Hội họa cổ điển Trung Hoa trong

Hồng Lâu Mộng

I. Dẫn nhập Hồng Lâu Mộng là một trong “tứ đại kỳ thư” của văn học cổ điển

Trung Hoa. Với hàng ngàn trang sách, 120 hồi, hơn 600 nhân vật, Hồng Lâu Mộng

tạo dựng riêng cho mình một thế giới, nơi đó có con người, gia đình, tình yêu, văn

hóa, phong tục, triết lý… Có thể nói, Hồng Lâu Mộng là một bức tranh thu nhỏ

của tâm hồn Trung Hoa. Chính vì thế, ta có thể thông qua Hồng Lâu Mộng, hiểu

thêm nhiều về con người, văn hóa và phong tục Trung Quốc ngày xưa. Văn học

Trung Hoa truyền thống không tách rời thi- thư- họa. Lịch sử văn chương Trung

Hoa đã từng chứng kiến những danh tác trong đó bóng dáng của nhiều loại hình

nghệ thuật khác nhau soi vào văn chương. Các thi sĩ đồng thời là các họa gia, thư

pháp gia lỗi lạc. Trong thơ của họ có họa và trong họa của họ có thơ. Nếu họ

không là họa sĩ thì họ cũng mang cái hồn, bút pháp của hội họa vào trong thơ ca.

Đối với Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần đã rất khéo léo đưa nghệ thuật hội họa cổ

điển Trung Hoa vào tác phẩm. Tào Tuyết Cần vừa xiển dương cho nghệ thuật hội

họa có gần 3000 năm lịch sử của dân tộc Trung Hoa, vừa làm sống dậy tình yêu

hội họa của người Trung Quốc thông qua các nhân vật trong tác phẩm của mình.

Qua đây, ông còn thể hiện quan điểm và những hiểu biết của mình về nghệ thuật

hội họa truyền thống.Trong bài viết này, tôi chỉ đọc Hồng Lâu Mộng từ góc nhìn

của hội họa cổ điển Trung Quốc, vừa để thông qua hội họa hiểu hơn về Hồng Lâu

Mộng và ngược lại qua Hồng Lâu Mộng để tìm hiểu thêm về hội họa cổ điển

Trung Hoa.

II. Nội dung1. Toàn cảnh hội họa cổ điển Trung Hoa trong Hồng

Lâu MộngTào Tuyết Cần là một tài tử, tuy số phận long đong nhưng đời sống và

tâm thế luông phóng khoáng, tự tại. Những trang sách Hồng Lâu Mộng chứng tỏ

Tào Tuyết Cần là người rất ham thích và hiểu biết sâu rộng về nghệ thuật hội họa

cổ điển và nhiều loại hình nghệ thuật khác như hý khúc, đánh thơ, đố đèn, kiến

trúc… Để vừa chuyển tải được hầu như các loại hình tiêu biểu của nghệ thuật

truyền thống Trung Hoa, vừa xây dựng một tiểu thuyết “cận nhân tình”, ngòi bút

Tào Tuyết Cần hiển nhiên phải trải đều và chừng mực cho từng loại hình nghệ

thuật. Đối với hội họa, Tào Tuyết Cần chỉ duy nhất một lần bình phẩm trong hồi

thứ 42 thông qua nhân vật Tiết Bảo Thoa khi cùng các chị em trong vườn Đại

Quan thảo luận về việc Tích Xuân sẽ vẽ bức tranh Đại Quan Viên theo lệnh của

Giả Mẫu. Những lần xuất hiện khác của hội họa trong Hồng Lâu Mộng thường là

chỉ nhắc đến tên bức họa, tên tác giả hoặc thảng có mô tả hay bình luận đôi câu về

bức họa. Thế giới Hồng Lâu Mộng là thế giới đài các, phong lưu nên việc xuất

hiện của tranh góp phần làm nền cho thế giới đó. Rất nhiều lần, Tào Tuyết Cần tả

những bức tranh treo trong phòng của các nhân vật. Chẳng hạn, trong hồi thứ 5,

tác giả nhắc đến bức tranh Nhiên lê đồ trong phòng khách của nhà Tần thị và bức

tranh Hải đường xuân thụy của Đường Bá Hổ trong khuê phòng Tần thị. Ở hồi thứ

26, trong câu chuyện giữa Tiết Bàn và Giả Bảo Ngọc, Tiết Bàn có nhắc đến Xuân

cung họa của Đường Dần đời Minh. Hồi thứ 40, tác giả nhắc đến bức Yên vũ đồ

của Mễ Tương Dương trong phòng Thám Xuân. Hồi thứ 50, nhân việc Bảo Cầm

cầm nhành mai đứng dưới tuyết, Tào Tuyết Cần nhắc tới bức tranh Song diễm đồ

trong phòng Giả Mẫu. Hồi thứ 89, Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc nói chuyện về

bức Đấu hàn đồ của Lý Long Miên treo trong Tiêu Tương quán của Đại Ngọc.Sự

xuất hiện của hội họa trong Hồng Lâu Mộng không phải là nhiều nhưng nó lại

chính là dụng công của ngòi bút Tào Tuyết Cần. Chỉ vài lần xuất hiện, nhưng mỗi

lần hội họa đều góp phần tạo nên thần thái cho văn chương , tạo phông nền và

không khí trang nhã cho tác phẩm.2. Bàn về nghệ thuật hội họa cổ điểnBạn

thân của Tào Tuyết Cần là Trương Nghi Tuyền trong lời đề tựa “Thương Cần Khê

cư sĩ” có viết: “Ông tính tình khoáng đạt, thích uống rượu, lại giỏi thi họa, chưa

được ngũ tuần thì đã mất”. Lời phát biểu này của người đồng thời với Tào Tuyết

Cần chứng tỏ đương thời ông là một danh sĩ, am hiểu nhiều lĩnh vực nghệ thuật.

Điều này càng chứng tỏ rõ hơn qua hồi thứ 42 Hồng Lâu Mộng, khi tác giả để

nhân vật của mình lên tiếng bàn về nghệ thuật vẽ tranh.Tào Tuyết Cần đã rất khéo

léo, thông qua nhân vật Tiết Bảo Thoa để nói lên những điều tâm đắc và hiểu biết

của mình về hội họa. Giả Mẫu, nhân một lần cao hứng đã đề nghị Tích Xuân, vốn

là người thích vẽ tranh, vẽ bức tranh phong cảnh ghi lại toàn bộ khu vườn Đại

Quan. Tích Xuân vốn chỉ hay vẽ những bức tranh phong cảnh nhỏ, nay đứng trước

một tác phẩm lớn như vậy rất là lúng túng. Tiết Bảo Thoa là người học rộng biết

nhiều đã chỉ ra hướng đi cho Tích Xuân: “…Con bé Ngẫu Tạ tuy biết vẽ, nhưng

cũng chỉ vẽ được mấy nét tả ý thôi. Bây giờ vẽ cái vườn, nếu trong bụng không có

một hiểu biết rộng thì vẽ sao nổi. Cái vườn này cũng giống như bức tranh, nào là

đá núi, cây cối, nào là lâu đài nhà cửa, gần xa, thưa nhặt, đừng ít quá mà cũng

đừng nhiều quá mà phải đúng mức. Nếu cứ thế vẽ lên trên giấy thì đẹp làm sao

được. Phải xem khuôn khổ tờ giấy, nên để xa gần, nhiều ít thế nào, nên chia phần

chính phụ ra sao, chỗ nào đáng thêm thì thêm, chỗ nào đáng bỏ, đáng bớt thì bỏ đi,

bớt đi, cái gì đáng để lộ mới để lộ. Bắt đầu phải vẽ phác rồi ngắm nghía tính toán

cẩn thận, mới thành được bức vẽ. Điều thứ hai là , lâu đài nhà cửa cũng phải chia

giới hạn, sơ ý một tí là bao lan cũng lệch, cột cũng nghiêng, cửa sổ sẽ dựng đứng

lên, thậm chí bàn ghế cũng chen lên tường, chậu hoa bày ở trên bàn… Điều thứ ba

là phải xếp đặt nhân vật thưa hay nhặt, cao hay thấp, đều cho đúng chỗ. Nếp quần,

dây lưng, ngón tay, bước chân cũng rất quan trọng; nếu sai một nét, không sưng

tay cũng hóa kiễng chân, đến như bộ mặt mái tóc chỉ là việc nhỏ…”[1]Lời phát

biểu trên của Bảo Thoa chứng tỏ Tào Tuyết Cần rất am hiểu về việc vẽ tranh.

Người họa sĩ muốn vẽ được bức tranh lớn trước tiên phải “hiểu biết rộng”. Những

hiểu biết ở đây theo Tào Tuyết Cần chính là những hiểu biết về kỹ thuật và

phương pháp vẽ tranh. Bảo Thoa đã lần lượt nói về các quy tắc trong hội họa cổ

điển, trước tiên là việc tổ chức bố cục. Không phải đến hội họa phương Tây, người

ta mới quan tâm đến bố cục. Hội họa truyền thống Trung Hoa, từ rất sớm đã quan

tâm đến điều này. Trương Sam Viễn đời Đường, trong “Lịch đại danh họa ký” đã

viết: “Tổ chức bố cục là điều quan trọng nhất của hội họa”. “Cổ họa phẩm lục”

của Tạ Hách người Nam Tề thế kỷ thứ 5 đã đề ra “lục pháp luận” là sáu phép căn

bản của hội họa cổ điển Trung Hoa. “Thứ nhất, phải tạo được sắc thái và không

khí sống động như thật, thứ hai, dựng được cấu trúc bằng nét bút; thứ ba, tả được

hình tướng của sự vật cho đúng là chúng; thứ tư, màu sắc cho thích hợp; thứ năm,

bố cục; thứ sáu, sao chép của người đi trước”[2]. Quy chiếu sáu phép căn bản của

hội họa cổ điển này vào lời phát biểu của Bảo Thoa, ta thấy rõ rằng Tào Tuyết Cần

đã rất chú trọng đến bố cục và hình tướng của sự vật trong việc vẽ tranh. Bố cục là

quan trọng khi vẽ tranh như Đại Quan Viên nên “phải chia giới hạn, định phần

chính phụ, nên xem chỗ nào cần bớt đi thì bớt đi, chỗ nào cần để lộ mới để

lộ”.Bảo Thoa cũng nhắc tới việc vẽ lâu đài, núi đá nên chú ý đến gần xa, thưa nhặt.

Đây chính là phép viễn cận, một trong những phép quan trọng của vẽ tranh phong

cảnh. Quách Hy, người đời Tống, trong sách “Lâm Tuyền cảo chí” hướng dẫn tỉ

mỉ về cách vẽ tranh, trong đó có đề cập đến luật viễn cận: “Từ dưới thấp nhìn lên

là “cao viễn”, từ bên trong rìa núi nhìn ra là “thẩm viễn”, còn nhìn dõi về phía xa

là “bình viễn”… Cao viễn cho thấy được độ cao lớn, thẩm viễn lột tả được các lớp

lang phức tạp, và bình viễn trình bày được cảnh xa nhẹ nhàng tan vào khoảng

không vời vợi. Trong phép thứ nhất, hình người nhìn thấy sáng mà rõ; trong phép

thứ hai, chúng có vẻ lúc ẩn lúc hiện, trong phép thứ ba, hình người chỉ nhẹ nhàng

mờ nhạt mà thôi…Đó là ba phép viễn cận vậy”[3]Trong điều thứ hai, Bảo Thoa đề

cập đến việc vẽ lâu đài nhà cửa phải phân chia giới hạn. Đây chính là quy tắc của

giới họa, một loại tranh cổ điển Trung Hoa. Các họa sĩ khi vẽ tranh giới họa sẽ

dùng bút hoặc thước để đo đạc rồi phác họa thành tranh. Thường thì, tranh giới

họa hay vẽ nhà cửa lâu đài và miêu tả một cách tỉ mỉ nên gọi là “công bút giới

họa”. “Công bút đồ” cũng là một loại tranh được vẽ một cách tỉ mỉ, chăm chút

từng chi tiết nhỏ. Giới họa có lịch sử rất lâu đời, từ thế kỷ thứ IV và phát triển cho

đến tận ngày nay. Đời nhà Thanh, các họa gia cung đình như Viên Giang, Viên

Diệu… là những họa gai có các tác phẩm giới họa nổi tiếng. Ắt hẳn, không khí

thời đại đã ảnh hưởng không ít đến nhãn quan của Tào Tuyết Cần. Có thể nói, bức

tranh Đại Quan Viên của nhà họ Giả sẽ là một bức “công bút giới họa đồ”, nếu

chiếu theo cách

thức thực hiện mà Bảo Thoa đã đề xướng. Tiếp đó, Bảo Thoa và Bảo Ngọc lại

bàn đến chất liệu và dụng cụ để vẽ tranh. Đoạn bàn luận này càng chứng tỏ Tào

Tuyết Cần am hiểu sâu sắc về nghệ thuật hội họa. Đối với bất kỳ nền mỹ thuật nào,

chất liệu là vấn đề quan trọng bên cạnh kỹ thuật. Sự sáng chế ra một chất liệu mới

có thể đẩy hội họa tiến xa hàng thế kỷ. Đối với hội họa Trung Hoa, chất liệu vẽ

tranh rất được chú trọng và đã thành quy cách, chuẩn mực. Tùy theo loại tranh, và

tùy theo trường phái người ta sẽ dùng giấy, bút và màu khác nhau. Khi Bảo Ngọc

nói nhà “có sẵn giấy tuyết lãng, vừa rộng khổ, vừa ăn mực”, Bảo Thoa liền “lên

lớp”: “Giấy tuyết lãng để viết chữ, để vẽ bức họa tả ý, hoặc để người biết vẽ sơn

thủy vẽ tranh sơn thủy nhà Nam Tống, giáy vừa ăn mực mà lại không nhăn nhòe.

Nếu vẽ vườn này bằng giấy ấy thì không ăn màu, lại khó khô, cũng không đẹp, phí

cả giấy”. Đến khi nói về việc chuẩn bị dụng cụ và màu vẽ, Bảo Thoa rất tỉ mỉ và

chững chạc: “Còn phải có một cái lò, chuẩn bị nấu keo, lấy keo ra rửa bút, rồi kê

một cái bàn sơn dầu rải thảm lên trên. Ngay cả đĩa và bút cũng phải sắm thêm. Bút

quét loại nhất bốn chiếc, loại nhì bốn chiếc, loại ba bốn chiếc; bút chấm loại lớn

bốn chiêc, loại vừa bốn chiêc, loại nhỏ bốn chiếc; bút vắt ngòi lớn mười chiếc, vắt

ngòi nhỏ mười chiếc; bút kẻ mày mười chiếc……; son nhọn đầu, son nam, thạch

hoàng… mỗi thứ bốn lạng;…. ; keo quảng phân, phèn lọc mỗi thứ bốn lạng….

Những thuốc pha màu ấy phải nghiền nhỏ, lọc sạch…; Lại phải lấy vợt lụa mau

bốn cái, vợt lụa thưa hai cái….., gừng sống hai lạng, tương nửa cân”. Danh mục

dài dằng dặc những thứ cần phải sắm sửa trước khi bắt đầu vẽ bức “công bút họa

giới đồ” Đại Quan Viên như thế đủ thấy sự công phu của họa gia. Tất cả những

chất liệu đó là chất liệu đã được sáng chế và truyền thừa trong kinh nghiệm hội

họa Trung Hoa. Ngay cả việc dùng gừng sống và tương để cho đĩa sành gặp lửa

không bị nổ cũng được để ý đến chứng tỏ sự tinh tế, dụng công và cẩn mật của các

họa gia thời xưa. Và Tào Tuyết Cần là người đã làm cho sự kỳ công đó sống dậy

trong tiểu thuyết.Bảo Thoa lại chỉ cách cho Bảo Ngọc và Tích Xuân dễ dàng trong

việc vẽ một bức tranh quá lớn như Đại Quan Viên. Cô khuyên Bảo Ngọc nên lấy

bức bản đồ đã vẽ tỉ mỉ của thợ vẽ trước khi xây dựng vườn rồi từ đó nhờ các họa

sư bên ngoài thêm bớt thành một bức vẽ, sau đó Tích Xuân sẽ vẽ tiếp tỉ mỉ từng

chi tiết. Phương pháp mà Bảo Thoa khuyến cáo là phương pháp mô tả của truyền

thống, lấy bức vẽ kiến trúc làm lam bản rồi theo đó mà cắt xén, thêm nhân vật rồi

vẽ thành nhà cửa, lâu đài…Trong hồi thứ 42 này, Tào Tuyết Cần cũng nhắc đến,

dù chỉ là lướt qua trường phái vẽ tranh tả ý và tranh sơn thủy Nam Tống. Tích

Xuân có nhắc qua bốn màu mà cô thường ùng khi vẽ tranh là màu đỏ, màu xanh,

màu vàng, màu son. Đây là bốn màu căn bản của trường phái vẽ tranh tả ý truyền

thống. Theo Phi Đồ trong “Trung Quốc họa nhan sắc nghiên cứu” viết: “Đất son,

còn gọi là thượng chu, chứa trong mình cả lửa và nước, có trong quặng sắt”. Đây

là màu quan trọng trong vẽ tranh sơn thủy, nhân vật. Trong “Sơn thủy họa phả” có

đề cập đến việc vẽ hoa màu xanh như sau: “Hoa xanh nên dùng nhiều sắc xanh của

lá nho thì sẽ đẹp”. Đây là màu tối cần thiết trong tranh sơn thủy… Tóm lại, trong

hồi thứ 42, Tào Tuyết Cần thông qua nhân vật Tiết Bảo Thoa đã trình bày một

cách rất tường tận về kỹ thuật và chất liệu của hội họa cổ điển Trung Hoa. Qua

một đoạn đối thoại, tác giả không thể một lúc nói hết được tất cả những tinh túy

của hội họa truyền thống mà chỉ có thể điểm những nét sơ khởi nhất, gần gũi nhất

với nội dung tác phẩm. Thế cũng đủ thấy sự am tường và tâm huyết của Tào Tuyết

Cần đối với hội họa truyền thống Trung Hoa. Nhờ đây, độc giả cũng được dịp hiểu

thêm về nền hội họa lâu đời và rực rỡ này.3. Thực và hư, giả và chân trong

các bức họa được đề cập đến trong Hồng Lâu MộngLần theo ngấn tích chữ

nghĩa trong Hồng Lâu Mộng, không ít nhà nghiên cứu ở Trung Quốc và trên thế

giới đã đi tìm sự thật về các bức tranh được Tào Tuyết Cần nhắc đến trong Hồng

Lâu Mộng. Điều kỳ lạ là tất cả các bức tranh đó đều không có thật, chỉ có tên tác

giả là thật mà thôi. Những họa gia được Tào Tuyết Cần nhắc đến trong Hồng Lâu

Mộng đều là những danh họa nổi tiếng, có ảnh hưởng lớn trong lịch sử hội họa

Trung Quốc như Mễ Phất và Lý Công Lân đời Tống, Đường Dần và Cừu Anh đời

nhà Minh… Còn các bức tranh được nhắc đến đều là sản phẩm “hư cấu” của Tào

Tuyết Cần.Hồi thứ 5, Tào Tuyết Cần nhắc đến bức tranh “Nhiên lê đồ” không rõ

tác giả kể tích Lưu Hướng đời Tây Hán đến đọc sách ở gác Thạch Cừ, có một vị

tiên chống gậy cỏ lê đến đốt đầu gậy làm đèn cho Lư đọc sách. Bức tranh thứ hai

nằm trong khuê phòng của Tần thị có tên “Hải đường xuân thụy” được tác giả gán

cho họa gia Đường Bá Hổ. Đường Bá Hổ, tức Đường Dần, danh họa đời Minh.

Đương thời, ông tự xưng là “Giang Nam đệ nhất tài tử”. Ông là người thành công

trong vẽ tranh nhân vật, đặc biệt là tranh thiếu nữ. Có lẽ vì vậy mà Tào Tuyết Cần

đã chọn ông để trao gửi bức họa hư cấu của mình. “Hải đường xuân thụy” là một

cụm từ Tô Đông Pha dùng để tả vẻ đẹp Dương Quý Phi trong bài “Hải đường

thi”: Chỉ khủng thâm dạ hoa thụy khứ Cố thiêu cao chúc chiếu hồng

trang”Tạm dịch: Chỉ sợ đêm khuya hoa ngủ mất Cố khêu ngọn đuốc

chiếu mặt hồngHải đường ở đây được ví với mỹ nhân. Cái tài tình của Tào Tuyết

Cần là không hề miêu tả bức tranh vẽ gì, chỉ nhắc đến “Hải đường xuân thụy” và

Đường Dần là lập tức người đọc vốn quen thuộc với thi ca hội họa Trung Hoa sẽ

nghĩ đến hồng nhan. Có lẽ nào, đây cũng là một câu đố mà Tào Tuyết Cần muốn

người đọc cùng tham gia chơi khi đọc tác phẩm? Hơn nữa, việc chọn hai bức tranh

để nhắc đến trong hai khung cảnh, một là thư phòng, hai là khuê phòng và sự chọn

lựa của Giả Bảo Ngọc cũng bộc lộ nên tính cách nhân vật. Giả Bảo Ngọc vốn ghét

lối học theo kiểu tầm chương trích cú với mục đích đỗ đạt hiển vinh nên hẳn nhiên

khi nhìn thấy “Nhiên lê đồ” thì sẽ không thích mà tìm cách tránh đi. Đến lúc gặp

“Hải đường xuân thụy” thì Bảo Ngọc cho đây là chốn thần tiên, ở cả đời cũng

không chán bởi Bảo Ngọc vốn thích gần nữ nhi và thấy thoải mái trong thế giới

chỉ toàn là cái đẹp, không phải tuân theo các quy định người đời. Trong hồi thứ

26, một lần nữa Đường Dần lại được nhắc đến với bức vẽ xuân cung. Xuân cung

họa còn gọi là “Bí hí đồ” là loại tranh thông tục, tả cảnh trai gái yêu đương vợ

chồng. Loại tranh này có từ sớm và do nhiều tác giả sáng tác chứ không phải

Đường Dần. Ở đây, Tào Tuyết Cần đặt bức tranh này vào miệng Tiết Bàn, còn cho

anh ta nói tên của Đường Dần thành Canh Hoàng (bởi 唐寅 và 庚黄 hơi giống

nhau nếu mới nhìn qua). Tào Tuyết Cần không nhắc nhiều đến tính cách của Tiết

Bàn, chỉ qua chi tiết nhỏ này ta có thể thấy anh ta là người ít học và thô lậu. Đó là

cách tả mà như không tả, tuyệt bút của Tào Tuyết Cần.Ở hồi thứ 40, trong đoạn

miêu tả phòng của Thám Xuân, tác giả nhắc đến bức tranh “Yên vũ đồ” của Mễ

Tương Dương. Mễ Tương Dương tên là Mễ Phất, người đời nhà Tống. Ông là

người có tài về tranh sơn thủy nhân vật, thích chơi đồ đá lạ vàng quý. Ông cũng là

tác giả của những bộ sách như Bảo tấn anh quang tập, Như sử, Họa sử, Nghiên

sử… “Yên vũ đồ” cũng như các tác phẩm khác trong Hồng Lâu Mộng, không phải

là tác phẩm của Mễ Tương Dương. Tào Tuyết Cần lại một lần nữa dùng tranh để

mà nói đến tính cách nhân vật. Trong đoạn này, ông có nhắc đến Thám Xuân là

người rộng rãi, thích sưu tầm những thứ lạ, quý hiếm trên đời, cũng là người tao

nhã. Có lẽ vì thế, bức tranh “khói mưa” của họa gia Mễ Phất là phù hợp với Thám

Xuân hơn cả. Cũng như thế, đến phòng của Đại Ngọc, Tào Tuyết Cần lại cho treo

bức “Đấu hàn đồ” (Tranh thi lạnh) của Lý Long Miên. Lý Long Miên tự Bác Thời,

hiệu Long Miên Sơn Nhân, là danh họa đời Bắc Tống. Ông làm quan tới chức

Triều thị lang, thích học tinh thần cổ học, sở trường của ông là vẽ nhân vật và yên

mã. Ông theo tinh thần “bạch miêu” họa pháp, phép vẽ chú trọng sự đơn sơ, giản

dị của bức tranh. Tác phẩm còn truyền lại của ông có “Cửu ca đồ”, “Duy Ma kiết”,

“Ngũ mã đồ”… Bức tranh “Đấu hàn đồ” treo ở quán Tiêu Tương vẽ “Hằng Nga,

một người hầu gái và một nàng tiên cùng hầu gái của mình bưng một cái gì dài dài

như cái bọc áo. Ngoài hai vị tiên ra chỉ điểm xuyết những đám mây không có gì

khác”[4]. Chỉ duy nhất trong hồi này, Tào Tuyết Cần cho người treo tranh bình

luận về bức tranh của mình. Lâm Đại Ngọc nói về ý nghĩa của tranh qua hai câu

thơ “Thanh nữ, Tố nga không sợ rét; Dám đua vẻ đẹp trước trăng sương”. Ý nghĩa

của bức tranh đua sự chịu rét, người thiếu nữ mong manh, yểu điệu trong gió

sương, đúng là chỉ có thể treo ở phòng Lâm Đại Ngọc. Thế mới thấy sự thần tình

diệu bút của Tào Tuyết Cần.

Trong hồi thứ 50, Tào Tuyết Cần đã dùng bức “Diễm tuyết đồ” của Cừu Thập

Châu để so sánh với cảnh Bảo Cầm mặc áo cừu thêu đàn le, đứng sau núi, sau

lưng là một a hoàn bưng cái lọ cắm cành hồng mai. Cừu Thập Châu tức Cừu Anh,

là danh họa đời mình. Ông có tài phỏng theo các tác phẩm cổ đại, lại có khả năng

vẽ nhân vật thiếu nữ. Ông là một trong những họa gia “công bút” xuất sắc đời

Minh. Bức tranh “Diễm tuyết đồ” là mượn việc Cừu Anh hay vẽ các sĩ nữ tú nhã

mà hư cấu thành. Từ đó, ta có thể thấy, cảnh và người trong tiểu thuyết bản thân

cũng là một bức tranh đẹp, mà thậm chí còn đẹp hơn cả tranh. Chỉ cần nhắc đến

một bức tranh là toàn bộ cảnh sắc sống động của cảnh vật thật cùng sống dậy. Cái

thần của việc dụng bút là ở chỗ đó. Với kiến thức uyên thâm của Tào Tuyết Cần

về hội họa cổ điển Trung Hoa, ông dễ dàng tìm thấy những bức tranh nổi tiếng đại

diện cho phong cách các họa gia để đưa vào tác phẩm. Nhưng ông lại thích “hư

cấu” những bức họa mới, chỉ được nhắc đến qua tên, không hề tồn tại trên đời. Bút

pháp này của Tào Tuyết Cần nằm chung trong bút pháp hư- thực, chân- giả ông đã

dùng xuyên suốt tác phẩm. Có một gia đình họ Giả sống trong Đại Quan viên, có

một Giả Bảo Ngọc ở đất Kim Lăng thì cũng có một Chân Bảo Ngọc ở một phương

trời khác. Đối với hội họa, Tào Tuyết Cần cũng dùng bút pháp này, “dĩ huyễn độ

chân”, lấy cái hư để nói cái thật về cá tính của nhân vật. Qua cách chơi này, ta

cũng thấy được Tào Tuyết Cần là một trong những nhà văn đầu tiên trên thế giới

dám “chơi đùa” với văn chương, chữ nghĩa, “chơi đùa” cả với những thứ được

mệnh danh là chuẩn mực cổ điển. Quan niệm này ngày nay ở Âu Mỹ được các nhà

văn Hậu hiện đại sử dụng triệt để. Hư- thực, giả- chân này trong khi nhắc đến hội

họa, cùng với bút pháp chung của toàn tác phẩm nhằm vươn đến những tư tưởng

huyền nhiệm của Đông phương, thực- hư, giả- thật đều nằm ở trong nhau. “Thế sự

nhược đại mộng”, biết đâu là giả biết đâu là hư!III. Kết luậnHội họa cổ

điển Trung Hoa đã được Tào Tuyết Cần tái hiện rất linh động trong Hồng Lâu

Mộng. Sự vĩ đại của truyền thống hội họa Trung Hoa đã được ông xiển dương

khéo léo và tinh tế trong tác phẩm. Không dành quá nhiều trang sách cho việc

thuyết minh về kỹ thuật vẽ tranh cổ điển nhưng ông đã đạt được hiệu quả cao nhất

trong việc trình bày sự am tường và tình yêu với hội họa. Qua đó, ta có thể thấy

rằng sự vĩ đại, tinh tế của hội họa Trung Hoa không chỉ dành cho những người

trong giới họa gia mà có sức sống trong lòng người dân và văn hóa Trung Quốc.

Những nho sĩ, những khuê nữ được học hành đều có thể am tường về nghệ thuật

này.Không những thế, Tào Tuyết Cần còn dùng hội họa như một phương tiện để

miêu tả tính cách, thói quen, sở thích của nhân vật. Chính bút pháp này đã tạo

không khí trang nhã, tinh tế cho tiểu thuyết đồng thời đạt hiệu quả cao trong việc

miêu tả tâm lý nhân vật dù không nhiều lời. Tào Tuyết Cần đã tiếp nối xuất sắc

truyền thống thi- thư- họa của văn chương cổ điển Trung Quốc. Đây cũng là một

trong những nguyên nhân khiến Lỗ Tấn nhận xét: “Sau khi Hồng Lâu Mộng ra đời,

cách viết và cách tư duy truyền thống đã hoàn toàn bị phá vỡ”[5]. TÀI LIỆU

THAM KHẢO1. Lâm Ngữ Đường, Hội họa Trung Hoa qua lời các vĩ nhân và

danh họa, NXB Mỹ Thuật, 20042. Phan Thanh Anh, 60 cuốn sách nên đọc,

NXB Hà Nội, 19983. Tào Tuyết Cần, Hồng Lâu Mộng (3 tập), NXB Văn học,

19994. Yang Xin and others, 3000 years of Chinese painting, Yale University

Press, 19975. http://baike.baidu.com/view/17392.htm (tự điển bách khoa trực

tuyến của Trung Quốc)6. 关键字, 《红楼梦》中的传统绘画与书法,

http://www.esgweb.net/Article/Class1/Class50/Class54/200804/33306.htm

[1] Tào Tuyết Cần, Hồng Lâu Mộng tập 2, NXB Văn học, 1999

[2] Lâm Ngữ Đường, Hội họa Trung Hoa qua lời các vĩ nhân và danh họa, NXB

Mỹ Thuật, 2004, tr57-58

[3] Sđd, tr124

[4] Tào Tuyết Cần, Hồng Lâu Mộng tập 3, NXB Văn học, 1999, tr 152

[5] Phan Thanh Anh, 60 cuốn sách nên đọc, NXB Hà Nội, tr130