HocThuyetDoanhNghiep.edu.vn
THUYẾT BÀN TAY VÔ NH
Adam Smith (1723 -1790), là mt nhà triết hc mt nhà kinh tế hc li lạc người
Scotland. Ông được n vinh là cha đẻ ca kinh tế hc và qun trị hc hin đại ngày nay. Năm
15 tui, ông đã vào học tại đại hc Glassgow, nghiên cứu triết học; năm 1740, ông học sau đại
hc ti trường Balliol College ti Oxford (mt trong nhng trường được hợp li thành đại hc
Oxford hin nay). Năm 1762, ông được phong tặng tước hiệu Tiến sĩ luật. Ông ging dy ti
trường Đại hc Glassgow, và xuất bn tác phm thuyết Cảm tính đạo đức (The Theory of
Moral Sentiments) năm 1759. Trong tác phm này, khái nim bn v bàn tay hình được
đề cập đến khi ông phân tích sự phân b ngun li xã hi.
Sau đó, ông bắt đầu chú ý ti các quy luật kinh tế hơn là các thuyết v đạo đức. Trở
v quê nhà sau thi gian ging dy du lch ti các nước Pháp, Thy Sĩ giao lưu vi các
hc gi ln như Turgot, Andre Morellet, Francois Quesnay, ông hoàn thành kiệt tác Tìm hiểu
về bản chất nguồn gốc của cải của các quốc gia - An Inquiry into the Nature and Causes
of the Wealth of Nations (thường được gi The Wealth of Nations) năm 1776. Khái nim
Bàn tay nh” được đề cập trong Quyn 4, Chương II; qua nghiên cứu các mô hình kinh
tế, khái nim này được Adam Smith phân tích gn lin vi hoạt động sn xuất, huy động và
sử dụng vn tài cnh nhm thúc đẩy phát trin nn kinh tế ni địa của mi quc gia.
1. KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT BÀN TAY VÔ HÌNH CỦA ADAM SMITH
Bàn tay nh” mt phép n dụ, mt tư tưởng kinh tế do Adam Smith đưa ra trong
nhng năm của thế k th 18, mà gtrị của nó, đến nay, vn n được ng nhn. Thuật ng
y được Adam Smith sử dng trong ba tác phẩm của ông. Lần đầu tiên bài lun Lịch s
Thiên văn học - The History of Astronomy (trước 1758, chương II.2), sau đó là trong tác phm
chính của ông về triết hc đạo đức thuyết cảm tính đạo đức - The Theory of Moral
Sentiments (1959, IV.i.10), và cui cùng là trong cun Tìm hiểu về bản chất nguồn gốc của
cải của các quốc gia - The Wealth of Nations (1976, IV.ii.9). Tuy nhiên, cách hiểu hin nay
v bàn tay nh” chỉ được th hin trong tác phm Tìm hiểu về bản chất nguồn gốc
của cải của các quốc gia (Smith, 1976).
Trong tác phm thuyết cảm tính đạo đức - The Theory of Moral Sentiments năm
1759, Phn IV, Chương 1, Adam Smith mô t mt địa ch ích k, bị dn dắt bi mt bàn tay
hình, phân b thu hoạch v mùa cho nhng người làm công: Địa chủ tự hào cm
quan sát cánh đồng rộng lớn của mình, không hề suy nghĩ đến những người khác, trong
30
Chương 1. Thuyết bàn tay vô hình
31
tâm trí mình, ông ta nghĩ mình sẽ người hưởng thụ toàn bộ vụ thu hoạch… [Nhưng] khả
năng hấp thụ không tỷ lệ thuận với sự thèm khát... phần còn lại ông ta buộc phải phân phát
cho người khác, những người phục vụ, một cách tốt nhất, trong đó [1] một phần để bản thân
ông ta tiêu dùng, [2] một phần cho những người phục vụ cung điện, [3] cho những người
phân phối và giữ trật tự trong tất cả các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế; tất cả dường như
đều xuất phát từ sự sang trọng độc đoán của địa chủ, nhưng mọi thứ cần thiết trong cuộc
sống đều được tự động chia sẻ đến những người khác hơn sự trông chờ ích của họ vào
lòng nhân từ hoặc công từ địa chủ... Người giàu... được dẫn dắt bởi một bàn tay hình,
thực hiện tương tự như sự phân bổ các nhu yếu phẩm cuộc sống trong xã hội, phân bổ đất đai
thành các phần bằng nhau cho các dân, do đó, một cách ý thức thúc đẩy sự phát
triển và tạo ra các lợi ích xã hội...”1
Trong tác phẩm Tìm hiểu về bản chất nguồn gốc của cải của các quốc gia, đoạn 9,
chương II, quyn IV, Smith (1776) gii thích thuyết bàn tay nh: nếu tất cả các nhân
theo đuổi li ích riêng của bản thân, mà không h ý định hướng đến lợi ích cộng đồng, thì
“bàn tay vô hình” của thị trường tự do sẽ điều khiển quá trình giúp tạo ra li ích cộng đồng.
Khi tất cả các cá nhân cố gắng hết sức tận dụng của cải của mình để phát triển công nghiệp
nội địa, đầu để ngành công nghiệp đó tạo ra những giá trị lớn nhất, họ sẽ cần phải lao
động để tạo ra nguồn lợi nhuận hàng năm lớn nhất thể. Họ không ý định thúc đẩy lợi
ích cộng đồng, cũng không biết họ đang thúc đẩy nhiều như thế nào. Bằng việc hỗ trợ
phát triển các ngành công nghiệp trong nước hơn ngành công nghiệp nước ngoài, họ chỉ
ý định giảm thiểu rủi ro, việc đầu giúp nền công nghiệp tạo ra giá trị tốt nhất, họ
cũng chỉ ý định tạo ra lợi nhuận của riêng mình; qua sự điều phối của một bàn tay
hình, kết quả cuối cùng mang lại vốn không nằm trong ý định ban đầu của các cá nhân2
1 “The proud and unfeeling landlord views his extensive fields, and without a thought for the wants of his
brethren, in imagination consumes himself the whole harvest... [Yet] the capacity of his stomach bears no
proportion to the immensity of his desires... the rest he will be obliged to distribute among those, who prepare, in
the nicest manner, that little which he himself makes use of, among those who fit up the palace in which this
little is to be consumed, among those who provide and keep in order all the different baubles and trinkets which
are employed in the economy of greatness; all of whom thus derive from his luxury and caprice, that share of the
necessaries of life, which they would in vain have expected from his humanity or his justice... The rich... are led
by an invisible hand to make nearly the same distribution of the necessaries of life, which would have been
made, had the earth been divided into equal portions among all its inhabitants, and thus without intending it,
without knowing it, advance the interest of the society...”
2 As every individual, therefore, endeavours as much as he can both to employ his capital in the support of
domestic industry, and so to direct that industry that its produce may be of the greatest value, every individual
necessarily labours to render the annual revenue of the society as great as he can. He generally, indeed, neither
intends to promote the public interest, nor knows how much he is promoting it. By preferring the support of
domestic to that of foreign industry, he intends only his own security; and by directing that industry in such a
manner as its produce may be the greatest value, he intends only his own gain, and he is in this, as in many other
cases, led by an invisible hand to promote an end which was no part of his intention.
Học thuyết doanh nghiệp
32
Trong mt đoạn khác (đoạn 4, chương II, quyn IV), Adam Smith (1776) cũng nhắc đến
nội dung thuyết bàn tay hình mặc dù không đề cập đến tnày: “Mọi cá nhân luôn cố gắng
tìm ra cách sử dụng nguồn vốn, của cải mình có để có lợi nhất cho bản thân. Trong cách nhìn
của nhân, vốn lợi ích riêng của bản thân, không liên quan đến lợi ích hội.
Nhưng quá trình tối đa hóa lợi ích của bản thân một cách tự nhiên hay đúng hơn một cách
cần thiết đã đưa cá nhân đến thúc đẩy lợi ích cho cộng đồng3.
Trong tác phẩm Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia còn có rất
nhiều đoạn tương tđề cập đến ni dung thuyết bàn tay hình. Một cách khái quát, “Bàn
tay hình” được hiểu như sau: Trong nền kinh tế thị trường, vốn gắn liền với bản chất tư lợi
của các thương gia, sẽ dẫn đến kết quả không mong đợi sự hội hóa và lợi ích lợi ích
chung cho xã hội. Một cách tự nhiên, những mâu thuẫn lợi ích nhân sẽ dẫn đến cạnh tranh;
cạnh tranh thúc đẩy các nhân sản xuất ra những thứ mà hi cần, góp phần củng cố li
ích chung cho cả cộng đồng. Bản chất mi con người đều bị thúc đẩy bởi tư lợi, cụ thlà lòng
ham muốn của cải; tính ích klà căn cốt cho các hành động của con nời; nhưng chính tính
ích kỷ nhân này li đã đem tới lợi ích chung cho hi: Mỗi người cố gắng làm lợi cho
chính mình mt cách đều đặn, không ngừng, sẽ dẫn tới sự thịnh vượng cho quốc gia của họ.
Phân ng lao động tích lũy tư bản dẫn ti mt thị trường mới đó khi nhu cầu
về mt sản phẩm bất k nào đó tăng, sẽ dẫn đến giá bán của sản phẩm đó tăng; giá tăng kéo
các nhà sản xuất đầu tư vào nh vực đó. Từ đây, bản chất tư lợi của các nhà sản xuất sẽ khiến
họ phải la chọn và tiến hành sản xuất mt cách hiệu quả nhất, với chi phí thấp nhất nhằm
tối đa hóa lợi nhuận. Sự cạnh tranh giữa chính c nhà sản xuất, giữa chính các bên thương
mại giữa hai tác nhân này với nhau khiến gbán của sn phẩm giảm dần: mi khi một
nhà sản xuất tận dụng vị thế trên thị trường để bán sản phẩm với gcao, sẽ hàng chục đối
thủ khác bán rẻ hơn để tranh giành thị phần. Một “Bàn tay vô hình” dẫn dắt họ, trong khi m
việc có lợi cho mình, đồng thời giúp ích cho hội trên sở khuyến khích phương pháp sản
xuất nào hiệu quả nhất, cũng nghĩa nhiều lợi nhuận nhất trong xã hội. hội hay người
tiêu ng i chung sẽ hưởng lợi tnhững sản phẩm tốt nhất với gthành hợp nhất. Bên
cạnh đó, “Bàn tay vô hình” cũng điều khiển mối quan hệ hữu cơ giữa giá bán, doanh thu và số
lượng sản phẩm được sản xuất (Smith, 1976).
Ngoài ra, thuyết bàn tay hình ng đcập đến khía cạnh đạo đức: nếu tất cả mi
người cùng theo đuổi li ích riêng của bản thân tlợi ích cộng đồng sẽ được gia tăng tối đa.
Smith viết về đạo đức chủ yếu trong cuốn thuyết Cảm tính đạo đức (1759). Ông cho rằng
3 Every individual is continually exerting himself to find out the most advantageous employment for
whatever capital he can command. It is his own advantage, indeed, and not that of society he has in view. But the
study of his own advantage, naturally, or rather necessarily, leads him to prefer that employment which is most
advantageous to the society.
Chương 1. Thuyết bàn tay vô hình
33
đạo đức là bản năng vốn có của con người; con người luôn có xu hướng đồng cảm (thấu hiểu,
cảm thông lẫn nhau) với nhng cảm xúc của người khác. dụ: nếu mt người nn nhân
của bất ng, những người xung quanh chứng kiến sẽ đặt mình vào vị tcủa người đó
xu hướng cảm thông vi những cảm xúc oán giận của người đó. vậy, mọi người đều cho
rằng thể hiện bất bình đối với bất ng là đúng về mặt đạo đức, nếu sự bất bình của nn nhân
được kiềm chế mức độ mt người khách quan thể thông cảm được. Sự cảm thông
như vậy là cơ sở cho khái niệm đạo đức của Smith. Còn trong tác phm Tìm hiểu về bản chất
nguồn gốc của cải của các quốc gia, Smith (1976) khẳng định rằng nguyên tắc bản về
hành vi kinh tế của con người là tính tư lợi (coi trọng lợi ích nhân), cố gắng để cải thiện
điều kiện kinh tế hi của nh. Tính tư lợi và sự cm thông hai nguyên tắc rất khác
nhau, và chính sự mâu thuẫn này đã khiến nhiều hc giả Đức cuối thế kỉ XIX đầu thế k
XX đặt câu hỏi v tính thống nhất trong các tác phẩm về vấn đề đạo đức của Smith tự hỏi
liệu phải Smith đã thay đổi quan điểm về sự phát triển của li người khi viết Tìm hiểu về
bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia.
Ktgiữa thế kỉ XX, nhìn chung các hc giđều đã thống nhất rằng: Smith hoàn toàn
nhất quán và không thay đổi quan điểm của mình. Mâu thuẫn tồn tại hiển nhiên, thực tế,
Smith phải đối mặt với hai vấn đề khác nhau. Thứ nhất, trong thuyết Cảm tính đạo đức,
ông mô tả nguồn gốc của sự phán xét các quan niệm đạo đức đúng sai, và nguồn gốc các quan
niệm đạo đức của con người; và tính cảm thông nền tảng của những phán xétnguồn gốc
này. Nhưng Smith không i là nhân t thúc đẩy quan trọng các hành động của con người
cho sự phán xét đúng sai về đạo đức đôi khi có thtạo tác động tới con ni. Trong các
tác phẩm kinh tế của ông, tính tư lợi nhân t thúc đẩy chính của các hoạt đng kinh tế.
là động lực, không phải nguồn gốc hay cơ scủa các quan niệm. Mặc tư lợi” không phải
động lực duy nhất cho các hành động trong nền kinh tế, nhưng nếu xét về lĩnh vực kinh tế
t nó chắc chắn động lực chiếm ưu thế hàng đầu. Như vậy, vấn đề thứ nhất có thdễ dàng
giải thích khi chúng ta nhận ra rằng tính cảm thông nguồn gốc của c quan niệm đạo đức,
còn tính tư lợi là động lực của kinh tế.
t đến vấn đề thứ hai trong quan điểm của Smith về khía cạnh đạo đức của tính tư lợi,
nếu ông không dùng lý thuyết bàn tay vô hình để đánh giá về mặt đạo đức của việc theo đuổi li
ích nhân, vậy cách nhìn nhận của ông nthế nào? Trước tiên, chúng ta thể nhận thấy
rằng Smith ý thức được khả năng dùng thuyết bàn tay nh để đánh giá về tính lợi, đó là
mt đề tài mà các học givề đạo đức thời đại ông thường đề cập. Trong đó, có quan điểm cho
rằng: tính li giúp thúc đẩy nền kinh tế là một sự thiếu đạo đức. Sự xa xỉ, theo đuổi phô
trương sự giàu có của bản thân vốn được coi là một tính xấu trong xã hội từ thời đại Roma. Tuy
nhiên, đến giữa thế kỉ XVIII, nhiều hc giđã đồng ý coi sự ham muốn giàu có là điều nh
thường trong xã hội (không tốt không xấu). đến bây giờ, trong hội hiện đại, con người
Học thuyết doanh nghiệp
34
dùng thuyết bàn tay nh để cho thấy việc theo đuổi sự giàu xa xỉ không nên được coi là
xấu. Tuy nhiên, trong cuốn Lý thuyết Cảm tính Đạo đức, Smith cũng nhắc đến “sự xa xỉ”, và sự
coi thường xa xỉ của Smith là rất rõ ràng, nhưng ông không coi nó là sai về đạo đức. Nhưng, để
suy từ sự trung lập đạo đức (không đúng không sai) của sự xa xỉ đến sự trung lập của tính tư lợi
trong kinh tế, chúng ta cần xem xét những điểm khác trong triết học của Smith.
Với Smith, theo đuổi lợi ích kinh tế bản thân vn không phải sai về đạo đức, nhưng
sẽ đạo đức nếu nguyên nhân gây ra các hành động xấu hoặc tiêu diệt tất cả các
động lực khác. Tính tư li có thể là động lực để con người giúp đỡ người khác hơn là hãm hại
họ, ví dụ: người bán thịt, người bán bánh , người sản xuất bia, họ đang theo đuổi lợi nhuận
của bản thân nhưng không hại ta, mang lại thực phẩm cho ta. Như vậy, Smith coi động lực
của tính tư lợi là trung lập (không đúng không sai về đạo đức); mức độ và cách thực thực hiện
mới vn đề sai đúng của đạo đức. Nhưng Smith không dùng thuyết bàn tay hình để lý
giải điều này, thay vào đó, ông dùng khái niệm về sự tự do tự nhiên và quy luật tự nhiên.
2. BÀN TAY VÔ HÌNH VÀ KẾT QUẢ KHÔNG MONG ĐỢI
2.1. Khái niệm và bản chất kết quả không mong đợi
Hậu quả không mong đợi của con người” những kết quả không được con người
mong muốn tại mt thời điểm nhất định. Tuy nhiên, để hiểu được chính xác ý nghĩa khái niệm
này cần phân biệt rõ 3 vấn đề, cụ thể:
Thứ nhất, khái niệm về “mong đợi (intention)”: Mong đợi của mt cá nhân thể hiện mục
đính hoặc kế hoạch nhất định của cá nhân đó. Tuy nhiên, theo (Keller,1994, trang 11): Mặc
dù, mong đợi chỉ ra rằng mỗi nhân phải một mục đích, nhưng không cần thiết phải
một kế hoạch. Đơn giản, các nhân thể không kế hoạch để thực hiện một vấn đề,
nhưng họ vẫn mục đích4. Quan điểm mt lần nữa khẳng định “smong đợi” mục đích
của mt cá nhân, chứ không phải là một kế hoạch cụ thể.
Thứ hai, khái niệm về “hậu qu(consequence)”: Một cách chung nhất, hậu quả là kết
quả của mt hành động ngoài ý muốn. Trong tác phẩm Những hậu quả không mong đợi của
các hành động hội chủ định The Unanticipated Consequences of Purposive Social
Action, Merton (1936) đã đưa ra giới hạn “hậu quả” của mt nh động như sau: Nói một
cách chặt chẽ, hậu quả của hành động chủ ý được giới hạn bởi các yếu tố trong bối cảnh
xảy ra, thường duy nhất phát sinh từ các hành động liên quan; tức là, các yếu tố đó sẽ
không xảy ra nếu hành động không diễn ra”(trang 895)5. Trong đó, kết quả” (result) được
4 Although intention necessarily indicates that one has a purpose, it is not necessary that one has a plan.
Simply, individuals may fail to plan to do something, although they have a purpose”.
5 “Rigorously speaking, the consequences of purposive action are limited to those elements in the resulting
situation which are exclusively the outcome of the action, i.e., those elements which would not have occurred
had the action not taken place”.