intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hệ thống chính quyền của họ Trịnh thế kỷ XVII - XVIII

Chia sẻ: Cao Thi Nhu Kieu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

148
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hệ thống chính quyền của họ Trịnh thế kỷ XVII - XVIII Nhà Trịnh xuất hiện trên vũ đài chính trị năm 1545 với Trịnh Kiểm được vua Trang Tông ban chức Đô tướng tiết chế các quân doanh thủy bộ, kiêm Tổng nội ngoại Bình chương quân quốc trọng sự, gia phong Thái sư, tước Lạng quốc công. Do những chiến công đuổi được nhà Mạc và dư đảng, khôi phục được kinh thành Thăng Long, Trịnh Tùng được vua Lê Trang Tông ban cho kim sách (sách vàng) vào năm Quang Hưng thứ 17 (1594). Sau khi triều Minh...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hệ thống chính quyền của họ Trịnh thế kỷ XVII - XVIII

  1. Hệ thống chính quyền của họ Trịnh thế kỷ XVII - XVIII Nhà Trịnh xuất hiện trên vũ đài chính trị năm 1545 với Trịnh Kiểm được vua Trang Tông ban chức Đô tướng tiết chế các quân doanh thủy bộ, kiêm Tổng nội ngoại Bình chương quân quốc trọng sự, gia phong Thái sư, tước Lạng quốc công. Do những chiến công đuổi được nhà Mạc và dư đảng, khôi phục được kinh thành Thăng Long, Trịnh Tùng được vua Lê Trang Tông ban cho kim sách (sách vàng) vào năm Quang Hưng thứ 17 (1594). Sau khi triều Minh phái Sứ bộ sang nước ta mang theo lễ vật và xin kết tình láng giềng hòa hiếu tháng 3 năm 1599, Trịnh Tùng đã thành công trong việc đặt quan hệ ngoại giao với triều Minh. Mặt khác, tạm thời để yên cho con cháu nhà Mạc chiếm cứ vùng đất Cao Bằng ở phía Bắc. Tháng 4 năm Quang Hưng thứ 22 (1599), vua Trang Tông cử Thái tể Vinh Quốc công Hoàng Đình Ái đem kim sách (sách vàng) phong cho Trịnh Tùng làm Đô Nguyên súy Tổng quốc chính Thượng phụ Bình An vương (1). Trịnh Tùng được quyền “mở phủ Chúa, đặt quan thuộc”.
  2. Từ đó, mọi việc chính quyền, quân sự, thuế khóa đều do phủ Chúa trông coi, Trịnh Tùng được quyết đoán mọi việc (2). Bắt đầu xuất hiện một thể chế chính trị đặc biệt trong lịch sử Việt Nam, đó là hệ thống chính quyền kép mà thường được gọi với danh xưng Lưỡng đầu chế: vua Lê và chúa Trịnh. Tác giả Lê Kim Ngân trong tác phẩm chuyên khảo “Văn hóa chính trị Việt Nam: Chế độ chính trị Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII” cho rằng: Lưỡng đầu chế được coi như định chế cổ truyền của dân tộc Việt Nam (3) trên cơ sở ràng buộc với nhau bằng tình cảm nhiều hơn là pháp lý. Ngược lại, lưỡng đầu chế vua Lê - chúa Trịnh mang nặng tính chất quyền lợi của
  3. hai dòng họ, vì vậy mối liên hệ pháp lý giữa hai vị đứng đầu vương triều và phủ chúa “đòi hỏi phải đặt thành một quy tắc minh bạch và chặt chẽ” (4). Việc phân chia quyền lực tưởng chừng như rất rành rẽ, nhưng thực tế đã chứng minh vào thế kỷ XVII - XVIII, vương triều Lê tồn tại chỉ là trên danh nghĩa, còn thực quyền đã thuộc về Phủ đường nhà Trịnh, sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu quá trình xác lập quyền lực của nhà Trịnh. Sau khi được phép chính thức của vua Lê cho quyền được lập Phủ Chúa vào năm 1599, Trịnh Tùng đã thành lập chính quyền và các vị chúa Trịnh kế tiếp đã từng bước kiện toàn hệ thống tổ chức của dòng họ mình, chủ yếu là xây dựng và đổi mới hệ thống chính quyền trung ương. Họ Trịnh đặt ra Phủ đường là nơi tập trung các đại thần để bàn luận các việc quân quốc trọng sự. Phủ đường bao gồm Ngũ phủ phụ trách quan võ và Phủ liêu phụ trách quan văn. Ngũ phủ, Phủ liêu chính là hệ thống chính quyền trung ương của nhà Trịnh. Tuy Phủ đường chỉ được có quyền hạn ban chức cho các quan từ tứ phẩm trở xuống, còn vương triều Lê được phong chức các quan từ tam phẩm trở lên, song thực tế những viên quan tứ phẩm trở xuống mới chính là những người trực tiếp điều hành hệ thống chính quyền của Lê – Trịnh. Vì vậy, Phủ đường đã thực sự nắm quyền cai trị nước Đại Việt (5). Việc đầu tiên mà Trịnh Tùng tiến hành vào năm 1600 là bãi bỏ các chức Tả hữu tướng và Bình chương để đặt chức Tham tụng (tức là Tể tướng). Tuy chưa đặt ra phẩm trật để lựa chọn Tham tụng, nhưng quyền lực của Tham tụng rất lớn. Vì vậy, việc tuyển lựa người đảm đương chức vụ này không nhất thiết phải có phẩm hàm
  4. cao nhất, có lúc là Thượng thư hoặc có khi là Thị Lang cũng được nhà Trịnh bổ dụng. Nhưng quan trọng nhất là những người được bổ dụng phải “trung thành với họ Trịnh, giỏi việc hành chính, có tài điều khiển trăm quan” (6). Ngay năm sau (1601), họ Trịnh lại đặt thêm chức Bồi tụng (Nguyễn Danh Thế là người đầu tiên giữ chức vụ này). Bồi tụng là chức phó cho Tham tụng, cũng được tham gia bàn việc chính sự trong Phủ đường, thường có 3, 4 người đều “giữ bản chức mà mang hàm dự vào chính sự dưới chức Tham tụng”. Việc lựa chọn Tham tụng cũng như Bồi tụng đều trực tiếp do chúa Trịnh quyết định (Nguyễn Danh Thế, Ngô Trí Hòa đều được bổ từ Đô cấp sự trung lên giữ chức Bồi tụng) (7). Cơ quan bên dưới của Ngũ phủ, Phủ liêu là Phiên, hiện tại vẫn chưa xác định được thời điểm ra đời của Phiên, chỉ biết 3 Phiên gồm: Binh phiên, Hộ phiên và Thủy sư phiên. Sách Đại Việt sử ký tục biên cho biết: “Theo chế độ cũ [thì phủ chúa] chỉ có 3 phiên Binh, Hộ và Thủy sư” (8). Việc lập ra cơ quan Phiên bên cạnh Lục bộ của vương triều Lê nhằm mục đích thống lĩnh và kiểm soát quân đội (Binh phiên) mà trong đó thủy quan (Thủy sư phiên) là một lượng lực quân sự quan trọng để đối phó chủ yếu với quân đội họ Nguyễn ở phía Nam. Đồng thời, việc lập ra Hộ phiên nhằm kiểm soát ruộng đất và trưng thu thuế khóa cung cấp cho tài chính của nhà Trịnh. Cho đến năm 1718, Trịnh Cương mới chính thức lập ra 6 Phiên trực thuộc Phủ đường, gồm có: Lai phiên, Lễ phiên, Hình phiên, Công phiên, Binh phiên và Hộ phiên. Lúc này, không thấy tồn tại tên gọi Thủy sư phiên nữa, chắc chắn vai trò của Thủy sư phiên không còn quan trọng như trong thời kỳ chiến tranh với nhà
  5. Nguyễn ở phía Nam (1627 - 1672) nữa, nên đã được sáp nhập vào với Binh phiên. Thư tịch cổ đã chép rõ: “từ đây, chính quyền trong nước về hết Lục phiên mà Lục bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) và Lục tự (Đại lý, Thái Thường, Quang lộc, Thái bộc, Hồng lô và Thượng bảo) chỉ đặt cho đủ vị mà thôi” (9). Trong các Phiên của Lục phiên, viên quan đứng đầu là Tri phiên hàm Tòng nhị phẩm tương đương với Thượng thư Lục bộ, tiếp theo là Phó Tri phiên và Thiêm tri phiên hàm Tòng tam phẩm tương đương với Tả, Hữu Thị lang Lục bộ. Ban đầu, lúc mới đặt ra Lục phiên (1718), chức nhiệm chưa quan trọng, nên nhà Trịnh cử hai người cùng giữ chức Tri phiên chủ yếu chỉ phụ trách việc trưng thu thuế. Dần dần, Lục phiên trở thành một bộ phận vô cùng quan trọng của Phủ đường, sau khi Lục phiên đã thâu tóm hết quyền hành của Lục bộ. Khi đó “Chức vụ (lục phiên) nhiều và trọng yếu, chuyên hết mọi việc của Lục bộ” (10), lúc này phụ trách Lục phiên chỉ là viên Thượng thư bên các bộ tương ứng (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình và Công) kiêm giữ. Năm Tân Mùi, Canh Hưng thứ 12 (1751), tháng 6, Trịnh Doanh tiến hành chấn chỉnh chức trách các chức quan giữ việc chính trị quy định “các quan trọng Lục bộ nắm giữ đại cương của Lục phiên” (11). Chức vụ Phó Tri phiên và Thiêm tri phiên từ lúc xuất hiện đến khi kết thúc, nhà Trịnh đều trao cho mỗi chức 02 người phụ trách mà không có thay đổi về số lượng. Đội ngũ quan lại giúp việc trong các phiên gồm có: Nội sai và Lại viên, trong đó chức Câu kê hàm Chánh thất phẩm, Phó Câu kê hàm Tòng thất phẩm, chức Cai tư, Cai hợp hàm Chánh bát phẩm, Lại viên hàm Chánh cửu phẩm. Tổng số nhân viên trong một Phiên, khi mới được lập ra (1718) gồm 60 người.
  6. Các viên quan Tri phiên, Phó Tri phiên, Thiêm tri phiên có ph ẩm hàm tương đương với Thượng thư, Tả Hữu Thị lang Lục bộ. Đội ngũ quan lại giúp việc bên dưới của các Phiên phẩm hàm thường thấp hơn với các chức tương ứng bên Lục bộ từ 1 - 2 bậc. Nếu như hệ thống chính quyền trung ương, họ Trịnh đã có những thay đổi thì hệ thống chính quyền của các cấp ở địa phương dưới thời Lê - Trịnh hầu như vẫn duy trì theo cách tổ chức của thời Lê sơ, chỉ có một vài thay đổi nhỏ. Qua vài nét khái quát về hệ thống chính quyền thế kỷ XVII - XVIII, chúng ta có thể thấy được sự thay đổi hệ thống cấp Trung ương nhằm mục đích phục vụ cho ý đồ xây dựng một thể chế chính quyền độc lập của các chúa Trịnh. Việc lập ra hệ thống Phủ đường với các cơ quan Ngũ phủ Phủ liêu cùng Lục phiên là một sáng tạo của nhà Trịnh trong thế kỷ XVII - XVIII, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước. Chú thích 1. Đại Việt sử ký toàn thư, T.III, Nxb KHXH, 1998, tr 205. 2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, T. II, Nxb KHXH, 1998, tr 222. 3. Lê Kim Ngân: Văn hóa chính trị Việt Nam - Chế độ chính trị Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII, Viện đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1974, tr 55. 4. Sđd, Lê Kim Ngân, tr 33 5. Sđd, Lê Kim Ngân, tr 254 6. Sđd, Lê Kim Ngân, tr 252 7. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, T. I, Nxb Giáo dục, 2007, tr
  7. 554. 8. Đại Việt sử ký tục biên (1676 - 1789), Nxb KHXH, 1991, tr 74. 9. Sđd Khâm định… cương mục, T. II, tr 412 10. Sđd: Lịch triều hiến chương… T. I, tr 562. 11. Sđd: Khâm định… cương mục, T. II, tr 614 - 615.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2