BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN XUÂN NGỌC
YẾU TỐ BIỂU HIỆN TRONG TRANH CỦA LÝ TRẦN QUỲNH
GIANG, ĐINH Ý NHI VÀ ĐINH THỊ THẮM POONG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Hà Nội – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN XUÂN NGỌC
YẾU TỐ BIỂU HIỆN TRONG TRANH CỦA LÝ TRẦN QUỲNH
GIANG, ĐINH Ý NHI VÀ ĐINH THỊ THẮM POONG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa) Mã số: 60210102 Khóa: 18 (2015 – 2017)
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRANG THANH HIỀN
Hà Nội – 2017
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Nxb TS PGS Tr. H Nhà xuất bản Tiến sĩ Phó giáo sư Trang Hình
1
MỤC LỤC
Trang
Bảng chữ cái viết tắt
Mục lục ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .... 12
1.1. Khái niệm về “Yếu tố Biểu hiện trong tranh” ......................................... 12
1.2. Những yếu tố cơ bản của ngôn ngữ hội họa và vai trò của nó trong
khuynh hướng hội họa Biểu hiện ................................................................... 14
1.3. Khái quát về chủ nghĩa Biểu hiện trên thế giới và bối cảnh của sự xuất
hiện phong cách hội họa Biểu hiển ở Việt Nam ........................................... 19
1.4. Khái quát về tạo hình nghệ thuật của ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang,
Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong ............................................................ 25
Tiểu kết ............................................................................................................ 28
CHƯƠNG 2. NGHIÊN CỨU YẾU TỐ BIỂU HIỆN TRONG TRANH CỦA
LÝ TRẦN QUỲNH GIANG, ĐINH Ý NHI VÀ ĐINH THỊ THẮM POONG
......................................................................................................................... 30
2.1. Yếu tố biểu hiện trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang ............................... 30
2.2. Yếu tố biểu hiện trong tranh Đinh Ý Nhi ................................................ 40
2.3. Yếu tố biểu hiện trong tranh Đinh Thị Thắm Poong ............................... 52
Tiểu kết ............................................................................................................ 59
CHƯƠNG 3. NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU YẾU TỐ
BIỂU HIỆN TRONG TRANH ...................................................................... 61
3.1. Sự tương đồng và khác biệt về yếu tố biểu hiện trong tranh của ba nữ họa
sĩ ..................................................................................................................... 61
3.2. Giá trị của yếu tố biểu hiện trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý
Nhi và Đinh Thị Thắm Poong.........................................................................67
3.3.Vai trò của giới tính trong việc bộc lộ ý tưởng ở tác phẩm của Lý Trần
Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong ................................... 68
3.4. Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài ............................................ 70
Tiểu kết ........................................................................................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 75
PHẦN PHỤ LỤC ........................................................................................... 78
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi đứng trước một tác phẩm hội họa, người xem thường nảy sinh tình
cảm hoặc một cảm xúc nào đó, họ thấy hay, thấy được ý tưởng và nội dung
của tác phẩm thông qua cách trình bày trên tranh. Hội họa ngoài khả năng tạo
ra hiệu quả thị giác còn có thể nảy sinh được hiệu quả tâm lý đối với người
xem tranh. Như vậy khi xem tranh, người thưởng thức bị tác động tâm lý bởi
hình thức và nội dung bức tranh.
Nghệ thuật hội họa là nghệ thuật của sự kết hợp các yếu tố như màu sắc,
đường nét, hình mảng, không gian… , các họa sĩ dùng các yếu tố ấy để thể
hiện ý tưởng của mình. Với vai trò của mình, ngôn ngữ của hội họa giúp cho
họa sĩ biểu đạt ra được cảm xúc, nó được coi như là một yếu tố hình thành
nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Một khía cạnh khác làm nên giá trị nghệ
thuật trong tác phẩm là sự biểu cảm của ngôn ngữ hội họa có được gọi là một
yếu tố hay không, giá trị của nó như thế nào trong tác phẩm hội họa. Để trả
lời cho câu hỏi này thì phải nghiên cứu tập trung vào hội họa Biểu hiện vì nó
chỉ rõ ra được giá trị của yếu tố biểu cảm trong tranh. Song, để nhìn thấy
được giá trị của yếu tố biểu hiện thì cần phải nghiên cứu những tác phẩm của
họa sĩ cụ thể.
Nếu như ở trên thế giới, các họa sĩ Biểu hiện sự lo lắng, bất an trước
những vấn nạn của xã hội hiện đại thì các họa sĩ Biểu hiện Việt Nam cũng thể
hiện thái độ của mình vào tranh với tính chất tương tự , các họa sĩ cũng thể
hiện sự lo lắng của mình về thời đại mà họ đang sống. Lịch sử xuất hiện của
hội họa Biểu hiện ở Việt Nam từ sau thời kỳ đổi mới, năm 1986, khi đất nước
mở cửa để phát triển. Điều này làm cho nền mỹ thuật Việt Nam trở nên phong
phú hơn . Ở giai đoạn từ 1990 – 1995, phong cách trong sáng tác hội họa của
các họa sĩ Việt Nam chủ yếu là Biểu hiện – trừu tượng. Những họa sĩ vẽ theo
4
lối biểu hiện và đã có những thành công nhất định. Những họa sĩ yêu thích và
tìm tòi, thể nghiệm theo khuynh hướng Biểu hiện hoặc có yếu tố Biểu hiện
trong tranh ở Việt Nam giai đoạn sau Đổi mới như họa sĩ Lê Quảng Hà, Doãn
Hoàng Lâm, Lê Anh Quân, Nguyễn Xuân Tiệp, Vũ Thăng… Trong đó ba nữ
họa sĩ tiêu biểu là Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong và Lý Trần Quỳnh
Giang. Điểm đặc biệt ở nghệ thuật của ba nữ họa sĩ này là đều sử dụng ngôn
ngữ của hội họa Biểu hiện để nói lên vấn đề lo lắng hoặc khát vọng của con
người trong thâm tâm của mình một cách mạnh mẽ nhất, trực tiếp nhất. Chính
những cách sử dụng chất liệu, ngôn ngữ của hội họa biểu hiện của ba họa sĩ
trong các tác phẩm là những dấu hiệu bộc lộ tình cảm, thái độ, cảm xúc trong
nội tâm của mình, nó cũng được coi như là một yếu tố tạo nên giá trị nghệ
thuật trong tranh của ba họa sĩ này. Đây cũng là lý do ba họa sĩ này được
chọn cho đề tài nghiên cứu.
Nghiên cứu về các tác giả cũng đã có khá nhiều bài viết, bài báo giới
thiệu về những sáng tác của họ, nêu lên phong cách vẽ biểu hiện của họ. Tuy
nhiên, nghiên cứu chuyên biệt về yếu tố biểu hiện trong tranh của ba họa sĩ
Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong và Lý Trần Quỳnh Giang thì chưa có
công trình nào đặt vấn đề sâu sắc và thấu đáo.
Vì những lý do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài Yếu tố biểu hiện trong
tranh của Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong làm
đề tài nghiên cứu.
5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để nghiên cứu đề tài Yếu tố biểu hiện trong tranh của Lý Trần Quỳnh
Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong cần phải phân loại, phân tích,
tổng hợp những công trình nghiên cứu về nghệ thuật biểu hiện, những công
trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử mỹ thuật ở Việt Nam giai đoạn sau đổi
mới 1986 và các bài viết về ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi,
Đinh Thị Thắm Poong. Các bài viết về ba họa sĩ này đã có nhiều, tuy nhiên
cho đến nay chưa có một công trình nào tập trung nghiên cứu chuyên biệt. Cụ
thể là về vấn đề Yếu tố biểu hiện trong tranh của Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh
Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong.
Về các công trình nghiên cứu bối cảnh lịch sử mỹ thuật Việt Nam giai đoạn
sau đổi mới 1986:
Lịch sử mỹ thuật luôn song hành với lịch sử xã hội. Ở Việt Nam giai
đoạn sau đổi mới, mỹ thuật đã có những thay đổi, nhưng lý do nào đưa đến sự
thay đổi này thì phải kể đến lịch sử đất nước trước và sau năm 1986. Điều này
được thể hiện trong các cuốn sách Đổi mới để tiến lên của Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh [6]; sách Đổi mới và chính sách xã hội văn hóa của tác giả
Trần Độ[4]. Ở sách Đổi mới để tiến lên hay Đổi mới và chính sách xã hội văn
hóa chỉ ra lý do nền mỹ thuật Việt Nam có sự thay đổi so với trước đó, có sự
giao lưu trở lại với những nền mỹ thuật trên Thế giới.
Với bối cảnh lịch sử như vậy thì cũng có một số công trình nghiên cứu
về mỹ thuật Việt Nam giai đoạn sau đổi mới, nghiên cứu và chỉ ra sự thay đổi
trong mỹ thuật giai đoạn này. Các cuốn sách đó như: Họa sĩ trẻ Việt Nam của
tác giả Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng [10]. Cuốn sách này đã đưa ra được
yếu tố quan trọng thúc đẩy Hội họa Việt Nam giai đoạn 1990 – 1995. Sách
nói về xu hướng sáng tác của họa sĩ trẻ Việt Nam ở giai đoạn 1990 – 1995 là
Biểu hiện – Trừu tượng, trong đó chỉ ra lối vẽ biểu hiện là một thủ pháp, giá
trị của nghệ thuật tạo hình theo lối biểu hiện nằm ở giữa bút pháp và nội
6
dung, hoàn toàn xuất phát từ nội tâm của họa sĩ. Cũng trong sách này, họa sĩ
Đinh Ý Nhi được nêu là ví dụ cho họa sĩ trẻ những năm 1990 – 1995 có
phong cách sáng tác theo khuynh hướng biểu hiện.
Cuốn Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20 của tác giả Nguyễn Quân được xuất
bản năm 2010 [11], đã đề cập đến sự phát triển về Hội Họa với phong cách
mới, xu hướng làm việc độc lập của nghệ sĩ trong tình hình chung của lịch sử
mỹ thuật Việt Nam. Thực chất, đây cũng chỉ là một cuốn sách khái quát
chung về mỹ thuật Việt Nam trong thế kỷ 20 nên việc khảo cứu sâu riêng về
hội họa biểu hiện là không thể. Nhưng công trình này đã đưa đến một cái nhìn
tổng quan nhất về tiến trình phát triển của mỹ thuật Việt Nam từ sự tác động
của xã hội đến việc định hình phong cách.
Về mặt những kiến thức liên quan đến hội họa biểu hiện và những yếu tố hội
họa có những công trình sau:
Cuốn Giáo trình lịch sử nghệ thuật của tác giả Trần Văn Tâm [12] giới
thiệu sự ra đời của chủ nghĩa biểu hiện vào giai đoạn thế kỷ 20. Sách này nói
đến trường phái biểu hiện với đặc điểm dùng bảng màu rực rỡ, nội dung tập
trung sâu vào tình cảm, bút pháp bạo liệt, nội dung nói về sự bất bình và phản
ánh xã hội, có phần đau thương, mất mát.
Cuốn Giáo trình lịch sử nghệ thuật của tác giả Đặng Thái Hoàng,
Nguyễn Văn Đính [3] nói về chủ nghĩa Biểu hiện đề cao tính chủ quan của
người nghệ sĩ, đề cao việc diễn tả tinh thần, tình cảm cá nhân. Trong đó việc
mô tả lại sự vật ấn tượng trước mắt đều không quan trọng, chủ nghĩa Biểu
hiện phải thể hiện một sự trần trụi của sự chân thực, phải thể hiện trạng thái
chủ quan và được tự do phá vỡ cấu trúc của hình thể. Khuynh hướng hội họa
biểu hiện tại Đức có hai nhóm đại diện tiêu biểu là nhóm Cây Cầu (được
thành lập ở Dresden năm 1905 và giải thể năm 1913) và nhóm Kỵ Sĩ Lam.
Qua cách phân tích tác phẩm cụ thể, sách chỉ rõ tư tưởng sáng tác trong
khuynh hướng biểu hiện có sự thống nhất với nhau, nhưng cách thể hiện khác
7
nhau ở mỗi họa sĩ. Tư tưởng chung của khuynh hướng biểu hiện ở Đức là thể
hiện tình cảm bên trong nội tâm của họa sĩ. Đó là thể hiện sự lo lắng hoặc sự
khát khao, phải thể hiện bản chất của sự việc mà nó là sự thật theo đúng
nghĩa. Ý đồ sáng tạo nghệ thuật và cách thể hiện hoàn toàn do sự chủ quan
của người nghệ sĩ ấn định. Hai cuốn sách Giáo trình lịch sử nghệ thuật của
tác giả Trần Văn Tâm và sách Giáo trình lịch sử nghệ thuật của tác giả Đặng
Thái Hoàng, Nguyễn Văn Đính đã chỉ ra được lịch sử hình thành của chủ
nghĩa Biểu hiện cũng như một số đặc trưng của hội họa biểu hiện.
Về sự xuất hiện của ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị
Thắm Poong được nói đến trong các cuốn sách và bài viết:
Cuốn Nghệ thuật đương đại Việt Nam 1990 – 2010 [5], nói về các nghệ
sĩ đương đại Việt Nam, trong đó có nói về ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang,
Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong. Ba họa sĩ này được giới thiệu khái quát
về nghệ thuật của họ và sự nghiệp sáng tác. Ở cuốn sách này, Lý Trần Quỳnh
Giang được giới thiệu là một họa sĩ hướng nội, lấy hình ảnh bản thân để thể
hiện trên tác phẩm, bất chấp những gì bên ngoài cuộc sống của mình nhưng
lại thỏa mãn với thế giới riêng biệt của họa sĩ để rồi họa sĩ thể hiện lên những
tác phẩm của mình với phong cách biểu hiện, bộc lộ ra cái tôi nguyên bản,
bộc lộ sự cô độc, trống rỗng. Bên cạnh Lý Trần Quỳnh Giang, họa sĩ Đinh Ý
Nhi được nói tới là một họa sĩ có lối vẽ ào ạt, tự nhiên, nhiều khi là sơ khai.
Và hội họa của Đinh Ý Nhi là hội họa bản năng mà mang sức biểu cảm mãnh
liệt, khẳng định về sự tồn tại của con người trong xã hội hiện đại, một xã hội
tiến bộ về văn minh vật chất nhưng chẳng vì thế mà quyết được vấn đề tinh
thần của con người, dường như con người vẫn đang chịu thương tổn, đau khổ,
man dại, quay cuồng bức bối. Họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong vẽ tranh với cảm
xúc con người sống hòa mình vào với tự nhiên, dày đặc các motif trang trí,
đan lồng hình ảnh với những yếu tố siêu thực. Tranh của Đinh Thị Thắm
8
Poong có sự hồn nhiên cùng niềm vui sống của tộc người thiểu số ở bờ bên
kia của xã hội hiện đại.
Những luận văn và khóa luận liên quan đến đề tài nghiên cứu:
Khóa luận Cá tính qua sáng tác hội họa của ba nữ họa sĩ Việt Nam:
Đinh Thị Thắm Poong, Đinh Ý Nhi, Lý Trần Quỳnh Giang của tác giả Trần
Hương Ly [27]. Khóa luận này nghiên cứu về cá tính qua sáng tác hội họa
của ba họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong, Đinh Ý Nhi, Lý Trần Quỳnh Giang,
phần nội dung của khóa luận chỉ nói về biểu hiện cá tính của ba họa sĩ, cũng
như phong cách của ba họa sĩ này mà không nói đến nghiên cứu yếu tố biểu
hiện trên tranh của ba họa sĩ.
Luận văn Tính Biểu hiện của hình thể trong hội họa của tác giả Đặng
Đình Nguyên [28] nói về tính biểu hiện của hình thể trong hội họa, tuy không
nói gì đến ba nữ họa sĩ này, nhưng đã chỉ ra được những vấn đề cơ bản của
biểu hiện, tính biểu hiện của hình thể trong hội họa, giúp cho người viết luận
văn này có thêm sự hiểu biết về khả năng biểu đạt nội dung bằng hình thể
trong hội họa, qua đó đối chiếu về tính biểu hiện trong tạo hình của ba họa sĩ
Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong.
Ngoài những sách, luận văn, khóa luận như trên đã nêu còn có những bài
viết trên một số tạp chí, trang web có uy tín như tạp chí Văn hóa nghệ thuật
của Bộ văn hóa, thể thao và du lịch, Tạp chí Mỹ thuật của hội Mỹ thuật Việt
Nam nói về yếu tố, biểu hiện cũng như giới thiệu về ba họa sĩ này. Trên tạp
chí Văn hóa nghệ thuật cũng có các bài viết về ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh
Giang, Đinh Ý Nhi. Trong bài viết Tranh Đinh Ý Nhi và câu chuyện hậu hiện
đại được in trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 299 tháng 5/2009 của nhà phê
bình mỹ thuật Trang Thanh Hiền [26], họa sĩ Đinh Ý Nhi nói tới giá trị của
con người bên trong cái vỏ ngoài và sự lo lắng nội tâm về quan hệ giữa những
con người trong xã hội. Điều đó được nhận ra trong loạt tác phẩm Câu chuyện
Châu Á Cũng ở tạp chí Văn hóa nghệ thuật , bài viết Lý Trần Quỳnh Giang,
9
độc thoại cùng thời gian của tác giả Bùi Như Hương, số 304, tháng 10 năm
2009 [28], giới thiệu về họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang như là một họa sĩ tạo ra
bước ngoặt trong lĩnh vực tranh in khắc gỗ ở Việt Nam. Họa sĩ chọn ngôn ngữ
nghệ thuật theo khuynh hướng Biểu hiện, chị sáng tác tranh từ những vấn đề
nội tâm bên trong của chị, về những ám ảnh ốm đau bệnh tật, về sự sống và
cái chết… có phần hoang tưởng, ảo giác và siêu thực. Trong bài viết Đinh Ý
Nhi và những khoảng tĩnh lặng trên trang antgct.com.vn ngày 01/ 06/ 2015
[24] có ý nói đến cách vẽ của họa sĩ Đinh Ý Nhi vẫn luôn vẽ từ nội tâm của
mình, vẫn biểu hiện những biểu cảm của cuộc sống, biểu hiện khát vọng bên
trong con người mình, biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân và cuộc sống và
biểu hiện những thân phận người trong đời sống đương đại. Trong bài viết
Đinh Thị Thắm Poong - người con của núi rừng trên báo nhandan.com.vn,
ngày 22/8/2007 [27], họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong được giới thiệu là họa sĩ,
người con của núi rừng, chị thể hiện tình yêu cuộc sống, gắn bó với núi rừng
của con người vào trong tác phẩm của mình, chị thể hiện trong tác phẩm của
mình không phải chỉ là cái nhìn về cuộc sống của con người dân tộc, mà đằng
sau đó còn nói lên câu chuyện của đất nước. Qua những tác phẩm, Thắm
Poong thể hiện thái độ, tình cảm của mình với thiên nhiên, với đất nước, với
con người. Hội họa đã giúp cho chị biểu hiện ra những thái độ và tình cảm
của cá nhân chị, chị cũng mong truyền cảm xúc của mình tới người xem. Bài
Cảm nỗi buồn của Lý Trần Quỳnh Giang trong “Này, ốm à” trên báo
hanoimoi.com ngày 27/12/ 2010 của tác giả Đào Vân [31] viết về triển lãm
này của họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang. Vẽ về nỗi buồn trong tranh của họa sĩ
một phần bị chi phối bởi cá tính bên trong con người chị: thích sống lặng lẽ
và ẩn mình. Việc cô đơn của họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang khiến chị thoải
mái, đặc biệt là trong sáng tác. Bài Đinh Thị Thắm Poong: lặng lẽ với thiên
nhiên trên báo Thể thao & Văn hóa (thethaovanhoa.vn) ngày 25/04/2010 của
tác giả Đỗ Tường Linh [29]. Bài viết này là một bài phỏng vấn với họa sĩ
10
Đinh Thị Thắm Poong nhân dịp họa sĩ triển lãm tranh chủ đề Hòa nhập với
thiên nhiên, họa sĩ khẳng định đề tài chị ưa thích là thiên nhiên và cuộc sống,
qua triển lãm này, chị muốn thể hiện quy luật của tự nhiên và phản ánh những
vấn đề của môi trường hiện tại.
Tóm lại, vấn đề nghiên cứu về nghệ thuật biểu hiện và nghiên cứu về các
tác giả Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong đã có nhiều công trình nghiên cứu,
song vấn đề nghiên cứu về Yếu tố biểu hiện trong tranh của Lý Trần Quỳnh
Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong chưa có công trình nào nghiên
cứu chuyên biệt, điều này là cơ sở cũng như là sự gợi mở để tôi mạnh dạn đưa
ra việc tìm hiểu nghiên cứu về nội dung này.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong tranh của ba họa sỹ, Lý Trần Quỳnh
Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, thể hiện qua nội dung và hình
thức của các tác phẩm. Từ những phân tích trên luận văn sẽ rút ra những nhận
định về sự tương đồng và khác biệt về yếu tố biểu hiện trong tranh của nữ họa
sĩ. Chỉ ra những đóng góp của ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi
và Đinh Thị Thắm Poong trong mỹ thuật Việt Nam đương đại, rút ra những
bài học kinh nghiệm cho bản thân từ việc nghiên cứu này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong các sáng tác
hội họa của Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong.
- Phạm vi nghiên cứu: Một số tác phẩm tiêu biểu có yếu tố biểu hiện của
ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong giai
đoạn sau năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong tranh của Lý Trần Quỳnh Giang,
Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, luận văn này sử dụng các phương pháp
sau:
11
- Phương pháp nghiên cứu văn bản học: hệ thống, thống kê từ các nguồn
tư liệu, phân tích tài liệu và tổng hợp tài liệu. Hệ thống, tổng hợp các tư liệu
ảnh, văn bản về yếu tố, yếu tố biểu hiện, về các họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang,
Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, về mỹ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới.
- Phương pháp so sánh: So sánh hình thức thể hiện của các họa sĩ khác
cũng vẽ biểu hiện để chỉ ra được ba họa sĩ này dùng hình thức nghệ thuật như
thế nào, mục đích gì.
- Phương pháp liên ngành: Để thấy rõ được yếu tố biểu hiện được bộc lộ
ra như thế nào trong tranh của Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị
Thắm Poong, luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử mỹ thuật,
mỹ học, tâm lý học.
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn tổng hợp hệ thống các công trình, bài viết liên quan đến yếu
tố biểu hiện trong nghệ thuật hội họa.
- Luận văn làm sáng tỏ về những yếu tố Biểu hiện trong tranh của ba họa
sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong.
- Luận văn đưa ra những nhận định sự tương đồng và khác biệt về yếu tố
biểu hiện trong tranh của ba nữ họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi,
Đinh Thị Thắm Poong.
- Đóng góp của luận văn về mặt thực tiễn làm tài liệu nghiên cứu cho
việc giảng dạy và sáng tác trong các trường đào tạo nghệ thuật ở địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu (09 trang), nội dung (56 trang), kết luận
(02 trang). Phần nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung để nghiên cứu đề tài (16 trang).
Chương 2: Nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong tranh của ba nữ họa sĩ (29
trang).
Chương 3: Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài (11 trang).
Ngoài ra luận văn còn có tài liệu tham khảo (02 trang), phụ lục ảnh minh
họa (26 trang).
12
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm về “Yếu tố Biểu hiện trong tranh”
Để xác định khái niệm “Yếu tố Biểu hiện trong tranh”, ta cần làm rõ
khái niệm “Yếu tố”, “Biểu hiện”. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn
ngữ học [10], “Yếu tố” là: “1. Bộ phận cấu thành một sự vật, sự việc, hiện
tượng. 2. Như nhân tố”. Theo định nghĩa này, yếu tố được hiểu là chi tiết,
thành phần cấu tạo nên một sự vật, hiện tượng. Nói cách khác, yếu tố là một
thành phần của một toàn thể. Yếu tố có thể hiểu là điều kiện để tạo nên một
sự vật, hiện tượng bởi yếu tố còn được giải thích là nhân tố, yếu tố cần thiết
gây ra, tạo ra. Trong nghệ thuật hội họa, đồ họa, tác phẩm được hợp thành bởi
nhiều yếu tố như chất liệu tạo ra tác phẩm, kỹ thuật thể hiện, tâm trạng của
chủ thể sáng tạo và sự phối hợp các đường nét, hình khối, màu sắc, sắc độ…
Đây là những yếu tố cơ bản trong tác phẩm và chất lượng nghệ thuật của tác
phẩm được tạo nên từ việc sử dụng và kết hợp hài hòa giữa các yếu tố [32,
Tr.4]
Cũng theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì “Biểu hiện”
có nghĩa là “tỏ ra, để lộ ra”. Còn trong Từ điển Thuật ngữ mỹ thuật phổ thông,
“Biểu hiện” có nghĩa là những dấu hiệu (cử chỉ, hành động bên ngoài hay
trong nội tâm) thể hiện một tình cảm hay một sự xúc động nào đó [8, Tr 27].
Biểu hiện và biểu cảm thường mang ý nghĩa giống nhau. Trong hội họa, biểu
hiện là họa sĩ bộc lộ, biểu đạt một dạng cảm xúc, nội dung tư tưởng nào đó
thông qua (từ) hình thức của tác phẩm. Trong lịch sử mỹ thuật thế giới, phong
cách biểu hiện là những thuật ngữ được dùng để chỉ những ý tưởng nghệ thuật
sử dụng hình thể, đường nét thái quá hoặc màu sắc lạ thường, nhằm bộc lộ
ngay được cảm xúc của họa sĩ với đối tượng.
13
“Yếu tố biểu hiện” là yếu tố tạo ra những dấu hiệu thể hiện về tình cảm,
cảm xúc, tâm trạng, trạng thái tâm lý của con người. Nó có vai trò to lớn, làm
tăng thêm vẻ xúc động về sự vật, sự việc, trong mỹ thuật yếu tố biểu hiện
được bộc lộ qua ngôn ngữ hội họa, sự kết hợp bút pháp và kỹ thuật thể hiện
để tác phẩm nghệ thuật gây được xúc cảm tới người xem, tác động tới người
thưởng thức. “Yếu tố biểu hiện trong tranh” được hiểu là những dấu hiệu
bộc lộ tâm trạng, trạng thái tình cảm, cảm xúc trong tranh mà trong đó, người
nghệ sĩ đã sử dụng tất cả những phương pháp, ngôn ngữ hội họa, kỹ thuật để
thể hiện. Yếu tố biểu hiện được bộc lộ qua ngôn ngữ hội họa, sự kết hợp bút
pháp và kỹ thuật thể hiện để tác phẩm nghệ thuật gây được xúc cảm tới người
xem, tác động tới người thưởng thức.
Một tác phẩm nghệ thuật hội họa là tổng hòa của sự kết hợp ý tưởng,
nội dung và cách thể hiện ý tưởng trên tranh. Trong tác phẩm hội họa luôn có
sự đồng hành của nội dung và hình thức. Ở phần hình thức, nghệ sĩ sử dụng
những hiểu biết về mặt tạo hình và kỹ năng làm chủ chất liệu của mình để
đem đến cho người xem sự hấp dẫn về mặt thị giác. Qua đó, người xem có thể
cảm nhận được những cảm xúc, hiểu được những ý tứ sâu xa, tiếp nhận được
những thông điệp được thể hiện bằng hình thể, màu sắc, không gian mà họa sĩ
muốn bộc lộ, truyền tải. Những sự thể hiện ngôn ngữ của hội họa, kỹ thuật
trên tranh là những dấu hiệu giúp người xem cảm nhận rõ hơn ý đồ của họa sĩ
muốn trình bày. Cụ thể, trong khuynh hướng hội họa biểu hiện, sự vận dụng
cách thể hiện ngôn ngữ hội họa cho phép họa sĩ truyền đạt trực tiếp cảm xúc,
tình cảm, thái độ, ý tưởng tới người xem một cách chân thực nhất, nhanh
nhất. Nếu như ở trường phái Ấn tượng, người xem cảm nhận được những ấn
tượng của sự vật trước mắt mà họa sĩ đã trải nghiệm thì ở khuynh hướng hội
họa biểu hiện, họa sĩ không đi sâu vào diễn tả cái Ấn tượng trước mắt mà
muốn đưa người xem đến tiếp cận với những tình cảm bên trong con người,
cảm xúc và thái độ của mình. Để đưa người xem chạm tới những cảm xúc sâu
14
sắc và chân thực nhất của mình, họa sĩ biểu hiện phải thể hiện ngôn ngữ hội
họa một cách chọn lọc, cô đọng nhất, hình thể, đường nét, màu sắc phải mang
tính tượng trưng, biểu tượng. Chẳng hạn, để cảnh báo một vấn đề giao thông
thì con người phải cô đọng hình vẽ trên biển báo để ai cũng có thể hiểu được
một cách dễ dàng nhất, nhanh chóng nhất. Ví dụ trên tác phẩm The Scream –
Tiếng Thét [H.1, Tr81] của họa sĩ Edvard Munch, sự sử dụng mảng màu đỏ,
cam, xanh lam là mảng hình lớn chứa nhiều nét vận động xoắn vặn cộng với
việc bóp méo hình thể, diễn tả một con người đang hét trên cầu nhằm biểu lộ
ra cảm giác căng thẳng thần kinh trong con người. Chính cách thể hiện đó là
dấu hiệu cho người thưởng thức biết được tâm trạng của họa sĩ, nội tâm của
họa sĩ. Với tranh của ba nữ họa sĩ Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, Lý
Trần Quỳnh Giang, yếu tố biểu hiện được thể hiện qua cách tạo hình, kỹ thuật
thể hiện, kỹ năng sử dụng chất liệu để giúp người xem cảm nhận được cảm
nhận được cảm xúc bên trong nội tâm của tác giả, hiểu được ý đồ có trong nội
dung của bức tranh. Cụ thể là những vấn đề về con người và cuộc sống được
các họa sĩ quan tâm, hiểu được suy nghĩ, tình cảm của họa sĩ và vấn đề họa sĩ
muốn nói. Như vậy trong tranh vẽ thuộc khuynh hướng biểu hiện, họa sĩ phải
vận dụng tất cả những phương pháp thể hiện, kết hợp các ngôn ngữ của hội
họa để bộc lộ ý tưởng cá nhân và sáng tạo ra những dấu hiệu mang tính biểu
cảm nhất để người xem cảm nhận được ý tưởng, nội dung một cách dễ hiểu
nhất, tác động tới người xem một cách hiệu quả nhất.
1.2. Những yếu tố cơ bản của ngôn ngữ hội họa và vai trò của nó trong
khuynh hướng hội họa biểu hiện
Nghệ thuật tạo hình biểu thị và truyền đạt những cảm xúc thẩm mỹ trước
hiện thực thông qua ngôn ngữ riêng. Các yếu tố cơ bản của ngôn ngữ hội họa
là: đường nét, hình mảng, màu sắc, đậm nhạt, chất cảm … Có thể nói những
yếu tố này là phương tiện giúp họa sĩ truyền đạt được ý tưởng, cảm xúc của
mình với người xem.
15
* Đường nét
Đường nét là một yếu tố quen thuộc trong nghệ thuật tạo hình, nó là một
dấu hiệu tượng trưng cho một tiết diện của của mảng hoặc khối, tách rời một
sự vật với không gian xung quanh … Đường nét là một khái niệm được kết
hợp bởi hai yếu tố “ đường” và “nét”.
Đường nét là thủ pháp biểu hiện của hội họa, rất đa năng, do con người
sáng tạo ra.Thị giác của con người đã kết hợp lại cảm quan hình thức của
đường nét với tính năng của sự vật, từ đó dẫn tới muôn vàn liên tưởng, cho
nên, có thể nói “đường nét là biểu hiện sự thống nhất giữa cảm tính thị giác và
lý tính phân tích” [8, Tr 57]. Như vậy tính năng của đường nét là đem đến khả
năng liên tưởng.
Ví dụ như “đường thẳng đứng” tạo cảm giác chắc chắn, cứng rắn, trang
nghiêm…; “Đường thẳng ngang” tạo cảm giác tĩnh lặng, yên bình…; “Đường
chéo, xiên” tạo cảm giác bất ngờ, sống động…; “Đường cong” cho thấy sự
uyển chuyển, mềm mại, duyên dáng hay sự rung động về tình cảm…; “Đường
gẫy, gấp khúc” tạo ra sự chuyển hướng, thay đổi, hỗn loạn hay rạn vỡ….
Những tính chất của đường nét có thể được mô tả bằng những từ thông
thường của cảm giác như trên, nhưng cũng giống như tình cảm của con người
đôi khi khó xác định rõ được đường nét ấy tạo cảm giác gì. Có nhiều sự thay
đổi tinh tế được họa sĩ biểu đạt qua đường nét vì vậy nhiều khi người xem và
họa sĩ cũng cần có những kinh nghiệm thị giác tương đồng ở một mức độ nào
đó. Đường nét vừa giúp người xem phân biệt được ranh giới giữa các hình,
vừa giúp người xem phân biệt được không gian trong tranh. Nếu sử dụng linh
hoạt đường nét kết hợp với những diện mảng thích ứng sẽ làm tăng hiệu quả
biểu hiện của hình thể trong tranh.
* Hình và nền
Hình và nền cũng đóng vai trò quan trọng trong thực hành nghệ thuật tạo
hình. Hình: có tính nhô nổi, mật độ cao, có cảm giác đầy, chặt, có hình dạng
16
rõ ràng, có đường bao hoặc đường ranh giới. Nền: có tính lùi sau, mật độ
thấp, không có cảm giác đầy chặt, hình dạng tương đối rời rạc, không có
đường ranh giới cố định. Tóm lại, hình có tính ngưng tụ, đem lại cho người ta
ấn tượng mạnh; nền thì ngược lại [25, Tr 43]. Trong hội họa, còn có sự phân
chia hình và mảng, hình mảng gợi ra hình thể của sự vật được thể hiện trên
tranh. Hiệu quả của hình mảng là gợi ra sự liên tưởng đến sự vật với tính chất
như thế nào, hình mảng trong tranh có thể gợi ra được ý nghĩa nhất trên cơ sở
sử dụng ít thông tin nhất.
* Màu sắc
Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn luôn tiếp xúc với màu sắc,
với sự đa dạng và phong phú của nó. Màu sắc cũng là một yếu tố phổ biến và
rất được xem trọng trong hội họa. Khi đứng trước một bức tranh người ta
thường bị lôi cuốn bởi màu sắc hơn là các yếu tố khác, nó có tính hấp dẫn và
kích động ghê gớm đến thị giác của chúng ta. Sự nhận biết về màu thường
gắn liền với các hiệu quả tâm lý, cảm xúc do màu tạo ra. Màu sắc tác động rất
phức tạp, tinh vi và rất nhạy vào tâm lý tạo ra xúc cảm, liên tưởng, xây dựng
nên tình cảm trong con người một cách mạnh mẽ. Tâm lý màu dựa trên những
thói quen thị giác không ổn định của con người về màu. Mỗi dân tộc, trong
quá trình lịch sử phát triển của mình, do điều kiện khí hậu, tự nhiên, tư tưởng,
tập tục văn hóa… đã dần tạo nên một tâm lý màu riêng biệt , độc đáo, có tính
bản sắc. Mỗi con người cũng vậy, tâm lý màu cũng được hình thành do kinh
nghiệm màu trong quá trình cuộc sống. Nhưng có một số tác động tâm lý của
màu mang tính quy luật được mọi người, mọi họa sĩ, các nhà nghiên cứu công
nhận đó là:
- Nóng – lạnh
- Xa – gần
- Nặng – nhẹ..
17
Và màu sắc cũng được dùng phù hợp để tạo ra tâm trạng, tượng trưng
cho ý tưởng và thể hiện cảm xúc cá nhân. Ngoài chức năng thẩm mỹ, màu sắc
cũng là một ngôn ngữ tượng trưng. Màu sắc tạo ra tính liên tưởng tùy theo
môi trường văn hóa và kinh nghiệm sống. Ví dụ màu đỏ cho cảm giác nóng,
ấm, nồng nhiệt và kích động trong khi màu xanh gợi ra một tâm trạng buồn bã
hoặc yên ả, nhưng cũng màu xanh mà cường độ màu của nó mạnh mẽ, chói
gắt thì lại tạo ra sự liên tưởng tới sự phấn khích…
Đậm nhạt:
Một yếu tố quan trọng trong hội họa không thể không nói đến đó là đậm
nhạt. Có nhiều lối dùng đậm nhạt trong hội họa tùy vào mục đích của tác
giả.Ở lối dùng đậm nhạt có tính mô tả, họa sĩ thường quan tâm đến việc diễn
tả ánh sáng tác động lên các sự vật, con người theo những quy luật vật lý trên
trái đất và thường chỉ có một nguồn sáng nhất định. Theo đó thì cảm giác
chiều sâu không gian trong tranh như thực với hiện thực trước mắt. Còn ở lối
dùng đậm nhạt mang tính chủ quan thì họa sĩ thường chủ động dùng đậm nhạt
với diện tích tỉ lệ rõ ràng tạo ra những cảm giác khác nhau như: một tác phẩm
có nhiều vùng tối tạo không khí bí ẩn, rung rợn, kịch tính, đe dọa hoặc buồn
thảm trong khi một tác phẩm chủ yếu là vùng sáng sẽ cho hiệu quả ngược lại.
Dùng đậm nhạt chủ quan hơn nhằm để đẩy cao hơn nữa cung bậc cảm xúc nơi
người thưởng thức.
* Chất cảm
Chất cảm thường được sử dụng trong nghệ thuật tạo hình để chỉ khả
năng cảm thụ bề mặt sự vật nói chung (bao gồm cả xúc giác và thị giác) của
nghệ sĩ và hiệu quả cấu trúc bề mặt một tác phẩm mà họa sĩ đã xử lý… Bề
mặt của tác phẩm có những độ gồ ghề, thô ráp hay láng mịn.. để tạo ra hiệu
quả cảm xúc với người xem. Đây cũng là một yếu tố ngôn ngữ của hội họa
nếu được kết hợp khéo léo với hình thể, màu sắc, đậm nhạt sẽ tạo hiệu quả
biểu hiện trực tiếp và mạnh mẽ đến cảm xúc của người xem.
18
Bên cạnh những yếu tố đã nói ở trên, yếu tố bố cục và không gian cũng quan
trọng trong nghệ thuật tạo hình. [31, Tr 30]
*Không gian
Không gian trong nghệ thuật tạo hình thực chất là không gian ảo.
Những hệ thống không gian trong tranh bao gồm: Không giant rang trí, chứa
đựng những hình ảnh có tính chất hình học, gọi chung là không gian hai
chiều. Không gian mang lại cảm giác như thực gọi là không gian ba chiều. Sự
kết hợp của không gian hai chiều và ba chiều tạo cảm giác vừa thực vừa hư,
tạm gọi là không gian “hai chiều rưỡi”. Trong nghệ thuật tạo hình, không
gian dù có là không gian tả thực hay không gian trang trí , nó cũng mang lại
hiệu quả mang lại cảm xúc cho người xem về chiều sâu không gian, tạo cảm
giác về không gian không thực sự tồn tại trên mặt phẳng hai chiều của bức
tranh [31, Tr 30].
*Bố cục
Bố cục là sự sắp xếp hài hòa giữa những hình mảng, màu sắc, đường nét,
không gian trong tranh. Nói cách khác, bố cục là sự sắp xếp tất cả các yếu tố
ngôn ngữ tạo hình để xây dựng một tác phẩm, làm nổi rõ ý đồ sáng tác của
họa sĩ
*Vai trò của yếu tố ngôn ngữ hội họa trong khuynh hướng hội họa Biểu
hiện.
Chủ nghĩa Biểu hiện với đặc trưng đề cao thế giới nội tâm con người,
thể hiện tình cảm, cảm xúc cực đoan bên trong của họa sĩ , thể hiện sự lo lắng
hay khát vọng của họa sĩ đối với xã hội. Cảm xúc chủ quan mạnh mẽ này sẽ
quyết định hình thức của tác phẩm, nó cũng quyết định các yếu tố ngôn ngữ
của hội họa được thể hiện như thế nào trong tranh. Do đó, người ta thường
thấy hình thể con người trong tranh hay có vẻ bị biến dạng thái quá, màu sắc
với cường độ mạnh, nét viền thường dày và đậm. Nét vẽ gãy góc tạo cảm giác
19
kích thích sự xung đột, gợi lên cảm xúc của nghệ sĩ phản ứng lại với những lo
lắng về thế giới hiện đại, về thời đại mà họa sĩ đang sống.
1.3.Khái quát về chủ nghĩa biểu hiện trên thế giới và bối cảnh của sự xuất
hiện phong cách hội họa biểu hiển ở Việt Nam
*Bối cảnh lịch sử của chủ nghĩa Biểu hiện trên thế giới.
Trường phái Biểu hiện là một trào lưu nghệ thuật gây được tiếng vang lớn
xuất hiện trước tiên ở Munich vào khoảng năm 1911 rồi phát triển đồng thời ở
rất nhiều nước Châu Âu. Khuynh hướng biểu hiện đề cao thế giới nội tâm và
những xúc cảm chủ quan độc đáo của người nghệ sĩ, coi thường hiện thực và
đối tượng khách quan của nghệ thuật. Những họa sĩ khởi xướng, gợi ý tưởng
hình thành nên xu hướng nghệ thuật biểu hiện là những họa sĩ thuộc giai đoạn
Hậu ấn tượng tiêu biểu như Cezanne (1839 – 1906), Van Gogh (1853 - 1890)
và Goguin.Van Gogh gợi ý cho biểu hiện là sự bộc lộ cảm xúc cá nhân thông
qua nét vẽ chuyển động và màu sắc rực rỡ. Cezan và Gauguin gợi cho biểu
hiện sự cô đọng về hình, sắc màu bản chất của sự vật.
Sau này những nghệ sĩ làm nên khuynh hướng biểu hiện phải kể đến
như: Edvard Munch, Erich Heckel, Chaim Soutine, Ernst Lugwig Kirchner,
Karl Schmid – Rottluff, Franze Marc… Họa sĩ người Na Uy - Edvard Munch
thường được nhắc tới là người đưa hội họa biểu hiện đến với thế giới. Tranh
của Mucnh thường có đề tài là những nỗi lo âu, sợ hãi, đau khổ của con người
với những khó khăn, mâu thuẫn trong cuộc sống, là những nỗi lo lắng của cá
nhân con người trong xã hội Châu Âu mới được hiện đại hóa. Bức tranh nổi
tiếng The scream (H.1, Tr.80) là tiếng nói của Munch, nói về cuộc chiến của
cá nhân con người với xã hội. The Scream đã gợi lên cảm xúc run rẩy của một
cuộc gặp gỡ và thể hiện sự lo lắng chung của thế giới, đồng thời diễn tả xu thế
của xã hội hiện đại về vấn đề con người mất lòng tin, xa lánh nhau, một xã
hội vô cảm.Việc thể hiện người đàn ông đang la hét bị biến dạng, méo mó là
20
một loại cảm xúc phản ứng của con người trong tranh tạo tiền đề cho sự ra đời
của Chủ nghĩa Biểu hiện.
Bên cạnh Edvard Munch, còn có nhiều họa sĩ và những nhóm họa sĩ
thực hiện lối vẽ theo khuynh hướng Biểu hiện. Đó là những nhóm “Cây Cầu”
có đại diện là những họa sĩ Ernst Ludwig Kirchner, Firtz Bley, Karl Schmidt
–Rottluff và Erich Heckel; nhóm “Kỵ Sỹ Lam” với những đại diện Wassily
Kadinsky, Franze Marc, Paul Klee; khuynh hướng Biểu hiện ở Pháp có đại
diện là Rouaull, Soutine, và Chagall; khuynh hướng Biểu hiện ở Áo có đại
diện là Kokoschka và Schiele.
Dưới ảnh hưởng của họa sĩ Edvard Munch, Van Gogh, và họa sĩ James
Ensor, các họa sĩ của nhóm “Cây cầu” đã tìm cách truyền cảm xúc mộc mạc
thông qua những hình ảnh châm biếm về xã hội hiện đại, sự suy đồi trong xã
hội Đức. Trong tranh của nhóm, họa sĩ nhấn mạnh sự thay đổi của xã hội và
sự mất đi tinh thần cá nhân, con người cá nhân trong xã hội. Dưới hình thức
làm biến dạng hình thể, làm méo mó nó, sử dụng màu sắc chói gắt và những
thành phần trái tự nhiên để gợi lên cảm xúc cho người xem. Nhóm “Cây cầu”
thống nhất sử dụng quan niệm thẩm mỹ nguyên sơ, giản dị, sử dụng cách kỹ
thuật trong nghệ thuật khắc gỗ để thể hiện các dạng hình thô nhám, lởm
chởm, tượng trưng cho vẻ nguyên sơ, mộc mạc. Ví dụ tranh Potrait of Sodier
– Chân dung người lính của họa sĩ Ernst Ludwig Kirchner (H.2, Tr.81).
Nhóm “Kỵ sĩ lam” với xu hướng tạo hình hướng tới trừu tượng, họ cố
gắng thể hiện những khía cạnh cảm xúc trong nội tâm con người bằng cách sử
dụng màu sắc có tính tượng trưng. Nội dung của nhóm này đề cập đến trong
các tác phẩm được thể hiện như một phép ẩn dụ cho thực hành nghệ thuật, nó
là biểu tượng cho sự chuyển đổi từ thế giới hữu hình sang lĩnh vực tâm linh.
Có thể dễ dàng nhận thấy tinh thần chủ yếu của hội họa Biểu hiện Đức là cảm
giác nặng nề, cô đơn, lo lắng, bất an, đau khổ hoặc một cảm giác khác như nỗi
buồn vu vơ hay sự khát vọng… Họa sĩ Willem de Konning là người đưa
21
khuynh hướng biểu hiện đi sang một lối đi khác, khuynh hướng Biểu hiện
trừu tượng. Nhưng có thể một bức tranh của họa sĩ như tranh Women (H5, Tr.
83) đã gợi ý cho sáng tác của họa sĩ Đinh Ý Nhi sau này.
Đặc điểm của phong trào nghệ thuật này trong nghệ thuật tạo hình là
thể hiện cái nhìn chủ quan với thế giới xung quanh, nhưng lại bóp méo và làm
biến dạng hình thể để mục đích tạo hiệu ứng về mặt cảm xúc, bộc lộ tâm trạng
của chính cá nhân họa sĩ mà trong đó có khi là mượn hình ảnh thực tế bên
ngoài để nói lên tâm hồn bên trong của mình. Họa sĩ biểu hiện mong muốn
thể hiện ý nghĩa và những trải nghiệm tình cảm. Các tác phẩm của các họa sĩ
Biểu hiện có ấn tượng ngột ngạt hoặc gây hấn, họ vẽ về những thân phận của
con người bi ai. Họa sĩ biểu hiện bộc lộ cái đau khổ về thể xác và tâm hồn của
con người, biểu hiện hoàn toàn bản năng tình dục. Phần lớn nhân vật chính
thường hay chiếm vị trí tiền cảnh hoặc chiếm trọn không gian của tác phẩm.
Cách thể hiện đơn sơ gợi mở đến những vấn đề trầm trọng, bằng sự phóng đại
một số bộ phận cơ thể. Các nhân vật thường được biểu thị bằng cách tạo hình
với những nét gãy góc làm tăng sự gãy góc của cảm xúc. Màu sắc trong
khuynh hướng Biểu hiện thường có những hợp sắc gay gắt, chói lọi và những
sắc độ mờ đục, xỉn, màu đen và màu đỏ nổi trội hơn hết.
Ý tưởng nghệ thuật của khuynh hướng mĩ thuật này nhằm thể hiện thái
độ bất đồng với thế giới đô thị những năm đầu thế kỷ XX, họa sĩ dùng tác
phẩm của mình để coi như những lời chỉ trích mạnh mẽ vào xã hội, tức là
những phản biện xã hội, để phần nào giải quyết các vấn đề trước mắt trong xã
hội đương thời, các nhân vật trong tranh của họ thường là những nhân vật xa
lạ, khác người, là những sản phẩm của quá trình đô thị hóa. Hoặc họ dùng tác
phẩm của mình như là tiếng nói về giá trị của con người và những khoảng
cách phân biệt giữa những con người với nhau trong môi trường đô thị. Như
vậy có thể thấy khuynh hướng hội họa biểu hiện trên thế giới không họa lại
thực tế cuộc sống trước mắt mà tập trung vào diễn tả cảm xúc của con người,
22
vào nội tâm của mình, phản ánh sự lo lắng hoặc khát vọng về thân phận con
người trong xã hội hiện đại của họa sĩ với những vấn đề trong xã hội. Khuynh
hướng hội họa biểu hiện có những tuyên ngôn và triết lý cụ thể nên cũng được
gọi là chủ nghĩa Biểu hiện. Có thể nói chủ nghĩa Biểu hiện xuất phát từ tinh
thần lãng mạn, rất coi trọng cái nhìn riêng, độc đáo của cá nhân, trân trọng
khả năng bộc lộ cảm xúc cực đoan, sự phát triển nội tâm hơn là chỉ quan sát
và thể hiện vẻ bề ngoài của sự vật. Thủ pháp nghệ thuật của khuynh hướng
này thường hay sử dụng đường nét vận động, gãy góc để tăng cảm giác gay
gắt, hình thể được biến dạng… Tất cả những phương pháp, kỹ thuật thể hiện
nội dung nhằm bộc lộ tình cảm, cảm xúc, tâm trạng của họa sĩ, nội tâm của
họa sĩ được coi như là một yếu tố cơ bản, quan trọng của khuynh hướng hội
họa biểu hiện.
* Bối cảnh hội họa Việt Nam thời kỳ Đổi mới và sự xuất hiện ba họa sĩ Đinh
Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, Lý Trần Quỳnh Giang.
Mỗi bối cảnh xã hội của từng thời kỳ lịch sử có một nền nghệ thuật
riêng phù hợp với xã hội lúc đó. Vào đầu thế kỷ 20, khi trên thế giới đã bước
vào một thời kỳ phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của tiến bộ khoa học –
công nghệ và sự hình thành xã hội thông tin như cách mạng tin học, sinh học,
năng lượng, tự động hóa, chế tạo vật liệu mới, khoa học về con người…; công
cuộc toàn cầu hóa kinh tế, cuộc khủng hoảng của xã hội chủ nghĩa hiện thực
là những vấn đề thời đại. Còn ở trong nước kết thúc chiến tranh vào năm
1975, đất nước chuyển dần sang giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước,
chúng ta phải đối mặt với những hậu quả nặng nề và khó khăn thời hậu chiến
tranh, những khuyết điểm, sai lầm trong chỉ đạo, thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách… Đảng và nhà nước ta đã thực hiện cơ chế này kế hoạch
hóa từ năm 1954 – 1986, trong giai đoạn đầu (có chiến tranh) sự phù hợp và
đúng đắn, đáp ứng được yêu cầu của thời chiến. Sau năm 1975, cơ chế đã
không còn phù hợp. Vì vậy Đảng ta đã có những bước đột phá dẫn tới đổi mới
23
và làm chín muồi nhận thức và quyết sách mới. Để Đổi mới, cần phải có
những quan điểm mới và thực hiện chúng. Mỹ thuật Việt Nam giai đoạn này
cũng cần có sự đổi mới. Trước năm 1986, mỹ thuật Việt Nam chủ yếu sáng
tác nghệ thuật phục vụ cổ động, vẽ tranh thiên về chủ đề cách mạng, chủ đề
Công – Nông – Binh... Chỉ đến sau năm 1986, khi đất nước bước vào thời kỳ
Đổi mới để xây dựng và phát triển thì nền mỹ thuật mới được tiếp xúc và giao
lưu trở lại với những khuynh hướng mỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Chính
những quan điểm về Đổi mới đất nước đã tạo nên quan điểm mới trong sáng
tác nghệ thuật nói chung và nghệ thuật tạo hình nói riêng ở Việt Nam.Về mặt
mỹ thuật, đã từng bước chuyển phong cách chủ nghĩa hiện thực sang phong
cách hiện đại và mới mẻ như biểu hiện, lập thể, siêu thực, tượng trưng, pop
art… Sự Đổi mới này trong nghệ thuật Việt Nam được bắt đầu trước hết là
với chủ trương Đổi mới của Đảng và Nhà nước và đây cũng là điều kiện cho
sự có mặt của khuynh hướng hội họa biểu hiện ở Việt Nam. Ở Việt Nam,
khuynh hướng Biểu hiện trong nghệ thuật tạo hình được hình thành trong môi
trường cũng tương tự như sự hình thành khuynh hướng Biểu hiện tại Đức và
Thế giới. Khuynh hướng Biểu hiện xuất hiện ở Việt Nam trước hết là sự trở
lại của sự giao lưu, học hỏi với nền mỹ thuật thế giới với tinh thần là bộc lộ
phản ứng cá nhân của nghệ sĩ về hiện thực cuộc sống xã hội bên ngoài, bộc lộ
nội tâm con người. Là thái độ, tình cảm của họa sĩ về sự thay đổi của xã hội,
của cá nhân con người và thân phận của con người trong xã hội đương thời.
Nhưng đến những năm 1990 trở đi, thế giới lại bước sang giai đoạn khác, giai
đoạn của Cách mạng công nghiệp lần thứ 3, cuộc sống và xã hội có nhiều
biến đổi như phần trên đã nói, xã hội Việt Nam cũng ảnh hưởng cuộc Cách
mạng công nghiệp như vậy. Kỉ nguyên máy móc và số hóa ra đời lại làm cho
con người trở nên bị phụ thuộc vào giá trị của vật chất, của những ảo ảnh, của
những vở kịch xã hội. Lúc này con người lại ở trong tâm trạng hoài nghi và bị
động, con người tôn sùng của cải, vật chất nhiều đến nỗi con người nghi ngờ
24
chính bản thân mình, nghi ngờ về giá trị thật bên trong con người mình và lúc
này bộ mặt của cái Tôi đại diện cho hình ảnh của con người được bộc lộ ra
ngoài. Ở trên Thế giới cũng như Việt Nam, các nghệ sĩ tạo hình nhìn thấy
được những mặt trái của xã hội tiêu thụ, do đó họ phản ánh suy nghĩ của họ
vào tác phẩm nghệ thuật để phần nào phản biện xã hội. Đây cũng là yếu tố cơ
bản trong sáng tác hội họa Biểu hiện. Với cách học hỏi, giao lưu từ những
người đi trước trong khuynh hướng hội họa biểu hiện trên thế giới, họa sĩ vẽ
theo khuynh hướng Biểu hiện ở Việt Nam cũng xây dựng cho mình một lối đi
riêng, lối đi khác biệt. Đó là phong cách cá nhân, chủ đề xuyên suốt và motif
riêng trong cách thể hiện. Về cơ bản là họa sĩ biểu hiện Việt Nam vẫn bộc lộ
ra thái độ tình cảm của mình, cảm xúc của mình, thế giới nội tâm của mình về
thân phận những con người trong xã hội giống như những đặc trưng của
khuynh hướng Biểu hiện trên thế giới. Bằng cách cường điệu hóa bút pháp, sử
dụng kỹ thuật của bột màu, sơn dầu tạt mạnh bút hoặc vẽ nét lỏng lẻo… để
tăng cường cảm xúc về đối tượng trong tác phẩm; của tranh khắc gỗ để tạo ra
những hình ảnh mang tính thô, mộc, gẫy góc… để tạo ra cảm giác gay gắt. Có
họa sĩ lo lắng cho xã hội, họ cảm thấy con người trong xã hội đang bị máy
móc hóa, hoặc mất đi tính người, nhe nanh như những con thú đói, xã hội đầy
rẫy những bạo lực, tình trạng khủng bố, con người như đeo những chiếc mặt
nạ hòng che đậy đi cái Tôi cao, tham lam, độc ác. Vậy nên cách tạo hình cũng
rất khác biệt, cảm giác gay gắt, lo lắng được đẩy lên cao độ, nó được cường
điệu hóa hình thể, bóng loáng, giả tạo, màu sắc thì khét lẹt, cực đoan. Có họa
sĩ thì thấy được đằng sau những vẻ đẹp của người phụ nữ hiện đại là những
tâm hồn khô héo, teo tóp và gai góc, dễ vỡ. Có họa sĩ nhìn nhận những thân
phận của người phụ nữ trong xã hội đương thời với ánh mắt cảm thông, chia
sẻ, họ vẽ về những tâm hồn con người bị chà đạp bị tổn thương, bị dồn vào
đường cùng đến mức trở nên vô cảm, thờ ơ. Và có họa sĩ thì lấy chính con
người mình ra làm chủ đề, bộc lộ tình cảm, cảm xúc, cảm giác khát vọng
25
quyền tự do của mỗi cá nhân mà cũng muốn đại diện cho giới của mình đòi
hỏi sự thay đổi của xã hội về cái nhìn với mỗi cá nhân con người. Những
gương mặt nghệ sĩ vẽ tranh theo khuynh hướng Biểu hiện có thể kể đến các
họa sĩ như Doãn Hoàng Lâm, Lê Anh Quân, Lê Quảng Hà, Nguyễn Hải Anh,
Đỗ Hoàng Tường, Đinh Ý Nhi, Lý Trần Quỳnh Giang, Nguyễn Xuân Tiệp,
Vũ Thăng… Vậy, thời kỳ Đổi mới ở Việt Nam sau năm 1986 đã tạo nên sự
thay đổi toàn diện xã hội Việt Nam, đưa đất nước phát triển lên. Mỹ thuật
cũng theo đó mà có sự thay đổi, trước hết là sự trở lại giao lưu với những nền
mỹ thuật thế giới, sau đó là thay đổi về tư tưởng sáng tác, phong cách thể hiện
phong phú, họa sĩ được tự do hơn, cởi mở hơn. Điều này làm nên sự phong
phú cho nền hội họa Việt Nam. Để đạt tới giá trị nghệ thuật trong tác phẩm,
họa sĩ cần phải phối hợp nhiều nhân tố như bút pháp, kỹ thuật thể hiện, cách
tạo hình, cách sử dụng ngôn ngữ của hội họa, ý tưởng, nhằm khơi gợi cảm
xúc nơi người xem. Riêng với khuynh hướng nghệ thuật biểu hiện, yếu tố gây
được cảm xúc mạnh mẽ, trực tiếp tới người xem, hoặc tình cảm, thế giới nội
tâm của họa sĩ là yếu tố chủ đạo, nó quyết định chất lượng nghệ thuật của tác
phẩm. Ba nữ họa sĩ Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, Lý Trần Quỳnh
Giang đã học hỏi và sử dụng thế mạnh chuyên môn của mình để biểu hiện ra
được thế giới nội tâm của mình, bộc lộ cảm xúc của mình lên tác phẩm một
cách trực tiếp nhất, gây được cảm xúc cho người xem. Điều mà các chị đã kết
hợp phương pháp thể hiện, sử dụng ngôn ngữ của hội họa như đường nét,
hình thể, màu sắc, không gian, ý tưởng nhằm để bộc lộ tình cảm bên trong
mình có thể được coi như những yếu tố biểu hiện.
1.4. Khái quát tạo hình nghệ thuật của ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang,
Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong
* Họa sĩ Đinh Ý Nhi
Họa sĩ Đinh Ý Nhi sinh năm 1967 tại Hà Nội, Việt Nam, tốt nghiệp
trường Đại học Mỹ Thuật Việt Nam năm 1989. Họa sĩ Đinh Ý Nhi có lối vẽ
26
nhanh, ào ạt, nhiều khi mang nét hoang dã hay điên cuồng. Nghệ thuật của chị
có xu hướng của hội họa biểu hiện, chủ yếu về diễn tả nội tâm con người cho
nên chị không đặt vấn đề là vẽ giống như hiện thực. Những cảm xúc nội tâm
của con người luôn là chủ đề chính mà họa sĩ hướng tới và để những cảm xúc
ấy chân thực nhất, sơ khai nhất thì chị đã làm biến dạng hình thể con
người.Trong khi làm việc, Đinh Ý Nhi đã phải vẽ rất nhiều phác thảo để tìm ý
tưởng và cách thể hiện, điều này tạo dựng cho chị một phong cách riêng là vẽ
rất nhiều tranh về cùng một chủ đề. Không giống như những họa sĩ Biểu hiện
trên thế giới vẽ nhiều màu trong tranh, Họa sĩ Đinh Ý Nhi dùng rất ít màu để
thể hiện ý tưởng, với chị thì giá trị nghệ thuật ở chỗ là xử lý màu sắc sao cho
hiệu quả về mặt diễn tả cảm xúc và giá trị thẩm mỹ nằm ở sự no mầu trong
tranh. Với cách tạo ra hàng loạt bức tranh có cùng chủ đề của họa sĩ, rõ ràng
là họa sĩ muốn thể hiện suy nghĩ, tâm trạng cảm xúc của mình về vấn đề con
người trong xã hội hiện đại.
* Họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong
Đinh Thị Thắm Poong sinh năm 1970 tại Lai Châu, Việt Nam. Họa sĩ là
người dân tộc, cha là người Mường, mẹ là người Thái. Đinh Thị Thắm Poong
sinh ra và lớn lên tại Lai Châu, từ khi bé, Thắm Poong đã yêu thích hội họa.
Hành trang theo chị trong những lúc theo mẹ đi biểu diễn (mẹ là diễn viên
múa tỉnh Lai Châu) là cái bút chì và giấy vẽ. Vùng đất miền núi nơi chị sinh
ra và lớn lên, gắn bó đã tạo nhiều cảm hứng sáng tác. Chị đã cảm nhận được
tình cảm, tính cách của con người nơi ấy, để rồi chị thể hiện tình cảm đó
thông qua những sinh hoạt của người dân tộc thiểu số, những ký ức về đời
sống cộng đồng, văn hóa của dân tộc mình.Khi còn nhỏ, Thắm Poong cả ngày
với niềm đam mê của mình, bên màu vẽ, cọ, bút chì, đất sét, chị thể hiện hình
những chàng trai Thái, Mông. Khi thi vào trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam,
chị chọn học khoa điêu khắc, nhưng tình yêu đối với điêu khắc vẫn còn đó,
sóng đôi cùng tình yêu hội họa. Đinh Thị Thắm Poong tốt nghiệp trường Đại
27
học Mỹ thuật Việt Nam năm 1993. Năm 1997, Thắm Poong chính thức sáng
tác hội họa.Chị đã đạt giải nhất trong triển lãm của các nghệ sĩ người dân tộc
thiểu số năm 1993, với bức tranh Phơi sợi; sau đó là giải ba, giải khuyến
khích của Hội Mỹ thuật quốc gia với tác phẩm Tiệc hát và Thiên nhiên của
người nông thôn.Gần đây là giải nhất với bức tranh “Khi ngủ” trong triển lãm
của các họa sĩ người dân tộc thiểu số.
Họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong thường vẽ các cảnh sinh hoạt của người
dân tộc thiểu số như những ký ức về đời sống cộng đồng, văn hóa của dân tộc
mình. Bản thân họa sĩ là người dân tộc Thái – Mường. Nghệ thuật của chị có
cái nhìn riêng biệt, độc đáo, giàu tính trang trí, ảnh hưởng nhất định từ văn
hóa thêu thùa và trang phục của người miền núi. Trong tranh của chị, chị thể
hiện hình ảnh con người sống hòa mình với tự nhiên, sự so sánh, đan lồng
hình ảnh với những yếu tố siêu thực. Đinh Thị Thắm Poong còn truyền đạt
vào tranh của mình mong muốn sự hòa hợp giữa cái mới và cái cũ, giữa nền
văn hóa giàu bản sắc dân tộc của con người miền núi với những cái hiện đại
của xã hội hiện tại [6, Tr.165]
* Họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang
Lý Trần Quỳnh Giang sinh năm 1978 tại Hà Nội, Việt Nam. Họa sĩ đã
tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Việt Nam năm 2002, sống và làm việc tại Hà
Nội, Việt Nam. Lý Trần Quỳnh Giang đã đoạt giải nhất cuộc thi “Ánh mắt
trẻ” của Pháp (dành cho các nghệ sĩ tạo hình Việt Nam dưới 35 tuổi) với bộ
ba tấm tranh khắc vẽ bằng mực tàu trên gỗ bản: Tôi, Những cây và Buồn.
Ngay từ khi còn là sinh viên trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Lý Trần
Quỳnh Giang đã bộc lộ cá tính của mình, thể hiện cái riêng biệt trong các bài
vẽ của mình, con đường mà họa sĩ đã chọn là theo chuyên ngành Đồ họa.
Chính chuyên ngành Đồ họa này đã tạo cho Lý Trần Quỳnh Giang nhiều cảm
xúc và tạo nên phong cách riêng biệt của họa sĩ. Nghệ thuật tạo hình của Lý
Trần Quỳnh Giang đi theo khuynh hướng của nghệ thuật biểu hiện . Qua các
28
tác phẩm, họa sĩ muốn bộc lộ ra những suy nghĩ về bản thể con người mình,
thế giới của mình và những cung bậc cảm xúc của một con người cô đơn và
khát khao sự tự do cá nhân về mọi mặt. Khi thể hiện lên những tác phẩm, chị
thể hiện những hình thể gầy gò, ốm yếu, bệnh tật. Hình thể con người ở
những lúc mệt mỏi, đau khổ, thương tổn. Lý Trần Quỳnh Giang thể hiện
những nỗi buồn nằm sâu trong bản thể con người mà những nỗi buồn ấy chỉ
có thể được trải lòng ra trên tác phẩm. Những vết dao khắc, đục khoét tạo
hình trên tấm gỗ cũng giống như những vết dao làm thương tổn con người.
Họa sĩ thường thể hiện ở những bức khắc gỗ bản với bố cục choán đầy tác
phẩm để gợi ý lên một sự chiếm đoạt. Về phần mầu sắc, trong khắc gỗ mộc
bản, chị thể hiện chỉ có một mầu đen của sơn và kết hợp với
Tiểu kết
Trong tác phẩm nghệ thuật hội họa, luôn có sự gắn bó mật thiết của các
yếu tố như ngôn ngữ hội họa, chất liệu, phương pháp thể hiện. Có thể nói
chúng là những nhân tố vừa để giúp họa sĩ triển khai những ý tưởng của mình
lên tranh và chuyền tải được những thông điệp đến người thưởng lãm hội họa,
đồng thời nó cũng giúp cho người xem thêm hiểu hơn về tác phẩm hội họa.
Như vậy qua việc tìm hiểu những khái niệm về yếu tố, khái niệm biểu hiện,
tìm hiểu về hội họa Biểu hiện, ta thấy được một yếu tố quan trọng trong hội
họa Biểu hiện, đó là yếu tố biểu hiện. Yếu tố biểu hiện là một nhân tố quan
trọng trong việc tạo nên giá trị nghệ thuật của khuynh hướng hội họa biểu
hiện. Yếu tố biểu hiện trong tranh được hiểu là những dấu hiệu có trên tranh,
họa sĩ đã khai thác sự biểu cảm của đường nét, màu sắc, không gian, bố cục,
hình thể, đậm nhạt, để nói lên cảm xúc, tình cảm, thế giới nội tâm của họa sĩ,
đồng thời gây được sự đồng cảm của người xem tranh. Thành phần này rất
quan trọng, giúp hình thành nên tổng thể giá trị nghệ thuật của bức tranh. Ở
Việt Nam, không có sự hình thành khuynh hướng biểu hiện như ở các nước
Phương Tây, đây là một sự giao lưu học hỏi và thể hiện phong cách hội họa
29
Biểu hiện của một số ít họa sĩ. Công cuộc Đổi mới ở Việt Nam năm 1986 đã
thay đổi toàn diện xã hội từ cách tư duy cho đến sự thay đổi cá nhân mỗi con
người. Đây là dấu mốc cho sự trở lại giao lưu học hỏi của nền mỹ thuật Việt
Nam với những nền mỹ thuật thế giới. Với sự học hỏi này, nền mỹ thuật Việt
Nam sau Đổi mới đã trở nên phong phú hơn, tư tưởng sáng tác nghệ thuật đã
được tự do hơn trước. Những họa sĩ nữ tiêu biểu thể hiện tác phẩm của mình
theo khuynh hướng biểu hiện hoặc có thể hiện yếu tố biểu hiện trong tranh
của mình là những họa sĩ Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, Lý Trần Quỳnh
Giang. Để thấy được yếu tố biểu hiện trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh
Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong là gì, nó được thể hiện như thế nào, tiếp đến
chúng ta sẽ phân tích tranh của họ.
30
CHƯƠNG 2
NGHIÊN CỨU YẾU TỐ BIỂU HIỆN TRONG TRANH CỦA
LÝ TRẦN QUỲNH GIANG, ĐINH Ý NHI
VÀ ĐINH THỊ THẮM POONG.
Mỗi bức tranh là tổng hòa mối quan hệ của các yếu tố nội dung và hình
thức. Hình thức thể hiện nội dung của tác phẩm, và nội dung quy định hình
thức diễn đạt như thế nào. Do đó để nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong tranh
của ba họa sĩ này cần phải nghiên cứu, tìm hiểu cả nội dung và hình thức của
tác phẩm, mối quan hệ của chúng trong tác phẩm
2.1. Yếu tố biểu hiện trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang
Cho đến thời điểm hiện tại, sáng tác nghệ thuật của Lý Trần Quỳnh
Giang chủ yếu bằng chất liệu là khắc gỗ và sơn dầu. Với chuyên ngành Đồ
họa, chị thành công với chất liệu khắc gỗ, khắc mộc bản, chị đã làm thay đổi
quan niệm về nghệ thuật khắc gỗ, chị khắc tạo hình tác phẩm của mình trên
những phiến gỗ, dựa theo thế dáng của tấm gỗ được cắt xẻ trực tiếp từ thân
cây.
Ngôn ngữ tạo hình của Lý Trần Quỳnh Giang là ngôn ngữ Đồ họa nhưng
theo khuynh hướng Biểu hiện để bộc lộ cảm xúc cá nhân của mình một cách
mạnh mẽ nhất. Qua khắc gỗ và ngôn ngữ hội họa Biểu hiện, chị thể hiện thế
giới cô độc của mình, thế giới nội tâm bên trong. Chủ đề chính trong nghệ
thuật tạo hình của Lý Trần Quỳnh Giang là về bản thân con người chị, là đời
sống cá nhân qua những khoảnh khắc thời gian. Song trong thực hành nghệ
thuật, chị thể hiện đời sống cá nhân ấy với nhiều khía cạnh khác nhau. Những
khía cạnh về bản thân họa sĩ được thể hiện qua những tác phẩm nói về cái tôi
bản thể, sự tự do bày tỏ đời sống cá nhân đa dạng, những cảm xúc buồn, cô
đơn trong cuộc sống, cái nhìn cực đoan về cuộc sống.
* Yếu tố biểu hiện về cái tôi bản thể
31
Trong khuynh hướng hội họa biểu hiện thì chìa khóa cho ý tưởng của tác
phẩm là thể hiện thế giới nội tâm con người, nó phải đến từ bên trong con
người họa sĩ. Trong xã hội, mỗi cá nhân con người có một bản thể với những
tính cách khác nhau, sự hình thành nhân cách con người phần lớn phụ thuộc
vào hoàn cảnh môi trường sống, quá trình học tập và quá trình giao lưu với xã
hội. Mỗi con người có một cá tính và cái riêng, cái riêng này là cái Tôi để tạo
sự khác biệt với người khác. Năm 2004, tại cuộc thi “Ánh mắt trẻ” lần thứ tư
dành cho các nghệ sĩ tạo hình trẻ Việt Nam do Đại Sứ Quán Pháp tổ chức với
sự phối hợp của Hội Mỹ thuật Việt Nam, Lý Trần Quỳnh Giang đạt giải nhất
bởi bộ tranh khắc gỗ bản độc đáo. Đó là bộ ba tác phẩm có tên gọi: Tôi,
những cái cây, buồn, đó là những tác phẩm được khắc trên gỗ. Đây là bộ
tranh có thể gọi là điểm mốc, đánh dấu sự góp mặt của Lý Trần Quỳnh Giang
trong nền mỹ thuật Đương Đại Việt Nam.
Tranh Tôi (H.6, Tr.84) vẽ hình một người đang dang tay và đứng thẳng,
hiên ngang, nghiêm túc và đứng giữa tranh. Hình thể này tựa như hình Chúa
bị đóng đinh trên thập tự. Bên dưới chân người phụ nữ là đám lá cây có hình
những con mắt tượng trưng cho những cái nhìn của xã hội. Nền đằng sau bức
tranh được tạo hình vừa giống như mảnh vải treo trên sào, vừa giống như một
khoảnh rừng phía sau lưng. Bàn tay phải xòe ra và rũ xuống tạo cảm tưởng
như vừa để rơi một vật, bàn tay trái thì xòe ra nhưng nó có sức mạnh tựa như
muốn tát vào mặt một ai đó. Ý tứ trong tranh, hay nói cách khác là thái độ của
họa sĩ là sự thách thức về cái nhìn xã hội, những cái nhìn theo dõi, ngờ vực,
dò xét, tò mò về cá nhân riêng biệt và kỳ thị khi người ta có vẻ khác với
những cái chung của xã hội, với những cá nhân riêng lẻ. Đồng thời là sự
khẳng định Tôi là tôi chứ không phải là một ai khác, một lời khẳng định về ý
niệm danh xưng của con người. Tôi trong tranh thực chất cũng chỉ là một thực
thể, một cá nhân giống như mọi người mà thôi, đâu có gì khác mà mọi người
lại dán cái nhãn mác định kiến ép buộc tôi phải giống như mọi người. Tại sao
32
con người cứ thấy sự khác biệt là lại có thể bàn tán, dè bỉu hay là nhìn người
ta với cái ánh nhìn như thể người ta là một giống lạc loài từ nơi khác tới. Đây
cũng chính là tiếng nói kêu gọi quyền tự do cá nhân trong xã hội và mong
muốn xã hội thay đổi về cách nhìn nhận con người. Để thể hiện rõ hơn về
hình ảnh con người mình, Lý Trần Quỳnh Giang còn thể hiện những chân
dung tự họa. Trong hầu hết các bức tranh chân dung tự họa, Lý Trần Quỳnh
Giang dùng thủ pháp chiếm đoạt không gian của bức tranh để cái nhìn của
người xem tranh tập trung vào chân dung, rồi sự tập trung còn bị thu hút bởi
đôi mắt của người trong tranh. Đôi mắt ấy đang nhìn xoáy sâu vào người đối
diện, chị thể hiện đôi mắt lạnh lùng, cau có, khó chịu. Ánh mắt và chân dung
ấy giống như thái độ khó chịu của một đám đông con người khi phải nhìn
thấy một con người với cá tính khác biệt. Những ánh mắt buồn bã, cô đơn,
khó chịu vẫn nhìn vào cuộc sống như những lời tâm sự về một xã hội đã đẩy
những cá nhân con người có cá tính khác biệt vào sự cô quạnh.
* Yếu tố biểu hiện về đời sống cá nhân đa dạng
Trong đời sống cá nhân của mỗi con người thể hiện ở nhiều khía cạnh
khác nhau từ tính cách, sở thích cho đến xu hướng tính dục. Đời sống con
người được thể hiện qua các khía cạnh về sức khỏe, thể chất, cảm xúc tinh
thần, mối quan hệ, cách tạo sự khác biệt và tâm hồn. Mỗi con người luôn có
những khát vọng được sống thật với giới tính thật của mình, đó là niềm hạnh
phúc. Ở xã hội hiện đại ngày này, hành vi tình dục đồng tính được đánh giá
không phải là một chứng bệnh hay lệch lạc tình dục như những quan điểm về
tâm lý tình dục trước những năm 90. Trên quan điểm tâm lý học của nhà Tâm
lý học Sigmon Freud hay nhà tâm lý học Thụy Sĩ Eckhart Tolle thì phía sau
một khái niệm bản thân không tự tin thì đó lại là mong muốn được thể hiện
bản thân, muốn khẳng định tôi không phải là phụ nữ hay tôi không phải là đàn
ông. Với chị, câu chuyện thuở bé của chị đã hé lộ mong muốn xã hội nhìn
nhận đúng đắn hơn về giới tính của mình, chị đã xin mẹ cho cắt tóc trọc như
33
con trai và thích mặc quần áo của anh trai. Với suy nghĩ và mong muốn ấy, nó
theo chị lớn lên, nó là chất liệu để chị sáng tác những tác phẩm nghệ thuật của
mình. Ví dụ như bức tranh Bà ta (H.7, Tr.85) tranh mô tả hai người đàn bà
đang quan hệ tình dục, cả hai đang khỏa thân, quằn quại, hưng phấn trong cơn
lốc dục vọng. Hai con người bệnh hoạn đang quấn lấy nhau, cả hai người đàn
bà đang hoan lạc. Hình thể hai người đàn bà đang trong cực khoái khi quan hệ
tình dục cũng làm lộ ra tâm trạng của họa sĩ, tình cảm của họa sĩ, nói lên cái
tôi bản thể trong con người chị. Cái tôi trong bức tranh này cũng chỉ là một
nhu cầu trong sự tồn tại của con người mà thôi. Bên cạnh vẻ ngoài nữ tính,
bên trong nghệ sĩ cũng là một phụ nữ với cá tính mạnh mẽ, là con người độc
lập và khác biệt. Một tiếng nói về sự tự do, bình đẳng giới tính được nói ra, nó
nói rằng đồng tính không phải là cái tội, nó chỉ là sự khao khát tình cảm ẩn
sâu trong mỗi cá nhân con người. Người xem tranh cũng đã thấp thoáng nhận
ra được đời sống của thân phận con người thuộc thế giới thứ 3. Như vậy hình
ảnh hai người đàn bà bệnh hoạn với nếp da nhăn nheo, khô khốc đang quan
hệ tình dục được họa sĩ tạo hình trên tranh để biểu hiện vấn đề tự do giới tính
trong xã hội hiện đại. Đây cũng là những ẩn ức trong nội tâm của nhiều con
người thuộc thế giới thứ ba. Vẫn nói về sự đa dạng trong đời sống cá nhân, Lý
Trần Quỳnh Giang thể hiện thể trạng và sức khỏe tâm thần trong con người
mình cũng như trong nhiều con người khác. Chị biểu hiện về sự mệt mỏi, ốm
đau của con người. Ở tác phẩm sắp đặt “Những cành mệt mỏi” (H.8, Tr.86)
những hình chân được gói lại tập trung vào với nhau, như những bó củi,
những mệt mỏi, khổ đau tìm về với nhau, nương tựa vào nhau. Trên tranh chỉ
có sức mạnh biểu cảm được tập trung vào tạo hình những cái chân, còn phần
thân thể của những kiếp người thì lại được băng bó bởi những mảnh vải nhằm
vào ý nói thân thể bị tổn thương nhưng những phần khác trên cơ thể vẫn khát
khao sự sống, vẫn vươn ra ngoài để đón lấy ánh sáng của sự bình yên, của
niềm hoan lạc vĩnh cửu. Sự mệt mỏi về thể xác và tâm hồn của con người
34
được chị dùng thủ pháp khắc lên những phiến gỗ nhưng lại sắp đặt xô lệch,
rời rạc, chia lìa và lại còn được quấn bằng những dải băng trắng hoặc đen.
Giang muốn băng bó và làm lành những vết thương lòng trong con người.
*Yếu tố biểu hiện về cảm xúc cô đơn, đơn độc
Tinh thần, cảm xúc của con người cũng là một khía cạnh trong đời sống
cá nhân đa dạng của con người, và hàng ngày thì con người sống với những
cảm xúc đó. Khi đối diện với những sự kiện làm cho con người mệt mỏi, con
người cảm thấy buồn, lo lắng, dễ bị trầm cảm, dễ bị tổn thương, từ đó sinh ra
những suy nghĩ tiêu cực hoặc bị ám ảnh bởi những ý nghĩ lệch lạc, hoang
tưởng, những ý nghĩ điên rồ không thực tế của cái Tôi cao sinh ra. Con người
cứ nghĩ những ám ảnh đó là mình, là tương lai của mình trong khi sự thực nó
chưa diễn ra, nó lại chỉ là sản phẩm của tư duy, nó không phải là bản thể con
người mình. Nhân vật trong tranh của chị thường mang cảm xúc về sự cô đơn,
suy tư. Đây là xu hướng thỏa mãn cá tính của riêng chị, chị thích cô đơn và
“chỉ có sự cô đơn khiến tôi thoải mái”. Sự cô đơn hẳn nhiên không được số
đông xã hội đồng tình, nhưng chị đã nhận thấy trong xã hội, mọi người đều
khác nhau, làm sao có thể số đông quy ước, ép buộc tất cả mọi người đều có
thể giống nhau được, và chị nhận thấy sự cô đơn giúp cho chị nhìn nhận đúng
đắn hơn về bản thể mình, giải quyết được ổn thỏa sự việc liên quan đến mình,
miễn là không nằm ngoài những quy định chung trong xã hội, không ảnh
hưởng gì đến luật pháp hay đời sống riêng tư của những người khác. Với
những tác phẩm nghệ thuật của mình, Lý Trần Quỳnh Giang đưa vào đó sự cô
đơn bởi những khía cạnh khác nhau, hình thức biểu đạt khác nhau. Khi xem
tác phẩm khỏa thân của chị, dù khỏa thân đến trơ trụi, cùng cực, nhục cảm, cô
quạnh nhưng ta lại thấy không giãn trong đó tĩnh mịch, chỉ có con người một
mình với thế giới của riêng mình, một mình độc thoại, một mình suy nghĩ về
sự đời và không chia sẻ những suy nghĩ đó với người khác.
35
Tranh In the Room I – Trong căn phòng (H.9, Tr.86) thể hiện cảm xúc
buồn, cô đơn của Lý Trần Quỳnh Giang. Tranh thể hiện chị đang ngồi khỏa
thân trong căn phòng tối, trên tay lập lòe điếu thuốc, không gian xung quanh
trở nên u ám bởi những tông màu trầm như xanh lam, đỏ bầm, và cả những
màu mang cảm giác cô đơn. Hình thể con người được diễn tả với những nét
bút mạnh mẽ dường như những nhát dao chém vào thân thể, nó nhàu nhĩ và
có làn da tím tái. Hiệu quả biểu cảm của cách sử dụng sơn dầu với tông màu
trầm càng làm tăng ý đồ biểu hiện về cái tôi cô đơn trong con người chị. Chị
ngồi đó một mình trong căn phòng, hút thuốc và suy nghĩ sự đời, cảm nhận về
cái tôi trong chị, một mình đối thoại với nội tâm trong con người chị. Những
vệt bút sơn dầu chát chúa, nhão nhoét ảnh hưởng từ cách họa sĩ đã khắc lên
những phiến gỗ làm tăng cảm giác về một cơ thể bệnh tật, già nua. Chị thể
hiện những nhát bút để tăng tính biểu cảm về một con người đang tuổi thanh
xuân nhưng cơ thể, tâm hồn bị hao mòn, rệu rã, mệt mỏi. Cách tạo hình con
người đang khỏa thân không phải không có lý do, chị muốn người xem cảm
thấy được linh hồn mình trơ trụi và phơi bày hết ra những sự thật trong lòng
của một con người bên dưới lớp quần áo. Đó là cách mà họa sĩ đưa người
xem đến cảm nhận về con người chị một cách trực tiếp nhất.
* Yếu tố biểu hiện cái nhìn cực đoan về cuộc sống, tỏ thái độ cá nhân
con người.
Trong cuộc sống hàng ngày, việc gặp phải những lời nói quá đáng hoặc
sai sự thật cũng làm cho con người cảm thấy khó chịu, cảm thấy mệt mỏi. Có
những lúc không thể bộc lộ thái độ của con người mình ra ngay, mà nhiều
người phải đưa sự khó chịu đó chìm vào bên trong mình. Thái độ khó chịu về
những ngôn từ hay thông tin sai lệch trong cuộc sống của chị được thể hiện
trong những tranh Đồ chơi (H.10, Tr.87), tranh Tin tức. Ở tranh Đồ chơi khắc
họa chân dung một con người với cái miệng há ra, thông qua cái mồm đang
há ra, con người tùy ngôn sử dụng lời nói của mình như một hình thức giải trí.
36
Hình khuôn mặt chiếm tỉ lệ lớn trong tranh, nhưng nó không đậm đặc, sự đậm
đặc lại được tập trung vào những lời được nói ra từ cái mồm, con mắt của
người đàn bà trong tranh thì đang vẫn phải toan tính mọi điều. Những hình
cánh tay, bàn tay được phun ra từ cái mồm đen ngòm đầy mực của người đàn
bà, nó lại được nối liền với cái đầu nhỏ bên dưới cổ họng, nó được tạo hình là
những bàn tay úp và bàn tay ngửa, ý nói đến sự hoạt ngôn của con người, con
người dùng nó để giải trí, đồng thời mang lại lợi ích cho cá nhân con người. Ở
bức tranh này, yếu tố biểu hiện được thể hiện là thái độ của họa sĩ lấy làm khó
chịu với những con người hoạt ngôn như vậy trong xã hội.
*Yếu tố biểu hiện về những ám ảnh, thương vong ranh giới giữa sự sống
và cái chết.
Những hình ảnh về bệnh nhân trong bệnh viện đã từng luôn ám ảnh tâm
trí của họa sĩ. Đây là những nỗi buồn chung về ranh giới sự sống và cái chết
mà tác giả đã nhận thấy. Những ốm đau, bệnh tật từ trong tinh thần mà sự thể
hiện sự ốm ra ngoài đó cũng được Lý Trần Quỳnh Giang khai thác nhiều,
những hình ảnh con người mặt cú, hình người chả ra người, ngợm chả ra
ngợm, những hình ảnh đã được chị gần như hóa thân vào. Tranh Bản tin
(H.11, Tr.87) thể hiện sự buồn bã, cô đơn của con người. Trong tranh, hình
người có sắc da vàng bệnh hoạn khỏa thân ngồi bên cạnh con cú, sự hiện diện
của con cú tựa như mang tin tức về cái chết sẽ đến bên con người. Khi cái
chết đang đến thì con người trở nên buồn bã chăng. Sự đau buồn đó đâu phải
của riêng chị mà nó là sự buồn không thể cưỡng lại cuộc sống. Họa sĩ Lý Trần
Quỳnh Giang muốn nhìn cuộc sống bằng đôi mắt của con cú để nhìn thấy hết
mọi khía cạnh của cuộc sống, cảm nhận được trọn vẹn, nhưng biết để buồn,
biết để tĩnh lặng, để ngưng đọng và để hướng con người tìm ra chân lý, một
cái bản thể trong mỗi con người. Rồi trong Ốm (H.12, Tr.88), Lý Trần Quỳnh
Giang hóa thân mình là một trong những con cú đêm, con cú cô đơn trong
đêm đen đặc quánh ngột ngạt, dưới bầu không khí ấy, con cú chỉ có thể mở to
37
đôi mắt của mình chỉ mong tìm ra cho mình chút ánh sáng, chút hơi thở, và
một chút của sự sống. Hình ảnh con cú bị quấn chặt vào những dải băng, bị bó
cứng bởi thạch cao, những cành cây nơi trước kia được con cú trú ngụ cũng
ốm, nó cũng bị tổn thương và cũng bị quấn những dải băng y tế. Lý Trần
Quỳnh Giang đã biểu hiện về sự ám ảnh về bệnh tật của chị, và đằng sau
những hình ảnh ốm như vật, Giang bộc lộ ra ý tưởng nói về những cái ám ảnh
bị giam cầm trong tâm trí con người mà ở đó con người phải chịu đựng.
Ở những tác phẩm như Tiểu đường, Chiều, motif những hình thể bị quấn
băng cứu thương lại càng làm thể hiện rõ ý tưởng về những ám ảnh bệnh tật
trong tâm hồn. Tranh Tiểu đường (H.14, Tr.88) được họa hình chồng lớp
nhiều cái đầu, những cái đầu với những ánh mắt lờ đờ mê sảng, những cánh
tay được kết nối với cái đầu không đúng như giải phẫu, không đúng trật tự cơ
thể được tạo hình phình trướng lên ở những đoạn cánh tay bắp tay. Những
bàn tay tưởng như vươn ra sát phía ngoài tranh gợi lên ý tưởng là trong lúc
ốm đau bệnh tật, con người cố tìm cho mình những cách tồn tại, mong muốn
được chữa bệnh nhưng không thể thoát khỏi định mệnh, số phận. Tương tự, ở
tranh Chiều (H.15, Tr.87) tác giả chọn hình ảnh con người đang khỏa thân kết
nối với những cuộn băng cứu thương. Tư thế con người này được diễn tả với
cái nhìn từ trên xuống, giống như cái nhìn từ trên cao của một ai đó đang theo
dõi, rình mò và cướp đi sự sống. Bố cục của bức tranh nặng về phía bên phải
nhưng nó gợi lên được cảm giác chênh vênh, ranh giới giữa sự sống và cái
chết rất mong manh. Đây cũng là cảm giác sợ hãi khi con người phải đối diện,
nó cũng là nỗi ám ảnh trong tinh thần của họa sĩ và nhiều con người. Nó
tượng trưng cho cái tuổi xế chiều, báo hiệu sự tồn tại không còn nhiều trong
cuộc đời con người.
* Yếu tố biểu hiện về khát vọng tự do
Khi con người không được sống thật với bản thân mình, con người muốn
giải thoát sự đau khổ của mình, tự kiếm tìm cho mình con đường hay là một
38
cái vỏ để có thể lẩn trốn, giữ cho mình một không gian an toàn. Họa sĩ Lý
Trần Quỳnh Giang thể hiện cảm xúc muốn được sống với cuộc sống tự do với
bản thể con người mình và cũng là mong muốn tất yếu của nhiều con người
trong xã hội. Nhưng để sống một cuộc sống tự do thì con người lại phải đấu
tranh tư tưởng, giằng xé nội tâm. Đôi khi, Lý Trần Quỳnh Giang tự vấn mình
là cái vỏ ngoài của con người có thể hiện được bản chất thực sự của con
người đó hay không. Có người thì ngoài sao trong vậy, nhưng có những người
thì bên ngoài là một hình ảnh, còn bên trong lại là một con người khác biệt.
Dựa vào ý tưởng này, chị muốn chia sẻ suy nghĩ về cái vỏ bọc mà nhiều con
người đang phải mang để diễn vở kịch cuộc đời vào tác phẩm của chị. Tác
phẩm Dưới lớp da (H.16, Tr.90) biểu hiện suy nghĩ ấy. Tranh khắc họa một
khuôn mặt chiếm đoạt hết diện tích bề mặt cả tác phẩm, hình khuôn mặt ấy
được thể hiện như cái mặt nạ cao su nhàu nhĩ, bị xé rách. Khuôn mặt ấy thật
giống như tạo hình của nhân vật Frankstank, nó được khâu vá một cách cẩu
thả bởi một bàn tay không chuyên, nhưng nó cũng cho thấy được ý tưởng
một sự chắp vá hỗn tạp trong những con người. Nét khắc cào xước trên cả hai
nửa khuôn mặt để lộ ra cái nhíu mày, cái lo âu, khó chịu của con người chị.
Nửa bên phải của khuôn mặt bị xé toạc ra bởi những bàn tay của những thế
giới bóng tối bên trong tâm hồn con người. Những bàn tay ngọ nguậy đầy ma
quái đang chui từ bóng tối ra hòng chiếm đoạt linh hồn và thể xác của con
người. Bàn tay thì đưa lên trán suy nghĩ, bàn tay thì kéo con mắt lên để ép
buộc con người phải nhìn đối diện với sự thuật.
Trong nghệ thuật tạo hình, để nói lên cảm xúc, tâm tư tình cảm của nhân
vật, để nói lên tiếng lòng của con người, các họa sĩ thường tập trung sức mạnh
biểu cảm nơi bàn tay, những ánh mắt, khuôn mặt, cái miệng và cả đến ngôn
ngữ cơ thể. Với sở trường khắc gỗ, những tạo hình của bàn tay đã được Lý
Trần Quỳnh Giang tập trung khai thác sức biểu cảm của nó, bằng cách khắc
sâu, sắc nét, tạo hình bàn tay trong tranh của chị là sự tạo hình về sự khắc
39
khổ, đau đớn, dày vò bản thân của một kiếp người. Ý thức muốn trốn chạy
thực tạo hoặc hóa thân để được giải thoát còn hiện hữu trong những tác phẩm
khác của họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang. Sự hòa làm một với tự nhiên còn được
biểu hiện qua những hình ảnh những cành cây, con ong, con cú. Rồi khi con
người quá mệt mỏi, căng thẳng vì cuộc sống thì nhiều khi họ lại muốn chốn
tránh, muốn ngủ cho quên sự đời, có thể là mong muốn có một giấc ngủ dài
để mà không còn phải đối mặt với hiện thực cực khổ trước mắt, điều này được
chị biểu hiện bằng hình ảnh trong tác phẩm Mùa ngủ (H.17, Tr.90). Ở tranh
Mùa ngủ, toàn bộ gương mặt người choán hết không gian của tranh, đàn ong
ngủ hai mùa, chúng ôm lấy khuôn mặt, vừa như để tô thêm vẻ ngoài thời
trang của con người, làm đẹp cho con người nhưng con mắt con người vẫn
thao thức, đăm chiêu suy nghĩ. Nghệ thuật ở bức tranh này được tác giả sắp
đặt có chủ ý, sự đối lập trong suy nghĩ, đàn ong thì chen chúc trốn vào giấc
ngủ, trong khi con người lại vẫn thức, vẫn đăm chiêu, sự lo lắng mệt mỏi
được hiển hiện qua đôi mắt, qua nếp nhăn trên trán. Nền của bức tranh do đặc
thù của nghệ thuật đồ họa, chỉ là một sắc đen, nhưng mảng đen này không
phải màu đen của màn đêm, nó là màu của sự chạng vạng, là không gian thời
gian bấp bênh giữa đêm và ngày, giữa thực tại và ảo ảnh. Những con ong
nhung nhúc bu quanh người tạo ấn tượng mạnh mà không ai có thể trốn chạy.
Bức tranh mang đa nghĩa thể hiện sự thực về cuộc sống khổ đau không ai có
thể bỏ chạy hay né tránh, nhưng lại cũng là mong muốn ngủ đi để quên hết tất
cả. Suy nghĩ này đúng là một suy nghĩ tiêu cực của phần nhiều con người
trong xã hội hiện đại ngày nay. Thực ra cuộc sống hạnh phúc hay khổ đau là
do sự nhận thức của con người. Nếu như ai cũng đủ dũng cảm nhận thức được
bản chất của vấn đề, hoặc có thể suy nghĩ tích cực thì cuộc sống của họ cũng
hạnh phúc, tức là khi bạn suy nghĩ tích cực trước tình hình thực tại thì những
khó khăn, khổ đau, tồi tệ của cuộc sống rồi nó cũng sẽ đi qua, nó cũng sẽ trở
thành quá khứ và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
40
Ở tranh Mẹ bơi trong nước (H.18, Tr.91), tác giả đã tạo hình một sinh
thể có thân thể hình cá khuôn mặt nhàu nhĩ, già nua, nó vừa giống khuôn mặt
của con người, vừa giống khuôn mặt của một sinh vật. Trong cuộc sống của
con người có nhiều điều buồn mà con người phải đối mặt, phải trải qua, để
không muốn phải đối mặt với những nỗi đau ấy, nỗi buồn ấy, Lý Trần Quỳnh
Giang đã hóa thân mình vào những hình ảnh con cú, con ong, con cá, để giải
thoát.
Vậy có thể nói Lý Trần Quỳnh Giang đã vận dụng sáng tạo ngôn ngữ
của đồ họa, hội họa tạo nên sự biểu hiện về tình cảm nội tâm của chính chị
cũng như nội tâm của nhiều con người trong xã hội trước những những sự
kiện khác nhau trong cuộc đời. Chị cũng muốn biểu hiện về cảm giác cô đơn,
những nỗi buồn về cuộc sống và sự khát vọng tự do trong bản thể mỗi con
người. Tất cả những yếu tố của ngôn ngữ hội họa, kỹ thuật thể hiện đã giúp
cho họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang biểu hiện ra được cái riêng, về thế giới nội
tâm con người mình, qua đó bộc lộ những thông điệp đối với xã hội.
2.2. Yếu tố biểu hiện trong tranh Đinh Ý Nhi
Họa sĩ Đinh Ý Nhi sáng tác nghệ thuật dựa trên sự nghiên cứu về vấn đề
con người trong xã hội. Qua sáng tác của mình, chị biểu hiện suy nghĩ về sự
tồn tại và thái độ sống của con người trong xã hội hiện đại, về quyền con
người đồng thời, chị thể hiện quan niệm cá nhân về chức năng thẩm mỹ và
chức năng đánh thức nhân sinh quan của hội họa trong thời kỳ hậu hiện đại.
* Sự biểu hiện bản thể và số phận con người trong xã hội hiện đại
Trong xã hội mỗi con người là một bản thể riêng, cuộc sống của họ được
hình thành từ bản thân họ và định chế của xã hội. Tại sao con người lại có
những số phận khác nhau, điều đó thể hiện ở những quan niệm sống của con
người. Đinh Ý Nhi chọn chủ đề là con người, mối quan hệ xã hội, đời sống
của người phụ nữ, qua đó chị muốn nói về sự tồn tại của con người. Những
vấn đề về con người được chị thể hiện với tình cảm lo lắng, xót xa cho thân
41
phận người phụ nữ trước những điều làm cho họ bị tổn thương. Họa sĩ Đinh Ý
Nhi không vẽ về hiện thực con người trước mắt mà chị đi vào thể hiện nội
tâm của con người. Hình tượng con người trong tranh của họa sĩ Đinh Ý Nhi
luôn là những con người mang giới tính nữ, có lúc là những bé gái, có lúc là
những người phụ nữ, là người phụ nữ. Có lẽ bản thân họa sĩ Đinh Ý Nhi là
phụ nữ nên chị dễ đồng cảm với phụ nữ, bởi trong xã hội những quốc gia
phương Đông người phụ nữ hầu như chưa thực sự được đối xử bình đẳng như
nam giới, tâm hồn của họ dễ bị tổn thương, họ cũng mong muốn có được
cuộc sống hạnh phúc và sự yêu thương. Trước những vấn đề mà người phụ nữ
đang phải chịu trong xã hội, họa sĩ Đinh Ý Nhi thực sự đã lo lắng cho họ và
từ đó chị chọn hình ảnh người phụ nữ trong tranh của mình để sáng tác nghệ
thuật, đồng thời thay mặt phụ nữ đòi quyền công bằng. Những hình tượng này
chị họa vào trong tranh không mang vẻ ngoài giống hiện thực, nó được chị tạo
hình chủ quan, không ràng buộc với thực tế. Những hình người này được họa
sĩ Đinh Ý Nhi cố tình biến dạng, một là để “lạ” hóa, hai là thu hút người xem
vào vấn đề mà họa sĩ muốn nói. Những con người trong tranh của chị không
tràn đầy sức sống mà nó mang thân thể báo hiệu sự suy yếu về sức khỏe thể
chất và tâm hồn, nó man dại như những con thú được nuôi nhốt trong lồng.
Lý do để họa sĩ Đinh Ý Nhi vẽ hình người như thế này đến từ hiện thực cuộc
sống và thể hiện cực đoan hóa cảm xúc của mình lên trong mỗi tác phẩm.
Giai đoạn 1990 – 2000 có thể coi là thời kỳ đen trắng trong nghệ thuật
của Đinh Ý Nhi. Nội dung chủ đạo của giai đoạn này là nội tâm của con
người chịu nhiều thương tổn sau chiến tranh. Chiến tranh đã qua đi, nhưng
hậu quả của nó vẫn còn lưu lại trong ký ức mỗi người, đó là sự mất mát, đó là
nỗi đau ẩn sâu trong lòng con người, mất đi người thân trong gia đình là điều
mà ai cũng thấy nặng lòng. Đinh Ý Nhi nhận thức rõ rằng chiến tranh thực
chất cũng chỉ là sản phẩm của tâm đố kị trong con người làm cho cuộc sống
của con người bị ảnh hưởng nhiều, chị đồng cảm với nỗi đau của con người
42
sau chiến tranh. Sau chiến tranh, dường như số phận của nhiều con người
chìm trong đau khổ, mất mát và tổn thương.
Tác phẩm Fate 1- Số phận (H.20, Tr.93) tạo bố cục gồm có hình ba chân
dung của người phụ nữ nhưng trông như những cái bia tập bắn, cái cổ và
khuôn mặt bị kéo dài, biến dạng, đôi mắt thì trừng trừng nhìn người đối diện
với tranh và đôi môi thì mím chặt. Không gian trong tranh yên lặng đến rợn
người. Khuôn mặt của những người ấy có những vệt trắng nối dài từ cổ và dải
màu trắng nằm ngang mặt, lệch về phía bên phải khung tranh. Mái tóc của
những người phụ nữ để giống kiểu của những thanh niên xung phong thời
xưa, với kiểu tóc này cho chúng ta biết được lứa tuổi của những con người
trong tranh, đây là thời thanh niên, thời kỳ trẻ trung của người phụ nữ. Những
người phụ nữ này có vẻ chỉ có mỗi chiếc áo ngực, hoặc không, khu vực đó
họa sĩ Đinh Ý Nhi tạo hình là những mảng hình bầu dục, mảng phẳng bẹt và
không có khối. Cả ba con người dàn hàng ngang, nổi bật trên tranh nhưng
thực chất là những con người này lại đang đứng xếp hàng trong một không
gian nhất định. Sự sử dụng nét vẽ bao quanh viền con người để biểu thị những
mốc thời gian. Những tuổi thanh xuân của các cô gái thanh niên đã đi qua,
tuổi đáng nhẽ được cho là đẹp nhất của cuộc đời người con gái, thế nhưng ở
cái tuổi ấy, đất nước trong chiến tranh nên những cô gái này phải mang trong
mình những nỗi đau về thể xác, tinh thần. Những biểu tượng như cái thánh giá
được vẽ đè lên khuôn mặt con người tượng trưng cho những cái chết của
người chồng, người cha và người con. Các cô mòn mỏi chờ đợi người thân để
đến nỗi khuôn mặt và cái cổ dài ra. Đôi mắt mở to, trừng trừng nhìn đời, cái
nhìn xoáy sâu vào tâm can người đối diện với bức tranh. Không gian xunh
quanh các cô đặc quánh, nó tựa như không gian trong lòng cái hang tăm tối,
mù mờ không có đường ra, không có lối thoát. Như vậy, cách tạo hình,
phương pháp sử dụng ngôn ngữ hội họa đã được kết hợp để biểu hiện ra được
thái độ lo lắng, thương cảm của Đinh Ý Nhi về thân phận con người, qua đó
43
nói lên vấn đề tồn tại về vấn đề con người, mặc dù là có sự Đổi mới. Bức
tranh này là đại diện cho thời kỳ đen trắng của họa sĩ Đinh Ý Nhi. Mỗi con
người là một bản thể có một số phận riêng và đời sống nội tâm cũng khác
biệt. Họa sĩ Đinh Ý Nhi cảm nhận được thế giới nội tâm của mình, từ đó chị
kiếm tìm những giá trị con người bên trong, những giá trị thực sự hay còn gọi
là bản thể con người.
Tác phẩm Thế giới nội tâm của Đinh Ý Nhi VI (H.21, Tr.93) vẽ năm
2002, bằng sơn dầu, Đinh Ý Nhi tự họa bản thể bên trong người mình. Họa sĩ
đã tạo hình nhân vật trong tranh nằm trong hình vuông, biểu hiện sự ép mình
gồng lên, bành trướng cơ thể để thể hiện sự phản đối, đây là một phản ứng tự
nhiên của con người. Phần thân trên của con người trong tranh này khác hẳn
với tạng người thật bên ngoài thực tế của tác giả, một người nhỏ nhắn, song
bên trong con người nhỏ nhắn ấy vẫn tồn tại những bản năng sinh tồn. Có thể
đây là một con người khác bên trong con người của Đinh Ý Nhi. Hình người
với tỉ lệ chiếm diện tích tương đối lớn, không có những hình khác bên ngoài
phá đi sự tập trung vào nhân vật. Con người này không có thực và nó là một ý
niệm về nội tâm của họa sĩ, nó là sự tạo hình chủ quan, điểm nhấn được tập
trung vào khuôn mặt và phần thân trên của con người. Những chi tiết đôi tay
dang rộng với những ngón tay như những que củi, chân thấp chân cao, chân
tươi chân héo. Hình thể có những những nét màu đen viền hình lúc lỏng lẻo
lúc thô ráp, sần sùi, những nét màu ấy được cố ý sắp xếp trên hình thể như để
nói lên những cái dây đay đang quấn tạm bợ vào hình nhân thế mạng. Dấu
hiệu mảnh băng đỏ che đôi mắt của con người trong tranh vừa để góp phần
nói lên sự mất phương hướng, cũng vừa muốn nói lên việc không muốn nhìn
vào thế giới. Dải băng này như để con người che đi những gì không muốn
nhìn thấy bên ngoài mà cũng để con người nhắm mắt lại, nhìn vào bản thể bên
trong con người mình. Toàn bộ cơ thể của con người trong tranh với dáng vẻ
như con bù nhìn, nhưng dáng đi lại rất nghênh ngang. Hình tượng con người
44
ấy có thể là sự gợi ý từ câu chuyện từ thủa nhỏ của họa sĩ, khi ước muốn ban
đầu trong tương lai nghề nghiệp là làm bác sĩ, song khi vào bệnh viện thấy
máu nên lại sợ. Con người trong tranh cũng mặc chiếc áo blue như áo bác sĩ
nhưng cơ thể bị tổn thương, bị thương nhưng vẫn tỏ ra kiên cường, dáng đi
vẫn ngang tàng, hống hách. Sự kiện này đã diễn ra trong quá khứ của Đinh Ý
Nhi, song đến năm 2002, ý tưởng mới được bộc lộ trên tranh. Qua tranh, Đinh
Ý Nhi chia sẻ với người xem tranh về nội tâm con người mình là con người
mạnh mẽ. Con người đó cho dù có bị thương, đau khổ trong thực tại thì con
người ấy vẫn phải tỏ ra mạnh mẽ, phải sống cho hiện tại mà quên đi quá khứ.
Điều này giúp người xem thấy được thế giới nội tâm của họa sĩ muốn là một
cánh chim bay trên bầu trời tự do, nhưng cánh chim ấy đang bị thương, bị giới
hạn tầm nhìn, và cánh chim ấy phải gồng mình lên để chống trả với sự trói
buộc. Phải chăng bên cạnh việc nói về nội tâm trong con người mình, họa sĩ
Đinh Ý Nhi còn muốn nói đến khát vọng của con người là thay đổi số phận
của mình. Chính cách vận dụng ngôn ngữ tạo hình như vậy, ngôn ngữ của hội
họa trong các tác phẩm được vẽ ra một cách có chủ ý, đây là những dấu hiệu
nhận biết về vấn đề số phận con người mà họa sĩ muốn chia sẻ về trạng thái
cảm xúc của chị.
*Yếu tố biểu hiện về quyền con người trong xã hội hậu hiện đại
Những tác phẩm biểu hiện về quyền con người trong loạt tác phẩm Câu
chuyện Châu Á như các tác phẩm mang tên Security- Bảo vệ và đánh số
nhằm để nói về vấn đề quyền con người trong xã hội hiện đại. Sery những
bức tranh mang tên Bảo vệ này để nói về quyền con người đáng cần phải suy
nghĩ về sự an toàn, sự tồn tại của con người trong xã hội. Nếu như vấn đề về
quyền con người chỉ được vẽ trên một tác phẩm thì không có gì đáng nói,
nhưng khi một chủ đề được vẽ thành một bộ, hàng loạt bức tranh có cùng chủ
đề, nội dung thì đây quả là vấn đề cần phải có sự quan tâm của toàn xã hội,
điều này thể hiện thái độ đòi hỏi phải thay đổi từ cách quản lý nhà nước cho
45
đến nhận thức của từng cá nhân con người. Bên cạnh lối vẽ bóp hình trong
tranh của Đinh Ý Nhi, chị còn để lại những dấu hiệu, ký hiệu, ám hiệu để tăng
cường sự chú ý của vấn đề, cần được làm rõ. Những ám hiệu ấy có thể kể ra
như: Yes – No (Có- Không), Check – Kiểm Tra, Security – Bảo vệ, những
dấu nhân, dấu cộng, dấu trừ… Những ký hiệu, ám hiệu này nhấn mạnh hay
chỉ rõ thêm vấn đề nhưng theo lối đơn giản hóa ngôn ngữ. Xu hướng nghệ
thuật hậu hiện đại thường có những ký tự như vật trên tranh và đây cũng là để
giải thích thêm về nội dung vấn đề cần truyền đạt. Cuộc sống dưới thời công
nghệ phát triển, thời kỷ nguyên kỹ thuật số ra đời cũng là lúc làm cho con
người phụ thuộc vào công nghệ, vật chất mà quên đi giá trị con người. Trong
tranh Đinh Ý Nhi vẫn có những bóng dáng người phụ nữ, nhưng mang trạng
thái đờ đẫn, vô hồn trong khi cuộc sống vẫn tiếp diễn. Chứng tỏ Đinh Ý Nhi
đã cảm thấy ở xã hội văn minh thì con người lại cảm thấy không yên lòng,
thấy bất an. Tại sao mà cùng con người với nhau mà phải kiểm tra, lại phải có
kiểm chứng kiểm tra an ninh (trong loạt tranh câu chuyện Châu Á). Ý tưởng
này xuất hiện khi Đinh Ý Nhi gặp khi chị đang kiểm tra an ninh tại sân bay
cùng với những con người khác. Sự việc rất nhỏ này dường như ít ai để ý tới,
song họa sĩ Đinh Ý Nhi với tâm hồn nhạy cảm, chị đã nhìn ra được bản chất
của sự việc. Phải chăng đó là sự mất đi lòng tin giữa con người với nhau, là sự
lo lắng của bản thân họa sĩ về tình trạng xã hội. Có lẽ để bộc lộ ra cảm xúc
thật rõ ràng, cụ thể, Đinh Ý Nhi đã không ngần ngại để thân thể của người
trong tranh ở trạng thái khỏa thân, với hình ảnh biến dạng gần như châm biếm
hóa về những mặt còn tồn tại của xã hội văn minh.
Tác phẩm Security 3 (H.22, Tr.94) viền bo của tranh là một khung cửa
màu đen, qua khung cửa ấy, người phụ nữ đang quỳ gối ngồi khóc, cô ấy bị
tổn thương, cô ấy chẳng còn gì, đến bộ quần áo để che đi các bộ phận cơ thể
nhạy cảm cũng bị lột bỏ nốt, cô ấy trơ trụi, cô ấy khóc mà chẳng có ai màng
tới cảm xúc của cô ấy, không có ai cảm thương với cô ấy, chỉ có Đinh Ý Nhi
46
đồng cảm và muốn chia sẻ với cô. Người phụ nữ trong tranh bị lột trần trông
như hình dáng của con gà bị vặt hết lông, bèo nhèo, nhão nhoét. Không gian
bó hẹp như chiếc tủ điện thoại, xung quanh cô ấy là những dải băng phản
quang có màu vàng và cam và cái nền của đống giẻ lau màu xanh đã cũ, có vẻ
như con người bị biến thành một sinh thể, không khác gì con vật hay một món
hàng cần phải kiểm tra, kiểm duyệt. Khung cửa kính kia ngăn cách con người
khác nghe thấy tiếng kêu cứu của đồng loại. Người phụ nữ đã khóc gần như
hết nước mắt, cô đẫn đờ, thẫn thờ nhìn đời với đôi mắt vô cảm, mái tóc của cô
giờ cũng không còn vẻ óng mướt ngày xưa, nó xơ xác như nắm bút lông cùn
của họa sĩ. Người đàn bà giờ đã không còn sức sống, thân thể chảy nhão như
đám bột mỳ của người thợ làm bánh chưa lành nghề. Lối tạo hình này nhằm
mục đích nói lên giá trị của con người đã hết hạn sử dụng chăng (?), dù là hết
hạn sử dụng nhưng cũng vẫn cần phải kiểm tra để đảm bảo an ninh, an toàn.
Thêm vào đó, những từ Check, Security ở trên tranh để giải thích rõ ràng hơn
về nội dung của tác phẩm... Điều này nói lên một điều là trong xã hội hiện
đại, cho dù có là ai, hay bất cứ gì, việc kiểm tra vẫn cứ là cách giảm thiểu rủi
ro, điều đó chứng tỏ một xã hội phát triển về kinh tế thì cũng vẫn phải đề
phòng, sợ mất an toàn, từ “sợ” trở thành ý niệm xuất hiện trước tiên trong
dòng ý thức của con người. Đinh Ý Nhi thể hiện thái độ bất bình của mình về
tình trạng con người chỉ vì lo sợ vấn đề an toàn mà quên đi mất phẩm giá của
con người. Ở một câu chuyện khác, cũng vẫn chủ đề là Security - Bảo vệ
nhưng là một góc nhìn khác và là thái độ phản ứng của nhân vật trong tranh
mạnh hơn mà người đó phải chịu đựng. Tác phẩm Security 13 (H.23, Tr.95)
Đinh Ý Nhi lại nói tới thân phận người phụ nữ, lần này người đàn bà cũng
vẫn khỏa thân, nhưng trong tư thế phản kháng, người đàn bà ấy bộc lộ thái độ
của mình bằng cách ngồi dạng chân, bày hết nhục cảm ra nhằm phản đối sự
việc ảnh hưởng lớn tới đời tư của mình. Người đàn bà ấy được tạo hình bởi
những vệt màu cam, hồng, da người vừa khô xước vừa để gợi ra khối hình
47
của cơ thể. Các chi tiết tay chân hay viền ngoài của thân thể chỉ được nhận ra
từ những vệt bút màu lỏng, như được rải, rưới một cách vô thức. Hai ống
chân chống lên, mảnh như cái que và nó ở phía sau của hai dấu cộng. Hình
dấu cộng ở hai chân có hai nghĩa, nó là một cái cùm, để giữ chân người khỏi
chạy trốn, mà nó cũng biểu hiện ra dấu hiệu của sự cộng gộp. Rất có thể lúc
mới đầu vẽ tranh này, Đinh Ý Nhi có ý định là để cho người đàn bà ngồi quay
ngang, trong tư thế ngồi xổm, song điều này chị cảm thấy hình thể ấy chưa đủ
sức thuyết phục, sức biểu cảm chưa mạnh, chị đã thêm tay chân vào phia bên
trái của bức tranh. Chân dạng ra, rồi cánh tay chống trên đùi, cái đầu vẹo sang
bên phải, một mắt chú ý nhìn về bên phải, mắt trái chỉ có chút con ngươi nhìn
về người xem tranh, vẫn kiểu tóc bị túm lại, kéo ngược về phía sau. Trạng thái
tâm lý phẫn nộ của nhân vật được họa sĩ Đinh Ý Nhi đẩy lên cao trào. Ở tác
phẩm này, giá trị biểu cảm được thể hiện ở chỗ là Đinh Ý Nhi muốn nói đến
cảm giác bị nhục, bị thương tổn của người phụ nữ, họ muốn chống đối những
điều tồi tệ nhưng họ là phụ nữ, họ chỉ có thể tỏ vẻ thái độ của mình mà không
đáp trả được. Hai bức tranh trên đều vẽ về những người phụ nữ với những chỉ
dẫn về kiểm tra an ninh chứng tỏ vấn đề quyền con người trong xã hội ngày
nay đang bị bỏ mặc. Như vậy, dưới con mắt nhìn cuộc sống của người phụ
nữ, họa sĩ Đinh Ý Nhi trước hết muốn nói đến thế giới bản thể con người
mình, nội tâm mình. Qua những bức tranh ở triển lãm “Câu chuyện Châu Á”,
chị thể hiện thái độ của mình là gay gắt phản đối việc coi nhẹ quyền con
người. Việc phản đối ấy được thể hiện lên tranh dưới thủ pháp vừa biểu hiện
cảm xúc thật của mình, vừa làm biến dạng hình thể như là một lời châm biếm
chua cay về mối quan hệ giữa nhiều con người trong xã hội.
*Yếu tố biểu hiện về quan niệm sống và thái độ sống của con người
Trong cuộc sống của con người, sự hạnh phúc hay đau khổ phụ thuộc
vào cách nhìn nhận vấn đề, từ đó có những quan niệm sống và thái độ sống
phù hợp với bản thân và với xã hội. Với người Châu Á nói chung vẻ ngoài
48
của con người đánh giá phẩm chất của con người đó, cũng như đánh giá địa vị
xã hội. Nhưng để không bị phân biệt đối xử thì nhiều con người phải đóng vai
một con người khác, họ phải mặc những trang phục “thời trang”, “sành điệu”,
“đẳng cấp”… Ví dụ như tranh Security 11 (H.24, Tr.95) nói lên một hình ảnh
khái quát về sự đóng vai kịch của con người. Tranh diễn tả một con người
đang hai tay chống hông, bộ quần áo thời trang với hai ống tay áo như những
lá cờ rủ, tư thế này giống hệt như tư thế của những quý cô sành điệu, đang rất
hãnh diện khi khoác lên mình một cái giá trị ảo. Thế nhưng khuôn mặt cô ta
thì có vẻ như rất khó khăn cho cô để cô đóng được một vai kịch trọn vẹn, mắt
cô vẫn phải liếc nhìn sự để ý của xã hội, miệng thì đang ngoác ra tỏ vẻ khổ sở,
còn mái tóc cố cứ tưởng tóc xác xơ, lệch một bên mới gọi là thời trang. Bức
tranh chỉ có sự thay đổi của sắc đỏ nhưng mang màu của những tấm gỗ cũ kỹ,
điều này gợi đến những hình ảnh được tô vẽ trên những thùng gỗ cũ. Vẻ biểu
cảm trên gương mặt của cô gái thể hiện thái độ không đồng tình với bộ dạng
này, nó được nhấn mạnh sự tập trung từ những mũi tên bên ngoài. Nhưng con
người ấy vẫn phải đóng vai để có thể giành một vị trí trong xã hội.
Tranh Những niềm vô hạn bị bỏ quên (H.25, Tr.96) hình những người
đàn bà có làn da màu ấm nhưng sù sì, thô mộc như những vỏ cây đang gác
chân lên, một to một nhỏ, người thì quay ngang, gác chân, mặt nhìn về phía
người thưởng thức, người thì cũng ngồi gác chân nhưng lại quay người trực
diện, mặt lại nhìn đi chỗ khác, có thể là nhìn vào hư vô, nhìn vào vô hạn. Hai
con người ngồi bên nhau mỗi người có một nỗi niềm riêng trong lòng. Hai
người ngồi trên nền không gian có màu vàng, cam đỏ, trong đó màu đỏ chiếm
ưu thế, những sắc màu nóng này tựa như ánh sáng khói lửa của chiến tranh
xưa hoặc cũng có thể nói một thời hoàng kim đã qua. Còn bản thân chân dung
hai phụ nữ thì được vẽ bằng tông màu kem sáng nhưng thô ráp sù sì, không
còn cái vẻ của tuổi thanh xuân. Với người họa sĩ đã từng phải vẽ những bài
hình họa nghiên cứu cơ thể người thì việc học vẽ với người mẫu là việc quan
49
trọng và căn bản. Có thể hai con người đang ngồi trong bức tranh tâm sự với
nhau trong tranh là một cảm xúc của Đinh Ý Nhi về cái nghề nghiệp làm mẫu
vẽ cho họa sĩ này. Những con người làm mẫu cho họa sĩ vẽ, đặc biệt là mẫu
nữ, họ đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình để cống hiến cho nền mỹ thuật và
công việc này là công việc vô gía, Đinh Ý Nhi đã nhận ra điều vô giá ấy khi
những sinh viên trường Mỹ thuật bỏ quên mất những công lao của người mẫu
mỹ thuật. Màu da của hai người màu sáng nhưng tương phản với nền đằng
sau là những tảng màu đỏ, cam, hồng, vàng, bổ sung cho ý tưởng biểu hiện
trong tranh. Đó là việc người làm mẫu nữ cho họa sĩ rất đáng quý, trong
phòng vẽ, họ có thể được coi như nữ hoàng nhưng người đời chả mấy ai nhận
ra được những giá trị mà họ đã cống hiến cũng như phải bỏ tuổi thanh xuân
của mình. Đinh Ý Nhi muốn lên tiếng về sự thực này, và chị dùng tranh của
mình để tỏ thái độ của mình về vấn đề.
Sự bàng quan của con người với thời cuộc cũng được Đinh Ý Nhi chú ý
đến và đưa nó lên những tác phẩm của con người. Loạt tranh Chân dung
người Châu Á khi Đinh Ý Nhi triển lãm chung cùng với họa sĩ Hoàng Phượng
Vĩ nói lên thái độ sống của con người trong xã hội ngày nay. Ví dụ bức tranh
Chân dung người Châu Á (H.26, Tr.97) vẽ hình một chân dung đơn thuần của
một con người, nhưng với cách sử dụng bố cục và màu sắc đen trắng làm cho
người xem liên tưởng đến những bức ảnh chân dung trên mộ, nó không phải
là một con người, những hình ảnh này mang theo sự vô cảm của con người.
Quả đúng là trong xã hội ngày nay, không chỉ ở Việt Nam mà ở một số nước
thuộc Châu Á khác, đứng trước những mối nguy hiểm của người khác, con
người sọ bị liên lụy nên họ tỏ thái độ thờ ơ, với đôi mắt lờ đờ vô cảm, họ chả
thiết gì quan tâm đến những sự kiện đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày
quanh họ. Những con người ấy một mắt thì vẫn nhìn theo dõi sự việc, một
mắt thì lờ đờ ngái ngủ và u mê.
50
* Sự biểu hiện về quan niệm sáng tác hội họa với chức năng thẩm mỹ và
chức năng đánh thức nhân sinh quan của hội họa trong thời kỳ hậu hiện đại.
Điểm độc đáo trong nghệ thuật tạo hình của Đinh Ý Nhi là quan niệm về
hội họa không hoàn toàn là sự mô tả lại hiện thực khách quan như những gì
thấy được trước mắt, mà hội họa ngoài chức năng thẩm mỹ còn phải có chức
năng đánh thức quan niệm sống của cá nhân con người. Những chức năng của
hội họa mới được thể hiện ở thái độ ứng xử với nghệ thuật thông qua nội dung
và hình thức trình bày. Nếu như ở giai đoạn 1995 đến năm 2000, Đinh Ý Nhi
chỉ sáng tác với chất liệu bột màu trong hai sắc độ đen trắng, thì từ năm 2000
đến nay Đinh Ý Nhi thể hiện bằng chất liệu sơn dầu. Việc vẽ hàng loạt bức
tranh bột màu có cùng chủ đề lúc đầu là để tìm hàng loạt phác thảo thể hiện ý
tưởng trở thành lối tư duy căn bản trong việc ứng xử với nghệ thuật của chị.
Còn khi chuyển sang vẽ với chất liệu sơn dầu, Đinh Ý Nhi cũng thể hiện hàng
loạt sery tác phẩm nhưng chỉ rất kiệm màu. Vậy nhìn lại chặng đường đã qua
của chị, từ việc chuyển từ bột màu sang sơn dầu với cách thức làm hàng loạt
tác phẩm thì cũng thể hiện một xu thế thời đại công nghiệp, đó là vấn đề sản
xuất hàng loạt những sản phẩm có tính chất, chức năng giống nhau nhưng về
mặt cái riêng của mỗi cá thể thì bị bỏ qua. Như ở Việt Nam hiện nay hầu như
ai cũng muốn có nhu cầu sử dụng điện thoại IPhone, nhà nhà, người người
dùng IPhone… Như vậy Đinh Ý Nhi nhận thấy rõ vấn đề thẩm mỹ và vấn đề
quan niệm sống của con người thời hậu hiện đại, chị nhận thấy thực tại cuộc
sống xã hội đang rất đơn điệu, nhàm chán, buồn tẻ do xu thế hậu hiện đại gây
ra, nó làm mất đi những giá trị thẩm mỹ nguyên bản và những giá trị sống
đích thực, quan niệm sống căn bản của con người. Đinh Ý Nhi đã truyền đạt ý
tưởng ấy vào trong những tác phẩm của mình để nói về vấn đề nhân sinh quan
của con người trong xã hội hậu hiện đại.
* Vấn đề biểu hiện được bộc lộ rõ hơn qua cách thể hiện chất liệu, chất
cảm
51
Cho đến nay Đinh Ý Nhi đã sáng tác nghệ thuật trên ba chất liệu bột
màu, sơn dầu và giấy dó. Ngoài việc biểu hiện thái độ tình cảm, cảm xúc bên
trong nội tâm của mình bằng cách sử dụng khéo léo, có tính toán và có mục
đích các hình thể, đường nét và màu sắc ra, một yếu tố cũng góp phần làm
nên giá trị biểu hiện trong tác phẩm của họa sĩ Đinh Ý Nhi. Đó là chất cảm,
đây cũng là nhân tố khi kết hợp với những yếu tố khác sẽ tác động tâm lý trực
tiếp và mạnh mẽ tới người thưởng thức. Trong tranh của Đinh Ý Nhi, hiệu
quả của thủ pháp tạo bề mặt cho đối tượng cũng góp phần vào tiếng nói
chung, là những từ vựng mô tả tính chất được chuyển sang ngôn ngữ hội họa.
Ví dụ như nhìn cách vẽ, có thể thấy được độ dày mỏng của chất liệu, nó gợi ra
những cảm giác thô ráp hay láng mịn… và làm phong phú hơn cho sự miêu tả
đối tượng trong tranh. Ví dụ như trong tranh Những niềm vô hạn bị bỏ quên
hay tranh Thế giới nội tâm Đinh Ý Nhi, tác giả muốn biểu hiện bản chất con
người bên trong thô ráp mộc mạc, nguyên sơ, hoang dại nên họa sĩ đã sử dụng
thủ pháp tạo những vệt bút dày cộm, xơ xác hay là những nét bút mảnh, nhẹ
và lỏng lẻo. Không giống như truyền thống của hội họa biểu hiện ở Đức đã
làm là sử dụng nét đen viền dày, đậm. Đinh Ý Nhi sử dụng nét chỉ có tính
chất làm nhận ra hình thể và gợi lên cảm xúc về những con người trong tranh
của chị luôn bị những cái dây thép gai bó buộc cơ thể.
Tóm lại yếu tố biểu hiện trong tranh Đinh Ý Nhi là những biểu hiện về
bản thể, số phận con người, về quyền con người, về quan niệm sống và thái
độ sống, về quan niệm sáng tác hội họa với chức năng thẩm mỹ và đánh thức
nhân sinh quan. Những yếu tố biểu hiện của Đinh Ý Nhi đã được chị thể hiện
qua thái độ với sáng tác nghệ thuật, bằng việc biến dạng cấu trúc cơ thể, sử
dụng kiệm màu, có nhiều ký hiệu trên tranh và vẽ hàng loạt tác phẩm có cùng
một chủ đề. Như vậy sáng tác nghệ thuật của họa sĩ Đinh Ý Nhi dựa trên
những nghiên cứu, trải nghiệm về con người, về nhân sinh quan và sự tồn tại
của con người trong xã hội hiện đại và hậu hiện đại.
52
2.3. Yếu tố biểu hiện trong tranh Đinh Thị Thắm Poong
Các yếu tố biểu hiện trong tranh của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong là biểu
hiện về thái độ sống, quan niệm sống của người dân tộc thiểu số, biểu hiện về
bản sắc văn hóa dân tộc
* Sự biểu hiện về thái độ sống, quan niệm sống và tình yêu cuộc sống
của người dân tộc miền núi thông qua cách chọn và thể hiện hình ảnh người
dân tộc trong tranh
Với chị, quê hương miền núi luôn tạo nhiều cảm hứng sáng tác cho chị
chị vẽ bằng những ký ức, bằng trí nhớ, bằng tình cảm về nơi chị sinh ra. Chị
nói:
Tôi đã sống ở Lai Châu suốt thơi thơ bé, đã tắm mình trong không gian
văn hóa Tây Bắc, đã buồn vui rất nhiều với mỗi thân phận con người quê
hương tôi, và đã có một khoảng thời gian lùi xa để suy nghẫm, hồi tưởng và
vẽ lại.Tôi vẽ bằng ký ức, trải nghiệm, với cách nhìn sâu rộng hơn [27]. Qua
đó, họa sĩ thể hiện chủ đề về con người dân tộc thiểu số và thái độ sống của
họ là chủ đề ưa thích của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong. Với phong cách hội
họa có chút ảnh hưởng của trường phái siêu thực từ họa sĩ Rene' Francois
Ghislain Magritte ở chỗ hình thức biểu đạt, hình thể con người đang như là
khung cửa nhìn lên bầu trời đầy mây. Phong cách vẽ của họa sĩ Đinh Thị
Thắm Poong cũng có yếu tố biểu hiện giống như trong tranh của họa sĩ Marc
Chagall trong tác phẩm I and the Village – Tôi và làng, họa sĩ biểu hiện Pháp.
Với sự học hỏi và sáng tạo nghệ thuật từ những họa sĩ nổi tiếng, Đinh Thị
Thắm Poong đã sáng tạo ra cho mình một phong cách rất riêng, đó là sự hòa
trộn không gian tâm linh với không gian hiện thực, là tiếng nói về thái độ
sống của con người.
Tác phẩm Hóa thành hoa (H.27, Tr.98) là bức tranh đẹp, thể hiện ước
muốn được trở thành một phần của tự nhiên, không lo nghĩ, chỉ đem hương
thơm và sắc màu làm đẹp cho đời, đây là tiếng nói về tình yêu cuộc sống của
53
những con người. Tổng thể bức tranh là sự sắp đặt bố cục kết hợp tĩnh và
động, hai người phụ nữ dân tộc Dao đỏ thì trong bố cục hình vuông, chắc
chắn nhưng cũng rất mềm mại, uyển chuyển. Hình tượng hai người phụ nữ ấy
có thể là tượng trưng cho mẹ đất, có nhịp điệu, nhưng hình hai người phụ nữ
này kết hợp lại thì lại giống như ngọn núi và khoảng trời xanh ở phía sau núi,
một phong cảnh miền núi thật hùng vĩ. Bên trái bức tranh, hình người gần
giống như một vũ công ballet đang thực hiện động tác Plie vừa xoay vừa múa
trong điệu múa hân hoan vui sống của tự nhiên, của cây cỏ. Hình tượng hoa
sen và lá sen làm nền cho con người, sen có màu nâu giản dị cùng với những
phiến lá sen màu rêu càng tôn lên vẻ đẹp của con người trong bức tranh. Họa
sĩ Đinh Thị Thắm Poong bộc lộ ra quan niệm sống, thái độ sống theo tín
ngưỡng của người Dao. Đó là ước mơ sự hòa hợp của con người với thiên
nhiên. Thông qua mọi hình ảnh có trên mặt tranh, chị kể một câu chuyện, ước
muốn của con người, nhưng cũng đồng thời là ước muốn của cá nhân chị, nó
chính là bộc lộ ra mong muốn tự nơi nội tâm của chị. Tranh vẽ là sự phản
chiếu thế giới nội tâm của người nghệ sĩ. Hầu như ai cũng thích hoa bởi hoa
tượng trưng cho sự thanh khiết, sống an nhiên, tự tại, không lo không nghĩ,
sống hài hòa với tự nhiên, sống với ước vọng đem vẻ đẹp của mình làm cho
cuộc sống tươi đẹp hơn mà nó không đòi hỏi thứ gì khác. Có lẽ họa sĩ Đinh
Thị Thắm Poong cũng có cùng suy nghĩ giống như những bông hoa kia, chị
yêu cuộc sống và chị cũng muốn đem công sức của mình làm đẹp cho đời.
Trong tranh, thiên nhiên và con người giao hòa làm một làm nảy sinh suy
nghĩ trong đầu người thưởng thức về không gian thực tại chuyển sang không
gian của thế giới tâm linh, thần linh. Ở không gian tâm linh này, con người
không có lấy một khổ đau, không có sự buồn rầu, buồn bã, chỉ có niềm hân
hoan vui sống, đây cũng là ước muốn từ sâu bên trong bản chất của con người
trong xã hội. Với màu nước, họa sĩ không thể tạo những nét ganh dày cộm
như của sơn dầu, song việc sử dụng chất liệu màu nước lại đem lại hiệu quả
54
về mặt tinh thần cho bức tranh. Bản thân chất liệu màu nước đã là nhẹ, nhưng
nó còn mang ý nghĩa là êm đềm. Rồi cách mà họa sĩ tạo ra hòa sắc dịu nhẹ
trên tranh cũng đủ để nói lên ước mơ sống hòa hợp với tự nhiên của chị, của
con người.
Tác phẩm Dấu chân (H.28, Tr.98) là một câu chuyện về ký ức còn đọng
lại trong ký ức chợt ùa về trong hiện tại. Nghệ thuật chồng hình có nhiều tầng
lớp, tự bản thân cách trộn nhiều lớp không gian trên tranh tạo chiều sâu ảo
trong tranh. Đầu tiên là cái ban công, dấu ấn của người đàn ông đã lưu lại trên
sàn ban công này. Nó được nhìn từ trên xuống, giống như cái nhìn của con
người nhìn trở lại quá khứ. Hình thể là bóng dáng một con người đang trong
tư thế nằm nghỉ. Dù nằm xuống nghỉ ngơi, nhưng con người ấy vẫn vắt tay
lên trán để suy nghĩ. Con người ấy với màu sắc gần chỉ như là màu nền của
giấy dó, có điểm chút mây trắng. Không gian tiếp theo của bức tranh lại là
những hàng cây trong rừng. Nó lại thể hiện cái nhìn thẳng về thiên nhiên
trước mắt. Những hàng cây này với vẻ thân thể thì màu đen, còn tán lá lại là
màu vàng nhạt gợi lên cảm xúc của con người khi đứng dưới tán lá cây đã
chuyển sang màu cũ kĩ, màu của thời gian. Nhưng nó cũng đồng thời gợi lên
sự thật thiên nhiên đang bị tàn phá dưới bàn tay con người. Bên trên phía trái
của tranh, Thắm Poong tạo hình đám mây đen, trông cũng giống như đám
khói của cháy rừng. Và xa hơn nữa, những linh hồn của khu rừng khoác chiếc
áo màu của quá khứ, những cây ấy đang buồn. Hình hai con người đang đứng
không rõ mặt, tay chống nạnh, họ đứng nhìn về khu rừng bị cháy, trông dáng
vẻ của họ, dường như họ đang tiếc nuối cho nơi đã nuôi dưỡng con người.
Câu chuyện của Thắm Poong trong bức tranh này biểu hiện ra sự thất vọng,
không hài lòng của con người bên trong chị cũng như là số đông con người
miền núi khi không gian sống của họ bị xáo trộn. Nơi nào có dấu chân của
con người đi qua, nơi đó thiên nhiên bị tàn phá, con người như chị chỉ còn
biết thở dài ngao ngán, chỉ còn biết đứng nhìn hoặc nằm xuống suy nghĩ về
55
hiện thực trước mắt. Bức tranh Dòng suối (H.29, Tr.96) không hề có bóng
dáng của dòng suối, mà chỉ là sự phản chiếu của bầu trời trên mặt nước của
dòng suối. Dòng suối trong rừng là nơi những cô gái dân tộc soi mình chải
tóc, là nơi rừng núi in bóng, hòa trộn mình với suối thành một thể thống nhất.
Điểm nhấn trong tranh là bóng dáng của những người dân tộc Dao đỏ với
chiếc mũ đỏ to trên đầu. Đây là những người phụ nữ đã lập gia đình, họ đang
cúi mình nhìn xuống, không phải để chải tóc, mà hình như họ đang buồn.
Hình thể người nam giới với đôi vai rộng, hòa lẫn với bầu trời trong xanh.
Người đàn ông ấy đang đứng buông tay nhưng thân thể thì bao bọc cho những
người phụ nữ.
Bức tranh Hai nửa (H.30, Tr.99) vẽ hình một người đang nằm chống tay,
tư thế quay lưng về phía người xem, khuôn mặt đang cúi xuống nhìn, và một
hình dáng của người phụ nữ mang hình ảnh của mây trời. Trong tranh, tính
chất biểu cảm của hình vẽ được thể hiện ở nền rừng xôn xao của hoa lá, hình
người màu xanh ngọc lại mềm mại, ngọt ngào như hồ nước, con người đang
nằm với sắc màu nâu, xanh rêu tượng trưng cho đất. Bức tranh họa ra một
khung cảnh lãng mạn và trữ tình. Ngôn ngữ tạo hình của điêu khắc cũng theo
chị vào hội họa. Hình tượng con người được cách điệu, đơn giản hóa, chỉ là
những hình khối tròn của hệ thống tượng tròn, hình người mang hơi thở của
bầu trời tựa như dáng hình của một người phụ nữ, có lẽ nguồn nước, dòng
suối mát lành trong thâm tâm họa sĩ được hiển hiện thông qua dáng vẻ người
phụ nữ, người mẹ thiên nhiên màu xanh ngọc mềm mại đang ôm ấp chở che
cho những người con của núi rừng. Dáng điệu này giống như dáng của bà mẹ
đang hát những lời hát ru con. Hình người phụ nữ đang nằm suy nghĩ bên
trong dáng người mềm mại màu xanh ngọc kia. Cô ấy vừa nằm, vừa như tâm
sự với bà mẹ thiên nhiên, cô ấy trăn trở về cuộc sống và mẹ nước đang chia sẻ
với cô. Cả hình hai con người đều lấp ló sau những tán cây, những mảnh rừng
màu đã chuyển sang xuân. Đáng lẽ, mùa xuân, mùa của hoa mận trắng rừng
56
báo hiệu sự sống đang hồi sinh đã về với bản làng nhưng con người vẫn còn
trăn trở về cuộc sống. Ở đó, con người là hiện thân của nửa thế giới con
người, cảnh sắc thiên nhiên là hiện thân của nửa thế giới, hai nửa này vẫn cần
có nhau, núi rừng là nhà của con người trong tâm khảm của người dân tộc
thiểu số, khi cuộc sống xã hội đô thị đưa con người trở nên mệt mỏi, con
người lại muốn trở về với mái nhà xưa, nơi có mẹ thiên nhiên luôn mở lòng
chào đón những người con xa quê trở về. Bức tranh Hai nửa không cần đến
nhiều hình ảnh mà vẫn có thể làm rung động cảm xúc nơi người thưởng thức.
* Yếu tố biểu hiện bản sắc văn hóa dân tộc
Nhìn phần lớn trên các tác phẩm của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong, nhiều
tác phẩm có vẽ hình những người phụ nữ dân tộc Dao đỏ. Trong cuộc sống
của người Dao, mọi sinh hoạt, luật tục, tín ngưỡng và văn hóa đều thể hiện
tinh thần “Vạn vật hữu linh – mọi vật đều có linh hồn”, tín ngưỡng văn hóa
của người Dao ảnh hưởng bởi Nho giáo được thể hiện qua sự phân định tôn ti
trật tự, theo thứ bậc ở mỗi gia đình, mỗi dòng họ. Quan niệm sống cũng ảnh
hưởng bởi Đạo giáo, với quan niệm về con người và tự nhiên là sự hòa hợp
với nhau, mọi thứ sinh ra trong thế giới này đều khắc chế lẫn nhau, nuôi
dưỡng nhau, bổ trợ cho nhau để cùng tồn tại. Con người tôn trọng tự nhiên,
con người cũng chỉ là một phần trong tự nhiên, cho nên, khi con người chết
đi, thì chỉ là chết về thể xác, linh hồn mãi bất tử và trở về với tổ tiên và đây là
một nét trong bản sắc văn hóa của người dân tộc mà họa sĩ Đinh Thị Thắm
Poong đã nghiên cứu và biểu hiện ra trên những tác phẩm của mình.
Tranh Khuôn khổ gia đình (H.31, Tr.100) của họa sĩ Đinh Thị Thắm
Poong cũng nói lên những suy nghĩ bên trong của họa sĩ về quan hệ trong gia
đình, tình cảm của họa sĩ với gia đình mình nói riêng, của con người dân tộc
với cộng động mình sống nói chung, đồng thời bộc lộ bản sắc dân tộc. Người
Dao có phong tục tập quán theo chế độ phụ quyền, tức là coi trọng người đàn
ông trong nhà, người đàn ông luôn là người có tiếng nói, có quyền lực, còn
57
người phụ nữ sẽ giúp đỡ cho người đàn ông trong việc duy trì cuộc sống và
phát triển nó. Dấu ấn của Nho giáo thể hiện trong bức tranh này, đó là sự phân
định rõ ràng tôn ti, trật tự, theo thứ bậc ở trong mỗi gia đình, mỗi dòng họ. Từ
ý tưởng này, tranh Khuôn khổ gia đình thể hiện những nội quy, những quy
tắc ứng xử trong một phạm vi của gia đình của người dân tộc thiểu số, nó ăn
sâu vào trong ý thức của mỗi gia đình, mỗi cá nhân con người, đây cũng là
thái độ của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong về những điều không công bằng
trong bản sắc văn hóa dân tộc của mình. Ý tứ của câu chuyện được hé lộ ra,
bên cạnh bản thân mình là người dân tộc, song khi sống trong nền văn minh
đô thị, tác giả cũng vẫn phải đảm nhiệm vai trò của người phụ nữ trong gia
đình, chị vừa phải chăm sóc cho tổ ấm, chị vừa phải làm việc của bản thân.
Có lẽ tác giả chưa hài lòng lắm với bình đẳng giới trong xã hội hiện đại. Nền
tranh là núi rừng đầy sắc trắng của những cành hoa mơ, hoa mận. Với các
hình tượng đã được thể hiện trên tranh, yếu tố bản sắc dân tộc đã được biểu
hiện rõ ràng, đó là công việc được phân công rõ ràng trong gia đình. Người
phụ nữ vừa phải đảm nhiệm chăm sóc trẻ em, vừa phải giúp chồng gánh vác
việc phát triển kinh tế nhưng vẫn phải chịu sự chỉ đạo của người đàn ông, và
thực hiện công việc trong khuôn khổ, khuôn phép của gia đình, của cộng
đồng, điều này cũng nói lên thái độ chưa bằng lòng với sự bất bình đẳng giới
trong quan niệm hiện đại của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong. Bản sắc văn hóa
dân tộc còn được thể hiện qua cách chọn những hình người dân tộc trong
tranh với những trang phục đặc thù của họ, ngoài ra bản sắc văn hóa còn được
thể hiện ở nếp nghĩ, những luật lệ của cộng đồng hay là tín ngưởng của người
dân tộc. Họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong đã khai thác những hoa văn trên trang
phục của người dân tộc đưa vào các tác phẩm của mình. Đó là những hình
hoa thị, hoa mơ, hoa mận, rồi những rừng cây, con suối, trái núi là những nơi
sinh sống đặc trưng của người dân tộc miền núi.
58
Tác phẩm Cây đu đủ (H.32, Tr.100) là một hình ảnh góp vào bản sắc
văn hóa dân tộc trong sáng tác của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong. Bức tranh
vẽ một người phụ nữ dân tộc Dao đứng giữa bức tranh tương phản với những
hình con người treo ngược trong tranh. Bức tranh còn có sự xuất hiện của
những vật nuôi như gà, lợn rồi nửa quả mít bổ dọc treo ngược trên một góc
tranh. Không nói đến yếu tố siêu thực trong tranh, những hình con vật nuôi và
những người phụ nữ quay ngược và các hình ảnh khác về thiên nhiên, cây cỏ
có mặt trong tranh lại nói về bản sắc văn hóa dân tộc Dao, họ quan niệm mọi
vật đều có linh hồn và những hình ảnh con vật, phong cảnh kia được tạo hình
gần giống như ở tranh thờ miền núi, nó được vẽ chồng tầng để biểu hiện
không gian, những hình ảnh đó mang tinh thần tâm linh nhiều hơn là mang
tinh thần hiện thực cuộc sống. Về mặt tạo hình, trong tranh của Đinh Thị
Thắm Poong là những hình ảnh trong ký ức của chị được thể hiện ra trên
tranh nên những bức tranh của chị thể hiện cuộc sống đã có trong nội tâm họa
sĩ. Rồi bản sắc văn hóa dân tộc còn được thể hiện ở bức tranh H’Mong
fashion. Sống giữa những quan niệm hà khắc của cộng đồng nhưng người dân
tộc H’Mong vẫn cảm thấy thoải mái, việc đó được thể hiện ở tình cảm vui vẻ
của những cô gái dân tộc đang xúng xính trong những chiếc váy sặc sỡ.
Những công việc hàng ngày của con người dân tộc miền núi trong ký ức cũng
theo ngòi bút của họa sĩ mà hiện ra, đó là những công việc trồng trọt, chăn
nuôi và chăm sóc gia đình. Hình ảnh những bà mẹ vừa địu con trên lưng vừa
làm công việc trồng trọt trên nương rẫy biểu hiện cái nhìn so sánh về phụ nữ ở
đô thị và miền núi. Nếu như ở đô thị hay đồng bằng, người phụ nữ sau khi
sinh con có thể ở nhà để bồi dưỡng sức khỏe, nhưng những phụ nữ dân tộc
miền núi không thể nghỉ ở nhà mà họ phải đi làm công việc nặng nhọc sau
sinh ít ngày. Điểm này biểu hiện thái độ không bằng lòng của họa sĩ về quan
niệm cổ hủ với cuộc sống của những người phụ nữ. Tranh rich Hues of life II
(H.33, Tr.101). Ngoài ra còn có nhiều tranh có yếu tố biểu hiện về bản sắc
59
văn hóa dân tộc như tranh Cuộc sống đẹp mãi vững bền, tranh Sự nỗ lực…
Tranh Cuộc sống đẹp mãi vững bền (H.34, Tr.101) chỉ ra rõ thêm về cách
người dân tộc thiểu số làm việc trên nương rẫy, vừa làm vừa địu con, những
lúc họ không địu con trên lưng thì họ lại đeo gùi, mặt lúc nào cũng cúi xuống.
Hình ảnh này gợi ý lên tưởng đến sự cam chịu số phận của con người, họ chịu
đựng đến nỗi họ quên đi mình là ai trong cuộc đời này và tại sao họ phải chịu
những hà khắc của luật tục trong bản sắc văn hóa. Như vậy, với cách diễn họa
hình phẳng cho nhân vật trong tranh, họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong cũng đã
nêu được trạng thái tâm lý của con người trong tranh của mình, sự kết hợp
phương pháp tạo hình vừa có hơi hướng tả thực, vừa có sự chủ động trang trí
cũng là một khía cạnh về nghệ thuật biểu cảm tâm lý đã có trong lý thuyết tạo
hình của khuynh hướng hội họa Biểu hiện. Yếu tố biểu hiện trong tranh của
Đinh Thị Thắm Poong là biểu hiện về thái độ sống, quan niệm sống và bản
sắc văn hóa của người dân tộc thiểu số.
Tiểu kết
Nội dung chương 2 tập trung vào nghiên cứu về yếu tố biểu hiện trong
tranh của cả ba họa sĩ, hình thái, đặc điểm của yếu tố biểu hiện trong tranh.
Trong chương này, yếu tố biểu hiện trong tranh của ba họa sĩ là một thành
phần không thể thiếu để tạo nên tổng thể một tác phẩm, thông qua phương
tiện biểu đạt, yếu tố biểu hiện làm bộc lộ ra cái nhìn nhận, quan điểm, thái độ
của họa sĩ với thế giới bên ngoài, đồng thời bộc lộ ra cái cảm xúc sâu xa nhất
đến từ nội tâm của họa sĩ. Lý Trần Quỳnh Giang bộc lộ ra thế giới riêng tư
của mình, nó cô đơn và nhiều thương tổn. Bên cạnh sự cô độc trong cuộc đời
mình, Lý Trần Quỳnh Giang mong muốn, khát khao một thế giới tự do tràn
đầy hạnh phúc cho những người phụ nữ trong xã hội. Sở trường nghệ thuật
chủ yếu của Lý Trần Quỳnh Giang là tạo hình bằng cách đục, khắc lên những
bản gỗ, hình thể con người khi bị cào xước, khi bị đục khoét, những vết khắc
sâu hay nông giúp chị tạo hiệu ứng về hình khối và những hình tượng trong
60
tranh hầu như chiếm đoạt hết cả diện tích bề mặt tấm gỗ hay tấm toan. Những
con người có khuôn mặt hốc hác, mắt trũng sâu, bàn tay nghều ngào, đôi chân
gân guốc, khô khốc… là những hình ảnh mang đầy dấu hiệu biểu cảm. Họa sĩ
Đinh Ý Nhi thì bộc lộ ra những vấn đề thuộc về nội tâm bên trong con người
chị, con người nói chung, chị thể hiện ra sự tồn tại của cá nhân con người
trong xã hội, nhưng sự tồn tại đó lại nằm trong mối liên hệ đầy sự ngờ vực,
toan tính. Chị tạo hình con người không như vẻ bề ngoài chúng ta thấy trong
đời sống thực, nó là những hình dạng khái quát, khái niệm về số phận, cuộc
đời con người. Đinh Thị Thắm Poong thì thổi vào tranh sự hòa hợp của con
người với tự nhiên và qua đó biểu hiện bản sắc dân tộc hài hòa mềm mại
nhưng cũng rất quyết liệt.
61
CHƯƠNG 3
NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU YẾU TỐ BIỂU
HIỆN TRONG TRANH
3.1. Sự tương đồng và khác biệt về yếu tố biểu hiện trong tranh của
ba nữ họa sĩ
Để thấy được sự tương đồng và khác biệt về yếu tố biểu hiện trong tranh
của ba họa sĩ, điều cần thiết là phải so sánh về cách tạo hình nhân vật, cách
biểu cảm về màu sắc, chất liệu và cách lựa chọn đề tài giữa ba họa sĩ.
3.1.1. Sự tương đồng về yếu tố biểu hiện
*Sự tương đồng về cách chọn nội dung đề tài
Có thê nói, sự tương đồng của ba họa sĩ đều chọn nội dung đề tài đều là
vẽ về cuộc sống của con người, về nội tâm và thái độ sống của con người.Cụ
thể là ba họa sĩ chọn đối tượng là người phụ nữ trong cuộc sống hiện đại. Với
trường hợp của ba họa sĩ Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong và Lý Trần
Quỳnh Giang, có hai họa sĩ thuần phong cách biểu hiện là họa sĩ Đinh Ý Nhi
và Lý Trần Quỳnh Giang. Còn họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong là họa sĩ học hỏi,
kết hợp cả biểu hiện và siêu thực trong sáng tác của mình. Mỗi họa sĩ đại diện
cho giới họa sĩ nữ ở Việt Nam sau thời kỳ Đổi mới, họa sĩ Đinh Ý Nhi có thể
coi như là người đại diện thế hệ đầu cho họa sĩ nữ ở Việt Nam sau Đổi mới,
có những quan niệm mới về hội họa, đó là hội họa ngoài chức năng thẩm mỹ
còn phải có chức năng đánh thức nhân sinh quan. Qua việc ứng xử nghệ thuật
với thái độ nghệ thuật khác lạ, Đinh Ý Nhi nghĩ rằng việc vẽ về những cái
mới hay cái lạ hoặc về hiện thực cuộc sống đến thời điểm này cũng không
quan trọng nữa, hội họa biểu hiện phải biểu hiện ra được tầm nhìn xã hội
rộng hơn, sâu hơn. Tiếp đến là sự góp mặt của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong
và gần đây nhất là họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang.
* Sự tương đồng về biến dạng hình thể con người
62
Về mặt tạo hình nhân vật, bởi cả ba họa sĩ là phụ nữ, nên những vấn đề
về phụ nữ trong xã hội mà họ đang sống dễ được các họa sĩ đồng cảm, các
họa sĩ đã lấy đối tượng trong tranh của mình trước hết là bản thân, sau đó là
những người phụ nữ trong xã hội. Cách tạo hình nhân vật, phụ nữ ở trong
tranh của ba họa sĩ đa phần làm xấu đi vẻ ngoài của người phụ nữ, họ không
muốn nói về cái đẹp của người phụ nữ mà họ muốn nói về hiện thực ẩn chứa
bên trong con người, đặc biệt là phụ nữ. Điều này phù hợp với quan niệm
trong sáng tác của khuynh hướng hội họa Biểu hiện: đó là phải xuất phát từ
bản thân mình, đi vào diễn tả thế giới nội tâm của mình.
*Sự tương đồng về cách sử dụng màu sắc
Họa sĩ Đinh Ý Nhi và họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang đều có cách thể hiện
màu sắc đều là rất ít màu. Sự tương đồng về màu này chủ yếu từ nhu cầu nội
tại trong sáng tác của họa sĩ. ĐinhÝ Nhi chỉ sử dụng sắc độ đen trắng ở những
năm 1995 – 2000 và từ sau năm 2000, màu sắc của chị có sự chuyển biến từ
hai sắc độ đen trắng sang những màu đỏ, chút ánh cam, chút màu hồng da,
màu kem và cũng rất ít màu xanh blue. Bảng màu của Đinh Ý Nhi có sự thay
đổi từ gay gắt chuyển sang dịu nhẹ rồi lại gay gắt và khô khốc… Còn họa sĩ
Lý Trần Quỳnh Giang với những tác phẩm khắc gỗ, tự bản thân tấm gỗ đã có
màu nâu nhạt cho đến đậm, màu tự nhiên và màu đen là màu hóa học được
kết hợp với nhau, khi chuyển sang sơn dầu, họa sĩ cũng chỉ sử dụng rất ít
màu, là những màu xanh gam trầm, hay những gam màu lạnh buốt, hay màu
vàng bủng beo. Còn họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong chọn đề tài vẽ về cuộc sống
của con người với những hoa văn từ văn hóa thêu thùa của đồng bào dân tộc,
chị sử dụng mới nhìn thoáng qua thì có vẻ rất nhiều màu, nhưng về cơ bản
vẫn là những màu nguyên gốc trong bản sắc văn hóa của người dân tộc, là
những sắc độ khác nhau của những màu ấy.
* Sự tương đồng về cách thể hiện chủ đề
63
Nếu như họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang để lại những dấu hiệu về về bản
thể con người mình cùng những cung bậc cảm xúc khá nhau trên tranh của
mình, đa phần những tình cảm ấy được bộc lộ ra là lo lắng, buồn, cảm thấy cô
đơn trong đời sống của mình. Họa sĩ Đinh Ý Nhi bộc lộ ra những lo lắng về
thân phận con người, những dấu hiệu biểu lộ về trạng thái tâm linh bên trong
mình cũng như những cảm nhận về đời sống nội tâm của những con người
trong xã hội. Họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong với niềm yêu thích vẽ về những
con người miền núi và tình cảm bên trong của chị dành cho những con người
nơi quê hương của chị nhưng khi nhận thấy cuộc sống có những vấn đề phức
tạp gây hậu quả nghiêm trọng cho cuộc sống thì chị tỏ ra lo lắng là nhiều hơn.
Vậy qua phân tích kỹ về cách thể hiện đời sống của con người , nhìn bề ngoài
thì họ có vẻ khác nhau về phong cách thể hiện nhưng thực ra vấn đề bản chất
mà ba họa sĩ này có cùng một điểm tương đồng, đó là cả ba họa sĩ đều hướng
đến tâm linh con người, tức những tình cảm trong nội tâm của mình của con
người nói chung, các họa sĩ đều biểu hiện ra sự lo lắng về cuộc sống của con
người mà đây cũng là một khía cạnh của yếu tố biểu hiện, biểu hiện sự lo lắng
của cá nhân họa sĩ với cuộc sống của con người nói chung.
* Sự tương đồng về bày tỏ thông điệp với xã hội
Sự tương đồng này về cách nhìn nhận của xã hội về số phận con người
và mong muốn được thay đổi cách nhìn nhận cũng như tư duy của xã hội đối
với giới nữ trong xã hội hiện đại. Ví dụ trong tranh của họa sĩ Đinh Thị Thắm
Poong, chị thể hiện ngoài những con người dân tộc miền núi và cuộc sống của
họ trong bản sắc dân tộc ra thì điều mà họa sĩ muốn gửi thông điệp đến xã hội
đó là mong muốn có sự bình đẳng giới giữa những con người trong xã hội
hiện đại, đồng thời chị nói lên thông điệp về sự tồn tại của con người. Họa sĩ
Đinh Ý Nhi truyền tải thông điệp về thái độ sống của con người đang cần phải
lưu tâm, nhất là khi xã hội phát triển thì cũng kéo theo sự bàng quan, vô tâm
của nhiều con người. Họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang biểu hiện thông điệp về
64
đòi hỏi sự tự do cá nhân con người về mọi mặt từ cách sống cho đến đời sống
riêng tư, thông điệp đó đòi hỏi xã hội phát triển thì cũng cần phải thay đổi thái
độ về cách nhìn nhận con người, mong muốn xã hội có những cái nhìn cởi mở
hơn.
3.1.2. Sự khác biệt về yếu tố biểu hiện của ba họa sĩ
* Sự khác biệt về tạo hình nhân vật
Mỗi họa sĩ là một cá thể con người có cá tính khác nhau, môi trường
sống khác nhau và chịu ảnh hưởng của giáo dục khác nhau nên lối tạo hình
trong sáng tác của các họa sĩ này đều mang cái riêng. Họa sĩ Đinh Ý Nhi
thường diễn tả nội tâm bên trong mình cũng như bên trong người phụ nữ của
xã hội, với thái độ nghệ thuật của mình, chị không đi vào diễn tả những vẻ
đẹp quen thuộc của cuộc sống, mà cái đẹp là ở chỗ bản chất của sự vật, khi
vào tranh, nó thể hiện qua sự no đủ của màu. Cho nên chị bóp méo và làm
biến dạng hình người, để cho những hình người ấy khỏa thân để nói cụ thể
hơn về vấn đề tồn tại của con người trong xã hội. Ở phần lớn tranh của chị,
thái độ tình cảm với xã hội là sự lo lắng, không đồng ý với việc đối xử chưa
công bằng với người phụ nữ trong xã hội. Tuy nhiên, điều này chưa phải là lý
do chị tạo hình với lối vẽ biến dạng thân thể con người hay phong cách thể
hiện một cách hoang dại có mục đích. Cách tạo hình biến dạng thân thể con
người đó của chị xuất phát từ sự cảm nhận bản thân mình. Đặc thù tạo hình
trong tranh của Đinh Ý Nhi là chị không vẽ nhiều thứ khác làm phân tán sự
chú ý vào hình thể chính trong tranh. Chị dồn toàn bộ ép buộc người xem phải
được thu hút về vấn đề chị đặt ra trong tranh. Bên cạnh việc biến dạng hình
thể, phép châm biếm, đả kích, phúng dụ cũng xuất hiện trong tranh. Ví dụ
như loạt tranh Câu chuyện Châu Á, chị vừa bóp hình, vừa làm tư thế của con
người có tính giễu cợt, những con người ngồi khỏa thân, thân thể chảy nhão,
lại còn ngồi dạng tè he ra như để trêu ngươi người làm cho cô ta bị tổn
thương. Cũng là làm biến dạng hình người hoặc hư cấu hình ảnh, sự dụng sự
65
ẩn dụ về con người mình nhưng họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang lại tạo hình
nhân vật trong tranh của mình có tâm hồn già nua, xấu xí, điên dại giống như
những linh hồn méo mó lệch lạc, bệnh hoạn, ma quái. Nó được thể hiện ở
những nét khắc đanh sắc, sần sùi, thô nhám và còn bị cào xước điên cuồng…
Những tạo hình đó biểu hiện về bản thể con người họa sĩ, nó có ý nghĩa cá
nhân cao hơn việc tạo ra vẻ đẹp, quan niệm thẩm mỹ vốn được coi là chuẩn
mực trong hội họa truyền thống. Khác với Đinh Ý Nhi và Lý Trần Quỳnh
Giang, họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong có phong cách tạo hình nhân vật là lấy
hình tả ý và tạo hình nhân vật có chức năng kể chuyện. Những hình này đôi
khi không cần phải vẽ hết đầy đủ các chi tiết, những hình này được chắt lọc,
chỉ lấy cái dáng để nói lên tâm trạng của con người. Thêm vào đó, chị kết hợp
yếu tố trang trí và yếu tố siêu thực, kỹ thuật chồng hình nhiều lớp để biểu hiện
sự tồn tại của nhiều không gian, thời gian, thể hiện ý nói về những khoảnh
khắc thời gian được chồng lên nhau theo đã phát triển của cuộc sống.
* Sự khác biệt về cách sử dụng về màu sắc và thể hiện chất liệu khi bộc
lộ ý tưởng
Do việc mỗi họa sĩ là một cá nhân có cá tính riêng, sở trường riêng nên
việc sử dụng màu sắc và cách thể hiện chất liệu cũng khác nhau. Họa sĩ Đinh
Ý Nhi với sở trường là sơn dầu, họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang với chuyên môn
là khắc gỗ, còn Đinh Thị Thắm Poong lại yêu thích sử dụng màu nước trên
giấy Dó. Màu sắc tự bản thân nó không có ý nghĩa gì, nhưng khi ở trong
những trường hợp cụ thể hay cách nó được kết hợp thì nó mang lại giá trị liên
tưởng và biểu cảm cho tác phẩm hội họa. Màu sắc trong tranh Đinh Ý Nhi
không có nhiều, rất kiệm màu. Chỉ có hai sắc độ đen và trắng trong thời kỳ
đen – trắng. Rồi khi chuyển sang vẽ sơn dầu, màu của chị cũng rất khiêm tốn.
Màu của chị không mang vẻ trong trẻo, ngọt ngào, ấn tượng như những
khuynh hướng khác, nó chỉ là những mảng màu đùng đục, vội vã, khô khốc,
đắng ngắt. Màu đỏ thì bầm tím, màu trắng thì cũ nát hoặc màu trắng sắc hồng,
66
trắng sắc xanh chỉ đủ để nhận ra cảm giác ấm áp hay lạnh lẽo. Còn màu trong
tranh của Lý Trần Quỳnh Giang là màu của tấm gỗ cộng với những sắc độ
đen trắng trong những tranh khắc mộc bản hoặc chỉ là những gam màu nâu
trầm, xanh rêu, vàng bệnh hoạn và những mảng trắng cũ kỹ, nhàu nát trong
các tranh sơn dầu. Giữa hai họa sĩ này có một điểm chung về màu sắc trong
diễn tả là không tạo ra những sắc độ tinh tế, tạo độ sâu trong tranh như họa
phái Cổ điển hay Ấn tượng. Sức mạnh biểu cảm tập trung vào độ đậm nhạt
của màu, gợi lên ánh sáng trong chính hình thể như trong tranh trang trí, lối sử
dụng kiệm màu này gợi lên tinh thần nguyên bản của hội họa Biểu hiện. Họa
sĩ Đinh Thị Thắm Poong với niềm yêu thích văn hóa thêu thùa cùng với sự ưa
thích sắc mầu của người dân tộc thiểu số, chị đã thể hiện những màu sắc dịu
nhẹ nhưng cũng có phần yêu đời, yêu cuộc sống. Nhìn tổng thể thì màu sắc
của chị sử dụng trong tranh không giống với những mầu sắc mà hai họa sĩ
Đinh Ý Nhi và Lý Trần Quỳnh Giang đã thể hiện, nhưng xét về bản chất, họa
sĩ Đinh Thị Thắm Poong cũng lợi dụng yếu tố màu để thay lời muốn nói trong
tranh của mình giống như hai họa sĩ kia.
* Sự khác nhau về cách lựa chọn đề tài giữa ba họa sĩ
Ở cả ba họa sĩ việc chọn chủ đề là nói về cảm xúc bên trong của bản thân
mình, về tình cảm bên trong của người phụ nữ, tuy nhiên, mỗi họa sĩ đều chọn
cho mình những đề tài khác nhau. Họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong chọn đề tài
về cuộc sống, sinh hoạt của người dân tộc thiểu số, những đề tài ấy được lan
tỏa ra ở nhiều tác phẩm màu nước trên giấy Dó một cách riêng biệt. Sự lựa
chọn đề tài về cuộc sống, thái độ sống của người dân tộc thiểu số cũng như
bản sắc văn hóa để họa sĩ bộc lộ thái độ tình cảm một cách sâu hơn, rộng
hơn. họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang lựa chọn đề tài về những khía cạnh về đời
sống của bản thân, họa sĩ Đinh Ý Nhi biểu đạt đề tài về tâm hồn, cảm xúc của
mình, của người phụ nữ trước những sự kiện trong cuộc sống và vấn đề về sự
tồn tại của con người trong xã hội hiện đại.
67
3.2. Giá trị của yếu tố biểu hiện trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh
Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong
Một bức tranh gây được cảm xúc cho người xem là một bức tranh có giá
trị nghệ thuật, giá trị nghệ thuật đó nằm ở chỗ kết hợp các yếu tố tạo hình
nghệ thuật một cách hài hòa và “biểu hiện ra được chính họa sĩ, biểu hiện
những gì họa sĩ cho là quan trọng, có ý nghĩa nhất, phản ánh các khía cạnh
khác nhau trong cuộc sống của chính họa sĩ” [37]
Giá trị nghệ thuật của một tác phẩm nghệ thuật hội họa còn là tổng hòa
các giá trị như:
Thứ nhất: tác phẩm có giá trị lịch sử tức vấn đề thời gian, khoảnh khắc
mà sự việc đó diễn ra duy nhất một lần, không có lần thứ hai.
Thứ hai : tác phẩm đó có giá trị về mặt thẩm mỹ.
Thứ ba : tác phẩm đó có giá trị văn hóa.
Với vấn đề đặt ra ở phần này là giá trị nghệ thuật của yếu tố biểu hiện
trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Thị Thắm Poong và Đinh Ý Nhi.Yếu
tố biểu hiện được coi như là một trong những nhân tố làm nên giá trị nghệ
thuật của tác phẩm, nó cũng phải thể hiện ra được những khía cạnh giá trị như
trên đã nêu. Trong những tác phẩm của họa sĩ Đinh Ý Nhi, yếu tố biểu hiện
nói lên được thời mà sự kiện ấy đã diễn ra, nó mang tính lịch sử, thời gian. Ví
dụ tranh Trẻ em trong chiến tranh, tranh thể hiện được khoảnh khắc Việt Nam
một thời đã diễn ra trong chiến tranh, khoảnh khắc mà Đinh Ý Nhi nắm bắt
được cả không khí đau thương bao trùm trên quê hương mình. Về mặt thẩm
mỹ, lối tạo hình không chú trọng vào tả như thật mà tả cái thần thái, không
khí của sự kiện. Cái đẹp trong tác phẩm này là cái đẹp của sự chân thực, đẹp ở
sự điều tiết hình thể cũng như tương quan sắc độ đen trắng, đem lại tương
quan cân bằng về thị giác. Ở tranh Lý Trần Quỳnh Giang, yếu tố biểu hiện là
sự bộc lộ tâm trạng người họa sĩ, đời sống nội tâm của chị. Những dấu hiệu
bộc lộ trạng thái tình cảm, đời sống cá nhân và suy nghĩ của chị về quyền tự
68
do cá nhân mang lại cho tác phẩm những giá trị nghệ thuật riêng, giá trị của
những điều thầm kín nằm sâu bên trong bản thể con người, nó vừa mang dấu
ấn cá nhân vừa để nói lên cái tồn tại chung trong xã hội, mà đó cũng là bản
sắc riêng của họa sĩ.
Trong tranh của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong, người thưởng thức nhận
ra giá trị nghệ thuật ở tác phẩm là bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa riêng của
con người dân tộc miền núi. Giá trị nghệ thuật này lại được xây dựng nên từ
những hình thể, chất liệu, kỹ thuật thể hiện, màu sắc, không gian… Những
dấu hiệu thể hiện tâm trạng của con người trong tranh, sự sắp đặt hình mảng,
màu sắc và cách chồng hình trong tranh của chị giúp cho người xem hiểu rõ
hơn nội dung mà họa sĩ muốn truyền đạt, cảm nhận được tình yêu cuộc sống
của cá nhân họa sĩ cũng như của cộng đồng người dân tộc thiểu số, hiểu hơn
về giá trị lịch sử , thẩm mỹ, văn hóa mà tác phẩm truyền tải tới người xem.
3.3.Vai trò của giới tính trong việc bộc lộ ý tưởng ở tranh của Lý Trần
Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong
Giới tính có vai trò cũng tương đối quan trọng trong sáng tác của họa sĩ,
tùy vào mỗi cá nhân họa sĩ có môi trường sống, quan điểm sống như thế nào
thì giới tính và tính cách cũng có dấu ấn trên tác phẩm của họ. Có họa sĩ là
nữ giới nhưng với cá tính mạnh mẽ như họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang thì cái
mạnh mẽ ấy vẫn toát lên giới tính nữ trong tranh của chị, hay như họa sĩ Đinh
Ý Nhi là phụ nữ, nếu đã gặp được chị ở ngoài đời thực, không ai nghĩ một
người phụ nữ có nét giản dị, nhẹ nhàng như chị mà chị lại sáng tác những
bức tranh phản ánh phê phán xã hội mạnh mẽ như vậy. Giới tính và cá tính
của họa sĩ là hai khía cạnh khác nhau trong bản thể mỗi con người, nó gần
như không giống nhau, tuy nhiên với mỗi người họa sĩ dưới góc nhìn giới tính
của mình thì những sự việc liên quan đến giới tính của mình dễ được họa sĩ ở
giới đó chú ý và đưa những trải nghiệm ấy lên tác phẩm. Như vậy rõ ràng với
giới tính khác nhau thì tạo hình nghệ thuật ở mỗi giới là khác nhau. Sự khác
69
biệt này ở chỗ là các họa sĩ Đinh Ý Nhi, Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Thị
Thắm Poong là phụ nữ nên họ rất hiểu được tình cảm ẩn chứa bên trong đời
sống của người phụ nữ. Có ý tưởng về cuộc sống, tâm tư tình cảm của người
phụ nữ, nên tranh của họ đầy chất nữ tính. Những đức tính của người phụ nữ
hiện đại vẫn hiện lên trong tạo hình về người phụ nữ, nó thể hiện sự dịu dàng,
duyên dáng, đức hy sinh, vị tha, tính khiêm tốn, giàu tình cảm và yêu thương.
Xuất phát từ lòng yêu thương con người, đặc biệt là thân phận của những
người phụ nữ, các họa sĩ cảm thấy xót xa, lo lắng cho cuộc sống của họ khi
những người phụ nữ chưa được đánh giá đúng mực vai trò hay sự thiếu bình
đẳng trong đối xử. Ngược lại, những họa sĩ nam như họa sĩ Lê Quảng Hà, họa
sĩ Vũ Thăng, họa sĩ Nguyễn Xuân Tiệp, Doãn Hoàng Lâm cảm thấy lo lắng
cho cuộc sống của con người trong xã hội hiện đại ở phạm vi rộng hơn và
dưới góc nhìn của họa sĩ nam. Họa sĩ Lê Quảng Hà thì bộc lộ sự lo lắng của
mình về xã hội đầy chiến tranh, bạo lực, sự thú tính của con người nên việc sử
dụng nhân tố biểu hiện để bộc lộ ý tưởng biến tranh của mình như là một tấm
gương, để tất cả mọi người soi xét lại bản thể con người mình. Cách tạo hình
nghệ thuật trong tranh của họa sĩ Lê Quảng Hà thể hiện khí chất của nam giới
ở chỗ là họa sĩ vẽ những hình khối góc cạnh, sắc nét, tính hay nóng giận, khó
kiềm chế cảm xúc, dễ bùng nổ của người đàn ông cũng được đưa vào tranh.
Những hình thể gợi ý về con người trong tranh của họa sĩ Lê Quảng Hà
thường xuyên ở trạng thái trợn ngược con mắt, những con mắt ấy có thể nổ
bất cứ lúc nào. Sự mạnh mẽ, hay nóng giận của nam giới còn được thể hiện ở
màu sắc làn da, khi con người nóng giận thì đỏ mặt tía tai, đôi khi là thâm tím
cả mặt. Ví dụ tranh Liên minh (H.36, Tr.103) Họa sĩ Vũ Thăng có hiểu biết
sâu sắc về cuộc sống của người dân tộc thiểu số ở vùng Sa Pa, họa sĩ đưa
những biểu tượng trong văn hóa của người dân tộc thiểu số hoặc những hình
ảnh mang tính nguyên thủy, cổ xưa vào tranh của mình. Qua những tác phẩm,
tác giả biểu hiện khí chất người nam giới mạnh mẽ, người đàn ông, nam giới
70
trong tranh của họa sĩ là người chăm lo, bảo đảm sự an toàn cho cả cộng
đồng. Tính cách người nam giới trong tranh của họa sĩ Vũ Thăng được thể
hiện qua những nét vẽ dứt khoát nhưng cũng rất lãng mạn. Màu sắc của họa sĩ
thiên về những màu gợi lên khí chất anh hùng của dân tộc. Họa sĩ Nguyễn
Xuân Tiệp sử dụng yếu tố biểu hiện để bộc lộ ý tưởng về sự khát khao sống
trong một thế giới an nhiên tự tại, cuộc đời con người ở thế giới này chỉ là cõi
tạm. Sự biểu hiện đầy chất nam tính được thể hiện trong các tác phẩm của họa
sĩ, đó là khí chất của người trí nhân, quân tử, thể hiện thái độ điềm đạm hòa
nhã với cuộc sống để tự mình đi đến con đường đạt “Đạo”, “Thân Thần hợp
nhất”. (H.40, Tr.105). Như vậy, mỗi họa sĩ là một con người có cá tính riêng,
nhân cách riêng, thông qua việc sử dụng những nhân tố biểu hiện mang chất
giới tính riêng nên việc bộc lộ ra những ý tưởng nghệ thuật trong tranh của
các họa sĩ cùng là khác nhau. Điều đó chỉ ra yếu tố về giới tính cũng quan
trọng trong hội họa biểu hiện và giúp cho họa sĩ một cơ sở nền tảng trong việc
bộc lộ ý tưởng.
3.4. Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài
Qua quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi đã có một số hiểu biết nhất định
về mặt lý luận và mặt thực tiễn. Về mặt lý luận, đó là những hiểu biết về quan
niệm tạo hình của chủ nghĩa biểu hiện, các đặc trưng riêng, trên cơ sở nghiên
cứu yếu tố biểu hiện của ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và
Đinh Thị Thắm Poong, tôi đã nhìn nhận được sự phát triển của hội họa biểu
hiện sang hướng mới hơn so với truyền thống của hội họa biểu hiện đã có.
Phần tư tưởng nghệ thuật cốt lõi của hội họa biểu hiện là thể hiện về tình cảm,
trạng thái cảm xúc của tác giả, mọi vấn đề bên trong của con người, đó là
những vấn đề về tâm linh, nội tâm của họa sĩ, những trạng thái cảm xúc bên
trong của họa sĩ phong phú và đa dạng, nó thể hiện phần nào đời sống của họa
sĩ. Những cung bậc cảm xúc qua tranh của họa phái biểu hiện trở nên rõ ràng,
cụ thể, đưa người xem đi đến cảm nhận được trực tiếp cảm xúc của họa sĩ một
71
cách nhanh chóng. Với quan niệm là vẽ về thái độ, tình cảm bên trong của
con người mà không quan tâm tới hiện thực bên ngoài nên việc vẽ cho giống
hình ảnh thực tế là không có giá trị, giá trị nghệ thuật của tác phẩm hội họa
biểu hiện là nó thể hiện được đúng thật trạng thái tâm linh một cách đơn giản
nhất nhưng mang lại nhiều cảm xúc nhất, trực tiếp và nhanh nhất. Do đó hội
họa biểu hiện phải chắt lọc hết những gì không có giá trị biểu cảm ra khỏi
ngoài tranh mà tập trung vào những yếu tố gây được sự biểu cảm mạnh nhất.
Yếu tố gây ra sự biểu cảm mạnh nhất ấy được gọi là yếu tố biểu hiện, là một
yếu tố quan trọng nhất để tạo ra giá trị cảm xúc của tác phẩm. Đương nhiên,
để nhận ra được những yếu tố biểu cảm có trên tranh, thì người xem phải tìm
thấy những dấu hiệu dẫn dắt cảm xúc ấy. Đó là sự kết hợp ngôn ngữ của hội
họa gợi ra sự liên tưởng, kỹ thuật thể hiện, phương pháp trình bày nội dung và
ý tưởng. Yếu tố biểu hiện trong tranh có thể được coi như là cầu nối giữa họa
sĩ và người thưởng thức, người họa sĩ sử dụng các phương tiện nghệ thuật để
truyền đạt cảm xúc của mình về những trải nghiệm mà họa sĩ đã gặp tới người
xem tranh, người xem tranh dựa vào những dấu hiệu thể hiện cảm xúc ấy để
biết được ý tưởng cũng như nội dung sáng tạo của họa sĩ. Tuy nhiên, với
người xem là người được giáo dục nghệ thuật và có những kiến thức nhất
định thì việc nhận ra được ý tưởng trong bức tranh có yếu tố biểu hiện khá là
dễ dàng, còn người chưa được hoặc ít được giáo dục mỹ thuật nếu họ muốn
hiểu được ý tưởng thì họ chỉ hoàn toàn vào trực giác cũng như vốn sống của
họ. Điểm mới lạ, độc đáo về giá trị nghệ thuật hội họa của ba họa sĩ Lý Trần
Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong ở chỗ là các họa sĩ này
đã tạo ra được ra giá trị đại chúng, bình dân, tinh thần đương đại trong tác
phẩm của mình. Các tác phẩm của ba họa sĩ này vừa để bộc lộ cảm xúc nội
tâm cá nhân, vừa biểu hiện thông điệp cá nhân đối với xã hội, đồng thời tạo ra
được giá trị bình dân, phù hợp với mọi tầng lớp xã hội, đây chính là tinh thần
Đương đại trong thời đai ngày nay.
72
Tiểu kết
Thông qua tác phẩm của ba nữ họa sĩ Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm
Poong và Lý Trần Quỳnh Giang, có thể thấy điểm tương đồng và khác biệt về
cách sử dụng yếu tố biểu hiện trong tranh, sự tương đồng ở chỗ là đều vẽ ra
hình ảnh thật bên trong tâm hồn của người phụ nữ, hình ảnh này nói lên trái
tim của người phụ nữ bao giờ cũng yếu đuối, dễ bị tổn thương. Điểm khác
biệt là các họa sĩ này có cá tính riêng, quan niệm về cuộc sống riêng và có
cách nhìn nhận cuộc sống không giống nhau nên họ tạo ra sự khác biệt về
cách thể hiện yếu tố biểu hiện trong tác phẩm. Chính những sự khác nhau này
đem lại vẻ độc đáo, và giá trị nghệ thuật trong tranh của các họa sĩ có tính độc
nhất, riêng nhất và thật nhất với đời sống riêng của từng họa sĩ. Yếu tố giới
tính cũng góp phần tạo ý tưởng và thể hiện ý tưởng trong tranh của các họa sĩ
này. Yếu tố giới tính, được coi như nền tảng để họa sĩ xây dựng ý tưởng và
thể hiện ra trên tác phẩm. Từ góc nhìn của phụ nữ đối với xã hội, các họa sĩ
này đã thay mặt cho phụ nữ để cất tiếng nói, tỏ thái độ với xã hội, đòi hỏi xã
hội phải có sự thay đổi về cách nhìn nhận giá trị của người phụ nữ và phải
thay đổi cả những quan niệm về quyền tự do con người, trong đó có quyền tự
do của người phụ nữ hoặc quyền tự do cho những người thuộc giới tính thứ
ba.
73
KẾT LUẬN
Yếu tố biểu hiện là một yếu tố làm chỉ rõ ra thái độ tình cảm của con
người, trong khuynh hướng hội họa biểu hiện, những yếu tố này giúp cho
người xem cảm nhận được về thái độ tình cảm bên trong nội tâm của họa sĩ.
Những dấu hiệu chỉ ra những cung bậc trạng thái tình cảm, tâm trạng của họa
sĩ hay của con người ở trong tranh gọi là yếu tố biểu hiện. Nếu như xu hướng
hội họa biểu hiện trên thế giới là họa sĩ tỏ thái độ với xã hội hiện đại và
những vấn đề còn tồn tại trong nó thì những họa sĩ vẽ theo xu hướng Biểu
hiện hoặc bán Biểu hiện ở Việt Nam cũng vậy, các họa sĩ nhìn thấy vấn đề
con người đang là vấn đề lớn trong xã hội hậu hiện đại và muốn bày tỏ thái độ
lo lắng, không bằng lòng của mình, nói lên tiếng nói cá nhân để mong có sự
thay đổi trong tư duy và cách nhìn nhận vấn đề. Khi đối diện và cảm nhận
thấy những đau khổ hay hạnh phúc của con người trong xã hội, các họa sĩ
biểu hiện Việt Nam đã truyền cảm xúc ấy lên những tác phẩm của mình. Nhờ
vào những yếu tố biểu hiện này mà người thưởng thức nhận ra được thế giới
trong tâm hồn người nghệ sĩ, nhận ra được thái độ tình cảm của họa sĩ với bên
ngoài và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Hội họa biểu hiện ở Việt Nam tuy
chưa phát triển mạnh thành trào lưu nhưng đã có những họa sĩ đã xây dựng
được cho mình một tiếng nói riêng. Đối với ba nữ họa sĩ Lý Trần Quỳnh
Giang, Đinh Thị Thắm Poong và Đinh Ý Nhi, trước hết, chủ đề xuyên suốt
trong sáng tác của các chị là phụ nữ và cuộc sống của họ. Cả ba người đều là
những họa sĩ vẽ theo khuynh hướng biểu hiện hoặc có yếu tố Biểu hiện như
họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong. Mỗi họa sĩ là một cá nhân con người khác
nhau, Đinh Ý Nhi thể hiện mối quan tâm về vấn đề sự tồn tại của con người
trong xã hội hiện đại. Lý Trần Quỳnh Giang vẽ về cái tôi bản thể và sự cô đơn
trong cuộc sống. Đinh Thị Thắm Poong thể hiện tình yêu cuộc sống của con
người và bản sắc văn hóa dân tộc. Nhờ vào cách sử dụng ngôn ngữ hội họa
74
mà các họa sĩ đã biểu hiện được những thái độ, tình cảm của mình cũng như
bộc lộ thế giới nội tâm, điều đó chứng tỏ cho giá trị nghệ thuật của yếu tố biểu
hiện và cũng là cách mà các họa sĩ tạo được dấu ấn riêng trong nền mỹ thuật
Đương đại Việt Nam. Nghệ thuật biểu hiện đã giúp cho các họa sĩ biểu hiện ra
được vấn đề mà mình quan tâm và biểu hiện ra những mong muốn có sự thay
đổi về cái nhìn của xã hội về vấn đề con người khi xã hội phát triển, hiện đại
thì những vấn đề con người lại bỏ qua và giá trị nhân sinh quan không còn.
75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu sách tiếng Việt
1. Nguyễn Lương Tiểu Bạch (chủ biên) (2005), Mỹ thuật Việt Nam hiện đại,
Viện Mỹ thuật – Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
2. Cồ Thanh Đam (2008), Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Mỹ
thuật.
3. Nguyễn Văn Đính, Đặng Thái Hoàng, (2006), Giáo trình lịch sử nghệ
thuật, Nxb Xây dựng.
4. Trần Độ(1988), Đổi mới và chính sách xã hội văn hóa, Nxb TP Hồ Chí
Minh.
5. Bùi Như Hương, Phạm Trung (2003), Nghệ thuật đương đại Việt Nam
1990 – 2000, Nxb Tri Thức.
6. Nguyễn Văn Linh(1989), Đổi mới để tiến lên, Nxb sự thật
7. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ
thông, Nxb Giáo dục.
8. Hoàng Phê(2006) Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học.
9. Nguyễn Quân (1982), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại, Nxb Văn
hóa.
10. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1996), Họa sĩ trẻ Việt Nam, Nxb Mỹ
thuật.
11. Nguyễn Quân(2010), Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, Nxb Mỹ thuật.
12. Trần Văn Tâm (2007), Giáo trình lịch sử nghệ thuật, Nxb Đà Nẵng.
13. Trần Đình Thọ, Phước Sanh, Triệu Thúc Đan (1985), Một số vấn đề mỹ
thuật, Nxb Văn Hóa.
14. Đào Mai Trang (biên soạn) (2010), 12 Nghệ sĩ mỹ thuật đương đại Việt
Nam, Nxb Thế giới.
15. Nguyễn Trân (1995), Nghệ thuật đồ họa, Nxb Mỹ thuật.
76
16. Nguyễn Trân (2005), Các thể loại và loại hình mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật,
Hà Nội.
17. Nguyễn Quang Uẩn (1998), Tâm lý học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
18. Viện Mỹ Thuật - Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam ( 2008), Nghệ thuật
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
Tài liệu sách nước ngoài
19. Dida Jaki (biên dịch : Minh Chi) (2007), Từ nội tâm hướng ra bên ngoài,
Nxb Văn hóa Sài Gòn.
20. E.H. Gombrich ( biên dịch Lê Sỹ Tuấn ), Câu truyện nghệ thuật, Nxb văn
nghệ Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 1998.
21. Kandinsky (biên dịch: Phạm Long) (2014 ), Về cái tinh thần trong nghệ
thuật & đặc biệt trong hội họa, Nxb Mỹ thuật.
22. Vương Hoằng Lực (2014) (biên dịch Võ Mai Lý), Nguyên lý của hội họa
đen trắng, Nxb Mỹ thuật.
23. Nobert Wolf (2014), Expressionism, Nxb Tachen.
24. ORCVIRK – STINSON – WIGG – BONE – CAYTON (biên dịch: Lê
Thành) (2006), Những nền tảng của Mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật.
Tài liệu tạp chí, khóa luận, luận văn và website:
25. Nguyễn Việt Hà( 2015), Đinh Ý Nhi và những khoảng tĩnh lặng,
www.antgct.com.vn
26. Trang Thanh Hiền (2009), Tranh Đinh Ý Nhi và câu chuyện hậu hiện đại,
Tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật – số 299.
27. Bùi Thị Hương (2007), Đinh Thị Thắm Poong - người con của núi rừng,
Báo nhân dân, ngày 22 - 8 – 2007.
28. Bùi Như Hương (2009), Lý Trần Quỳnh Giang độc thoại cùng thời gian,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật sô 299, tháng 5/2009.
29. Đỗ Tường Linh(2010), lặng lẽ với thiên nhiên, http://thethaovanhoa.vn.
77
30. Trần Thị Hương Ly (2013), Khóa luận: Cá tính qua sáng tác hội họa của
ba nữ họa sĩ Việt Nam: Đinh Thị Thắm Poong, Đinh Ý Nhi, Lý Trần
Quỳnh Giang, Trường Đại học Mỹ Thuật Việt Nam.
31. Đặng Đình Nguyên (2012), Luận văn: Tính biểu hiện của hình thể trong
hội họa, Trường Đại học Mỹ Thuật Việt Nam.
32. Lê Văn Sửu(2014) Yếu tố trang trí trong tranh 3/9/2014, trang 4
33. ĐàoVân(2010) Cảm nỗi buồn của Lý Trần Quỳnh Giang, \\http\www hanoimoi.com.vn
Tài liệu website:
34. https://nguyendinhdang.wordpress.com/
35. http://www.theartstory.org/
36. http://vhnt.org.vn
37. https://www.wikiart.org
78
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN XUÂN NGỌC
YẾU TỐ BIỂU HIỆN TRONG TRANH CỦA LÝ TRẦN QUỲNH
GIANG, ĐINH Ý NHI VÀ ĐINH THỊ THẮM POONG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)
Mã số: 60210102
Khóa: 18 (2015 - 2017)
PHẦN PHỤ LỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRANG THANH HIỀN
Hà Nội – 2017
79
PHẦN PHỤ LỤC ẢNH
Phụ lục Chương 1: …………………………………………….….….….....80
Phụ lục Chương 2: .........................................................................................84
Phụ lục Chương 3:.........................................................................................103
80
PHỤ LỤC 1
MỘT SỐ TÁC PHẨM HỘI HỌA TRÊN THẾ GIỚI THỂ HIỆN
YẾU TỐ BIỂU HIỆN
Hình 1: Edward Munch, The Scream - Tiếng thét (1983), Tempera và phấn
màu (91x 73,5cm). Nguồn ảnh: http://www.theartstory.org
81
Hình 2: Ernst Ludwig Kirchner, The Sodier Potrait – Chân dung tự họa của
người lính (1915), Sơn dầu trên toan (69x 61cm).
Nguồn ảnh: http: www.theartstory.org
82
Hình 3: Wassily Kadinsky, Blue Mountain (1910), Sơn dầu (82x 66cm).
Nguồn ảnh: https://www.wikiart.org
Hình 4: Ernst Ludwig Kirchner, The Young artist – nghệ sĩ trẻ (1910),
Sơn dầu trên toan (69 x 61cm). Nguồn ảnh: https://www.wikiart.org
83
Hình 5: Willem de Kooning, Phụ nữ (1949/50), Màu men và phấn trên toan
(59.8 x 41.4cm). Nguồn ảnh: https://www.wikiart.org
84
PHỤ LỤC 2
MỘT SỐ TÁC PHẨM THỂ HIỆN YẾU TỐ BIỂU HIỆN
TRONG TRANH CỦA BA NỮ HỌA SÍ VIỆT NAM:
ĐINH Ý NHI, LÝ TRẦN QUỲNH GIANG, ĐINH THỊ THẮM POONG.
Một số tác phẩm của họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang
Hình 6: Lý Trần Quỳnh Giang, Tôi (2004), Khắc gỗ (100x 100cm).
Nguồn ảnh: http://tiasang.com.vn/-van-hoa/phe-binh-van-hoc-nu-quyen-2707
85
Hình 7: Lý Trần Quỳnh Giang, Bà ta (2007), Khắc gỗ.
Nguồn ảnh: www.Soi.com.vn
86
.
Hình 8: Lý Trần Quỳnh Giang, Những cành mệt mỏi (2007), Khắc gỗ.
Nguồn ảnh: www.Soi.com.vn
Hình 9: Lý Trần Quỳnh Giang, In the room I – Trong căn phòng (2007),
Sơn dầu trên toan (70cm x 90cm).
Nguồn ảnh: www.artvietnamgallery.com.vn
87
Hình 10: Lý Trần Quỳnh Giang, Đồ chơi (2009), Khắc gỗ bản (103x 78cm).
Nguồn ảnh: [6, Tr.92]
Hình 11: Lý Trần Quỳnh Giang, Bản tin (2010),
Sơn dầu trên toan (120x 150cm). Nguồn ảnh: [6, T.r 94]
88
Hình12: Lý Trần Quỳnh Giang, Ốm (2007), Khắc gỗ (84x 80cm).
Nguồn ảnh: [23, Tr.187]
Hình 13: Lý Trần Quỳnh Giang, Tiểu đường (2007), Khắc mộc bản.
Nguồn ảnh: www.Soi.com.vn
89
Hình 14: Lý Trần Quỳnh Giang, Tiểu đường (2007)
Nguồn ảnh: www.Cucgalery.com.vn
Hình 15: Lý Trần Quỳnh Giang, Chiều (2007), Khắc gỗ.
Nguồn ảnh: www.Soi.com.vn
90
Hình 16: Lý Trần Quỳnh Giang, Solitary World – dưới lớp da (2009),
Khắc gỗ bản (99x 75cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.91]
Hình 17: Lý Trần Quỳnh Giang, Sleeping season 1 – Mùa ngủ (2009),
Khắc gỗ (98x 72cm). Nguồn ảnh: www.Soi.com.vn
91
Hình 18: Lý Trần Quỳnh Giang, Mẹ bơi trong nước (2007),
Khắc gỗ bản (30x 100cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.89]
92
Hình 19: Lý Trần Quỳnh Giang, Người người ngộm ngợm (2010),
Sơn dầu. Nguồn ảnh: [6, Tr.94]
93
Một số tác phẩm của họa sĩ Đinh Ý Nhi
Hình 20: Đinh Ý Nhi, Fate 1 - Số phận 1,(1990) bột màu trên giấy,
Nguồn ảnh: http://thptchuyenlamson.vn
Hình 21: Đinh Ý Nhi, Thế giới nội tâm Đinh Ý Nhi VI (2002),
Sơn dầu (164x 123cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.151]
94
Hình 22: Đinh Ý Nhi, Bảo vệ 3 (2008), Sơn dầu (140x 87cm).
Nguồn ảnh: [6, Tr.152]
95
Hình 23: Đinh Ý Nhi, Bảo vệ 13 (2008), Sơn dầu (140x 87cm).
Nguồn ảnh: [6, Tr. 152]
Hình 24: Đinh Ý Nhi, Security 11- Bảo vệ 11 (2009), Sơn dầu (96x 80cm).
Nguồn ảnh [6, Tr.152]
96
Hình 25: Đinh Ý Nhi, Những niềm vô hạn bị bỏ quên (2011),
Sơn dầu (170x 120cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.154]
97
Hình 26: Đinh Ý Nhi, Chân dung người Châu Á (2008),
Bột màu trên giấy (50x 37cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.152]
98
Một số tác phẩm của họa sĩ Định Thị Thắm Poong.
Hình 27: Đinh Thị Thắm Poong, Hóa thành hoa (2006),
Mầu nước trên giấy dó (60x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.167]
Hình 28: Đinh Thị Thắm Poong, Dấu chân (2007),
Mầu nước trên giấy dó (110x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.168]
99
Hình 29: Đinh Thị Thắm Poong, Dòng suối (2007),
Mầu nước trên giấy dó (110x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.168]
Hình 30: Đinh Thị Thắm Poong, Hai nửa (2007),
Mầu nước trên giấy dó (110x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.169]
100
Hình 31: Đinh Thị Thắm Poong, Khuôn khổ gia đình (2010),
Mầu nước trên giấy dó (110x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.169]
Hình 32: Đinh Thị Thắm Poong, Cây đu đủ (2010),
Mầu nước trên giấy dó (60x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.166]
101
Hình 33: Đinh Thị Thắm Poong, Cuộc sống sung túc (Rich Hues of life II)
(2012), Màu tự nhiên trên giấy dó (80x 60cm).
Nguồn ảnh: www. artvietnamgallery.com
Hình 34: Đinh Thị Thắm Poong, Cuộc sống đẹp mãi vững bền (2010),
Mầu nước trên giấy dó (110x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.170]
102
Hình 35: Đinh Thị Thắm Poong, Sự nỗ lực (2010),
Mầu nước trên giấy dó (110x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.170]
103
PHỤ LỤC 3
Hình 36: Lê Quảng Hà, Liên minh (2008), Sơn mài (100x 240cm).
Nguồn ảnh: [6, Tr.104]
Hình 37: Lê Quảng Hà, Người máy (2007), Sơn mài (100x 80cm).
Nguồn ảnh: [6, Tr.103]
104
Hình 38: Vũ Thăng.
Nguồn ảnh: http://mythuathaiphong.blogspot.com
Hình 39: Vũ Thăng, Người ngồi, Sơn mài (70x 70cm).
Nguồn ảnh: http://mythuathaiphong.blogspot.com
105
Hình 40: Nguyễn Xuân Tiệp. Nguồn ảnh: www.vietnamfineart.com
Hình 41: Nguyễn Xuân Tiệp. Nguồn ảnh: www.vietnamfineart.com
106
Hình 42: Nguyễn Xuân Tiệp. Nguồn ảnh: www.vietnamfineart.com