Hiểu đúng về thuế trong lĩnh vực
chứng khoán
Để thị trường hiểu rõ quy định về thuế, từ đó có các góp ý thiết thực, phù hợp với
khuôn khổ pháp lý được quy định trong các văn bản luật và pháp lệnh về thuế hiện
hành, dưới đây là bài viết “Hiểu đúng về thuế trong lĩnh vực chứng khoán” và tiếp
sau là bài viết “Thuế đối với quỹ mở, quy định thế nào?” của ông Nguyễn Văn
Phụng, Phó vụ trưởng Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường vốn, được tổ
chức hoạt động nhằm mục đích huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã
hội tập trung thành nguồn vốn lớn để tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
và Chính phủ để phát triển sản xuất - kinh doanh, tăng trưởng kinh tế hay tài trợ
cho các dự án đầu tư.
Tại Việt Nam, theo quy định của Luật chứng khoán, những đối tác tham gia thị
trường chứng khoán gồm 3 thành phần chính: người bán chứng khoán lần đầu tại
thị trường sơ cấp (tổ chức phát hành); người mua, bán chứng khoán được gọi
chung là nhà đầu tư chứng khoán; người tham gia cung cấp dịch vụ phục vụ hoạt
động của thị trường và các nhà đầu tư. Để có thể nhận biết một cách rành mạch về
nghĩa vụ thuế đối với từng hoạt động trên thị trường chứng khoán, bài viết xin giới
thiệu về chính sách và các quy định pháp luật thuế hiện hành đối với từng vị trí,
theo cách phân loại trên.
Theo Luật chứng khoán, tổ chức phát hành bao gồm các doanh nghiệp là pháp
nhân Việt Nam thuộc các lĩnh vực sản xuất-kinh doanh, dịch vụ có đủ điều kiện,
được pháp luật cho phép phát hành chứng khoán ra công chúng. Nghĩa vụ thuế đối
với tổ chức phát hành được nhận biết trên 2 khía cạnh.
Thứ nhất, với hoạt động sản xuất-kinh doanh, dịch vụ thường xuyên mà doanh
nghiệp đang tiến hành, tạo cơ sở kinh tế cho việc niêm yết (như hoạt động khai
thác, chế biến khoáng sản, sản xuất cao su, hoạt động ngân hàng…), thì tổ chức
phát hành là doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ nộp các loại thuế theo thực tế kinh
doanh.
Thứ hai, với hoạt động phát hành chứng khoán, chào bán cổ phiếu: doanh nghiệp
thu được tiền, nhưng đây không phải là doanh thu, cũng không phải là thu nhập,
mà là số vốn họ huy động được từ các nhà đầu tư mua chứng khoán do họ phát
hành. Do đó, như một lẽ thường tình, doanh nghiệp không phải trả bất cứ một
khoản thuế nào, nhưng doanh nghiệp phải trả khoản phí dịch vụ cho các đối tác
cung cấp dịch vụ. Với dịch vụ hành chính, dịch vụ công do cơ quan quản lý nhà
nước về chứng khoán thực hiện, thì doanh nghiệp nộp phí, lệ phí theo quy định
của Pháp lệnh Phí và lệ phí bao gồm: lệ phí chấp thuận chào bán cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ ra công chúng (thấp nhất 10 triệu đồng, cao nhất 50 triệu
đồng tùy quy mô của khối lượng phát hành) và phí quản lý công ty đại chúng (10
triệu đồng/năm).
Nhà đầu tư chứng khoán là tổ chức tham gia thị trường với nghiệp vụ mua/bán để
kiếm lời hoặc đầu tư dài hạn thông qua việc mua cổ phiếu của doanh nghiệp niêm
yết. Tùy thuộc vào thời gian nắm giữ chứng khoán và mục đích đầu tư, nghĩa vụ
thuế được quy định cụ thể như sau:
Đối với giao dịch mua bán hàng hóa là chứng khoán, doanh nghiệp và nhà đầu tư
sẽ không phải nộp thuế giá trị gia tăng (giá trị gia tăng) theo quy định của Luật
thuế giá trị gia tăng số 13/2008/QH12 ngày 3/6/2008 và các văn bản hướng dẫn.
Đối với thu nhập do chuyển nhượng chứng khoán, doanh nghiệp sẽ kê khai nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp (thu nhập doanh nghiệp) 25% theo quy định của Luật
thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 ngày 3/6/2008. Đương nhiên, các lô
mua bán có chênh lệch âm (lỗ) được bù trừ kế quả với các lô mua bán chênh lệch
dương (lãi).
Đối với thu nhập là cổ tức từ việc đầu tư vốn để sở hữu, nắm giữ cổ phiếu, chứng
chỉ quỹ đầu tư, thì nhà đầu tư được miễn thuế theo quy định tại điều 4, Luật thuế
thu nhập doanh nghiệp số 04/2007/QH12. Cổ tức doanh nghiệp nhận được hạch
toán vào tài khoản thu nhập, nhưng không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Đối với chứng khoán là trái phiếu chính phủ, nhà đầu tư có thể được miễn thuế thu
nhập doanh nghiệp tùy theo quy định của mỗi đợt phát hành, việc miễn thuế (nếu
có) sẽ được công bố ngay trong quyết định hoặc thông báo phát hành.
Theo quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân, nhà đầu tư thực hiện nghĩa vụ thuế
thu nhập cá nhân kể từ ngày 1/1/2009. Tuy nhiên, nhằm góp phần tháo gỡ khó
khăn cho doanh nghiệp và nhân dân, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường chứng
khoán và duy trì tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy đầu tư, Quốc hội ban hành Nghị
quyết số 32/2009/QH12, trong đó quy định miễn toàn bộ thuế thu nhập cá nhân
đối với thu nhập về đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn của cá nhân trong năm 2009.
Tiếp đó, Nghị quyết số 08/2011/NQ-QH13 của Quốc hội quy định miễn thuế từ
1/8/2011 đến hết 31/12 đối với cổ tức được chia cho cá nhân từ hoạt động đầu tư
vào thị trường chứng khoán, góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp, trừ cổ tức
của các ngân hàng cổ phần, quỹ đầu tư tài chính, tổ chức tín dụng.
Về nghĩa vụ thuế đối với hành vi của nhà đầu tư cá nhân. Thứ nhất, về hoạt động
mua bán chứng khoán. Với cách tiếp cận xếp chuyển nhượng chứng khoán vào
diện chuyển nhượng vốn, Luật thuế thu nhập cá nhân quy định cá nhân có thu
nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán sẽ nộp thuế trên thu
nhập ròng với thuế suất 20%. Thu nhập để tính thuế không phải toàn bộ số tiền thu
được, mà chỉ tính trên khoản tiền thực lãi do chuyển nhượng phần vốn trong các
công ty trách nhiệm hữu hạn, chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần, tiền
lãi do mua bán chứng khoán.
Nhằm tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và đầu tư dài
hạn, Luật thuế thu nhập cá nhân quy định cá nhân chuyển nhượng chứng khoán
được lựa chọn 1 trong 2 cách nộp thuế: nộp 20% trên thực lãi đã được bù trừ lỗ
trong năm, nếu lỗ thì không phải nộp thuế, được chuyển lỗ trong thời hạn 5 năm
và được hoàn lại số thuế đã tạm khấu trừ 0,1% hoặc nộp 0,1% trên giá trị chuyển
nhượng. Từ tháng 8/2011 đến hết năm, Nghị quyết 08/2011/QH13 của Quốc hội
có quy định giảm 50% thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng
chứng khoán của cá nhân. Theo đó, nếu cá nhân mua bán chứng khoán đăng ký
nộp thuế theo kê khai mà có lãi thì chỉ phải nộp 10% trên thực lãi, có lỗ thì không
phải nộp và được chuyển lỗ sang các năm sau. Những cá nhân không đăng ký thì
phải nộp 0,05% trên giá trị giao dịch mỗi lần chuyển nhượng.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy, có sự nhầm lẫn rất lớn trong xác định nghĩa
vụ thuế thu nhập cá nhân đối với việc chuyển nhượng cổ phần của các công ty
không đủ tiêu chuẩn là công ty đại chúng, chưa được niêm yết, đăng ký giao dịch
trên thị trường chứng khoán. Vấn đề ở chỗ: cổ phần của các doanh nghiệp thuộc
loại này (không thuộc công ty đại chúng) chưa phải là chứng khoán theo quy định
của Luật chứng khoán, khi đó cổ đông là cá nhân chuyển nhượng cổ phần được
xếp vào diện chuyển nhượng vốn. Doanh nghiệp có cổ phần chuyển nhượng sẽ
phải thực hiện khấu trừ thuế 20% trên phần chênh lệch giữa giá vốn và giá bán
(nếu có) trước khi làm thủ tục chuyển tên đăng ký cho người mua.