HOẠ SĨ TRẺ CON ĐƯỜNG DÀI

Nếu người Trung Hoa vốn coi hội họa là môn nghệ thuật duy nhất thực sự trí tuệ,

và người phương Tây ở thời kỳ Phục Hưng đã từng coi hội họa là môn nghệ thuật

gần nhất với toán học - thì tuổi của một họa sĩ trẻ, bởi vậy, có thể được tính từ 40

trở xuống, giống như cách tính thông thường cho tuổi trẻ của một nhà toán học.

ở độ tuổi của họa sĩ trẻ, các bậc thầy của nền hội họa Việt Nam như Tô Ngọc Vân,

Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Lưu Công

Nhân... - đều đã có những tác phẩm xuất sắc bậc nhất của đời mình. Về ước vọng,

hoài bão của người họa sĩ trẻ Việt Nam thời kỳ trước cách mạng, Tô Ngọc Vân đã

từng viết những câu làm xao động lòng người: “...Ngay từ lúc đi học đã mơ xây

dựng một nền hội họa Việt Nam có tính chất dân tộc, phản ứng lại sự lan tràn của

hội họa Pháp sang ta, và để giành một địa vị mỹ thuật trọng yếu cho dân tộc trên

thế giới”.

Nguyễn Sáng vẽ “Giặc đốt làng tôi” năm ông 31 tuổi, vẽ “Kết nạp Đảng trên chiến

trường Điện Biên Phủ” năm ông vừa tròn 40 tuổi. Cũng trong quãng thời gian đó,

người họa sĩ trẻ Nguyễn Sáng cũng đã từng viết: “Có Tổ quốc mới có nghệ thuật.

Trái lại, mất nước, mất tự do - là mất tất cả”.

Là một mẫu nghệ sĩ điển hình cho những mục tiêu nghệ thuật có tính cam kết cao

nhất, thường trực trong con người Nguyễn Sáng là cả một cuộc đấu tranh giữa ý đồ

cách tân và sự cảm nhận sâu sắc về cuộc sống, về đề tài. “Tôi là người kháng chiến

nhất - ông nói - bởi vì tôi bỏ tất, bỏ lối vẽ Bô-da”. Và Nguyễn Sáng cũng đã từng

viết, trong một bài nghị luận văn học ngắn có lẽ là duy nhất của ông: “Đất nước ta

thật tươi đẹp, nhân dân ta thật đáng yêu, tôi thấy cần vẽ nhiều, họa nhiều để ca

ngợi đất nước, ca ngợi nhân dân ta đấu tranh giữ gìn hoà bình và thực hiện thống

nhất”.

Đi tìm cái mới, cái hiện đại, cái “thoát”, nhưng thực ra, bao giờ Nguyễn Sáng cũng

tìm thấy ở trong chính bản thân mình, trong con người yêu Tổ quốc và yêu tự do

của mình, nhiều hơn là ở “bên ngoài”, ở những yếu tố ngoại lai.

Nền hội họa hiện đại Việt Nam, kể từ bước khởi đầu đến nay - đã và đang trải qua

ít nhất năm thế hệ họa sĩ, tương ứng với năm thời kỳ lịch sử của đất nước, của dân

tộc. Tiếp sau các thế hệ của thời kỳ “Mỹ thuật Đông Dương” (1925 - 1945), thời

kỳ “Cách mạng - Kháng chiến” (1945 - 1975), thời kỳ sau hoà bình thống nhất

(1975 - 1985) và thời kỳ đầu Đổi mới (từ 1986) - các họa sĩ trẻ đương đại, thế hệ

thứ năm - là thế hệ của thời kỳ “Hội nhập, Phát triển”, “Công nghiệp hoá, Hiện đại

hoá”, trên một đất nước xã hội chủ nghĩa á Đông có hơn 87 triệu người dân, đang

chuyển mình mạnh mẽ, năng động, với vô vàn sức mạnh đối lập.

Đã có ý kiến cho rằng: khác với tất cả các thế hệ đi trước, thế hệ họa sĩ trẻ giờ đây

không phải chịu bất cứ một trở ngại nào, một áp lực nào (về vật chất và tinh thần),

ngoài những trở ngại và áp lực có thể sinh ra từ chính bản thân mình; họ được tự

do biểu hiện cá tính thực của mình, thông qua bất cứ hình thái nghệ thuật nào mà

mình muốn. Và, thật đáng mừng, khi điều đó quả nhiên là một sự thật.

Sáng tác bằng “tư liệu riêng tư” (document intime), như Trần Trọng Vũ, một trong

những họa sĩ trẻ điển hình của những năm 1990, đã nói: họ, những người họa sĩ

của thời nay, “thường đóng một vai nào đó, là người kể chuyện, là nhân chứng, là

kẻ có cùng kinh nghiệm” - để đưa ra ý kiến cá nhân về chủ đề.

Không kể số họa sĩ trẻ vẫn kiên trì hướng theo những hình thái, những nội dung

nghệ thuật mang tính truyền thống, tính phụ thuộc cổ điển của hội họa (với các thể

loại chân dung, phong cảnh, tĩnh vật, sinh hoạt hay lịch sử), tác phẩm của đa số các

họa sĩ trẻ khác, “cấp tiến” và “tiền phong”- lại như muốn đặt ra những điều nghi

vấn hoặc lời bình luận về sự thích nghi và không thích nghi của con người đương

thời trên cả hai bình diện xã hội và tự nhiên, hoặc trong mối quan hệ với “một

truyền thống đã bị mô phỏng và hiện đại hóa”, hoặc đôi khi, các tác phẩm tựa như

những hình ảnh mang tính “nghịch biện”, “phản chứng” về con người trong thế

giới và môi trường hiện đại.

Phải chăng, đã thấy xuất hiện những bản chất hội họa thực sự có tính siêu thực và

nội chiếu (introspectif), trong các tác phẩm của một số họa sĩ trẻ đương đại (?)

Họ (các họa sĩ trẻ ấy), trên thực tế của 10 năm gần đây - đã tiếp cận, gần như trực

tiếp và ngay lập tức, hầu hết “cái mới”, “cái đột nhiên xuất hiện” của thế giới nghệ

thuật bên ngoài, từ Đông sang Tây, lấy lại sức mạnh của tính “tiếp biến hồn nhiên”

như một phương tiện để hướng về những chân trời mới lạ.

Về các họa sĩ trẻ hiện nay, bậc thầy Nguyễn Tư Nghiêm nói: “... Lớp trẻ bây giờ vẽ

quá phương Tây. Qua thời gian sẽ trở lại. Cũng tốt thôi. Nhưng phải nhớ mình là

ai.”

Như đã trở thành một quy luật, một truyền thống (đến từ một Tô Ngọc Vân hay

một Nguyễn Sáng), các họa sĩ trẻ Việt Nam ở thời kỳ đương đại, dù muốn hay

không, cũng không thể không tự đặt ra những câu hỏi mang ý nghĩa và tinh thần

mới của thế hệ mình, của thời đại mình đang sống: Những câu hỏi về Tổ quốc và

về Tự do, về sứ mệnh của người nghệ sĩ đối với nhân dân và với dân tộc.

Hội họa Việt Nam hiện đại kế thừa và phát huy những giá trị tinh hoa của nghệ

thuật dân tộc và nhân loại. Nó đã từng chịu nhiều ảnh hưởng của nền hội họa Pháp.

Và giống như hội họa Pháp, hội họa Việt Nam không thời nào không có những

nhân tố mới, những tài năng mới, những niềm hy vọng mới.

Nghệ thuật là con đường dài. Trên con đường ấy, như Nguyễn Gia Trí nói: “Sự sai

lầm cũng như sự thành công, có giá trị ngang nhau. Vì chúng đều có công dụng

thúc đẩy người nghệ sĩ đi tới.”

Và, hỡi các bạn họa sĩ trẻ, nếu ở bạn đã thật có một chút gì đấy, thì bạn cần nhớ:

“Cái khó không phải là thiên tài ở tuổi 20, mà là tài năng ở tuổi 50” (Degas).