  rệt, thích có nghề  nghiệp nghiêm chỉnh, muốn trở  thành chuyên gia của một  nghề... + Những động cơ  liên quan đến sự  tự  khẳng định, tự  ý thức về  năng  lực, phẩm chất của người thanh niên trưởng thành, những động cơ  có tính xã  hội, muốn cống hiến tài năng, sức lực cho xã hội, có hoài bão trong việc xây  dựng đất nước.   + Những động cơ  liên quan đến chính tương lai, đường đời của cá  nhân: có nghề nghiệp ổn định, có thu nhập nuôi sống mình, gia đình. . .  d. Đời sống tình cảm Tình cảm  ở  họ  nở  rộ  trên nhiều mặt, đây là lứa tuổi đẹp nhất trong  cuộc đời, gọi là tuổi xuân. Đời sống tình cảm của họ vô cùng phong phú, họ  có các loại tình yêu: Yêu đời, yêu cuộc sống, yêu bạn, tình yêu nam nữ. . .  +  Tình yêu cuộc sống: Thường làm cho học sinh nhìn về  thuận lợi,   mặt tích cực của cuộc sống. Họ  thường ít lường trước những khó khăn vấp  váp trong cuộc sống. Họ  sống rất lạc quan và bất chấp mọi khó khăn thách   thức, sẵn sàng vượt qua mọi trở ngại để thực hiện mục đích đã được đặt ra.  + Tình bạn: Tình bạn được xây dựng từ nhiều cơ sở khác nhau, có khi   từ cùng sở thích và hứng thú, có khi từ sự tương hợp các nét tính cách, có khi  từ sự giống nhau về năng lực, cùng quê hương.  Họ có xu hướng xã hội rõ ràng, tế nhị trong giao tiếp, rộng lượng và có tâm   hồn phong phú. Do đặc điểm trên mà ở thanh niên học nghề thường thấy tình bạn ở họ  có nhiều biểu hiện cụ  thể  dễ  thấy. Tình bạn đã làm cho họ  ăn với nhau, đi  chơi với nhau, thư từ cho nhau...
  13. Lứa tuổi học sinh sinh viên học nghề đang nằm trong lứa tuổi vị thành  niên và giai đoạn đầu của tuổi thanh niên, lứa tuổi này các em đang trong giai   đoạn trưởng thành về  mặt thể  chất và tinh thần. Do vốn kiến thức và kinh  nghiệm còn hạn chế nên các em khó thích ứng với hoàn cảnh và yêu cầu của   môi trường cũng như  của xã hội. Do vậy việc giảng dạy môn học kỹ  năng  sống là hết sức cần thiết giúp các em có thêm kiến thức, lĩnh hội được những   kinh nghiệm và tăng cường khả  năng tự  tin, độc lập của các em trong cuộc   sống. 3.2.  Những lý do khác cho thấy sự cần thiết phải giảng dạy kỹ năng sống   cho học sinh sinh viên  a. Kỹ năng sống thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội + Kỹ năng sống chính là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức  thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. + Giáo dục Kỹ năng sống sẽ  thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội  tích cực, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, giải quyết nhu cầu và quyền  con người, quyền công dân được ghi trong pháp luật Việt Nam và quốc tế.  b. Giáo dục Kỹ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ + Vì các em là những chủ nhân tương lai của đất nước. + Lứa tuổi sinh viên đang hình thành giá trị nhân cách, nếu không có Kỹ  năng sống các em sẽ không thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia  đình, cộng đồng và đất nước. c . Giáo dục Kỹ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục  hiện nay + Đảng ta xác định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự  phát triển xã hội. + Giáo dục Kỹ  năng sống cho sinh viên với bản chất là hình thành và  phát triển cho các em khả năng làm chủ  bản thân, khả  năng  ứng xử  phù hợp   với những người khác và với xã hội, khả  năng  ứng phó tích cực phù hợp 
  14. trước các tình huống của cuộc sống, rõ ràng và phù hợp với mục tiêu giáo dục  và rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. d. Giáo dục Kỹ năng sống trong nhà trường là xu thế chung của nhiều  nước trên thế giới: + Hiện nay đã có hơn 155 nước trên thế giới đã quan tâm đến việc đưa  Kỹ năng sống vào nhà trường, trong đó có 143 nước đã đưa vào chính khóa. + Việc giáo dục Kỹ năng sống cho học sinh và sinh viên ở các nước  được thực hiện theo 3 hình thức + Kỹ năng sống là một môn học riêng biệt. + Kỹ năng sống được tích hợp vào một vài môn học chính. + Kỹ năng sống được tích hợp vào nhiều hoặc tất cả các môn học trong  chương trình 4. Những kỹ năng sống cần được giáo dục cho học sinh sinh viên + Kỹ năng tự nhận thức + Kỹ năng xác định giá trị + Kỹ năng kiên định + Kỹ năng ra quyết định + Kỹ năng xác định mục tiêu + Kỹ năng làm giảm sự căng thẳng + Kỹ năng quản lý giận dữ + Kỹ năng tự chăm sóc bản thân Ngoài ra những kỹ năng sinh tồn cần phải có cũng cần phải giới thiệu  cho học sinh, sinh viên như: kỹ  năng phòng chống đuối nước, kỹ  năng xử  lý   khi bị  thương, kỹ  năng thoát hiểm trong một số  tình huống....và một số  kỹ  năng khác như: kỹ năng thuyết phục, kỹ năng phòng tránh lừa đảo, kỹ năng tư  duy, kỹ năng lắng nghe...Với đặc thù của nhân viên công tác xã hội là trợ giúp  thân chủ gặp khó khăn, đặc biệt sự hỗ trợ về mặt tinh thần, vì thế bản thân   nhân viên công tác xã hội cần có những kỹ năng về mặt tâm lý vững vàng. Do 
  15. đó trong chương trình này chúng tôi lựa chọn một số kỹ năng sống liên quan   đến phát triển bản thân để giới thiệu cho các em. BÀI 2: KỸ NĂNG TỰ NHẬN THỨC Mã bài: MĐ 11 ­B2 Mục tiêu ­ Kiến thức: Trình bày được khái niệm, vai trò của tự  nhận thức, đặc điểm  hình ảnh bản thân và các yếu tố ảnh hưởng đến hình ảnh bản thân ­ Kỹ năng: Thực hành kỹ năng tự nhận thức trong các bài tập cụ thể ­ Năng lực tự chủ và trách nhiệm: + Rèn luyện   được kỹ  năng tự  nhận thức để   ứng xử  phù hợp với các tình  huống cụ thể. + Chân thành, cởi mở với người khác để hiểu mình hơn Nội dung chính: 1.Tìm hiểu về kỹ năng tự nhận thức 1.1 Khái niệm kỹ năng tự nhận thức Kỹ  năng tự  nhận thức giúp sinh viên hiểu rõ về  bản thân mình: Đặc  điểm, tính cách, thói quen, thái độ, ý kiến, cách suy nghĩ, cảm xúc, nhu cầu  của chính mình, các mối quan hệ  xã hội cũng như  những điểm tích cực và  hạn chế  của bản thân. Tự  nhận thức là cơ  sở  rất quan trọng giúp cho việc  giao tiếp hiệu quả và có tinh thần trách nhiệm, dễ thông cảm đối với bạn bè   và những người khác. Tự nhận thức cũng liên quan đến kỹ năng xác định giá  trị, tức là thái độ, niềm tin của bản thân và điều mình cho là quan trọng hay   cần thiết. Nhận thức rõ về  bản thân giúp cá nhân thể  hiện sự  tự  tin và tính  kiên định để  có thể  giải quyết vấn đề  và ra quyết định hiệu quả. Tự  nhận   thức cũng giúp bản thân đặt ra những mục tiêu phấn đấu phù hợp và thực tế.   Như vậy có thể thấy muốn có được các kỹ  năng khác thì sinh viên cần phải  có kỹ năng tự nhận thức đầu tiên. Đa số  sinh viên có khát vọng học tập và rèn luyện để  phát triển bản 
  16. thân. Các em không chỉ học những kiến thức trong trường mà còn tích cực học  từ thực tế cuộc sống để thiết lập các mối quan hệ xã hội, tình cảm trong tình  bạn – tình yêu và giao tiếp nhóm. Do có kinh nghiệm khá phong phú về giao tiếp nên nhận thức của sinh  viên không chỉ hạn hẹp ở hoạt động học tập cá nhân đọc và nghiên cứu sách  vở, mà còn diễn ra rất mạnh mẽ trong các hình  thức hợp tác, chia sẻ  và trao  đổi với bạn bè. Đây là ưu thế của lứa tuổi sinh viên. Các em rất thích chia sẻ  ý tưởng, tài liệu học tập và thể  hiện lý trí phê phán cao với bạn bè. Tư  duy   phê phán cũng là nét đặc trưng của lứa tuổi sinh viên, nhất là khi tiếp nhận   các vấn đề xã hội như đạo đức, văn hóa, kinh tế, chính trị và quan hệ bạn bè,  đặc biệt là tình yêu sinh viên. Về nghề nghiệp, tuy các em chưa quan tâm sâu sắc, song việc làm và vị  trí kinh tế của nó luôn là vấn đề nóng bỏng trong ý thức và tình cảm của sinh   viên. Như vậy, tự ý thức là một kỹ năng sống quan trọng giúp mỗi sinh viên  nhận thức rõ hơn về  bản thân: Biết mình là ai, mình có những  ưu điểm và  nhược điểm gì, mình có điểm chung và những điểm riêng nào so với những   người khác. Từ  đó, sinh viên sẽ  chủ  động hơn trong việc rèn luyện kỹ  năng  tự nhận thức và có thái độ tự tin đối với những gì đã có, thấy được những gì  cần cố  gắng, biết mình muốn gì và không thích gì để  kiên định và ra quyết   định phù hợp Tự nhận thức là một trong những kĩ năng sống cơ  bản của con người.   Đó là khả năng giúp cá nhân hiểu rõ về bản thân mình: đặc điểm, tính cách,   thói quen, thái độ, ý kiến, cách suy nghĩ, cảm xúc, nhu cầu của chính mình,   các mối quan hệ xã hội cũng như  những đặc điểm tích cực và hạn chế  của   bản thân... Tất cả những yếu tố trên tạo dựng lên một cái nhìn chung của cá   nhân về bản thân – hay còn gọi đó là Hình ảnh bản thân của mỗi người. 
  17. 1.2 Ý nghĩa kĩ năng tự nhận thức Kĩ năng tự nhận thức giúp cá nhân:  ­ Biết mình có những khả năng gì, có những điểm mạnh, điểm yếu nào,  từ đó biết cách phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu để  hoàn thiện mình.  ­ Biết mình cần gì, muốn gì, từ đó biết chính xác con đường mình sẽ đi,  không lạc lối và bớt bối rối trước các lựa chọn quan trọng trong cuộc đời.  ­  Biết điều gì là quan trọng đối với mình, điều gì đem lại hạnh phúc  cho mình, từ  đó giúp cá nhân xác định được mục đích, mục tiêu và ý nghĩa  cuộc sống của mình.  ­ Giúp các em cảm thấy tự tin, biết khẳng định bản sắc riêng của mình,  đồng thời biết tôn trọng bản thân, tôn trọng những người khác, thừa nhận và  học hỏi những điểm tốt của người khác để hoàn thiện hơn. Tóm lại, việc tự  nhận thức giúp chúng ta hiểu về  bản thân mình hơn,   xây dựng hình ảnh  và quản lí bản thân tốt hơn, hoà nhập với mọi người hơn,  sống độc lập và hạnh phúc hơn.  1.3 Hình ảnh bản thân Kết quả của kĩ năng tự nhận thức đem đến cho cá nhân một sản phẩm  quan trọng, đó là hình  ảnh về  bản thân (Hình  ảnh bản thân).  Hình  ảnh bản  thân có một số đặc điểm cơ bản như sau:  1.3.1  Hình ảnh bản thân không bất biến ­ Hình  ảnh bản thân không phải là một sản phẩm sinh ra đã có. Nó  được hình thành dần dần theo quá trình trưởng thành và phát triển của mỗi cá   nhân, thông qua quá trình cá nhân nhận thức về bản thân mình.  ­ Hình ảnh bản thân định hình sớm, từ 5 ­ 7 tuổi trẻ đã có một hình ảnh   bản thân tương đối  ổn định. Nhưng hình  ảnh bản thân không phải là yếu tố  “nhất thành bất biến”. Chúng có thể thay đổi theo môi trường, mức độ  thành 
  18. công, mức độ trải nghiệm và những biến cố quan trọng mà cá nhân gặp phải  trong cuộc sống. 1.3.2 Hình ảnh bản thân có khuynh hướng tự khẳng định ­ Thông thường mỗi người đều muốn tạo dựng ở người khác một hình  ảnh tốt về bản thân mình vì hình ảnh đó tạo ra những yếu tố quan trọng trong   mọi tương tác xã hội. Những người có hình ảnh bản thân tích cực thường có  khuynh hướng hành động thành công trong cuộc sống và trong quan hệ  với   mọi người. Sự phản hồi tích cực từ bên ngoài sẽ giúp cá nhân củng cố những   hành vi tích cực và hình ảnh bản thân theo hướng tích cực hơn.  ­ Khi may mắn được người khác tin tưởng và hỗ trợ với những kì vọng   thực tế, cá nhân sẽ có khả năng phát huy tối đa tiềm năng của bản thân và nỗ  lực làm những việc mà nếu không có sự  ủng hộ  đó, họ  không bao giờ  vươn   tới. Ngược lại, những người có nhận thức tiêu cực về bản thân, coi mình như  kẻ thất bại, không có khả năng thì chỉ làm được ở một mức độ nào đó và họ  thường tự giới hạn năng lực của mình. 1.3.3  Sự hình thành hình ảnh bản thân chịu ảnh hưởng bởi những người thân   thuộc Trong quá trình sinh sống và phát triển cá nhân chịu tác động từ  những   người xung quanh, đặc biệt là những người thân thuộc, gần gũi và có ý nghĩa  đặc biệt đối với chúng ta (người thân thuộc trong gia đình, bạn bè thân thiết,  thầy cô giáo, đồng nghiệp hay cấp trên...). Chính cách họ đối xử với chúng ta   như  thế nào, đánh giá chúng ta ra sao sẽ  ảnh hưởng nhiều nhất đối với cách  chúng ta nhìn nhận về bản thân mình. Qua sự tương tác với họ, chúng ta biết   mình được yêu thương hay không được yêu thương, được công nhận hay  không được công nhận, được tôn trọng hay bị  coi rẻ, được coi là thành công  hay thất bại.  1.3.4   Hình  ảnh bản thân  ảnh hưởng đến tính chất các mối quan hệ  của   chúng ta với người khác
  19. ­ Nếu chúng ta có một thái độ tiêu cực về bản thân, thông qua lăng kính   cá nhân chúng ta thường lí giải một cách tiêu cực các tác động từ  bên ngoài.   Người có mặc cảm, trước một lời nói hoàn toàn “trung lập” cũng nghĩ rằng  người kia đang tấn công mình. Khi thiếu tự tin một cá nhân dễ bị ảnh hưởng   bởi những người xung quanh, không có lập trường riêng và không dám bảo vệ  ý kiến của mình ngay cả  khi ý kiến đó là đúng vì họ  sợ  bị  chê cười. Vì có  những điểm không tự tin nên họ thiếu cởi mở và thường có phản ứng tự vệ.   Người như thế rất khó tạo dựng mối quan hệ hài hoà với những người khác. ­ Ngược lại, một người có cái nhìn tích cực về  chính mình, thì họ  sẽ  cởi mở, thành thực hơn với người khác. Khi cá nhân cảm thấy hài lòng, yêu  thương chính bản thân mình thì họ  có khả  năng thiết lập mối quan hệ  với   người khác một cách sâu sắc và lâu bền. Họ dễ được mọi người chấp nhận,   yêu thích và là người thành công trong giao tiếp, ứng xử. Tóm lại, hình ảnh bản thân và lòng tự tin gắn bó với nhau mật thiết. Cá  nhân tự thấy bản thân không tốt thì sẽ có xu hướng tự thiếu tự tin và sự đánh   giá về bản thân phụ thuộc nhiều vào nhận xét, đánh giá người khác, cũng như  những sự kiện thành công hay thất bại đơn lẻ trong cuộc sống của họ.  Chúng ta tự nghĩ về chúng ta có đúng hay không đúng tùy thuộc vào mối  tương tác giao tiếp với những người xung quanh mình, chúng ta bộc lộ  con  người chúng ta như  thế  nào và chúng ta nhận được sự  phản hồi của người  khác ra sao. Sự tương tác này được giải thích qua lí thuyết về  Cửa sổ Johari  của Joseph Luft và Harry Ingham. 2. Khám phá bản thân qua cửa sổ Johary 2.1.Khái niệm cửa sổ Johary Cửa sổ  Johari là một mô hình giao tiếp dùng để  tăng cường hiểu biết   giữa từng cá nhân hoặc cá nhân với tập thể. Dựa trên qu á trình tự bộc lộ, tự  bạch và phản hồi, cửa sổ Johari còn có thể giúp tăng cường mối quan hệ giữa  nhóm này với nhóm khác.
  20. Được xây dựng và phát triển bởi  Joseph Luft và  Harry  Ingham (từ  Johari là từ viết tắt ghép lại từ hai tên người này), mô hình này có hai ý chính   như sau: Các cá nhân có thể xây dựng niềm tin lẫn nhau bằng cách tiết lộ thông  tin về bản thân. Họ  có thể  tự  học và hiểu thêm về  mình và hiểu về  những vấn đề  về  bản thân mình chính từ những phản hồi của người khác. Bằng việc diễn giải về  ý nghĩa của mô hình cửa sổ  Johari với nhóm   của mình, bạn có thể giúp thành viên nhóm hiểu được giá trị của việc bộc lộ  bản thân và bạn có thể khuyến khích thành viên nhóm của mình biết cách đưa   ra phản hồi với người khác và đón nhận phản hồi từ  người khác. Nếu việc  này được làm một cách chân tình và nhạy cảm, mọi người trong nhóm sẽ xây  dựng được mối quan hệ dựa trên niềm tin với nhau  và sẽ làm việc và hợp tác  nhóm hiệu quả hơn. Mô hình Cửa sổ Johari gồm 4 khung với 4 ô (tưởng tượng như  một tờ  giấy được kẻ một đường dọc chính giữa và một đường ngang chính giữa cắt   đường dọc đó và chia tờ giấy thành 4 ô) như mô hình trên. Sử  dụng mô hình này, mỗi người được đại diện bởi  4 ô hay nói cách  khác là cả  cửa sổ. Mỗi cửa sổ  thể  hiện thông tin về  cá nhân – cảm nhận,   động cơ – về con người và cho biết những thông tin đó có được người đó hay  người khác biết hay không biết. Cách thức thực hiện bài tập này như sau: ­ Bước 1: Chia tờ giấy A4 thành 4 ô đánh dấu thứ tự: từ 1 đến 4 từ trái  sang phải: ô mở, ô mù, ô ẩn, ô đóng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2