BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN XUÂN NGỌC

YẾU TỐ BIỂU HIỆN TRONG TRANH CỦA LÝ TRẦN QUỲNH

GIANG, ĐINH Ý NHI VÀ ĐINH THỊ THẮM POONG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Hà Nội – 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN XUÂN NGỌC

YẾU TỐ BIỂU HIỆN TRONG TRANH CỦA LÝ TRẦN QUỲNH

GIANG, ĐINH Ý NHI VÀ ĐINH THỊ THẮM POONG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa) Mã số: 60210102 Khóa: 18 (2015 – 2017)

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRANG THANH HIỀN

Hà Nội – 2017

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Nxb TS PGS Tr. H Nhà xuất bản Tiến sĩ Phó giáo sư Trang Hình

1

MỤC LỤC

Trang

Bảng chữ cái viết tắt

Mục lục ............................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .... 12

1.1. Khái niệm về “Yếu tố Biểu hiện trong tranh” ......................................... 12

1.2. Những yếu tố cơ bản của ngôn ngữ hội họa và vai trò của nó trong

khuynh hướng hội họa Biểu hiện ................................................................... 14

1.3. Khái quát về chủ nghĩa Biểu hiện trên thế giới và bối cảnh của sự xuất

hiện phong cách hội họa Biểu hiển ở Việt Nam ........................................... 19

1.4. Khái quát về tạo hình nghệ thuật của ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang,

Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong ............................................................ 25

Tiểu kết ............................................................................................................ 28

CHƯƠNG 2. NGHIÊN CỨU YẾU TỐ BIỂU HIỆN TRONG TRANH CỦA

LÝ TRẦN QUỲNH GIANG, ĐINH Ý NHI VÀ ĐINH THỊ THẮM POONG

......................................................................................................................... 30

2.1. Yếu tố biểu hiện trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang ............................... 30

2.2. Yếu tố biểu hiện trong tranh Đinh Ý Nhi ................................................ 40

2.3. Yếu tố biểu hiện trong tranh Đinh Thị Thắm Poong ............................... 52

Tiểu kết ............................................................................................................ 59

CHƯƠNG 3. NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU YẾU TỐ

BIỂU HIỆN TRONG TRANH ...................................................................... 61

3.1. Sự tương đồng và khác biệt về yếu tố biểu hiện trong tranh của ba nữ họa

sĩ ..................................................................................................................... 61

3.2. Giá trị của yếu tố biểu hiện trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý

Nhi và Đinh Thị Thắm Poong.........................................................................67

3.3.Vai trò của giới tính trong việc bộc lộ ý tưởng ở tác phẩm của Lý Trần

Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong ................................... 68

3.4. Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài ............................................ 70

Tiểu kết ........................................................................................................... 72

KẾT LUẬN .................................................................................................... 73

2

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 75

PHẦN PHỤ LỤC ........................................................................................... 78

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Khi đứng trước một tác phẩm hội họa, người xem thường nảy sinh tình

cảm hoặc một cảm xúc nào đó, họ thấy hay, thấy được ý tưởng và nội dung

của tác phẩm thông qua cách trình bày trên tranh. Hội họa ngoài khả năng tạo

ra hiệu quả thị giác còn có thể nảy sinh được hiệu quả tâm lý đối với người

xem tranh. Như vậy khi xem tranh, người thưởng thức bị tác động tâm lý bởi

hình thức và nội dung bức tranh.

Nghệ thuật hội họa là nghệ thuật của sự kết hợp các yếu tố như màu sắc,

đường nét, hình mảng, không gian… , các họa sĩ dùng các yếu tố ấy để thể

hiện ý tưởng của mình. Với vai trò của mình, ngôn ngữ của hội họa giúp cho

họa sĩ biểu đạt ra được cảm xúc, nó được coi như là một yếu tố hình thành

nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Một khía cạnh khác làm nên giá trị nghệ

thuật trong tác phẩm là sự biểu cảm của ngôn ngữ hội họa có được gọi là một

yếu tố hay không, giá trị của nó như thế nào trong tác phẩm hội họa. Để trả

lời cho câu hỏi này thì phải nghiên cứu tập trung vào hội họa Biểu hiện vì nó

chỉ rõ ra được giá trị của yếu tố biểu cảm trong tranh. Song, để nhìn thấy

được giá trị của yếu tố biểu hiện thì cần phải nghiên cứu những tác phẩm của

họa sĩ cụ thể.

Nếu như ở trên thế giới, các họa sĩ Biểu hiện sự lo lắng, bất an trước

những vấn nạn của xã hội hiện đại thì các họa sĩ Biểu hiện Việt Nam cũng thể

hiện thái độ của mình vào tranh với tính chất tương tự , các họa sĩ cũng thể

hiện sự lo lắng của mình về thời đại mà họ đang sống. Lịch sử xuất hiện của

hội họa Biểu hiện ở Việt Nam từ sau thời kỳ đổi mới, năm 1986, khi đất nước

mở cửa để phát triển. Điều này làm cho nền mỹ thuật Việt Nam trở nên phong

phú hơn . Ở giai đoạn từ 1990 – 1995, phong cách trong sáng tác hội họa của

các họa sĩ Việt Nam chủ yếu là Biểu hiện – trừu tượng. Những họa sĩ vẽ theo

4

lối biểu hiện và đã có những thành công nhất định. Những họa sĩ yêu thích và

tìm tòi, thể nghiệm theo khuynh hướng Biểu hiện hoặc có yếu tố Biểu hiện

trong tranh ở Việt Nam giai đoạn sau Đổi mới như họa sĩ Lê Quảng Hà, Doãn

Hoàng Lâm, Lê Anh Quân, Nguyễn Xuân Tiệp, Vũ Thăng… Trong đó ba nữ

họa sĩ tiêu biểu là Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong và Lý Trần Quỳnh

Giang. Điểm đặc biệt ở nghệ thuật của ba nữ họa sĩ này là đều sử dụng ngôn

ngữ của hội họa Biểu hiện để nói lên vấn đề lo lắng hoặc khát vọng của con

người trong thâm tâm của mình một cách mạnh mẽ nhất, trực tiếp nhất. Chính

những cách sử dụng chất liệu, ngôn ngữ của hội họa biểu hiện của ba họa sĩ

trong các tác phẩm là những dấu hiệu bộc lộ tình cảm, thái độ, cảm xúc trong

nội tâm của mình, nó cũng được coi như là một yếu tố tạo nên giá trị nghệ

thuật trong tranh của ba họa sĩ này. Đây cũng là lý do ba họa sĩ này được

chọn cho đề tài nghiên cứu.

Nghiên cứu về các tác giả cũng đã có khá nhiều bài viết, bài báo giới

thiệu về những sáng tác của họ, nêu lên phong cách vẽ biểu hiện của họ. Tuy

nhiên, nghiên cứu chuyên biệt về yếu tố biểu hiện trong tranh của ba họa sĩ

Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong và Lý Trần Quỳnh Giang thì chưa có

công trình nào đặt vấn đề sâu sắc và thấu đáo.

Vì những lý do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài Yếu tố biểu hiện trong

tranh của Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong làm

đề tài nghiên cứu.

5

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Để nghiên cứu đề tài Yếu tố biểu hiện trong tranh của Lý Trần Quỳnh

Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong cần phải phân loại, phân tích,

tổng hợp những công trình nghiên cứu về nghệ thuật biểu hiện, những công

trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử mỹ thuật ở Việt Nam giai đoạn sau đổi

mới 1986 và các bài viết về ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi,

Đinh Thị Thắm Poong. Các bài viết về ba họa sĩ này đã có nhiều, tuy nhiên

cho đến nay chưa có một công trình nào tập trung nghiên cứu chuyên biệt. Cụ

thể là về vấn đề Yếu tố biểu hiện trong tranh của Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh

Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong.

Về các công trình nghiên cứu bối cảnh lịch sử mỹ thuật Việt Nam giai đoạn

sau đổi mới 1986:

Lịch sử mỹ thuật luôn song hành với lịch sử xã hội. Ở Việt Nam giai

đoạn sau đổi mới, mỹ thuật đã có những thay đổi, nhưng lý do nào đưa đến sự

thay đổi này thì phải kể đến lịch sử đất nước trước và sau năm 1986. Điều này

được thể hiện trong các cuốn sách Đổi mới để tiến lên của Tổng bí thư

Nguyễn Văn Linh [6]; sách Đổi mới và chính sách xã hội văn hóa của tác giả

Trần Độ[4]. Ở sách Đổi mới để tiến lên hay Đổi mới và chính sách xã hội văn

hóa chỉ ra lý do nền mỹ thuật Việt Nam có sự thay đổi so với trước đó, có sự

giao lưu trở lại với những nền mỹ thuật trên Thế giới.

Với bối cảnh lịch sử như vậy thì cũng có một số công trình nghiên cứu

về mỹ thuật Việt Nam giai đoạn sau đổi mới, nghiên cứu và chỉ ra sự thay đổi

trong mỹ thuật giai đoạn này. Các cuốn sách đó như: Họa sĩ trẻ Việt Nam của

tác giả Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng [10]. Cuốn sách này đã đưa ra được

yếu tố quan trọng thúc đẩy Hội họa Việt Nam giai đoạn 1990 – 1995. Sách

nói về xu hướng sáng tác của họa sĩ trẻ Việt Nam ở giai đoạn 1990 – 1995 là

Biểu hiện – Trừu tượng, trong đó chỉ ra lối vẽ biểu hiện là một thủ pháp, giá

trị của nghệ thuật tạo hình theo lối biểu hiện nằm ở giữa bút pháp và nội

6

dung, hoàn toàn xuất phát từ nội tâm của họa sĩ. Cũng trong sách này, họa sĩ

Đinh Ý Nhi được nêu là ví dụ cho họa sĩ trẻ những năm 1990 – 1995 có

phong cách sáng tác theo khuynh hướng biểu hiện.

Cuốn Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20 của tác giả Nguyễn Quân được xuất

bản năm 2010 [11], đã đề cập đến sự phát triển về Hội Họa với phong cách

mới, xu hướng làm việc độc lập của nghệ sĩ trong tình hình chung của lịch sử

mỹ thuật Việt Nam. Thực chất, đây cũng chỉ là một cuốn sách khái quát

chung về mỹ thuật Việt Nam trong thế kỷ 20 nên việc khảo cứu sâu riêng về

hội họa biểu hiện là không thể. Nhưng công trình này đã đưa đến một cái nhìn

tổng quan nhất về tiến trình phát triển của mỹ thuật Việt Nam từ sự tác động

của xã hội đến việc định hình phong cách.

Về mặt những kiến thức liên quan đến hội họa biểu hiện và những yếu tố hội

họa có những công trình sau:

Cuốn Giáo trình lịch sử nghệ thuật của tác giả Trần Văn Tâm [12] giới

thiệu sự ra đời của chủ nghĩa biểu hiện vào giai đoạn thế kỷ 20. Sách này nói

đến trường phái biểu hiện với đặc điểm dùng bảng màu rực rỡ, nội dung tập

trung sâu vào tình cảm, bút pháp bạo liệt, nội dung nói về sự bất bình và phản

ánh xã hội, có phần đau thương, mất mát.

Cuốn Giáo trình lịch sử nghệ thuật của tác giả Đặng Thái Hoàng,

Nguyễn Văn Đính [3] nói về chủ nghĩa Biểu hiện đề cao tính chủ quan của

người nghệ sĩ, đề cao việc diễn tả tinh thần, tình cảm cá nhân. Trong đó việc

mô tả lại sự vật ấn tượng trước mắt đều không quan trọng, chủ nghĩa Biểu

hiện phải thể hiện một sự trần trụi của sự chân thực, phải thể hiện trạng thái

chủ quan và được tự do phá vỡ cấu trúc của hình thể. Khuynh hướng hội họa

biểu hiện tại Đức có hai nhóm đại diện tiêu biểu là nhóm Cây Cầu (được

thành lập ở Dresden năm 1905 và giải thể năm 1913) và nhóm Kỵ Sĩ Lam.

Qua cách phân tích tác phẩm cụ thể, sách chỉ rõ tư tưởng sáng tác trong

khuynh hướng biểu hiện có sự thống nhất với nhau, nhưng cách thể hiện khác

7

nhau ở mỗi họa sĩ. Tư tưởng chung của khuynh hướng biểu hiện ở Đức là thể

hiện tình cảm bên trong nội tâm của họa sĩ. Đó là thể hiện sự lo lắng hoặc sự

khát khao, phải thể hiện bản chất của sự việc mà nó là sự thật theo đúng

nghĩa. Ý đồ sáng tạo nghệ thuật và cách thể hiện hoàn toàn do sự chủ quan

của người nghệ sĩ ấn định. Hai cuốn sách Giáo trình lịch sử nghệ thuật của

tác giả Trần Văn Tâm và sách Giáo trình lịch sử nghệ thuật của tác giả Đặng

Thái Hoàng, Nguyễn Văn Đính đã chỉ ra được lịch sử hình thành của chủ

nghĩa Biểu hiện cũng như một số đặc trưng của hội họa biểu hiện.

Về sự xuất hiện của ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị

Thắm Poong được nói đến trong các cuốn sách và bài viết:

Cuốn Nghệ thuật đương đại Việt Nam 1990 – 2010 [5], nói về các nghệ

sĩ đương đại Việt Nam, trong đó có nói về ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang,

Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong. Ba họa sĩ này được giới thiệu khái quát

về nghệ thuật của họ và sự nghiệp sáng tác. Ở cuốn sách này, Lý Trần Quỳnh

Giang được giới thiệu là một họa sĩ hướng nội, lấy hình ảnh bản thân để thể

hiện trên tác phẩm, bất chấp những gì bên ngoài cuộc sống của mình nhưng

lại thỏa mãn với thế giới riêng biệt của họa sĩ để rồi họa sĩ thể hiện lên những

tác phẩm của mình với phong cách biểu hiện, bộc lộ ra cái tôi nguyên bản,

bộc lộ sự cô độc, trống rỗng. Bên cạnh Lý Trần Quỳnh Giang, họa sĩ Đinh Ý

Nhi được nói tới là một họa sĩ có lối vẽ ào ạt, tự nhiên, nhiều khi là sơ khai.

Và hội họa của Đinh Ý Nhi là hội họa bản năng mà mang sức biểu cảm mãnh

liệt, khẳng định về sự tồn tại của con người trong xã hội hiện đại, một xã hội

tiến bộ về văn minh vật chất nhưng chẳng vì thế mà quyết được vấn đề tinh

thần của con người, dường như con người vẫn đang chịu thương tổn, đau khổ,

man dại, quay cuồng bức bối. Họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong vẽ tranh với cảm

xúc con người sống hòa mình vào với tự nhiên, dày đặc các motif trang trí,

đan lồng hình ảnh với những yếu tố siêu thực. Tranh của Đinh Thị Thắm

8

Poong có sự hồn nhiên cùng niềm vui sống của tộc người thiểu số ở bờ bên

kia của xã hội hiện đại.

Những luận văn và khóa luận liên quan đến đề tài nghiên cứu:

Khóa luận Cá tính qua sáng tác hội họa của ba nữ họa sĩ Việt Nam:

Đinh Thị Thắm Poong, Đinh Ý Nhi, Lý Trần Quỳnh Giang của tác giả Trần

Hương Ly [27]. Khóa luận này nghiên cứu về cá tính qua sáng tác hội họa

của ba họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong, Đinh Ý Nhi, Lý Trần Quỳnh Giang,

phần nội dung của khóa luận chỉ nói về biểu hiện cá tính của ba họa sĩ, cũng

như phong cách của ba họa sĩ này mà không nói đến nghiên cứu yếu tố biểu

hiện trên tranh của ba họa sĩ.

Luận văn Tính Biểu hiện của hình thể trong hội họa của tác giả Đặng

Đình Nguyên [28] nói về tính biểu hiện của hình thể trong hội họa, tuy không

nói gì đến ba nữ họa sĩ này, nhưng đã chỉ ra được những vấn đề cơ bản của

biểu hiện, tính biểu hiện của hình thể trong hội họa, giúp cho người viết luận

văn này có thêm sự hiểu biết về khả năng biểu đạt nội dung bằng hình thể

trong hội họa, qua đó đối chiếu về tính biểu hiện trong tạo hình của ba họa sĩ

Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong.

Ngoài những sách, luận văn, khóa luận như trên đã nêu còn có những bài

viết trên một số tạp chí, trang web có uy tín như tạp chí Văn hóa nghệ thuật

của Bộ văn hóa, thể thao và du lịch, Tạp chí Mỹ thuật của hội Mỹ thuật Việt

Nam nói về yếu tố, biểu hiện cũng như giới thiệu về ba họa sĩ này. Trên tạp

chí Văn hóa nghệ thuật cũng có các bài viết về ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh

Giang, Đinh Ý Nhi. Trong bài viết Tranh Đinh Ý Nhi và câu chuyện hậu hiện

đại được in trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 299 tháng 5/2009 của nhà phê

bình mỹ thuật Trang Thanh Hiền [26], họa sĩ Đinh Ý Nhi nói tới giá trị của

con người bên trong cái vỏ ngoài và sự lo lắng nội tâm về quan hệ giữa những

con người trong xã hội. Điều đó được nhận ra trong loạt tác phẩm Câu chuyện

Châu Á Cũng ở tạp chí Văn hóa nghệ thuật , bài viết Lý Trần Quỳnh Giang,

9

độc thoại cùng thời gian của tác giả Bùi Như Hương, số 304, tháng 10 năm

2009 [28], giới thiệu về họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang như là một họa sĩ tạo ra

bước ngoặt trong lĩnh vực tranh in khắc gỗ ở Việt Nam. Họa sĩ chọn ngôn ngữ

nghệ thuật theo khuynh hướng Biểu hiện, chị sáng tác tranh từ những vấn đề

nội tâm bên trong của chị, về những ám ảnh ốm đau bệnh tật, về sự sống và

cái chết… có phần hoang tưởng, ảo giác và siêu thực. Trong bài viết Đinh Ý

Nhi và những khoảng tĩnh lặng trên trang antgct.com.vn ngày 01/ 06/ 2015

[24] có ý nói đến cách vẽ của họa sĩ Đinh Ý Nhi vẫn luôn vẽ từ nội tâm của

mình, vẫn biểu hiện những biểu cảm của cuộc sống, biểu hiện khát vọng bên

trong con người mình, biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân và cuộc sống và

biểu hiện những thân phận người trong đời sống đương đại. Trong bài viết

Đinh Thị Thắm Poong - người con của núi rừng trên báo nhandan.com.vn,

ngày 22/8/2007 [27], họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong được giới thiệu là họa sĩ,

người con của núi rừng, chị thể hiện tình yêu cuộc sống, gắn bó với núi rừng

của con người vào trong tác phẩm của mình, chị thể hiện trong tác phẩm của

mình không phải chỉ là cái nhìn về cuộc sống của con người dân tộc, mà đằng

sau đó còn nói lên câu chuyện của đất nước. Qua những tác phẩm, Thắm

Poong thể hiện thái độ, tình cảm của mình với thiên nhiên, với đất nước, với

con người. Hội họa đã giúp cho chị biểu hiện ra những thái độ và tình cảm

của cá nhân chị, chị cũng mong truyền cảm xúc của mình tới người xem. Bài

Cảm nỗi buồn của Lý Trần Quỳnh Giang trong “Này, ốm à” trên báo

hanoimoi.com ngày 27/12/ 2010 của tác giả Đào Vân [31] viết về triển lãm

này của họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang. Vẽ về nỗi buồn trong tranh của họa sĩ

một phần bị chi phối bởi cá tính bên trong con người chị: thích sống lặng lẽ

và ẩn mình. Việc cô đơn của họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang khiến chị thoải

mái, đặc biệt là trong sáng tác. Bài Đinh Thị Thắm Poong: lặng lẽ với thiên

nhiên trên báo Thể thao & Văn hóa (thethaovanhoa.vn) ngày 25/04/2010 của

tác giả Đỗ Tường Linh [29]. Bài viết này là một bài phỏng vấn với họa sĩ

10

Đinh Thị Thắm Poong nhân dịp họa sĩ triển lãm tranh chủ đề Hòa nhập với

thiên nhiên, họa sĩ khẳng định đề tài chị ưa thích là thiên nhiên và cuộc sống,

qua triển lãm này, chị muốn thể hiện quy luật của tự nhiên và phản ánh những

vấn đề của môi trường hiện tại.

Tóm lại, vấn đề nghiên cứu về nghệ thuật biểu hiện và nghiên cứu về các

tác giả Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong đã có nhiều công trình nghiên cứu,

song vấn đề nghiên cứu về Yếu tố biểu hiện trong tranh của Lý Trần Quỳnh

Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong chưa có công trình nào nghiên

cứu chuyên biệt, điều này là cơ sở cũng như là sự gợi mở để tôi mạnh dạn đưa

ra việc tìm hiểu nghiên cứu về nội dung này.

3. Mục đích nghiên cứu của luận văn

Nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong tranh của ba họa sỹ, Lý Trần Quỳnh

Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, thể hiện qua nội dung và hình

thức của các tác phẩm. Từ những phân tích trên luận văn sẽ rút ra những nhận

định về sự tương đồng và khác biệt về yếu tố biểu hiện trong tranh của nữ họa

sĩ. Chỉ ra những đóng góp của ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi

và Đinh Thị Thắm Poong trong mỹ thuật Việt Nam đương đại, rút ra những

bài học kinh nghiệm cho bản thân từ việc nghiên cứu này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong các sáng tác

hội họa của Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong.

- Phạm vi nghiên cứu: Một số tác phẩm tiêu biểu có yếu tố biểu hiện của

ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong giai

đoạn sau năm 2000 đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong tranh của Lý Trần Quỳnh Giang,

Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, luận văn này sử dụng các phương pháp

sau:

11

- Phương pháp nghiên cứu văn bản học: hệ thống, thống kê từ các nguồn

tư liệu, phân tích tài liệu và tổng hợp tài liệu. Hệ thống, tổng hợp các tư liệu

ảnh, văn bản về yếu tố, yếu tố biểu hiện, về các họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang,

Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, về mỹ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới.

- Phương pháp so sánh: So sánh hình thức thể hiện của các họa sĩ khác

cũng vẽ biểu hiện để chỉ ra được ba họa sĩ này dùng hình thức nghệ thuật như

thế nào, mục đích gì.

- Phương pháp liên ngành: Để thấy rõ được yếu tố biểu hiện được bộc lộ

ra như thế nào trong tranh của Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị

Thắm Poong, luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử mỹ thuật,

mỹ học, tâm lý học.

6. Những đóng góp của luận văn

- Luận văn tổng hợp hệ thống các công trình, bài viết liên quan đến yếu

tố biểu hiện trong nghệ thuật hội họa.

- Luận văn làm sáng tỏ về những yếu tố Biểu hiện trong tranh của ba họa

sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong.

- Luận văn đưa ra những nhận định sự tương đồng và khác biệt về yếu tố

biểu hiện trong tranh của ba nữ họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi,

Đinh Thị Thắm Poong.

- Đóng góp của luận văn về mặt thực tiễn làm tài liệu nghiên cứu cho

việc giảng dạy và sáng tác trong các trường đào tạo nghệ thuật ở địa phương.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn bao gồm phần mở đầu (09 trang), nội dung (56 trang), kết luận

(02 trang). Phần nội dung của luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Những vấn đề chung để nghiên cứu đề tài (16 trang).

Chương 2: Nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong tranh của ba nữ họa sĩ (29

trang).

Chương 3: Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài (11 trang).

Ngoài ra luận văn còn có tài liệu tham khảo (02 trang), phụ lục ảnh minh

họa (26 trang).

12

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Khái niệm về “Yếu tố Biểu hiện trong tranh”

Để xác định khái niệm “Yếu tố Biểu hiện trong tranh”, ta cần làm rõ

khái niệm “Yếu tố”, “Biểu hiện”. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn

ngữ học [10], “Yếu tố” là: “1. Bộ phận cấu thành một sự vật, sự việc, hiện

tượng. 2. Như nhân tố”. Theo định nghĩa này, yếu tố được hiểu là chi tiết,

thành phần cấu tạo nên một sự vật, hiện tượng. Nói cách khác, yếu tố là một

thành phần của một toàn thể. Yếu tố có thể hiểu là điều kiện để tạo nên một

sự vật, hiện tượng bởi yếu tố còn được giải thích là nhân tố, yếu tố cần thiết

gây ra, tạo ra. Trong nghệ thuật hội họa, đồ họa, tác phẩm được hợp thành bởi

nhiều yếu tố như chất liệu tạo ra tác phẩm, kỹ thuật thể hiện, tâm trạng của

chủ thể sáng tạo và sự phối hợp các đường nét, hình khối, màu sắc, sắc độ…

Đây là những yếu tố cơ bản trong tác phẩm và chất lượng nghệ thuật của tác

phẩm được tạo nên từ việc sử dụng và kết hợp hài hòa giữa các yếu tố [32,

Tr.4]

Cũng theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì “Biểu hiện”

có nghĩa là “tỏ ra, để lộ ra”. Còn trong Từ điển Thuật ngữ mỹ thuật phổ thông,

“Biểu hiện” có nghĩa là những dấu hiệu (cử chỉ, hành động bên ngoài hay

trong nội tâm) thể hiện một tình cảm hay một sự xúc động nào đó [8, Tr 27].

Biểu hiện và biểu cảm thường mang ý nghĩa giống nhau. Trong hội họa, biểu

hiện là họa sĩ bộc lộ, biểu đạt một dạng cảm xúc, nội dung tư tưởng nào đó

thông qua (từ) hình thức của tác phẩm. Trong lịch sử mỹ thuật thế giới, phong

cách biểu hiện là những thuật ngữ được dùng để chỉ những ý tưởng nghệ thuật

sử dụng hình thể, đường nét thái quá hoặc màu sắc lạ thường, nhằm bộc lộ

ngay được cảm xúc của họa sĩ với đối tượng.

13

“Yếu tố biểu hiện” là yếu tố tạo ra những dấu hiệu thể hiện về tình cảm,

cảm xúc, tâm trạng, trạng thái tâm lý của con người. Nó có vai trò to lớn, làm

tăng thêm vẻ xúc động về sự vật, sự việc, trong mỹ thuật yếu tố biểu hiện

được bộc lộ qua ngôn ngữ hội họa, sự kết hợp bút pháp và kỹ thuật thể hiện

để tác phẩm nghệ thuật gây được xúc cảm tới người xem, tác động tới người

thưởng thức. “Yếu tố biểu hiện trong tranh” được hiểu là những dấu hiệu

bộc lộ tâm trạng, trạng thái tình cảm, cảm xúc trong tranh mà trong đó, người

nghệ sĩ đã sử dụng tất cả những phương pháp, ngôn ngữ hội họa, kỹ thuật để

thể hiện. Yếu tố biểu hiện được bộc lộ qua ngôn ngữ hội họa, sự kết hợp bút

pháp và kỹ thuật thể hiện để tác phẩm nghệ thuật gây được xúc cảm tới người

xem, tác động tới người thưởng thức.

Một tác phẩm nghệ thuật hội họa là tổng hòa của sự kết hợp ý tưởng,

nội dung và cách thể hiện ý tưởng trên tranh. Trong tác phẩm hội họa luôn có

sự đồng hành của nội dung và hình thức. Ở phần hình thức, nghệ sĩ sử dụng

những hiểu biết về mặt tạo hình và kỹ năng làm chủ chất liệu của mình để

đem đến cho người xem sự hấp dẫn về mặt thị giác. Qua đó, người xem có thể

cảm nhận được những cảm xúc, hiểu được những ý tứ sâu xa, tiếp nhận được

những thông điệp được thể hiện bằng hình thể, màu sắc, không gian mà họa sĩ

muốn bộc lộ, truyền tải. Những sự thể hiện ngôn ngữ của hội họa, kỹ thuật

trên tranh là những dấu hiệu giúp người xem cảm nhận rõ hơn ý đồ của họa sĩ

muốn trình bày. Cụ thể, trong khuynh hướng hội họa biểu hiện, sự vận dụng

cách thể hiện ngôn ngữ hội họa cho phép họa sĩ truyền đạt trực tiếp cảm xúc,

tình cảm, thái độ, ý tưởng tới người xem một cách chân thực nhất, nhanh

nhất. Nếu như ở trường phái Ấn tượng, người xem cảm nhận được những ấn

tượng của sự vật trước mắt mà họa sĩ đã trải nghiệm thì ở khuynh hướng hội

họa biểu hiện, họa sĩ không đi sâu vào diễn tả cái Ấn tượng trước mắt mà

muốn đưa người xem đến tiếp cận với những tình cảm bên trong con người,

cảm xúc và thái độ của mình. Để đưa người xem chạm tới những cảm xúc sâu

14

sắc và chân thực nhất của mình, họa sĩ biểu hiện phải thể hiện ngôn ngữ hội

họa một cách chọn lọc, cô đọng nhất, hình thể, đường nét, màu sắc phải mang

tính tượng trưng, biểu tượng. Chẳng hạn, để cảnh báo một vấn đề giao thông

thì con người phải cô đọng hình vẽ trên biển báo để ai cũng có thể hiểu được

một cách dễ dàng nhất, nhanh chóng nhất. Ví dụ trên tác phẩm The Scream –

Tiếng Thét [H.1, Tr81] của họa sĩ Edvard Munch, sự sử dụng mảng màu đỏ,

cam, xanh lam là mảng hình lớn chứa nhiều nét vận động xoắn vặn cộng với

việc bóp méo hình thể, diễn tả một con người đang hét trên cầu nhằm biểu lộ

ra cảm giác căng thẳng thần kinh trong con người. Chính cách thể hiện đó là

dấu hiệu cho người thưởng thức biết được tâm trạng của họa sĩ, nội tâm của

họa sĩ. Với tranh của ba nữ họa sĩ Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, Lý

Trần Quỳnh Giang, yếu tố biểu hiện được thể hiện qua cách tạo hình, kỹ thuật

thể hiện, kỹ năng sử dụng chất liệu để giúp người xem cảm nhận được cảm

nhận được cảm xúc bên trong nội tâm của tác giả, hiểu được ý đồ có trong nội

dung của bức tranh. Cụ thể là những vấn đề về con người và cuộc sống được

các họa sĩ quan tâm, hiểu được suy nghĩ, tình cảm của họa sĩ và vấn đề họa sĩ

muốn nói. Như vậy trong tranh vẽ thuộc khuynh hướng biểu hiện, họa sĩ phải

vận dụng tất cả những phương pháp thể hiện, kết hợp các ngôn ngữ của hội

họa để bộc lộ ý tưởng cá nhân và sáng tạo ra những dấu hiệu mang tính biểu

cảm nhất để người xem cảm nhận được ý tưởng, nội dung một cách dễ hiểu

nhất, tác động tới người xem một cách hiệu quả nhất.

1.2. Những yếu tố cơ bản của ngôn ngữ hội họa và vai trò của nó trong

khuynh hướng hội họa biểu hiện

Nghệ thuật tạo hình biểu thị và truyền đạt những cảm xúc thẩm mỹ trước

hiện thực thông qua ngôn ngữ riêng. Các yếu tố cơ bản của ngôn ngữ hội họa

là: đường nét, hình mảng, màu sắc, đậm nhạt, chất cảm … Có thể nói những

yếu tố này là phương tiện giúp họa sĩ truyền đạt được ý tưởng, cảm xúc của

mình với người xem.

15

* Đường nét

Đường nét là một yếu tố quen thuộc trong nghệ thuật tạo hình, nó là một

dấu hiệu tượng trưng cho một tiết diện của của mảng hoặc khối, tách rời một

sự vật với không gian xung quanh … Đường nét là một khái niệm được kết

hợp bởi hai yếu tố “ đường” và “nét”.

Đường nét là thủ pháp biểu hiện của hội họa, rất đa năng, do con người

sáng tạo ra.Thị giác của con người đã kết hợp lại cảm quan hình thức của

đường nét với tính năng của sự vật, từ đó dẫn tới muôn vàn liên tưởng, cho

nên, có thể nói “đường nét là biểu hiện sự thống nhất giữa cảm tính thị giác và

lý tính phân tích” [8, Tr 57]. Như vậy tính năng của đường nét là đem đến khả

năng liên tưởng.

Ví dụ như “đường thẳng đứng” tạo cảm giác chắc chắn, cứng rắn, trang

nghiêm…; “Đường thẳng ngang” tạo cảm giác tĩnh lặng, yên bình…; “Đường

chéo, xiên” tạo cảm giác bất ngờ, sống động…; “Đường cong” cho thấy sự

uyển chuyển, mềm mại, duyên dáng hay sự rung động về tình cảm…; “Đường

gẫy, gấp khúc” tạo ra sự chuyển hướng, thay đổi, hỗn loạn hay rạn vỡ….

Những tính chất của đường nét có thể được mô tả bằng những từ thông

thường của cảm giác như trên, nhưng cũng giống như tình cảm của con người

đôi khi khó xác định rõ được đường nét ấy tạo cảm giác gì. Có nhiều sự thay

đổi tinh tế được họa sĩ biểu đạt qua đường nét vì vậy nhiều khi người xem và

họa sĩ cũng cần có những kinh nghiệm thị giác tương đồng ở một mức độ nào

đó. Đường nét vừa giúp người xem phân biệt được ranh giới giữa các hình,

vừa giúp người xem phân biệt được không gian trong tranh. Nếu sử dụng linh

hoạt đường nét kết hợp với những diện mảng thích ứng sẽ làm tăng hiệu quả

biểu hiện của hình thể trong tranh.

* Hình và nền

Hình và nền cũng đóng vai trò quan trọng trong thực hành nghệ thuật tạo

hình. Hình: có tính nhô nổi, mật độ cao, có cảm giác đầy, chặt, có hình dạng

16

rõ ràng, có đường bao hoặc đường ranh giới. Nền: có tính lùi sau, mật độ

thấp, không có cảm giác đầy chặt, hình dạng tương đối rời rạc, không có

đường ranh giới cố định. Tóm lại, hình có tính ngưng tụ, đem lại cho người ta

ấn tượng mạnh; nền thì ngược lại [25, Tr 43]. Trong hội họa, còn có sự phân

chia hình và mảng, hình mảng gợi ra hình thể của sự vật được thể hiện trên

tranh. Hiệu quả của hình mảng là gợi ra sự liên tưởng đến sự vật với tính chất

như thế nào, hình mảng trong tranh có thể gợi ra được ý nghĩa nhất trên cơ sở

sử dụng ít thông tin nhất.

* Màu sắc

Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn luôn tiếp xúc với màu sắc,

với sự đa dạng và phong phú của nó. Màu sắc cũng là một yếu tố phổ biến và

rất được xem trọng trong hội họa. Khi đứng trước một bức tranh người ta

thường bị lôi cuốn bởi màu sắc hơn là các yếu tố khác, nó có tính hấp dẫn và

kích động ghê gớm đến thị giác của chúng ta. Sự nhận biết về màu thường

gắn liền với các hiệu quả tâm lý, cảm xúc do màu tạo ra. Màu sắc tác động rất

phức tạp, tinh vi và rất nhạy vào tâm lý tạo ra xúc cảm, liên tưởng, xây dựng

nên tình cảm trong con người một cách mạnh mẽ. Tâm lý màu dựa trên những

thói quen thị giác không ổn định của con người về màu. Mỗi dân tộc, trong

quá trình lịch sử phát triển của mình, do điều kiện khí hậu, tự nhiên, tư tưởng,

tập tục văn hóa… đã dần tạo nên một tâm lý màu riêng biệt , độc đáo, có tính

bản sắc. Mỗi con người cũng vậy, tâm lý màu cũng được hình thành do kinh

nghiệm màu trong quá trình cuộc sống. Nhưng có một số tác động tâm lý của

màu mang tính quy luật được mọi người, mọi họa sĩ, các nhà nghiên cứu công

nhận đó là:

- Nóng – lạnh

- Xa – gần

- Nặng – nhẹ..

17

Và màu sắc cũng được dùng phù hợp để tạo ra tâm trạng, tượng trưng

cho ý tưởng và thể hiện cảm xúc cá nhân. Ngoài chức năng thẩm mỹ, màu sắc

cũng là một ngôn ngữ tượng trưng. Màu sắc tạo ra tính liên tưởng tùy theo

môi trường văn hóa và kinh nghiệm sống. Ví dụ màu đỏ cho cảm giác nóng,

ấm, nồng nhiệt và kích động trong khi màu xanh gợi ra một tâm trạng buồn bã

hoặc yên ả, nhưng cũng màu xanh mà cường độ màu của nó mạnh mẽ, chói

gắt thì lại tạo ra sự liên tưởng tới sự phấn khích…

Đậm nhạt:

Một yếu tố quan trọng trong hội họa không thể không nói đến đó là đậm

nhạt. Có nhiều lối dùng đậm nhạt trong hội họa tùy vào mục đích của tác

giả.Ở lối dùng đậm nhạt có tính mô tả, họa sĩ thường quan tâm đến việc diễn

tả ánh sáng tác động lên các sự vật, con người theo những quy luật vật lý trên

trái đất và thường chỉ có một nguồn sáng nhất định. Theo đó thì cảm giác

chiều sâu không gian trong tranh như thực với hiện thực trước mắt. Còn ở lối

dùng đậm nhạt mang tính chủ quan thì họa sĩ thường chủ động dùng đậm nhạt

với diện tích tỉ lệ rõ ràng tạo ra những cảm giác khác nhau như: một tác phẩm

có nhiều vùng tối tạo không khí bí ẩn, rung rợn, kịch tính, đe dọa hoặc buồn

thảm trong khi một tác phẩm chủ yếu là vùng sáng sẽ cho hiệu quả ngược lại.

Dùng đậm nhạt chủ quan hơn nhằm để đẩy cao hơn nữa cung bậc cảm xúc nơi

người thưởng thức.

* Chất cảm

Chất cảm thường được sử dụng trong nghệ thuật tạo hình để chỉ khả

năng cảm thụ bề mặt sự vật nói chung (bao gồm cả xúc giác và thị giác) của

nghệ sĩ và hiệu quả cấu trúc bề mặt một tác phẩm mà họa sĩ đã xử lý… Bề

mặt của tác phẩm có những độ gồ ghề, thô ráp hay láng mịn.. để tạo ra hiệu

quả cảm xúc với người xem. Đây cũng là một yếu tố ngôn ngữ của hội họa

nếu được kết hợp khéo léo với hình thể, màu sắc, đậm nhạt sẽ tạo hiệu quả

biểu hiện trực tiếp và mạnh mẽ đến cảm xúc của người xem.

18

Bên cạnh những yếu tố đã nói ở trên, yếu tố bố cục và không gian cũng quan

trọng trong nghệ thuật tạo hình. [31, Tr 30]

*Không gian

Không gian trong nghệ thuật tạo hình thực chất là không gian ảo.

Những hệ thống không gian trong tranh bao gồm: Không giant rang trí, chứa

đựng những hình ảnh có tính chất hình học, gọi chung là không gian hai

chiều. Không gian mang lại cảm giác như thực gọi là không gian ba chiều. Sự

kết hợp của không gian hai chiều và ba chiều tạo cảm giác vừa thực vừa hư,

tạm gọi là không gian “hai chiều rưỡi”. Trong nghệ thuật tạo hình, không

gian dù có là không gian tả thực hay không gian trang trí , nó cũng mang lại

hiệu quả mang lại cảm xúc cho người xem về chiều sâu không gian, tạo cảm

giác về không gian không thực sự tồn tại trên mặt phẳng hai chiều của bức

tranh [31, Tr 30].

*Bố cục

Bố cục là sự sắp xếp hài hòa giữa những hình mảng, màu sắc, đường nét,

không gian trong tranh. Nói cách khác, bố cục là sự sắp xếp tất cả các yếu tố

ngôn ngữ tạo hình để xây dựng một tác phẩm, làm nổi rõ ý đồ sáng tác của

họa sĩ

*Vai trò của yếu tố ngôn ngữ hội họa trong khuynh hướng hội họa Biểu

hiện.

Chủ nghĩa Biểu hiện với đặc trưng đề cao thế giới nội tâm con người,

thể hiện tình cảm, cảm xúc cực đoan bên trong của họa sĩ , thể hiện sự lo lắng

hay khát vọng của họa sĩ đối với xã hội. Cảm xúc chủ quan mạnh mẽ này sẽ

quyết định hình thức của tác phẩm, nó cũng quyết định các yếu tố ngôn ngữ

của hội họa được thể hiện như thế nào trong tranh. Do đó, người ta thường

thấy hình thể con người trong tranh hay có vẻ bị biến dạng thái quá, màu sắc

với cường độ mạnh, nét viền thường dày và đậm. Nét vẽ gãy góc tạo cảm giác

19

kích thích sự xung đột, gợi lên cảm xúc của nghệ sĩ phản ứng lại với những lo

lắng về thế giới hiện đại, về thời đại mà họa sĩ đang sống.

1.3.Khái quát về chủ nghĩa biểu hiện trên thế giới và bối cảnh của sự xuất

hiện phong cách hội họa biểu hiển ở Việt Nam

*Bối cảnh lịch sử của chủ nghĩa Biểu hiện trên thế giới.

Trường phái Biểu hiện là một trào lưu nghệ thuật gây được tiếng vang lớn

xuất hiện trước tiên ở Munich vào khoảng năm 1911 rồi phát triển đồng thời ở

rất nhiều nước Châu Âu. Khuynh hướng biểu hiện đề cao thế giới nội tâm và

những xúc cảm chủ quan độc đáo của người nghệ sĩ, coi thường hiện thực và

đối tượng khách quan của nghệ thuật. Những họa sĩ khởi xướng, gợi ý tưởng

hình thành nên xu hướng nghệ thuật biểu hiện là những họa sĩ thuộc giai đoạn

Hậu ấn tượng tiêu biểu như Cezanne (1839 – 1906), Van Gogh (1853 - 1890)

và Goguin.Van Gogh gợi ý cho biểu hiện là sự bộc lộ cảm xúc cá nhân thông

qua nét vẽ chuyển động và màu sắc rực rỡ. Cezan và Gauguin gợi cho biểu

hiện sự cô đọng về hình, sắc màu bản chất của sự vật.

Sau này những nghệ sĩ làm nên khuynh hướng biểu hiện phải kể đến

như: Edvard Munch, Erich Heckel, Chaim Soutine, Ernst Lugwig Kirchner,

Karl Schmid – Rottluff, Franze Marc… Họa sĩ người Na Uy - Edvard Munch

thường được nhắc tới là người đưa hội họa biểu hiện đến với thế giới. Tranh

của Mucnh thường có đề tài là những nỗi lo âu, sợ hãi, đau khổ của con người

với những khó khăn, mâu thuẫn trong cuộc sống, là những nỗi lo lắng của cá

nhân con người trong xã hội Châu Âu mới được hiện đại hóa. Bức tranh nổi

tiếng The scream (H.1, Tr.80) là tiếng nói của Munch, nói về cuộc chiến của

cá nhân con người với xã hội. The Scream đã gợi lên cảm xúc run rẩy của một

cuộc gặp gỡ và thể hiện sự lo lắng chung của thế giới, đồng thời diễn tả xu thế

của xã hội hiện đại về vấn đề con người mất lòng tin, xa lánh nhau, một xã

hội vô cảm.Việc thể hiện người đàn ông đang la hét bị biến dạng, méo mó là

20

một loại cảm xúc phản ứng của con người trong tranh tạo tiền đề cho sự ra đời

của Chủ nghĩa Biểu hiện.

Bên cạnh Edvard Munch, còn có nhiều họa sĩ và những nhóm họa sĩ

thực hiện lối vẽ theo khuynh hướng Biểu hiện. Đó là những nhóm “Cây Cầu”

có đại diện là những họa sĩ Ernst Ludwig Kirchner, Firtz Bley, Karl Schmidt

–Rottluff và Erich Heckel; nhóm “Kỵ Sỹ Lam” với những đại diện Wassily

Kadinsky, Franze Marc, Paul Klee; khuynh hướng Biểu hiện ở Pháp có đại

diện là Rouaull, Soutine, và Chagall; khuynh hướng Biểu hiện ở Áo có đại

diện là Kokoschka và Schiele.

Dưới ảnh hưởng của họa sĩ Edvard Munch, Van Gogh, và họa sĩ James

Ensor, các họa sĩ của nhóm “Cây cầu” đã tìm cách truyền cảm xúc mộc mạc

thông qua những hình ảnh châm biếm về xã hội hiện đại, sự suy đồi trong xã

hội Đức. Trong tranh của nhóm, họa sĩ nhấn mạnh sự thay đổi của xã hội và

sự mất đi tinh thần cá nhân, con người cá nhân trong xã hội. Dưới hình thức

làm biến dạng hình thể, làm méo mó nó, sử dụng màu sắc chói gắt và những

thành phần trái tự nhiên để gợi lên cảm xúc cho người xem. Nhóm “Cây cầu”

thống nhất sử dụng quan niệm thẩm mỹ nguyên sơ, giản dị, sử dụng cách kỹ

thuật trong nghệ thuật khắc gỗ để thể hiện các dạng hình thô nhám, lởm

chởm, tượng trưng cho vẻ nguyên sơ, mộc mạc. Ví dụ tranh Potrait of Sodier

– Chân dung người lính của họa sĩ Ernst Ludwig Kirchner (H.2, Tr.81).

Nhóm “Kỵ sĩ lam” với xu hướng tạo hình hướng tới trừu tượng, họ cố

gắng thể hiện những khía cạnh cảm xúc trong nội tâm con người bằng cách sử

dụng màu sắc có tính tượng trưng. Nội dung của nhóm này đề cập đến trong

các tác phẩm được thể hiện như một phép ẩn dụ cho thực hành nghệ thuật, nó

là biểu tượng cho sự chuyển đổi từ thế giới hữu hình sang lĩnh vực tâm linh.

Có thể dễ dàng nhận thấy tinh thần chủ yếu của hội họa Biểu hiện Đức là cảm

giác nặng nề, cô đơn, lo lắng, bất an, đau khổ hoặc một cảm giác khác như nỗi

buồn vu vơ hay sự khát vọng… Họa sĩ Willem de Konning là người đưa

21

khuynh hướng biểu hiện đi sang một lối đi khác, khuynh hướng Biểu hiện

trừu tượng. Nhưng có thể một bức tranh của họa sĩ như tranh Women (H5, Tr.

83) đã gợi ý cho sáng tác của họa sĩ Đinh Ý Nhi sau này.

Đặc điểm của phong trào nghệ thuật này trong nghệ thuật tạo hình là

thể hiện cái nhìn chủ quan với thế giới xung quanh, nhưng lại bóp méo và làm

biến dạng hình thể để mục đích tạo hiệu ứng về mặt cảm xúc, bộc lộ tâm trạng

của chính cá nhân họa sĩ mà trong đó có khi là mượn hình ảnh thực tế bên

ngoài để nói lên tâm hồn bên trong của mình. Họa sĩ biểu hiện mong muốn

thể hiện ý nghĩa và những trải nghiệm tình cảm. Các tác phẩm của các họa sĩ

Biểu hiện có ấn tượng ngột ngạt hoặc gây hấn, họ vẽ về những thân phận của

con người bi ai. Họa sĩ biểu hiện bộc lộ cái đau khổ về thể xác và tâm hồn của

con người, biểu hiện hoàn toàn bản năng tình dục. Phần lớn nhân vật chính

thường hay chiếm vị trí tiền cảnh hoặc chiếm trọn không gian của tác phẩm.

Cách thể hiện đơn sơ gợi mở đến những vấn đề trầm trọng, bằng sự phóng đại

một số bộ phận cơ thể. Các nhân vật thường được biểu thị bằng cách tạo hình

với những nét gãy góc làm tăng sự gãy góc của cảm xúc. Màu sắc trong

khuynh hướng Biểu hiện thường có những hợp sắc gay gắt, chói lọi và những

sắc độ mờ đục, xỉn, màu đen và màu đỏ nổi trội hơn hết.

Ý tưởng nghệ thuật của khuynh hướng mĩ thuật này nhằm thể hiện thái

độ bất đồng với thế giới đô thị những năm đầu thế kỷ XX, họa sĩ dùng tác

phẩm của mình để coi như những lời chỉ trích mạnh mẽ vào xã hội, tức là

những phản biện xã hội, để phần nào giải quyết các vấn đề trước mắt trong xã

hội đương thời, các nhân vật trong tranh của họ thường là những nhân vật xa

lạ, khác người, là những sản phẩm của quá trình đô thị hóa. Hoặc họ dùng tác

phẩm của mình như là tiếng nói về giá trị của con người và những khoảng

cách phân biệt giữa những con người với nhau trong môi trường đô thị. Như

vậy có thể thấy khuynh hướng hội họa biểu hiện trên thế giới không họa lại

thực tế cuộc sống trước mắt mà tập trung vào diễn tả cảm xúc của con người,

22

vào nội tâm của mình, phản ánh sự lo lắng hoặc khát vọng về thân phận con

người trong xã hội hiện đại của họa sĩ với những vấn đề trong xã hội. Khuynh

hướng hội họa biểu hiện có những tuyên ngôn và triết lý cụ thể nên cũng được

gọi là chủ nghĩa Biểu hiện. Có thể nói chủ nghĩa Biểu hiện xuất phát từ tinh

thần lãng mạn, rất coi trọng cái nhìn riêng, độc đáo của cá nhân, trân trọng

khả năng bộc lộ cảm xúc cực đoan, sự phát triển nội tâm hơn là chỉ quan sát

và thể hiện vẻ bề ngoài của sự vật. Thủ pháp nghệ thuật của khuynh hướng

này thường hay sử dụng đường nét vận động, gãy góc để tăng cảm giác gay

gắt, hình thể được biến dạng… Tất cả những phương pháp, kỹ thuật thể hiện

nội dung nhằm bộc lộ tình cảm, cảm xúc, tâm trạng của họa sĩ, nội tâm của

họa sĩ được coi như là một yếu tố cơ bản, quan trọng của khuynh hướng hội

họa biểu hiện.

* Bối cảnh hội họa Việt Nam thời kỳ Đổi mới và sự xuất hiện ba họa sĩ Đinh

Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, Lý Trần Quỳnh Giang.

Mỗi bối cảnh xã hội của từng thời kỳ lịch sử có một nền nghệ thuật

riêng phù hợp với xã hội lúc đó. Vào đầu thế kỷ 20, khi trên thế giới đã bước

vào một thời kỳ phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của tiến bộ khoa học –

công nghệ và sự hình thành xã hội thông tin như cách mạng tin học, sinh học,

năng lượng, tự động hóa, chế tạo vật liệu mới, khoa học về con người…; công

cuộc toàn cầu hóa kinh tế, cuộc khủng hoảng của xã hội chủ nghĩa hiện thực

là những vấn đề thời đại. Còn ở trong nước kết thúc chiến tranh vào năm

1975, đất nước chuyển dần sang giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước,

chúng ta phải đối mặt với những hậu quả nặng nề và khó khăn thời hậu chiến

tranh, những khuyết điểm, sai lầm trong chỉ đạo, thực hiện đường lối, chủ

trương, chính sách… Đảng và nhà nước ta đã thực hiện cơ chế này kế hoạch

hóa từ năm 1954 – 1986, trong giai đoạn đầu (có chiến tranh) sự phù hợp và

đúng đắn, đáp ứng được yêu cầu của thời chiến. Sau năm 1975, cơ chế đã

không còn phù hợp. Vì vậy Đảng ta đã có những bước đột phá dẫn tới đổi mới

23

và làm chín muồi nhận thức và quyết sách mới. Để Đổi mới, cần phải có

những quan điểm mới và thực hiện chúng. Mỹ thuật Việt Nam giai đoạn này

cũng cần có sự đổi mới. Trước năm 1986, mỹ thuật Việt Nam chủ yếu sáng

tác nghệ thuật phục vụ cổ động, vẽ tranh thiên về chủ đề cách mạng, chủ đề

Công – Nông – Binh... Chỉ đến sau năm 1986, khi đất nước bước vào thời kỳ

Đổi mới để xây dựng và phát triển thì nền mỹ thuật mới được tiếp xúc và giao

lưu trở lại với những khuynh hướng mỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Chính

những quan điểm về Đổi mới đất nước đã tạo nên quan điểm mới trong sáng

tác nghệ thuật nói chung và nghệ thuật tạo hình nói riêng ở Việt Nam.Về mặt

mỹ thuật, đã từng bước chuyển phong cách chủ nghĩa hiện thực sang phong

cách hiện đại và mới mẻ như biểu hiện, lập thể, siêu thực, tượng trưng, pop

art… Sự Đổi mới này trong nghệ thuật Việt Nam được bắt đầu trước hết là

với chủ trương Đổi mới của Đảng và Nhà nước và đây cũng là điều kiện cho

sự có mặt của khuynh hướng hội họa biểu hiện ở Việt Nam. Ở Việt Nam,

khuynh hướng Biểu hiện trong nghệ thuật tạo hình được hình thành trong môi

trường cũng tương tự như sự hình thành khuynh hướng Biểu hiện tại Đức và

Thế giới. Khuynh hướng Biểu hiện xuất hiện ở Việt Nam trước hết là sự trở

lại của sự giao lưu, học hỏi với nền mỹ thuật thế giới với tinh thần là bộc lộ

phản ứng cá nhân của nghệ sĩ về hiện thực cuộc sống xã hội bên ngoài, bộc lộ

nội tâm con người. Là thái độ, tình cảm của họa sĩ về sự thay đổi của xã hội,

của cá nhân con người và thân phận của con người trong xã hội đương thời.

Nhưng đến những năm 1990 trở đi, thế giới lại bước sang giai đoạn khác, giai

đoạn của Cách mạng công nghiệp lần thứ 3, cuộc sống và xã hội có nhiều

biến đổi như phần trên đã nói, xã hội Việt Nam cũng ảnh hưởng cuộc Cách

mạng công nghiệp như vậy. Kỉ nguyên máy móc và số hóa ra đời lại làm cho

con người trở nên bị phụ thuộc vào giá trị của vật chất, của những ảo ảnh, của

những vở kịch xã hội. Lúc này con người lại ở trong tâm trạng hoài nghi và bị

động, con người tôn sùng của cải, vật chất nhiều đến nỗi con người nghi ngờ

24

chính bản thân mình, nghi ngờ về giá trị thật bên trong con người mình và lúc

này bộ mặt của cái Tôi đại diện cho hình ảnh của con người được bộc lộ ra

ngoài. Ở trên Thế giới cũng như Việt Nam, các nghệ sĩ tạo hình nhìn thấy

được những mặt trái của xã hội tiêu thụ, do đó họ phản ánh suy nghĩ của họ

vào tác phẩm nghệ thuật để phần nào phản biện xã hội. Đây cũng là yếu tố cơ

bản trong sáng tác hội họa Biểu hiện. Với cách học hỏi, giao lưu từ những

người đi trước trong khuynh hướng hội họa biểu hiện trên thế giới, họa sĩ vẽ

theo khuynh hướng Biểu hiện ở Việt Nam cũng xây dựng cho mình một lối đi

riêng, lối đi khác biệt. Đó là phong cách cá nhân, chủ đề xuyên suốt và motif

riêng trong cách thể hiện. Về cơ bản là họa sĩ biểu hiện Việt Nam vẫn bộc lộ

ra thái độ tình cảm của mình, cảm xúc của mình, thế giới nội tâm của mình về

thân phận những con người trong xã hội giống như những đặc trưng của

khuynh hướng Biểu hiện trên thế giới. Bằng cách cường điệu hóa bút pháp, sử

dụng kỹ thuật của bột màu, sơn dầu tạt mạnh bút hoặc vẽ nét lỏng lẻo… để

tăng cường cảm xúc về đối tượng trong tác phẩm; của tranh khắc gỗ để tạo ra

những hình ảnh mang tính thô, mộc, gẫy góc… để tạo ra cảm giác gay gắt. Có

họa sĩ lo lắng cho xã hội, họ cảm thấy con người trong xã hội đang bị máy

móc hóa, hoặc mất đi tính người, nhe nanh như những con thú đói, xã hội đầy

rẫy những bạo lực, tình trạng khủng bố, con người như đeo những chiếc mặt

nạ hòng che đậy đi cái Tôi cao, tham lam, độc ác. Vậy nên cách tạo hình cũng

rất khác biệt, cảm giác gay gắt, lo lắng được đẩy lên cao độ, nó được cường

điệu hóa hình thể, bóng loáng, giả tạo, màu sắc thì khét lẹt, cực đoan. Có họa

sĩ thì thấy được đằng sau những vẻ đẹp của người phụ nữ hiện đại là những

tâm hồn khô héo, teo tóp và gai góc, dễ vỡ. Có họa sĩ nhìn nhận những thân

phận của người phụ nữ trong xã hội đương thời với ánh mắt cảm thông, chia

sẻ, họ vẽ về những tâm hồn con người bị chà đạp bị tổn thương, bị dồn vào

đường cùng đến mức trở nên vô cảm, thờ ơ. Và có họa sĩ thì lấy chính con

người mình ra làm chủ đề, bộc lộ tình cảm, cảm xúc, cảm giác khát vọng

25

quyền tự do của mỗi cá nhân mà cũng muốn đại diện cho giới của mình đòi

hỏi sự thay đổi của xã hội về cái nhìn với mỗi cá nhân con người. Những

gương mặt nghệ sĩ vẽ tranh theo khuynh hướng Biểu hiện có thể kể đến các

họa sĩ như Doãn Hoàng Lâm, Lê Anh Quân, Lê Quảng Hà, Nguyễn Hải Anh,

Đỗ Hoàng Tường, Đinh Ý Nhi, Lý Trần Quỳnh Giang, Nguyễn Xuân Tiệp,

Vũ Thăng… Vậy, thời kỳ Đổi mới ở Việt Nam sau năm 1986 đã tạo nên sự

thay đổi toàn diện xã hội Việt Nam, đưa đất nước phát triển lên. Mỹ thuật

cũng theo đó mà có sự thay đổi, trước hết là sự trở lại giao lưu với những nền

mỹ thuật thế giới, sau đó là thay đổi về tư tưởng sáng tác, phong cách thể hiện

phong phú, họa sĩ được tự do hơn, cởi mở hơn. Điều này làm nên sự phong

phú cho nền hội họa Việt Nam. Để đạt tới giá trị nghệ thuật trong tác phẩm,

họa sĩ cần phải phối hợp nhiều nhân tố như bút pháp, kỹ thuật thể hiện, cách

tạo hình, cách sử dụng ngôn ngữ của hội họa, ý tưởng, nhằm khơi gợi cảm

xúc nơi người xem. Riêng với khuynh hướng nghệ thuật biểu hiện, yếu tố gây

được cảm xúc mạnh mẽ, trực tiếp tới người xem, hoặc tình cảm, thế giới nội

tâm của họa sĩ là yếu tố chủ đạo, nó quyết định chất lượng nghệ thuật của tác

phẩm. Ba nữ họa sĩ Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, Lý Trần Quỳnh

Giang đã học hỏi và sử dụng thế mạnh chuyên môn của mình để biểu hiện ra

được thế giới nội tâm của mình, bộc lộ cảm xúc của mình lên tác phẩm một

cách trực tiếp nhất, gây được cảm xúc cho người xem. Điều mà các chị đã kết

hợp phương pháp thể hiện, sử dụng ngôn ngữ của hội họa như đường nét,

hình thể, màu sắc, không gian, ý tưởng nhằm để bộc lộ tình cảm bên trong

mình có thể được coi như những yếu tố biểu hiện.

1.4. Khái quát tạo hình nghệ thuật của ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang,

Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong

* Họa sĩ Đinh Ý Nhi

Họa sĩ Đinh Ý Nhi sinh năm 1967 tại Hà Nội, Việt Nam, tốt nghiệp

trường Đại học Mỹ Thuật Việt Nam năm 1989. Họa sĩ Đinh Ý Nhi có lối vẽ

26

nhanh, ào ạt, nhiều khi mang nét hoang dã hay điên cuồng. Nghệ thuật của chị

có xu hướng của hội họa biểu hiện, chủ yếu về diễn tả nội tâm con người cho

nên chị không đặt vấn đề là vẽ giống như hiện thực. Những cảm xúc nội tâm

của con người luôn là chủ đề chính mà họa sĩ hướng tới và để những cảm xúc

ấy chân thực nhất, sơ khai nhất thì chị đã làm biến dạng hình thể con

người.Trong khi làm việc, Đinh Ý Nhi đã phải vẽ rất nhiều phác thảo để tìm ý

tưởng và cách thể hiện, điều này tạo dựng cho chị một phong cách riêng là vẽ

rất nhiều tranh về cùng một chủ đề. Không giống như những họa sĩ Biểu hiện

trên thế giới vẽ nhiều màu trong tranh, Họa sĩ Đinh Ý Nhi dùng rất ít màu để

thể hiện ý tưởng, với chị thì giá trị nghệ thuật ở chỗ là xử lý màu sắc sao cho

hiệu quả về mặt diễn tả cảm xúc và giá trị thẩm mỹ nằm ở sự no mầu trong

tranh. Với cách tạo ra hàng loạt bức tranh có cùng chủ đề của họa sĩ, rõ ràng

là họa sĩ muốn thể hiện suy nghĩ, tâm trạng cảm xúc của mình về vấn đề con

người trong xã hội hiện đại.

* Họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong

Đinh Thị Thắm Poong sinh năm 1970 tại Lai Châu, Việt Nam. Họa sĩ là

người dân tộc, cha là người Mường, mẹ là người Thái. Đinh Thị Thắm Poong

sinh ra và lớn lên tại Lai Châu, từ khi bé, Thắm Poong đã yêu thích hội họa.

Hành trang theo chị trong những lúc theo mẹ đi biểu diễn (mẹ là diễn viên

múa tỉnh Lai Châu) là cái bút chì và giấy vẽ. Vùng đất miền núi nơi chị sinh

ra và lớn lên, gắn bó đã tạo nhiều cảm hứng sáng tác. Chị đã cảm nhận được

tình cảm, tính cách của con người nơi ấy, để rồi chị thể hiện tình cảm đó

thông qua những sinh hoạt của người dân tộc thiểu số, những ký ức về đời

sống cộng đồng, văn hóa của dân tộc mình.Khi còn nhỏ, Thắm Poong cả ngày

với niềm đam mê của mình, bên màu vẽ, cọ, bút chì, đất sét, chị thể hiện hình

những chàng trai Thái, Mông. Khi thi vào trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam,

chị chọn học khoa điêu khắc, nhưng tình yêu đối với điêu khắc vẫn còn đó,

sóng đôi cùng tình yêu hội họa. Đinh Thị Thắm Poong tốt nghiệp trường Đại

27

học Mỹ thuật Việt Nam năm 1993. Năm 1997, Thắm Poong chính thức sáng

tác hội họa.Chị đã đạt giải nhất trong triển lãm của các nghệ sĩ người dân tộc

thiểu số năm 1993, với bức tranh Phơi sợi; sau đó là giải ba, giải khuyến

khích của Hội Mỹ thuật quốc gia với tác phẩm Tiệc hát và Thiên nhiên của

người nông thôn.Gần đây là giải nhất với bức tranh “Khi ngủ” trong triển lãm

của các họa sĩ người dân tộc thiểu số.

Họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong thường vẽ các cảnh sinh hoạt của người

dân tộc thiểu số như những ký ức về đời sống cộng đồng, văn hóa của dân tộc

mình. Bản thân họa sĩ là người dân tộc Thái – Mường. Nghệ thuật của chị có

cái nhìn riêng biệt, độc đáo, giàu tính trang trí, ảnh hưởng nhất định từ văn

hóa thêu thùa và trang phục của người miền núi. Trong tranh của chị, chị thể

hiện hình ảnh con người sống hòa mình với tự nhiên, sự so sánh, đan lồng

hình ảnh với những yếu tố siêu thực. Đinh Thị Thắm Poong còn truyền đạt

vào tranh của mình mong muốn sự hòa hợp giữa cái mới và cái cũ, giữa nền

văn hóa giàu bản sắc dân tộc của con người miền núi với những cái hiện đại

của xã hội hiện tại [6, Tr.165]

* Họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang

Lý Trần Quỳnh Giang sinh năm 1978 tại Hà Nội, Việt Nam. Họa sĩ đã

tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Việt Nam năm 2002, sống và làm việc tại Hà

Nội, Việt Nam. Lý Trần Quỳnh Giang đã đoạt giải nhất cuộc thi “Ánh mắt

trẻ” của Pháp (dành cho các nghệ sĩ tạo hình Việt Nam dưới 35 tuổi) với bộ

ba tấm tranh khắc vẽ bằng mực tàu trên gỗ bản: Tôi, Những cây và Buồn.

Ngay từ khi còn là sinh viên trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Lý Trần

Quỳnh Giang đã bộc lộ cá tính của mình, thể hiện cái riêng biệt trong các bài

vẽ của mình, con đường mà họa sĩ đã chọn là theo chuyên ngành Đồ họa.

Chính chuyên ngành Đồ họa này đã tạo cho Lý Trần Quỳnh Giang nhiều cảm

xúc và tạo nên phong cách riêng biệt của họa sĩ. Nghệ thuật tạo hình của Lý

Trần Quỳnh Giang đi theo khuynh hướng của nghệ thuật biểu hiện . Qua các

28

tác phẩm, họa sĩ muốn bộc lộ ra những suy nghĩ về bản thể con người mình,

thế giới của mình và những cung bậc cảm xúc của một con người cô đơn và

khát khao sự tự do cá nhân về mọi mặt. Khi thể hiện lên những tác phẩm, chị

thể hiện những hình thể gầy gò, ốm yếu, bệnh tật. Hình thể con người ở

những lúc mệt mỏi, đau khổ, thương tổn. Lý Trần Quỳnh Giang thể hiện

những nỗi buồn nằm sâu trong bản thể con người mà những nỗi buồn ấy chỉ

có thể được trải lòng ra trên tác phẩm. Những vết dao khắc, đục khoét tạo

hình trên tấm gỗ cũng giống như những vết dao làm thương tổn con người.

Họa sĩ thường thể hiện ở những bức khắc gỗ bản với bố cục choán đầy tác

phẩm để gợi ý lên một sự chiếm đoạt. Về phần mầu sắc, trong khắc gỗ mộc

bản, chị thể hiện chỉ có một mầu đen của sơn và kết hợp với

Tiểu kết

Trong tác phẩm nghệ thuật hội họa, luôn có sự gắn bó mật thiết của các

yếu tố như ngôn ngữ hội họa, chất liệu, phương pháp thể hiện. Có thể nói

chúng là những nhân tố vừa để giúp họa sĩ triển khai những ý tưởng của mình

lên tranh và chuyền tải được những thông điệp đến người thưởng lãm hội họa,

đồng thời nó cũng giúp cho người xem thêm hiểu hơn về tác phẩm hội họa.

Như vậy qua việc tìm hiểu những khái niệm về yếu tố, khái niệm biểu hiện,

tìm hiểu về hội họa Biểu hiện, ta thấy được một yếu tố quan trọng trong hội

họa Biểu hiện, đó là yếu tố biểu hiện. Yếu tố biểu hiện là một nhân tố quan

trọng trong việc tạo nên giá trị nghệ thuật của khuynh hướng hội họa biểu

hiện. Yếu tố biểu hiện trong tranh được hiểu là những dấu hiệu có trên tranh,

họa sĩ đã khai thác sự biểu cảm của đường nét, màu sắc, không gian, bố cục,

hình thể, đậm nhạt, để nói lên cảm xúc, tình cảm, thế giới nội tâm của họa sĩ,

đồng thời gây được sự đồng cảm của người xem tranh. Thành phần này rất

quan trọng, giúp hình thành nên tổng thể giá trị nghệ thuật của bức tranh. Ở

Việt Nam, không có sự hình thành khuynh hướng biểu hiện như ở các nước

Phương Tây, đây là một sự giao lưu học hỏi và thể hiện phong cách hội họa

29

Biểu hiện của một số ít họa sĩ. Công cuộc Đổi mới ở Việt Nam năm 1986 đã

thay đổi toàn diện xã hội từ cách tư duy cho đến sự thay đổi cá nhân mỗi con

người. Đây là dấu mốc cho sự trở lại giao lưu học hỏi của nền mỹ thuật Việt

Nam với những nền mỹ thuật thế giới. Với sự học hỏi này, nền mỹ thuật Việt

Nam sau Đổi mới đã trở nên phong phú hơn, tư tưởng sáng tác nghệ thuật đã

được tự do hơn trước. Những họa sĩ nữ tiêu biểu thể hiện tác phẩm của mình

theo khuynh hướng biểu hiện hoặc có thể hiện yếu tố biểu hiện trong tranh

của mình là những họa sĩ Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, Lý Trần Quỳnh

Giang. Để thấy được yếu tố biểu hiện trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh

Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong là gì, nó được thể hiện như thế nào, tiếp đến

chúng ta sẽ phân tích tranh của họ.

30

CHƯƠNG 2

NGHIÊN CỨU YẾU TỐ BIỂU HIỆN TRONG TRANH CỦA

LÝ TRẦN QUỲNH GIANG, ĐINH Ý NHI

VÀ ĐINH THỊ THẮM POONG.

Mỗi bức tranh là tổng hòa mối quan hệ của các yếu tố nội dung và hình

thức. Hình thức thể hiện nội dung của tác phẩm, và nội dung quy định hình

thức diễn đạt như thế nào. Do đó để nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong tranh

của ba họa sĩ này cần phải nghiên cứu, tìm hiểu cả nội dung và hình thức của

tác phẩm, mối quan hệ của chúng trong tác phẩm

2.1. Yếu tố biểu hiện trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang

Cho đến thời điểm hiện tại, sáng tác nghệ thuật của Lý Trần Quỳnh

Giang chủ yếu bằng chất liệu là khắc gỗ và sơn dầu. Với chuyên ngành Đồ

họa, chị thành công với chất liệu khắc gỗ, khắc mộc bản, chị đã làm thay đổi

quan niệm về nghệ thuật khắc gỗ, chị khắc tạo hình tác phẩm của mình trên

những phiến gỗ, dựa theo thế dáng của tấm gỗ được cắt xẻ trực tiếp từ thân

cây.

Ngôn ngữ tạo hình của Lý Trần Quỳnh Giang là ngôn ngữ Đồ họa nhưng

theo khuynh hướng Biểu hiện để bộc lộ cảm xúc cá nhân của mình một cách

mạnh mẽ nhất. Qua khắc gỗ và ngôn ngữ hội họa Biểu hiện, chị thể hiện thế

giới cô độc của mình, thế giới nội tâm bên trong. Chủ đề chính trong nghệ

thuật tạo hình của Lý Trần Quỳnh Giang là về bản thân con người chị, là đời

sống cá nhân qua những khoảnh khắc thời gian. Song trong thực hành nghệ

thuật, chị thể hiện đời sống cá nhân ấy với nhiều khía cạnh khác nhau. Những

khía cạnh về bản thân họa sĩ được thể hiện qua những tác phẩm nói về cái tôi

bản thể, sự tự do bày tỏ đời sống cá nhân đa dạng, những cảm xúc buồn, cô

đơn trong cuộc sống, cái nhìn cực đoan về cuộc sống.

* Yếu tố biểu hiện về cái tôi bản thể

31

Trong khuynh hướng hội họa biểu hiện thì chìa khóa cho ý tưởng của tác

phẩm là thể hiện thế giới nội tâm con người, nó phải đến từ bên trong con

người họa sĩ. Trong xã hội, mỗi cá nhân con người có một bản thể với những

tính cách khác nhau, sự hình thành nhân cách con người phần lớn phụ thuộc

vào hoàn cảnh môi trường sống, quá trình học tập và quá trình giao lưu với xã

hội. Mỗi con người có một cá tính và cái riêng, cái riêng này là cái Tôi để tạo

sự khác biệt với người khác. Năm 2004, tại cuộc thi “Ánh mắt trẻ” lần thứ tư

dành cho các nghệ sĩ tạo hình trẻ Việt Nam do Đại Sứ Quán Pháp tổ chức với

sự phối hợp của Hội Mỹ thuật Việt Nam, Lý Trần Quỳnh Giang đạt giải nhất

bởi bộ tranh khắc gỗ bản độc đáo. Đó là bộ ba tác phẩm có tên gọi: Tôi,

những cái cây, buồn, đó là những tác phẩm được khắc trên gỗ. Đây là bộ

tranh có thể gọi là điểm mốc, đánh dấu sự góp mặt của Lý Trần Quỳnh Giang

trong nền mỹ thuật Đương Đại Việt Nam.

Tranh Tôi (H.6, Tr.84) vẽ hình một người đang dang tay và đứng thẳng,

hiên ngang, nghiêm túc và đứng giữa tranh. Hình thể này tựa như hình Chúa

bị đóng đinh trên thập tự. Bên dưới chân người phụ nữ là đám lá cây có hình

những con mắt tượng trưng cho những cái nhìn của xã hội. Nền đằng sau bức

tranh được tạo hình vừa giống như mảnh vải treo trên sào, vừa giống như một

khoảnh rừng phía sau lưng. Bàn tay phải xòe ra và rũ xuống tạo cảm tưởng

như vừa để rơi một vật, bàn tay trái thì xòe ra nhưng nó có sức mạnh tựa như

muốn tát vào mặt một ai đó. Ý tứ trong tranh, hay nói cách khác là thái độ của

họa sĩ là sự thách thức về cái nhìn xã hội, những cái nhìn theo dõi, ngờ vực,

dò xét, tò mò về cá nhân riêng biệt và kỳ thị khi người ta có vẻ khác với

những cái chung của xã hội, với những cá nhân riêng lẻ. Đồng thời là sự

khẳng định Tôi là tôi chứ không phải là một ai khác, một lời khẳng định về ý

niệm danh xưng của con người. Tôi trong tranh thực chất cũng chỉ là một thực

thể, một cá nhân giống như mọi người mà thôi, đâu có gì khác mà mọi người

lại dán cái nhãn mác định kiến ép buộc tôi phải giống như mọi người. Tại sao

32

con người cứ thấy sự khác biệt là lại có thể bàn tán, dè bỉu hay là nhìn người

ta với cái ánh nhìn như thể người ta là một giống lạc loài từ nơi khác tới. Đây

cũng chính là tiếng nói kêu gọi quyền tự do cá nhân trong xã hội và mong

muốn xã hội thay đổi về cách nhìn nhận con người. Để thể hiện rõ hơn về

hình ảnh con người mình, Lý Trần Quỳnh Giang còn thể hiện những chân

dung tự họa. Trong hầu hết các bức tranh chân dung tự họa, Lý Trần Quỳnh

Giang dùng thủ pháp chiếm đoạt không gian của bức tranh để cái nhìn của

người xem tranh tập trung vào chân dung, rồi sự tập trung còn bị thu hút bởi

đôi mắt của người trong tranh. Đôi mắt ấy đang nhìn xoáy sâu vào người đối

diện, chị thể hiện đôi mắt lạnh lùng, cau có, khó chịu. Ánh mắt và chân dung

ấy giống như thái độ khó chịu của một đám đông con người khi phải nhìn

thấy một con người với cá tính khác biệt. Những ánh mắt buồn bã, cô đơn,

khó chịu vẫn nhìn vào cuộc sống như những lời tâm sự về một xã hội đã đẩy

những cá nhân con người có cá tính khác biệt vào sự cô quạnh.

* Yếu tố biểu hiện về đời sống cá nhân đa dạng

Trong đời sống cá nhân của mỗi con người thể hiện ở nhiều khía cạnh

khác nhau từ tính cách, sở thích cho đến xu hướng tính dục. Đời sống con

người được thể hiện qua các khía cạnh về sức khỏe, thể chất, cảm xúc tinh

thần, mối quan hệ, cách tạo sự khác biệt và tâm hồn. Mỗi con người luôn có

những khát vọng được sống thật với giới tính thật của mình, đó là niềm hạnh

phúc. Ở xã hội hiện đại ngày này, hành vi tình dục đồng tính được đánh giá

không phải là một chứng bệnh hay lệch lạc tình dục như những quan điểm về

tâm lý tình dục trước những năm 90. Trên quan điểm tâm lý học của nhà Tâm

lý học Sigmon Freud hay nhà tâm lý học Thụy Sĩ Eckhart Tolle thì phía sau

một khái niệm bản thân không tự tin thì đó lại là mong muốn được thể hiện

bản thân, muốn khẳng định tôi không phải là phụ nữ hay tôi không phải là đàn

ông. Với chị, câu chuyện thuở bé của chị đã hé lộ mong muốn xã hội nhìn

nhận đúng đắn hơn về giới tính của mình, chị đã xin mẹ cho cắt tóc trọc như

33

con trai và thích mặc quần áo của anh trai. Với suy nghĩ và mong muốn ấy, nó

theo chị lớn lên, nó là chất liệu để chị sáng tác những tác phẩm nghệ thuật của

mình. Ví dụ như bức tranh Bà ta (H.7, Tr.85) tranh mô tả hai người đàn bà

đang quan hệ tình dục, cả hai đang khỏa thân, quằn quại, hưng phấn trong cơn

lốc dục vọng. Hai con người bệnh hoạn đang quấn lấy nhau, cả hai người đàn

bà đang hoan lạc. Hình thể hai người đàn bà đang trong cực khoái khi quan hệ

tình dục cũng làm lộ ra tâm trạng của họa sĩ, tình cảm của họa sĩ, nói lên cái

tôi bản thể trong con người chị. Cái tôi trong bức tranh này cũng chỉ là một

nhu cầu trong sự tồn tại của con người mà thôi. Bên cạnh vẻ ngoài nữ tính,

bên trong nghệ sĩ cũng là một phụ nữ với cá tính mạnh mẽ, là con người độc

lập và khác biệt. Một tiếng nói về sự tự do, bình đẳng giới tính được nói ra, nó

nói rằng đồng tính không phải là cái tội, nó chỉ là sự khao khát tình cảm ẩn

sâu trong mỗi cá nhân con người. Người xem tranh cũng đã thấp thoáng nhận

ra được đời sống của thân phận con người thuộc thế giới thứ 3. Như vậy hình

ảnh hai người đàn bà bệnh hoạn với nếp da nhăn nheo, khô khốc đang quan

hệ tình dục được họa sĩ tạo hình trên tranh để biểu hiện vấn đề tự do giới tính

trong xã hội hiện đại. Đây cũng là những ẩn ức trong nội tâm của nhiều con

người thuộc thế giới thứ ba. Vẫn nói về sự đa dạng trong đời sống cá nhân, Lý

Trần Quỳnh Giang thể hiện thể trạng và sức khỏe tâm thần trong con người

mình cũng như trong nhiều con người khác. Chị biểu hiện về sự mệt mỏi, ốm

đau của con người. Ở tác phẩm sắp đặt “Những cành mệt mỏi” (H.8, Tr.86)

những hình chân được gói lại tập trung vào với nhau, như những bó củi,

những mệt mỏi, khổ đau tìm về với nhau, nương tựa vào nhau. Trên tranh chỉ

có sức mạnh biểu cảm được tập trung vào tạo hình những cái chân, còn phần

thân thể của những kiếp người thì lại được băng bó bởi những mảnh vải nhằm

vào ý nói thân thể bị tổn thương nhưng những phần khác trên cơ thể vẫn khát

khao sự sống, vẫn vươn ra ngoài để đón lấy ánh sáng của sự bình yên, của

niềm hoan lạc vĩnh cửu. Sự mệt mỏi về thể xác và tâm hồn của con người

34

được chị dùng thủ pháp khắc lên những phiến gỗ nhưng lại sắp đặt xô lệch,

rời rạc, chia lìa và lại còn được quấn bằng những dải băng trắng hoặc đen.

Giang muốn băng bó và làm lành những vết thương lòng trong con người.

*Yếu tố biểu hiện về cảm xúc cô đơn, đơn độc

Tinh thần, cảm xúc của con người cũng là một khía cạnh trong đời sống

cá nhân đa dạng của con người, và hàng ngày thì con người sống với những

cảm xúc đó. Khi đối diện với những sự kiện làm cho con người mệt mỏi, con

người cảm thấy buồn, lo lắng, dễ bị trầm cảm, dễ bị tổn thương, từ đó sinh ra

những suy nghĩ tiêu cực hoặc bị ám ảnh bởi những ý nghĩ lệch lạc, hoang

tưởng, những ý nghĩ điên rồ không thực tế của cái Tôi cao sinh ra. Con người

cứ nghĩ những ám ảnh đó là mình, là tương lai của mình trong khi sự thực nó

chưa diễn ra, nó lại chỉ là sản phẩm của tư duy, nó không phải là bản thể con

người mình. Nhân vật trong tranh của chị thường mang cảm xúc về sự cô đơn,

suy tư. Đây là xu hướng thỏa mãn cá tính của riêng chị, chị thích cô đơn và

“chỉ có sự cô đơn khiến tôi thoải mái”. Sự cô đơn hẳn nhiên không được số

đông xã hội đồng tình, nhưng chị đã nhận thấy trong xã hội, mọi người đều

khác nhau, làm sao có thể số đông quy ước, ép buộc tất cả mọi người đều có

thể giống nhau được, và chị nhận thấy sự cô đơn giúp cho chị nhìn nhận đúng

đắn hơn về bản thể mình, giải quyết được ổn thỏa sự việc liên quan đến mình,

miễn là không nằm ngoài những quy định chung trong xã hội, không ảnh

hưởng gì đến luật pháp hay đời sống riêng tư của những người khác. Với

những tác phẩm nghệ thuật của mình, Lý Trần Quỳnh Giang đưa vào đó sự cô

đơn bởi những khía cạnh khác nhau, hình thức biểu đạt khác nhau. Khi xem

tác phẩm khỏa thân của chị, dù khỏa thân đến trơ trụi, cùng cực, nhục cảm, cô

quạnh nhưng ta lại thấy không giãn trong đó tĩnh mịch, chỉ có con người một

mình với thế giới của riêng mình, một mình độc thoại, một mình suy nghĩ về

sự đời và không chia sẻ những suy nghĩ đó với người khác.

35

Tranh In the Room I – Trong căn phòng (H.9, Tr.86) thể hiện cảm xúc

buồn, cô đơn của Lý Trần Quỳnh Giang. Tranh thể hiện chị đang ngồi khỏa

thân trong căn phòng tối, trên tay lập lòe điếu thuốc, không gian xung quanh

trở nên u ám bởi những tông màu trầm như xanh lam, đỏ bầm, và cả những

màu mang cảm giác cô đơn. Hình thể con người được diễn tả với những nét

bút mạnh mẽ dường như những nhát dao chém vào thân thể, nó nhàu nhĩ và

có làn da tím tái. Hiệu quả biểu cảm của cách sử dụng sơn dầu với tông màu

trầm càng làm tăng ý đồ biểu hiện về cái tôi cô đơn trong con người chị. Chị

ngồi đó một mình trong căn phòng, hút thuốc và suy nghĩ sự đời, cảm nhận về

cái tôi trong chị, một mình đối thoại với nội tâm trong con người chị. Những

vệt bút sơn dầu chát chúa, nhão nhoét ảnh hưởng từ cách họa sĩ đã khắc lên

những phiến gỗ làm tăng cảm giác về một cơ thể bệnh tật, già nua. Chị thể

hiện những nhát bút để tăng tính biểu cảm về một con người đang tuổi thanh

xuân nhưng cơ thể, tâm hồn bị hao mòn, rệu rã, mệt mỏi. Cách tạo hình con

người đang khỏa thân không phải không có lý do, chị muốn người xem cảm

thấy được linh hồn mình trơ trụi và phơi bày hết ra những sự thật trong lòng

của một con người bên dưới lớp quần áo. Đó là cách mà họa sĩ đưa người

xem đến cảm nhận về con người chị một cách trực tiếp nhất.

* Yếu tố biểu hiện cái nhìn cực đoan về cuộc sống, tỏ thái độ cá nhân

con người.

Trong cuộc sống hàng ngày, việc gặp phải những lời nói quá đáng hoặc

sai sự thật cũng làm cho con người cảm thấy khó chịu, cảm thấy mệt mỏi. Có

những lúc không thể bộc lộ thái độ của con người mình ra ngay, mà nhiều

người phải đưa sự khó chịu đó chìm vào bên trong mình. Thái độ khó chịu về

những ngôn từ hay thông tin sai lệch trong cuộc sống của chị được thể hiện

trong những tranh Đồ chơi (H.10, Tr.87), tranh Tin tức. Ở tranh Đồ chơi khắc

họa chân dung một con người với cái miệng há ra, thông qua cái mồm đang

há ra, con người tùy ngôn sử dụng lời nói của mình như một hình thức giải trí.

36

Hình khuôn mặt chiếm tỉ lệ lớn trong tranh, nhưng nó không đậm đặc, sự đậm

đặc lại được tập trung vào những lời được nói ra từ cái mồm, con mắt của

người đàn bà trong tranh thì đang vẫn phải toan tính mọi điều. Những hình

cánh tay, bàn tay được phun ra từ cái mồm đen ngòm đầy mực của người đàn

bà, nó lại được nối liền với cái đầu nhỏ bên dưới cổ họng, nó được tạo hình là

những bàn tay úp và bàn tay ngửa, ý nói đến sự hoạt ngôn của con người, con

người dùng nó để giải trí, đồng thời mang lại lợi ích cho cá nhân con người. Ở

bức tranh này, yếu tố biểu hiện được thể hiện là thái độ của họa sĩ lấy làm khó

chịu với những con người hoạt ngôn như vậy trong xã hội.

*Yếu tố biểu hiện về những ám ảnh, thương vong ranh giới giữa sự sống

và cái chết.

Những hình ảnh về bệnh nhân trong bệnh viện đã từng luôn ám ảnh tâm

trí của họa sĩ. Đây là những nỗi buồn chung về ranh giới sự sống và cái chết

mà tác giả đã nhận thấy. Những ốm đau, bệnh tật từ trong tinh thần mà sự thể

hiện sự ốm ra ngoài đó cũng được Lý Trần Quỳnh Giang khai thác nhiều,

những hình ảnh con người mặt cú, hình người chả ra người, ngợm chả ra

ngợm, những hình ảnh đã được chị gần như hóa thân vào. Tranh Bản tin

(H.11, Tr.87) thể hiện sự buồn bã, cô đơn của con người. Trong tranh, hình

người có sắc da vàng bệnh hoạn khỏa thân ngồi bên cạnh con cú, sự hiện diện

của con cú tựa như mang tin tức về cái chết sẽ đến bên con người. Khi cái

chết đang đến thì con người trở nên buồn bã chăng. Sự đau buồn đó đâu phải

của riêng chị mà nó là sự buồn không thể cưỡng lại cuộc sống. Họa sĩ Lý Trần

Quỳnh Giang muốn nhìn cuộc sống bằng đôi mắt của con cú để nhìn thấy hết

mọi khía cạnh của cuộc sống, cảm nhận được trọn vẹn, nhưng biết để buồn,

biết để tĩnh lặng, để ngưng đọng và để hướng con người tìm ra chân lý, một

cái bản thể trong mỗi con người. Rồi trong Ốm (H.12, Tr.88), Lý Trần Quỳnh

Giang hóa thân mình là một trong những con cú đêm, con cú cô đơn trong

đêm đen đặc quánh ngột ngạt, dưới bầu không khí ấy, con cú chỉ có thể mở to

37

đôi mắt của mình chỉ mong tìm ra cho mình chút ánh sáng, chút hơi thở, và

một chút của sự sống. Hình ảnh con cú bị quấn chặt vào những dải băng, bị bó

cứng bởi thạch cao, những cành cây nơi trước kia được con cú trú ngụ cũng

ốm, nó cũng bị tổn thương và cũng bị quấn những dải băng y tế. Lý Trần

Quỳnh Giang đã biểu hiện về sự ám ảnh về bệnh tật của chị, và đằng sau

những hình ảnh ốm như vật, Giang bộc lộ ra ý tưởng nói về những cái ám ảnh

bị giam cầm trong tâm trí con người mà ở đó con người phải chịu đựng.

Ở những tác phẩm như Tiểu đường, Chiều, motif những hình thể bị quấn

băng cứu thương lại càng làm thể hiện rõ ý tưởng về những ám ảnh bệnh tật

trong tâm hồn. Tranh Tiểu đường (H.14, Tr.88) được họa hình chồng lớp

nhiều cái đầu, những cái đầu với những ánh mắt lờ đờ mê sảng, những cánh

tay được kết nối với cái đầu không đúng như giải phẫu, không đúng trật tự cơ

thể được tạo hình phình trướng lên ở những đoạn cánh tay bắp tay. Những

bàn tay tưởng như vươn ra sát phía ngoài tranh gợi lên ý tưởng là trong lúc

ốm đau bệnh tật, con người cố tìm cho mình những cách tồn tại, mong muốn

được chữa bệnh nhưng không thể thoát khỏi định mệnh, số phận. Tương tự, ở

tranh Chiều (H.15, Tr.87) tác giả chọn hình ảnh con người đang khỏa thân kết

nối với những cuộn băng cứu thương. Tư thế con người này được diễn tả với

cái nhìn từ trên xuống, giống như cái nhìn từ trên cao của một ai đó đang theo

dõi, rình mò và cướp đi sự sống. Bố cục của bức tranh nặng về phía bên phải

nhưng nó gợi lên được cảm giác chênh vênh, ranh giới giữa sự sống và cái

chết rất mong manh. Đây cũng là cảm giác sợ hãi khi con người phải đối diện,

nó cũng là nỗi ám ảnh trong tinh thần của họa sĩ và nhiều con người. Nó

tượng trưng cho cái tuổi xế chiều, báo hiệu sự tồn tại không còn nhiều trong

cuộc đời con người.

* Yếu tố biểu hiện về khát vọng tự do

Khi con người không được sống thật với bản thân mình, con người muốn

giải thoát sự đau khổ của mình, tự kiếm tìm cho mình con đường hay là một

38

cái vỏ để có thể lẩn trốn, giữ cho mình một không gian an toàn. Họa sĩ Lý

Trần Quỳnh Giang thể hiện cảm xúc muốn được sống với cuộc sống tự do với

bản thể con người mình và cũng là mong muốn tất yếu của nhiều con người

trong xã hội. Nhưng để sống một cuộc sống tự do thì con người lại phải đấu

tranh tư tưởng, giằng xé nội tâm. Đôi khi, Lý Trần Quỳnh Giang tự vấn mình

là cái vỏ ngoài của con người có thể hiện được bản chất thực sự của con

người đó hay không. Có người thì ngoài sao trong vậy, nhưng có những người

thì bên ngoài là một hình ảnh, còn bên trong lại là một con người khác biệt.

Dựa vào ý tưởng này, chị muốn chia sẻ suy nghĩ về cái vỏ bọc mà nhiều con

người đang phải mang để diễn vở kịch cuộc đời vào tác phẩm của chị. Tác

phẩm Dưới lớp da (H.16, Tr.90) biểu hiện suy nghĩ ấy. Tranh khắc họa một

khuôn mặt chiếm đoạt hết diện tích bề mặt cả tác phẩm, hình khuôn mặt ấy

được thể hiện như cái mặt nạ cao su nhàu nhĩ, bị xé rách. Khuôn mặt ấy thật

giống như tạo hình của nhân vật Frankstank, nó được khâu vá một cách cẩu

thả bởi một bàn tay không chuyên, nhưng nó cũng cho thấy được ý tưởng

một sự chắp vá hỗn tạp trong những con người. Nét khắc cào xước trên cả hai

nửa khuôn mặt để lộ ra cái nhíu mày, cái lo âu, khó chịu của con người chị.

Nửa bên phải của khuôn mặt bị xé toạc ra bởi những bàn tay của những thế

giới bóng tối bên trong tâm hồn con người. Những bàn tay ngọ nguậy đầy ma

quái đang chui từ bóng tối ra hòng chiếm đoạt linh hồn và thể xác của con

người. Bàn tay thì đưa lên trán suy nghĩ, bàn tay thì kéo con mắt lên để ép

buộc con người phải nhìn đối diện với sự thuật.

Trong nghệ thuật tạo hình, để nói lên cảm xúc, tâm tư tình cảm của nhân

vật, để nói lên tiếng lòng của con người, các họa sĩ thường tập trung sức mạnh

biểu cảm nơi bàn tay, những ánh mắt, khuôn mặt, cái miệng và cả đến ngôn

ngữ cơ thể. Với sở trường khắc gỗ, những tạo hình của bàn tay đã được Lý

Trần Quỳnh Giang tập trung khai thác sức biểu cảm của nó, bằng cách khắc

sâu, sắc nét, tạo hình bàn tay trong tranh của chị là sự tạo hình về sự khắc

39

khổ, đau đớn, dày vò bản thân của một kiếp người. Ý thức muốn trốn chạy

thực tạo hoặc hóa thân để được giải thoát còn hiện hữu trong những tác phẩm

khác của họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang. Sự hòa làm một với tự nhiên còn được

biểu hiện qua những hình ảnh những cành cây, con ong, con cú. Rồi khi con

người quá mệt mỏi, căng thẳng vì cuộc sống thì nhiều khi họ lại muốn chốn

tránh, muốn ngủ cho quên sự đời, có thể là mong muốn có một giấc ngủ dài

để mà không còn phải đối mặt với hiện thực cực khổ trước mắt, điều này được

chị biểu hiện bằng hình ảnh trong tác phẩm Mùa ngủ (H.17, Tr.90). Ở tranh

Mùa ngủ, toàn bộ gương mặt người choán hết không gian của tranh, đàn ong

ngủ hai mùa, chúng ôm lấy khuôn mặt, vừa như để tô thêm vẻ ngoài thời

trang của con người, làm đẹp cho con người nhưng con mắt con người vẫn

thao thức, đăm chiêu suy nghĩ. Nghệ thuật ở bức tranh này được tác giả sắp

đặt có chủ ý, sự đối lập trong suy nghĩ, đàn ong thì chen chúc trốn vào giấc

ngủ, trong khi con người lại vẫn thức, vẫn đăm chiêu, sự lo lắng mệt mỏi

được hiển hiện qua đôi mắt, qua nếp nhăn trên trán. Nền của bức tranh do đặc

thù của nghệ thuật đồ họa, chỉ là một sắc đen, nhưng mảng đen này không

phải màu đen của màn đêm, nó là màu của sự chạng vạng, là không gian thời

gian bấp bênh giữa đêm và ngày, giữa thực tại và ảo ảnh. Những con ong

nhung nhúc bu quanh người tạo ấn tượng mạnh mà không ai có thể trốn chạy.

Bức tranh mang đa nghĩa thể hiện sự thực về cuộc sống khổ đau không ai có

thể bỏ chạy hay né tránh, nhưng lại cũng là mong muốn ngủ đi để quên hết tất

cả. Suy nghĩ này đúng là một suy nghĩ tiêu cực của phần nhiều con người

trong xã hội hiện đại ngày nay. Thực ra cuộc sống hạnh phúc hay khổ đau là

do sự nhận thức của con người. Nếu như ai cũng đủ dũng cảm nhận thức được

bản chất của vấn đề, hoặc có thể suy nghĩ tích cực thì cuộc sống của họ cũng

hạnh phúc, tức là khi bạn suy nghĩ tích cực trước tình hình thực tại thì những

khó khăn, khổ đau, tồi tệ của cuộc sống rồi nó cũng sẽ đi qua, nó cũng sẽ trở

thành quá khứ và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.

40

Ở tranh Mẹ bơi trong nước (H.18, Tr.91), tác giả đã tạo hình một sinh

thể có thân thể hình cá khuôn mặt nhàu nhĩ, già nua, nó vừa giống khuôn mặt

của con người, vừa giống khuôn mặt của một sinh vật. Trong cuộc sống của

con người có nhiều điều buồn mà con người phải đối mặt, phải trải qua, để

không muốn phải đối mặt với những nỗi đau ấy, nỗi buồn ấy, Lý Trần Quỳnh

Giang đã hóa thân mình vào những hình ảnh con cú, con ong, con cá, để giải

thoát.

Vậy có thể nói Lý Trần Quỳnh Giang đã vận dụng sáng tạo ngôn ngữ

của đồ họa, hội họa tạo nên sự biểu hiện về tình cảm nội tâm của chính chị

cũng như nội tâm của nhiều con người trong xã hội trước những những sự

kiện khác nhau trong cuộc đời. Chị cũng muốn biểu hiện về cảm giác cô đơn,

những nỗi buồn về cuộc sống và sự khát vọng tự do trong bản thể mỗi con

người. Tất cả những yếu tố của ngôn ngữ hội họa, kỹ thuật thể hiện đã giúp

cho họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang biểu hiện ra được cái riêng, về thế giới nội

tâm con người mình, qua đó bộc lộ những thông điệp đối với xã hội.

2.2. Yếu tố biểu hiện trong tranh Đinh Ý Nhi

Họa sĩ Đinh Ý Nhi sáng tác nghệ thuật dựa trên sự nghiên cứu về vấn đề

con người trong xã hội. Qua sáng tác của mình, chị biểu hiện suy nghĩ về sự

tồn tại và thái độ sống của con người trong xã hội hiện đại, về quyền con

người đồng thời, chị thể hiện quan niệm cá nhân về chức năng thẩm mỹ và

chức năng đánh thức nhân sinh quan của hội họa trong thời kỳ hậu hiện đại.

* Sự biểu hiện bản thể và số phận con người trong xã hội hiện đại

Trong xã hội mỗi con người là một bản thể riêng, cuộc sống của họ được

hình thành từ bản thân họ và định chế của xã hội. Tại sao con người lại có

những số phận khác nhau, điều đó thể hiện ở những quan niệm sống của con

người. Đinh Ý Nhi chọn chủ đề là con người, mối quan hệ xã hội, đời sống

của người phụ nữ, qua đó chị muốn nói về sự tồn tại của con người. Những

vấn đề về con người được chị thể hiện với tình cảm lo lắng, xót xa cho thân

41

phận người phụ nữ trước những điều làm cho họ bị tổn thương. Họa sĩ Đinh Ý

Nhi không vẽ về hiện thực con người trước mắt mà chị đi vào thể hiện nội

tâm của con người. Hình tượng con người trong tranh của họa sĩ Đinh Ý Nhi

luôn là những con người mang giới tính nữ, có lúc là những bé gái, có lúc là

những người phụ nữ, là người phụ nữ. Có lẽ bản thân họa sĩ Đinh Ý Nhi là

phụ nữ nên chị dễ đồng cảm với phụ nữ, bởi trong xã hội những quốc gia

phương Đông người phụ nữ hầu như chưa thực sự được đối xử bình đẳng như

nam giới, tâm hồn của họ dễ bị tổn thương, họ cũng mong muốn có được

cuộc sống hạnh phúc và sự yêu thương. Trước những vấn đề mà người phụ nữ

đang phải chịu trong xã hội, họa sĩ Đinh Ý Nhi thực sự đã lo lắng cho họ và

từ đó chị chọn hình ảnh người phụ nữ trong tranh của mình để sáng tác nghệ

thuật, đồng thời thay mặt phụ nữ đòi quyền công bằng. Những hình tượng này

chị họa vào trong tranh không mang vẻ ngoài giống hiện thực, nó được chị tạo

hình chủ quan, không ràng buộc với thực tế. Những hình người này được họa

sĩ Đinh Ý Nhi cố tình biến dạng, một là để “lạ” hóa, hai là thu hút người xem

vào vấn đề mà họa sĩ muốn nói. Những con người trong tranh của chị không

tràn đầy sức sống mà nó mang thân thể báo hiệu sự suy yếu về sức khỏe thể

chất và tâm hồn, nó man dại như những con thú được nuôi nhốt trong lồng.

Lý do để họa sĩ Đinh Ý Nhi vẽ hình người như thế này đến từ hiện thực cuộc

sống và thể hiện cực đoan hóa cảm xúc của mình lên trong mỗi tác phẩm.

Giai đoạn 1990 – 2000 có thể coi là thời kỳ đen trắng trong nghệ thuật

của Đinh Ý Nhi. Nội dung chủ đạo của giai đoạn này là nội tâm của con

người chịu nhiều thương tổn sau chiến tranh. Chiến tranh đã qua đi, nhưng

hậu quả của nó vẫn còn lưu lại trong ký ức mỗi người, đó là sự mất mát, đó là

nỗi đau ẩn sâu trong lòng con người, mất đi người thân trong gia đình là điều

mà ai cũng thấy nặng lòng. Đinh Ý Nhi nhận thức rõ rằng chiến tranh thực

chất cũng chỉ là sản phẩm của tâm đố kị trong con người làm cho cuộc sống

của con người bị ảnh hưởng nhiều, chị đồng cảm với nỗi đau của con người

42

sau chiến tranh. Sau chiến tranh, dường như số phận của nhiều con người

chìm trong đau khổ, mất mát và tổn thương.

Tác phẩm Fate 1- Số phận (H.20, Tr.93) tạo bố cục gồm có hình ba chân

dung của người phụ nữ nhưng trông như những cái bia tập bắn, cái cổ và

khuôn mặt bị kéo dài, biến dạng, đôi mắt thì trừng trừng nhìn người đối diện

với tranh và đôi môi thì mím chặt. Không gian trong tranh yên lặng đến rợn

người. Khuôn mặt của những người ấy có những vệt trắng nối dài từ cổ và dải

màu trắng nằm ngang mặt, lệch về phía bên phải khung tranh. Mái tóc của

những người phụ nữ để giống kiểu của những thanh niên xung phong thời

xưa, với kiểu tóc này cho chúng ta biết được lứa tuổi của những con người

trong tranh, đây là thời thanh niên, thời kỳ trẻ trung của người phụ nữ. Những

người phụ nữ này có vẻ chỉ có mỗi chiếc áo ngực, hoặc không, khu vực đó

họa sĩ Đinh Ý Nhi tạo hình là những mảng hình bầu dục, mảng phẳng bẹt và

không có khối. Cả ba con người dàn hàng ngang, nổi bật trên tranh nhưng

thực chất là những con người này lại đang đứng xếp hàng trong một không

gian nhất định. Sự sử dụng nét vẽ bao quanh viền con người để biểu thị những

mốc thời gian. Những tuổi thanh xuân của các cô gái thanh niên đã đi qua,

tuổi đáng nhẽ được cho là đẹp nhất của cuộc đời người con gái, thế nhưng ở

cái tuổi ấy, đất nước trong chiến tranh nên những cô gái này phải mang trong

mình những nỗi đau về thể xác, tinh thần. Những biểu tượng như cái thánh giá

được vẽ đè lên khuôn mặt con người tượng trưng cho những cái chết của

người chồng, người cha và người con. Các cô mòn mỏi chờ đợi người thân để

đến nỗi khuôn mặt và cái cổ dài ra. Đôi mắt mở to, trừng trừng nhìn đời, cái

nhìn xoáy sâu vào tâm can người đối diện với bức tranh. Không gian xunh

quanh các cô đặc quánh, nó tựa như không gian trong lòng cái hang tăm tối,

mù mờ không có đường ra, không có lối thoát. Như vậy, cách tạo hình,

phương pháp sử dụng ngôn ngữ hội họa đã được kết hợp để biểu hiện ra được

thái độ lo lắng, thương cảm của Đinh Ý Nhi về thân phận con người, qua đó

43

nói lên vấn đề tồn tại về vấn đề con người, mặc dù là có sự Đổi mới. Bức

tranh này là đại diện cho thời kỳ đen trắng của họa sĩ Đinh Ý Nhi. Mỗi con

người là một bản thể có một số phận riêng và đời sống nội tâm cũng khác

biệt. Họa sĩ Đinh Ý Nhi cảm nhận được thế giới nội tâm của mình, từ đó chị

kiếm tìm những giá trị con người bên trong, những giá trị thực sự hay còn gọi

là bản thể con người.

Tác phẩm Thế giới nội tâm của Đinh Ý Nhi VI (H.21, Tr.93) vẽ năm

2002, bằng sơn dầu, Đinh Ý Nhi tự họa bản thể bên trong người mình. Họa sĩ

đã tạo hình nhân vật trong tranh nằm trong hình vuông, biểu hiện sự ép mình

gồng lên, bành trướng cơ thể để thể hiện sự phản đối, đây là một phản ứng tự

nhiên của con người. Phần thân trên của con người trong tranh này khác hẳn

với tạng người thật bên ngoài thực tế của tác giả, một người nhỏ nhắn, song

bên trong con người nhỏ nhắn ấy vẫn tồn tại những bản năng sinh tồn. Có thể

đây là một con người khác bên trong con người của Đinh Ý Nhi. Hình người

với tỉ lệ chiếm diện tích tương đối lớn, không có những hình khác bên ngoài

phá đi sự tập trung vào nhân vật. Con người này không có thực và nó là một ý

niệm về nội tâm của họa sĩ, nó là sự tạo hình chủ quan, điểm nhấn được tập

trung vào khuôn mặt và phần thân trên của con người. Những chi tiết đôi tay

dang rộng với những ngón tay như những que củi, chân thấp chân cao, chân

tươi chân héo. Hình thể có những những nét màu đen viền hình lúc lỏng lẻo

lúc thô ráp, sần sùi, những nét màu ấy được cố ý sắp xếp trên hình thể như để

nói lên những cái dây đay đang quấn tạm bợ vào hình nhân thế mạng. Dấu

hiệu mảnh băng đỏ che đôi mắt của con người trong tranh vừa để góp phần

nói lên sự mất phương hướng, cũng vừa muốn nói lên việc không muốn nhìn

vào thế giới. Dải băng này như để con người che đi những gì không muốn

nhìn thấy bên ngoài mà cũng để con người nhắm mắt lại, nhìn vào bản thể bên

trong con người mình. Toàn bộ cơ thể của con người trong tranh với dáng vẻ

như con bù nhìn, nhưng dáng đi lại rất nghênh ngang. Hình tượng con người

44

ấy có thể là sự gợi ý từ câu chuyện từ thủa nhỏ của họa sĩ, khi ước muốn ban

đầu trong tương lai nghề nghiệp là làm bác sĩ, song khi vào bệnh viện thấy

máu nên lại sợ. Con người trong tranh cũng mặc chiếc áo blue như áo bác sĩ

nhưng cơ thể bị tổn thương, bị thương nhưng vẫn tỏ ra kiên cường, dáng đi

vẫn ngang tàng, hống hách. Sự kiện này đã diễn ra trong quá khứ của Đinh Ý

Nhi, song đến năm 2002, ý tưởng mới được bộc lộ trên tranh. Qua tranh, Đinh

Ý Nhi chia sẻ với người xem tranh về nội tâm con người mình là con người

mạnh mẽ. Con người đó cho dù có bị thương, đau khổ trong thực tại thì con

người ấy vẫn phải tỏ ra mạnh mẽ, phải sống cho hiện tại mà quên đi quá khứ.

Điều này giúp người xem thấy được thế giới nội tâm của họa sĩ muốn là một

cánh chim bay trên bầu trời tự do, nhưng cánh chim ấy đang bị thương, bị giới

hạn tầm nhìn, và cánh chim ấy phải gồng mình lên để chống trả với sự trói

buộc. Phải chăng bên cạnh việc nói về nội tâm trong con người mình, họa sĩ

Đinh Ý Nhi còn muốn nói đến khát vọng của con người là thay đổi số phận

của mình. Chính cách vận dụng ngôn ngữ tạo hình như vậy, ngôn ngữ của hội

họa trong các tác phẩm được vẽ ra một cách có chủ ý, đây là những dấu hiệu

nhận biết về vấn đề số phận con người mà họa sĩ muốn chia sẻ về trạng thái

cảm xúc của chị.

*Yếu tố biểu hiện về quyền con người trong xã hội hậu hiện đại

Những tác phẩm biểu hiện về quyền con người trong loạt tác phẩm Câu

chuyện Châu Á như các tác phẩm mang tên Security- Bảo vệ và đánh số

nhằm để nói về vấn đề quyền con người trong xã hội hiện đại. Sery những

bức tranh mang tên Bảo vệ này để nói về quyền con người đáng cần phải suy

nghĩ về sự an toàn, sự tồn tại của con người trong xã hội. Nếu như vấn đề về

quyền con người chỉ được vẽ trên một tác phẩm thì không có gì đáng nói,

nhưng khi một chủ đề được vẽ thành một bộ, hàng loạt bức tranh có cùng chủ

đề, nội dung thì đây quả là vấn đề cần phải có sự quan tâm của toàn xã hội,

điều này thể hiện thái độ đòi hỏi phải thay đổi từ cách quản lý nhà nước cho

45

đến nhận thức của từng cá nhân con người. Bên cạnh lối vẽ bóp hình trong

tranh của Đinh Ý Nhi, chị còn để lại những dấu hiệu, ký hiệu, ám hiệu để tăng

cường sự chú ý của vấn đề, cần được làm rõ. Những ám hiệu ấy có thể kể ra

như: Yes – No (Có- Không), Check – Kiểm Tra, Security – Bảo vệ, những

dấu nhân, dấu cộng, dấu trừ… Những ký hiệu, ám hiệu này nhấn mạnh hay

chỉ rõ thêm vấn đề nhưng theo lối đơn giản hóa ngôn ngữ. Xu hướng nghệ

thuật hậu hiện đại thường có những ký tự như vật trên tranh và đây cũng là để

giải thích thêm về nội dung vấn đề cần truyền đạt. Cuộc sống dưới thời công

nghệ phát triển, thời kỷ nguyên kỹ thuật số ra đời cũng là lúc làm cho con

người phụ thuộc vào công nghệ, vật chất mà quên đi giá trị con người. Trong

tranh Đinh Ý Nhi vẫn có những bóng dáng người phụ nữ, nhưng mang trạng

thái đờ đẫn, vô hồn trong khi cuộc sống vẫn tiếp diễn. Chứng tỏ Đinh Ý Nhi

đã cảm thấy ở xã hội văn minh thì con người lại cảm thấy không yên lòng,

thấy bất an. Tại sao mà cùng con người với nhau mà phải kiểm tra, lại phải có

kiểm chứng kiểm tra an ninh (trong loạt tranh câu chuyện Châu Á). Ý tưởng

này xuất hiện khi Đinh Ý Nhi gặp khi chị đang kiểm tra an ninh tại sân bay

cùng với những con người khác. Sự việc rất nhỏ này dường như ít ai để ý tới,

song họa sĩ Đinh Ý Nhi với tâm hồn nhạy cảm, chị đã nhìn ra được bản chất

của sự việc. Phải chăng đó là sự mất đi lòng tin giữa con người với nhau, là sự

lo lắng của bản thân họa sĩ về tình trạng xã hội. Có lẽ để bộc lộ ra cảm xúc

thật rõ ràng, cụ thể, Đinh Ý Nhi đã không ngần ngại để thân thể của người

trong tranh ở trạng thái khỏa thân, với hình ảnh biến dạng gần như châm biếm

hóa về những mặt còn tồn tại của xã hội văn minh.

Tác phẩm Security 3 (H.22, Tr.94) viền bo của tranh là một khung cửa

màu đen, qua khung cửa ấy, người phụ nữ đang quỳ gối ngồi khóc, cô ấy bị

tổn thương, cô ấy chẳng còn gì, đến bộ quần áo để che đi các bộ phận cơ thể

nhạy cảm cũng bị lột bỏ nốt, cô ấy trơ trụi, cô ấy khóc mà chẳng có ai màng

tới cảm xúc của cô ấy, không có ai cảm thương với cô ấy, chỉ có Đinh Ý Nhi

46

đồng cảm và muốn chia sẻ với cô. Người phụ nữ trong tranh bị lột trần trông

như hình dáng của con gà bị vặt hết lông, bèo nhèo, nhão nhoét. Không gian

bó hẹp như chiếc tủ điện thoại, xung quanh cô ấy là những dải băng phản

quang có màu vàng và cam và cái nền của đống giẻ lau màu xanh đã cũ, có vẻ

như con người bị biến thành một sinh thể, không khác gì con vật hay một món

hàng cần phải kiểm tra, kiểm duyệt. Khung cửa kính kia ngăn cách con người

khác nghe thấy tiếng kêu cứu của đồng loại. Người phụ nữ đã khóc gần như

hết nước mắt, cô đẫn đờ, thẫn thờ nhìn đời với đôi mắt vô cảm, mái tóc của cô

giờ cũng không còn vẻ óng mướt ngày xưa, nó xơ xác như nắm bút lông cùn

của họa sĩ. Người đàn bà giờ đã không còn sức sống, thân thể chảy nhão như

đám bột mỳ của người thợ làm bánh chưa lành nghề. Lối tạo hình này nhằm

mục đích nói lên giá trị của con người đã hết hạn sử dụng chăng (?), dù là hết

hạn sử dụng nhưng cũng vẫn cần phải kiểm tra để đảm bảo an ninh, an toàn.

Thêm vào đó, những từ Check, Security ở trên tranh để giải thích rõ ràng hơn

về nội dung của tác phẩm... Điều này nói lên một điều là trong xã hội hiện

đại, cho dù có là ai, hay bất cứ gì, việc kiểm tra vẫn cứ là cách giảm thiểu rủi

ro, điều đó chứng tỏ một xã hội phát triển về kinh tế thì cũng vẫn phải đề

phòng, sợ mất an toàn, từ “sợ” trở thành ý niệm xuất hiện trước tiên trong

dòng ý thức của con người. Đinh Ý Nhi thể hiện thái độ bất bình của mình về

tình trạng con người chỉ vì lo sợ vấn đề an toàn mà quên đi mất phẩm giá của

con người. Ở một câu chuyện khác, cũng vẫn chủ đề là Security - Bảo vệ

nhưng là một góc nhìn khác và là thái độ phản ứng của nhân vật trong tranh

mạnh hơn mà người đó phải chịu đựng. Tác phẩm Security 13 (H.23, Tr.95)

Đinh Ý Nhi lại nói tới thân phận người phụ nữ, lần này người đàn bà cũng

vẫn khỏa thân, nhưng trong tư thế phản kháng, người đàn bà ấy bộc lộ thái độ

của mình bằng cách ngồi dạng chân, bày hết nhục cảm ra nhằm phản đối sự

việc ảnh hưởng lớn tới đời tư của mình. Người đàn bà ấy được tạo hình bởi

những vệt màu cam, hồng, da người vừa khô xước vừa để gợi ra khối hình

47

của cơ thể. Các chi tiết tay chân hay viền ngoài của thân thể chỉ được nhận ra

từ những vệt bút màu lỏng, như được rải, rưới một cách vô thức. Hai ống

chân chống lên, mảnh như cái que và nó ở phía sau của hai dấu cộng. Hình

dấu cộng ở hai chân có hai nghĩa, nó là một cái cùm, để giữ chân người khỏi

chạy trốn, mà nó cũng biểu hiện ra dấu hiệu của sự cộng gộp. Rất có thể lúc

mới đầu vẽ tranh này, Đinh Ý Nhi có ý định là để cho người đàn bà ngồi quay

ngang, trong tư thế ngồi xổm, song điều này chị cảm thấy hình thể ấy chưa đủ

sức thuyết phục, sức biểu cảm chưa mạnh, chị đã thêm tay chân vào phia bên

trái của bức tranh. Chân dạng ra, rồi cánh tay chống trên đùi, cái đầu vẹo sang

bên phải, một mắt chú ý nhìn về bên phải, mắt trái chỉ có chút con ngươi nhìn

về người xem tranh, vẫn kiểu tóc bị túm lại, kéo ngược về phía sau. Trạng thái

tâm lý phẫn nộ của nhân vật được họa sĩ Đinh Ý Nhi đẩy lên cao trào. Ở tác

phẩm này, giá trị biểu cảm được thể hiện ở chỗ là Đinh Ý Nhi muốn nói đến

cảm giác bị nhục, bị thương tổn của người phụ nữ, họ muốn chống đối những

điều tồi tệ nhưng họ là phụ nữ, họ chỉ có thể tỏ vẻ thái độ của mình mà không

đáp trả được. Hai bức tranh trên đều vẽ về những người phụ nữ với những chỉ

dẫn về kiểm tra an ninh chứng tỏ vấn đề quyền con người trong xã hội ngày

nay đang bị bỏ mặc. Như vậy, dưới con mắt nhìn cuộc sống của người phụ

nữ, họa sĩ Đinh Ý Nhi trước hết muốn nói đến thế giới bản thể con người

mình, nội tâm mình. Qua những bức tranh ở triển lãm “Câu chuyện Châu Á”,

chị thể hiện thái độ của mình là gay gắt phản đối việc coi nhẹ quyền con

người. Việc phản đối ấy được thể hiện lên tranh dưới thủ pháp vừa biểu hiện

cảm xúc thật của mình, vừa làm biến dạng hình thể như là một lời châm biếm

chua cay về mối quan hệ giữa nhiều con người trong xã hội.

*Yếu tố biểu hiện về quan niệm sống và thái độ sống của con người

Trong cuộc sống của con người, sự hạnh phúc hay đau khổ phụ thuộc

vào cách nhìn nhận vấn đề, từ đó có những quan niệm sống và thái độ sống

phù hợp với bản thân và với xã hội. Với người Châu Á nói chung vẻ ngoài

48

của con người đánh giá phẩm chất của con người đó, cũng như đánh giá địa vị

xã hội. Nhưng để không bị phân biệt đối xử thì nhiều con người phải đóng vai

một con người khác, họ phải mặc những trang phục “thời trang”, “sành điệu”,

“đẳng cấp”… Ví dụ như tranh Security 11 (H.24, Tr.95) nói lên một hình ảnh

khái quát về sự đóng vai kịch của con người. Tranh diễn tả một con người

đang hai tay chống hông, bộ quần áo thời trang với hai ống tay áo như những

lá cờ rủ, tư thế này giống hệt như tư thế của những quý cô sành điệu, đang rất

hãnh diện khi khoác lên mình một cái giá trị ảo. Thế nhưng khuôn mặt cô ta

thì có vẻ như rất khó khăn cho cô để cô đóng được một vai kịch trọn vẹn, mắt

cô vẫn phải liếc nhìn sự để ý của xã hội, miệng thì đang ngoác ra tỏ vẻ khổ sở,

còn mái tóc cố cứ tưởng tóc xác xơ, lệch một bên mới gọi là thời trang. Bức

tranh chỉ có sự thay đổi của sắc đỏ nhưng mang màu của những tấm gỗ cũ kỹ,

điều này gợi đến những hình ảnh được tô vẽ trên những thùng gỗ cũ. Vẻ biểu

cảm trên gương mặt của cô gái thể hiện thái độ không đồng tình với bộ dạng

này, nó được nhấn mạnh sự tập trung từ những mũi tên bên ngoài. Nhưng con

người ấy vẫn phải đóng vai để có thể giành một vị trí trong xã hội.

Tranh Những niềm vô hạn bị bỏ quên (H.25, Tr.96) hình những người

đàn bà có làn da màu ấm nhưng sù sì, thô mộc như những vỏ cây đang gác

chân lên, một to một nhỏ, người thì quay ngang, gác chân, mặt nhìn về phía

người thưởng thức, người thì cũng ngồi gác chân nhưng lại quay người trực

diện, mặt lại nhìn đi chỗ khác, có thể là nhìn vào hư vô, nhìn vào vô hạn. Hai

con người ngồi bên nhau mỗi người có một nỗi niềm riêng trong lòng. Hai

người ngồi trên nền không gian có màu vàng, cam đỏ, trong đó màu đỏ chiếm

ưu thế, những sắc màu nóng này tựa như ánh sáng khói lửa của chiến tranh

xưa hoặc cũng có thể nói một thời hoàng kim đã qua. Còn bản thân chân dung

hai phụ nữ thì được vẽ bằng tông màu kem sáng nhưng thô ráp sù sì, không

còn cái vẻ của tuổi thanh xuân. Với người họa sĩ đã từng phải vẽ những bài

hình họa nghiên cứu cơ thể người thì việc học vẽ với người mẫu là việc quan

49

trọng và căn bản. Có thể hai con người đang ngồi trong bức tranh tâm sự với

nhau trong tranh là một cảm xúc của Đinh Ý Nhi về cái nghề nghiệp làm mẫu

vẽ cho họa sĩ này. Những con người làm mẫu cho họa sĩ vẽ, đặc biệt là mẫu

nữ, họ đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình để cống hiến cho nền mỹ thuật và

công việc này là công việc vô gía, Đinh Ý Nhi đã nhận ra điều vô giá ấy khi

những sinh viên trường Mỹ thuật bỏ quên mất những công lao của người mẫu

mỹ thuật. Màu da của hai người màu sáng nhưng tương phản với nền đằng

sau là những tảng màu đỏ, cam, hồng, vàng, bổ sung cho ý tưởng biểu hiện

trong tranh. Đó là việc người làm mẫu nữ cho họa sĩ rất đáng quý, trong

phòng vẽ, họ có thể được coi như nữ hoàng nhưng người đời chả mấy ai nhận

ra được những giá trị mà họ đã cống hiến cũng như phải bỏ tuổi thanh xuân

của mình. Đinh Ý Nhi muốn lên tiếng về sự thực này, và chị dùng tranh của

mình để tỏ thái độ của mình về vấn đề.

Sự bàng quan của con người với thời cuộc cũng được Đinh Ý Nhi chú ý

đến và đưa nó lên những tác phẩm của con người. Loạt tranh Chân dung

người Châu Á khi Đinh Ý Nhi triển lãm chung cùng với họa sĩ Hoàng Phượng

Vĩ nói lên thái độ sống của con người trong xã hội ngày nay. Ví dụ bức tranh

Chân dung người Châu Á (H.26, Tr.97) vẽ hình một chân dung đơn thuần của

một con người, nhưng với cách sử dụng bố cục và màu sắc đen trắng làm cho

người xem liên tưởng đến những bức ảnh chân dung trên mộ, nó không phải

là một con người, những hình ảnh này mang theo sự vô cảm của con người.

Quả đúng là trong xã hội ngày nay, không chỉ ở Việt Nam mà ở một số nước

thuộc Châu Á khác, đứng trước những mối nguy hiểm của người khác, con

người sọ bị liên lụy nên họ tỏ thái độ thờ ơ, với đôi mắt lờ đờ vô cảm, họ chả

thiết gì quan tâm đến những sự kiện đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày

quanh họ. Những con người ấy một mắt thì vẫn nhìn theo dõi sự việc, một

mắt thì lờ đờ ngái ngủ và u mê.

50

* Sự biểu hiện về quan niệm sáng tác hội họa với chức năng thẩm mỹ và

chức năng đánh thức nhân sinh quan của hội họa trong thời kỳ hậu hiện đại.

Điểm độc đáo trong nghệ thuật tạo hình của Đinh Ý Nhi là quan niệm về

hội họa không hoàn toàn là sự mô tả lại hiện thực khách quan như những gì

thấy được trước mắt, mà hội họa ngoài chức năng thẩm mỹ còn phải có chức

năng đánh thức quan niệm sống của cá nhân con người. Những chức năng của

hội họa mới được thể hiện ở thái độ ứng xử với nghệ thuật thông qua nội dung

và hình thức trình bày. Nếu như ở giai đoạn 1995 đến năm 2000, Đinh Ý Nhi

chỉ sáng tác với chất liệu bột màu trong hai sắc độ đen trắng, thì từ năm 2000

đến nay Đinh Ý Nhi thể hiện bằng chất liệu sơn dầu. Việc vẽ hàng loạt bức

tranh bột màu có cùng chủ đề lúc đầu là để tìm hàng loạt phác thảo thể hiện ý

tưởng trở thành lối tư duy căn bản trong việc ứng xử với nghệ thuật của chị.

Còn khi chuyển sang vẽ với chất liệu sơn dầu, Đinh Ý Nhi cũng thể hiện hàng

loạt sery tác phẩm nhưng chỉ rất kiệm màu. Vậy nhìn lại chặng đường đã qua

của chị, từ việc chuyển từ bột màu sang sơn dầu với cách thức làm hàng loạt

tác phẩm thì cũng thể hiện một xu thế thời đại công nghiệp, đó là vấn đề sản

xuất hàng loạt những sản phẩm có tính chất, chức năng giống nhau nhưng về

mặt cái riêng của mỗi cá thể thì bị bỏ qua. Như ở Việt Nam hiện nay hầu như

ai cũng muốn có nhu cầu sử dụng điện thoại IPhone, nhà nhà, người người

dùng IPhone… Như vậy Đinh Ý Nhi nhận thấy rõ vấn đề thẩm mỹ và vấn đề

quan niệm sống của con người thời hậu hiện đại, chị nhận thấy thực tại cuộc

sống xã hội đang rất đơn điệu, nhàm chán, buồn tẻ do xu thế hậu hiện đại gây

ra, nó làm mất đi những giá trị thẩm mỹ nguyên bản và những giá trị sống

đích thực, quan niệm sống căn bản của con người. Đinh Ý Nhi đã truyền đạt ý

tưởng ấy vào trong những tác phẩm của mình để nói về vấn đề nhân sinh quan

của con người trong xã hội hậu hiện đại.

* Vấn đề biểu hiện được bộc lộ rõ hơn qua cách thể hiện chất liệu, chất

cảm

51

Cho đến nay Đinh Ý Nhi đã sáng tác nghệ thuật trên ba chất liệu bột

màu, sơn dầu và giấy dó. Ngoài việc biểu hiện thái độ tình cảm, cảm xúc bên

trong nội tâm của mình bằng cách sử dụng khéo léo, có tính toán và có mục

đích các hình thể, đường nét và màu sắc ra, một yếu tố cũng góp phần làm

nên giá trị biểu hiện trong tác phẩm của họa sĩ Đinh Ý Nhi. Đó là chất cảm,

đây cũng là nhân tố khi kết hợp với những yếu tố khác sẽ tác động tâm lý trực

tiếp và mạnh mẽ tới người thưởng thức. Trong tranh của Đinh Ý Nhi, hiệu

quả của thủ pháp tạo bề mặt cho đối tượng cũng góp phần vào tiếng nói

chung, là những từ vựng mô tả tính chất được chuyển sang ngôn ngữ hội họa.

Ví dụ như nhìn cách vẽ, có thể thấy được độ dày mỏng của chất liệu, nó gợi ra

những cảm giác thô ráp hay láng mịn… và làm phong phú hơn cho sự miêu tả

đối tượng trong tranh. Ví dụ như trong tranh Những niềm vô hạn bị bỏ quên

hay tranh Thế giới nội tâm Đinh Ý Nhi, tác giả muốn biểu hiện bản chất con

người bên trong thô ráp mộc mạc, nguyên sơ, hoang dại nên họa sĩ đã sử dụng

thủ pháp tạo những vệt bút dày cộm, xơ xác hay là những nét bút mảnh, nhẹ

và lỏng lẻo. Không giống như truyền thống của hội họa biểu hiện ở Đức đã

làm là sử dụng nét đen viền dày, đậm. Đinh Ý Nhi sử dụng nét chỉ có tính

chất làm nhận ra hình thể và gợi lên cảm xúc về những con người trong tranh

của chị luôn bị những cái dây thép gai bó buộc cơ thể.

Tóm lại yếu tố biểu hiện trong tranh Đinh Ý Nhi là những biểu hiện về

bản thể, số phận con người, về quyền con người, về quan niệm sống và thái

độ sống, về quan niệm sáng tác hội họa với chức năng thẩm mỹ và đánh thức

nhân sinh quan. Những yếu tố biểu hiện của Đinh Ý Nhi đã được chị thể hiện

qua thái độ với sáng tác nghệ thuật, bằng việc biến dạng cấu trúc cơ thể, sử

dụng kiệm màu, có nhiều ký hiệu trên tranh và vẽ hàng loạt tác phẩm có cùng

một chủ đề. Như vậy sáng tác nghệ thuật của họa sĩ Đinh Ý Nhi dựa trên

những nghiên cứu, trải nghiệm về con người, về nhân sinh quan và sự tồn tại

của con người trong xã hội hiện đại và hậu hiện đại.

52

2.3. Yếu tố biểu hiện trong tranh Đinh Thị Thắm Poong

Các yếu tố biểu hiện trong tranh của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong là biểu

hiện về thái độ sống, quan niệm sống của người dân tộc thiểu số, biểu hiện về

bản sắc văn hóa dân tộc

* Sự biểu hiện về thái độ sống, quan niệm sống và tình yêu cuộc sống

của người dân tộc miền núi thông qua cách chọn và thể hiện hình ảnh người

dân tộc trong tranh

Với chị, quê hương miền núi luôn tạo nhiều cảm hứng sáng tác cho chị

chị vẽ bằng những ký ức, bằng trí nhớ, bằng tình cảm về nơi chị sinh ra. Chị

nói:

Tôi đã sống ở Lai Châu suốt thơi thơ bé, đã tắm mình trong không gian

văn hóa Tây Bắc, đã buồn vui rất nhiều với mỗi thân phận con người quê

hương tôi, và đã có một khoảng thời gian lùi xa để suy nghẫm, hồi tưởng và

vẽ lại.Tôi vẽ bằng ký ức, trải nghiệm, với cách nhìn sâu rộng hơn [27]. Qua

đó, họa sĩ thể hiện chủ đề về con người dân tộc thiểu số và thái độ sống của

họ là chủ đề ưa thích của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong. Với phong cách hội

họa có chút ảnh hưởng của trường phái siêu thực từ họa sĩ Rene' Francois

Ghislain Magritte ở chỗ hình thức biểu đạt, hình thể con người đang như là

khung cửa nhìn lên bầu trời đầy mây. Phong cách vẽ của họa sĩ Đinh Thị

Thắm Poong cũng có yếu tố biểu hiện giống như trong tranh của họa sĩ Marc

Chagall trong tác phẩm I and the Village – Tôi và làng, họa sĩ biểu hiện Pháp.

Với sự học hỏi và sáng tạo nghệ thuật từ những họa sĩ nổi tiếng, Đinh Thị

Thắm Poong đã sáng tạo ra cho mình một phong cách rất riêng, đó là sự hòa

trộn không gian tâm linh với không gian hiện thực, là tiếng nói về thái độ

sống của con người.

Tác phẩm Hóa thành hoa (H.27, Tr.98) là bức tranh đẹp, thể hiện ước

muốn được trở thành một phần của tự nhiên, không lo nghĩ, chỉ đem hương

thơm và sắc màu làm đẹp cho đời, đây là tiếng nói về tình yêu cuộc sống của

53

những con người. Tổng thể bức tranh là sự sắp đặt bố cục kết hợp tĩnh và

động, hai người phụ nữ dân tộc Dao đỏ thì trong bố cục hình vuông, chắc

chắn nhưng cũng rất mềm mại, uyển chuyển. Hình tượng hai người phụ nữ ấy

có thể là tượng trưng cho mẹ đất, có nhịp điệu, nhưng hình hai người phụ nữ

này kết hợp lại thì lại giống như ngọn núi và khoảng trời xanh ở phía sau núi,

một phong cảnh miền núi thật hùng vĩ. Bên trái bức tranh, hình người gần

giống như một vũ công ballet đang thực hiện động tác Plie vừa xoay vừa múa

trong điệu múa hân hoan vui sống của tự nhiên, của cây cỏ. Hình tượng hoa

sen và lá sen làm nền cho con người, sen có màu nâu giản dị cùng với những

phiến lá sen màu rêu càng tôn lên vẻ đẹp của con người trong bức tranh. Họa

sĩ Đinh Thị Thắm Poong bộc lộ ra quan niệm sống, thái độ sống theo tín

ngưỡng của người Dao. Đó là ước mơ sự hòa hợp của con người với thiên

nhiên. Thông qua mọi hình ảnh có trên mặt tranh, chị kể một câu chuyện, ước

muốn của con người, nhưng cũng đồng thời là ước muốn của cá nhân chị, nó

chính là bộc lộ ra mong muốn tự nơi nội tâm của chị. Tranh vẽ là sự phản

chiếu thế giới nội tâm của người nghệ sĩ. Hầu như ai cũng thích hoa bởi hoa

tượng trưng cho sự thanh khiết, sống an nhiên, tự tại, không lo không nghĩ,

sống hài hòa với tự nhiên, sống với ước vọng đem vẻ đẹp của mình làm cho

cuộc sống tươi đẹp hơn mà nó không đòi hỏi thứ gì khác. Có lẽ họa sĩ Đinh

Thị Thắm Poong cũng có cùng suy nghĩ giống như những bông hoa kia, chị

yêu cuộc sống và chị cũng muốn đem công sức của mình làm đẹp cho đời.

Trong tranh, thiên nhiên và con người giao hòa làm một làm nảy sinh suy

nghĩ trong đầu người thưởng thức về không gian thực tại chuyển sang không

gian của thế giới tâm linh, thần linh. Ở không gian tâm linh này, con người

không có lấy một khổ đau, không có sự buồn rầu, buồn bã, chỉ có niềm hân

hoan vui sống, đây cũng là ước muốn từ sâu bên trong bản chất của con người

trong xã hội. Với màu nước, họa sĩ không thể tạo những nét ganh dày cộm

như của sơn dầu, song việc sử dụng chất liệu màu nước lại đem lại hiệu quả

54

về mặt tinh thần cho bức tranh. Bản thân chất liệu màu nước đã là nhẹ, nhưng

nó còn mang ý nghĩa là êm đềm. Rồi cách mà họa sĩ tạo ra hòa sắc dịu nhẹ

trên tranh cũng đủ để nói lên ước mơ sống hòa hợp với tự nhiên của chị, của

con người.

Tác phẩm Dấu chân (H.28, Tr.98) là một câu chuyện về ký ức còn đọng

lại trong ký ức chợt ùa về trong hiện tại. Nghệ thuật chồng hình có nhiều tầng

lớp, tự bản thân cách trộn nhiều lớp không gian trên tranh tạo chiều sâu ảo

trong tranh. Đầu tiên là cái ban công, dấu ấn của người đàn ông đã lưu lại trên

sàn ban công này. Nó được nhìn từ trên xuống, giống như cái nhìn của con

người nhìn trở lại quá khứ. Hình thể là bóng dáng một con người đang trong

tư thế nằm nghỉ. Dù nằm xuống nghỉ ngơi, nhưng con người ấy vẫn vắt tay

lên trán để suy nghĩ. Con người ấy với màu sắc gần chỉ như là màu nền của

giấy dó, có điểm chút mây trắng. Không gian tiếp theo của bức tranh lại là

những hàng cây trong rừng. Nó lại thể hiện cái nhìn thẳng về thiên nhiên

trước mắt. Những hàng cây này với vẻ thân thể thì màu đen, còn tán lá lại là

màu vàng nhạt gợi lên cảm xúc của con người khi đứng dưới tán lá cây đã

chuyển sang màu cũ kĩ, màu của thời gian. Nhưng nó cũng đồng thời gợi lên

sự thật thiên nhiên đang bị tàn phá dưới bàn tay con người. Bên trên phía trái

của tranh, Thắm Poong tạo hình đám mây đen, trông cũng giống như đám

khói của cháy rừng. Và xa hơn nữa, những linh hồn của khu rừng khoác chiếc

áo màu của quá khứ, những cây ấy đang buồn. Hình hai con người đang đứng

không rõ mặt, tay chống nạnh, họ đứng nhìn về khu rừng bị cháy, trông dáng

vẻ của họ, dường như họ đang tiếc nuối cho nơi đã nuôi dưỡng con người.

Câu chuyện của Thắm Poong trong bức tranh này biểu hiện ra sự thất vọng,

không hài lòng của con người bên trong chị cũng như là số đông con người

miền núi khi không gian sống của họ bị xáo trộn. Nơi nào có dấu chân của

con người đi qua, nơi đó thiên nhiên bị tàn phá, con người như chị chỉ còn

biết thở dài ngao ngán, chỉ còn biết đứng nhìn hoặc nằm xuống suy nghĩ về

55

hiện thực trước mắt. Bức tranh Dòng suối (H.29, Tr.96) không hề có bóng

dáng của dòng suối, mà chỉ là sự phản chiếu của bầu trời trên mặt nước của

dòng suối. Dòng suối trong rừng là nơi những cô gái dân tộc soi mình chải

tóc, là nơi rừng núi in bóng, hòa trộn mình với suối thành một thể thống nhất.

Điểm nhấn trong tranh là bóng dáng của những người dân tộc Dao đỏ với

chiếc mũ đỏ to trên đầu. Đây là những người phụ nữ đã lập gia đình, họ đang

cúi mình nhìn xuống, không phải để chải tóc, mà hình như họ đang buồn.

Hình thể người nam giới với đôi vai rộng, hòa lẫn với bầu trời trong xanh.

Người đàn ông ấy đang đứng buông tay nhưng thân thể thì bao bọc cho những

người phụ nữ.

Bức tranh Hai nửa (H.30, Tr.99) vẽ hình một người đang nằm chống tay,

tư thế quay lưng về phía người xem, khuôn mặt đang cúi xuống nhìn, và một

hình dáng của người phụ nữ mang hình ảnh của mây trời. Trong tranh, tính

chất biểu cảm của hình vẽ được thể hiện ở nền rừng xôn xao của hoa lá, hình

người màu xanh ngọc lại mềm mại, ngọt ngào như hồ nước, con người đang

nằm với sắc màu nâu, xanh rêu tượng trưng cho đất. Bức tranh họa ra một

khung cảnh lãng mạn và trữ tình. Ngôn ngữ tạo hình của điêu khắc cũng theo

chị vào hội họa. Hình tượng con người được cách điệu, đơn giản hóa, chỉ là

những hình khối tròn của hệ thống tượng tròn, hình người mang hơi thở của

bầu trời tựa như dáng hình của một người phụ nữ, có lẽ nguồn nước, dòng

suối mát lành trong thâm tâm họa sĩ được hiển hiện thông qua dáng vẻ người

phụ nữ, người mẹ thiên nhiên màu xanh ngọc mềm mại đang ôm ấp chở che

cho những người con của núi rừng. Dáng điệu này giống như dáng của bà mẹ

đang hát những lời hát ru con. Hình người phụ nữ đang nằm suy nghĩ bên

trong dáng người mềm mại màu xanh ngọc kia. Cô ấy vừa nằm, vừa như tâm

sự với bà mẹ thiên nhiên, cô ấy trăn trở về cuộc sống và mẹ nước đang chia sẻ

với cô. Cả hình hai con người đều lấp ló sau những tán cây, những mảnh rừng

màu đã chuyển sang xuân. Đáng lẽ, mùa xuân, mùa của hoa mận trắng rừng

56

báo hiệu sự sống đang hồi sinh đã về với bản làng nhưng con người vẫn còn

trăn trở về cuộc sống. Ở đó, con người là hiện thân của nửa thế giới con

người, cảnh sắc thiên nhiên là hiện thân của nửa thế giới, hai nửa này vẫn cần

có nhau, núi rừng là nhà của con người trong tâm khảm của người dân tộc

thiểu số, khi cuộc sống xã hội đô thị đưa con người trở nên mệt mỏi, con

người lại muốn trở về với mái nhà xưa, nơi có mẹ thiên nhiên luôn mở lòng

chào đón những người con xa quê trở về. Bức tranh Hai nửa không cần đến

nhiều hình ảnh mà vẫn có thể làm rung động cảm xúc nơi người thưởng thức.

* Yếu tố biểu hiện bản sắc văn hóa dân tộc

Nhìn phần lớn trên các tác phẩm của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong, nhiều

tác phẩm có vẽ hình những người phụ nữ dân tộc Dao đỏ. Trong cuộc sống

của người Dao, mọi sinh hoạt, luật tục, tín ngưỡng và văn hóa đều thể hiện

tinh thần “Vạn vật hữu linh – mọi vật đều có linh hồn”, tín ngưỡng văn hóa

của người Dao ảnh hưởng bởi Nho giáo được thể hiện qua sự phân định tôn ti

trật tự, theo thứ bậc ở mỗi gia đình, mỗi dòng họ. Quan niệm sống cũng ảnh

hưởng bởi Đạo giáo, với quan niệm về con người và tự nhiên là sự hòa hợp

với nhau, mọi thứ sinh ra trong thế giới này đều khắc chế lẫn nhau, nuôi

dưỡng nhau, bổ trợ cho nhau để cùng tồn tại. Con người tôn trọng tự nhiên,

con người cũng chỉ là một phần trong tự nhiên, cho nên, khi con người chết

đi, thì chỉ là chết về thể xác, linh hồn mãi bất tử và trở về với tổ tiên và đây là

một nét trong bản sắc văn hóa của người dân tộc mà họa sĩ Đinh Thị Thắm

Poong đã nghiên cứu và biểu hiện ra trên những tác phẩm của mình.

Tranh Khuôn khổ gia đình (H.31, Tr.100) của họa sĩ Đinh Thị Thắm

Poong cũng nói lên những suy nghĩ bên trong của họa sĩ về quan hệ trong gia

đình, tình cảm của họa sĩ với gia đình mình nói riêng, của con người dân tộc

với cộng động mình sống nói chung, đồng thời bộc lộ bản sắc dân tộc. Người

Dao có phong tục tập quán theo chế độ phụ quyền, tức là coi trọng người đàn

ông trong nhà, người đàn ông luôn là người có tiếng nói, có quyền lực, còn

57

người phụ nữ sẽ giúp đỡ cho người đàn ông trong việc duy trì cuộc sống và

phát triển nó. Dấu ấn của Nho giáo thể hiện trong bức tranh này, đó là sự phân

định rõ ràng tôn ti, trật tự, theo thứ bậc ở trong mỗi gia đình, mỗi dòng họ. Từ

ý tưởng này, tranh Khuôn khổ gia đình thể hiện những nội quy, những quy

tắc ứng xử trong một phạm vi của gia đình của người dân tộc thiểu số, nó ăn

sâu vào trong ý thức của mỗi gia đình, mỗi cá nhân con người, đây cũng là

thái độ của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong về những điều không công bằng

trong bản sắc văn hóa dân tộc của mình. Ý tứ của câu chuyện được hé lộ ra,

bên cạnh bản thân mình là người dân tộc, song khi sống trong nền văn minh

đô thị, tác giả cũng vẫn phải đảm nhiệm vai trò của người phụ nữ trong gia

đình, chị vừa phải chăm sóc cho tổ ấm, chị vừa phải làm việc của bản thân.

Có lẽ tác giả chưa hài lòng lắm với bình đẳng giới trong xã hội hiện đại. Nền

tranh là núi rừng đầy sắc trắng của những cành hoa mơ, hoa mận. Với các

hình tượng đã được thể hiện trên tranh, yếu tố bản sắc dân tộc đã được biểu

hiện rõ ràng, đó là công việc được phân công rõ ràng trong gia đình. Người

phụ nữ vừa phải đảm nhiệm chăm sóc trẻ em, vừa phải giúp chồng gánh vác

việc phát triển kinh tế nhưng vẫn phải chịu sự chỉ đạo của người đàn ông, và

thực hiện công việc trong khuôn khổ, khuôn phép của gia đình, của cộng

đồng, điều này cũng nói lên thái độ chưa bằng lòng với sự bất bình đẳng giới

trong quan niệm hiện đại của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong. Bản sắc văn hóa

dân tộc còn được thể hiện qua cách chọn những hình người dân tộc trong

tranh với những trang phục đặc thù của họ, ngoài ra bản sắc văn hóa còn được

thể hiện ở nếp nghĩ, những luật lệ của cộng đồng hay là tín ngưởng của người

dân tộc. Họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong đã khai thác những hoa văn trên trang

phục của người dân tộc đưa vào các tác phẩm của mình. Đó là những hình

hoa thị, hoa mơ, hoa mận, rồi những rừng cây, con suối, trái núi là những nơi

sinh sống đặc trưng của người dân tộc miền núi.

58

Tác phẩm Cây đu đủ (H.32, Tr.100) là một hình ảnh góp vào bản sắc

văn hóa dân tộc trong sáng tác của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong. Bức tranh

vẽ một người phụ nữ dân tộc Dao đứng giữa bức tranh tương phản với những

hình con người treo ngược trong tranh. Bức tranh còn có sự xuất hiện của

những vật nuôi như gà, lợn rồi nửa quả mít bổ dọc treo ngược trên một góc

tranh. Không nói đến yếu tố siêu thực trong tranh, những hình con vật nuôi và

những người phụ nữ quay ngược và các hình ảnh khác về thiên nhiên, cây cỏ

có mặt trong tranh lại nói về bản sắc văn hóa dân tộc Dao, họ quan niệm mọi

vật đều có linh hồn và những hình ảnh con vật, phong cảnh kia được tạo hình

gần giống như ở tranh thờ miền núi, nó được vẽ chồng tầng để biểu hiện

không gian, những hình ảnh đó mang tinh thần tâm linh nhiều hơn là mang

tinh thần hiện thực cuộc sống. Về mặt tạo hình, trong tranh của Đinh Thị

Thắm Poong là những hình ảnh trong ký ức của chị được thể hiện ra trên

tranh nên những bức tranh của chị thể hiện cuộc sống đã có trong nội tâm họa

sĩ. Rồi bản sắc văn hóa dân tộc còn được thể hiện ở bức tranh H’Mong

fashion. Sống giữa những quan niệm hà khắc của cộng đồng nhưng người dân

tộc H’Mong vẫn cảm thấy thoải mái, việc đó được thể hiện ở tình cảm vui vẻ

của những cô gái dân tộc đang xúng xính trong những chiếc váy sặc sỡ.

Những công việc hàng ngày của con người dân tộc miền núi trong ký ức cũng

theo ngòi bút của họa sĩ mà hiện ra, đó là những công việc trồng trọt, chăn

nuôi và chăm sóc gia đình. Hình ảnh những bà mẹ vừa địu con trên lưng vừa

làm công việc trồng trọt trên nương rẫy biểu hiện cái nhìn so sánh về phụ nữ ở

đô thị và miền núi. Nếu như ở đô thị hay đồng bằng, người phụ nữ sau khi

sinh con có thể ở nhà để bồi dưỡng sức khỏe, nhưng những phụ nữ dân tộc

miền núi không thể nghỉ ở nhà mà họ phải đi làm công việc nặng nhọc sau

sinh ít ngày. Điểm này biểu hiện thái độ không bằng lòng của họa sĩ về quan

niệm cổ hủ với cuộc sống của những người phụ nữ. Tranh rich Hues of life II

(H.33, Tr.101). Ngoài ra còn có nhiều tranh có yếu tố biểu hiện về bản sắc

59

văn hóa dân tộc như tranh Cuộc sống đẹp mãi vững bền, tranh Sự nỗ lực…

Tranh Cuộc sống đẹp mãi vững bền (H.34, Tr.101) chỉ ra rõ thêm về cách

người dân tộc thiểu số làm việc trên nương rẫy, vừa làm vừa địu con, những

lúc họ không địu con trên lưng thì họ lại đeo gùi, mặt lúc nào cũng cúi xuống.

Hình ảnh này gợi ý lên tưởng đến sự cam chịu số phận của con người, họ chịu

đựng đến nỗi họ quên đi mình là ai trong cuộc đời này và tại sao họ phải chịu

những hà khắc của luật tục trong bản sắc văn hóa. Như vậy, với cách diễn họa

hình phẳng cho nhân vật trong tranh, họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong cũng đã

nêu được trạng thái tâm lý của con người trong tranh của mình, sự kết hợp

phương pháp tạo hình vừa có hơi hướng tả thực, vừa có sự chủ động trang trí

cũng là một khía cạnh về nghệ thuật biểu cảm tâm lý đã có trong lý thuyết tạo

hình của khuynh hướng hội họa Biểu hiện. Yếu tố biểu hiện trong tranh của

Đinh Thị Thắm Poong là biểu hiện về thái độ sống, quan niệm sống và bản

sắc văn hóa của người dân tộc thiểu số.

Tiểu kết

Nội dung chương 2 tập trung vào nghiên cứu về yếu tố biểu hiện trong

tranh của cả ba họa sĩ, hình thái, đặc điểm của yếu tố biểu hiện trong tranh.

Trong chương này, yếu tố biểu hiện trong tranh của ba họa sĩ là một thành

phần không thể thiếu để tạo nên tổng thể một tác phẩm, thông qua phương

tiện biểu đạt, yếu tố biểu hiện làm bộc lộ ra cái nhìn nhận, quan điểm, thái độ

của họa sĩ với thế giới bên ngoài, đồng thời bộc lộ ra cái cảm xúc sâu xa nhất

đến từ nội tâm của họa sĩ. Lý Trần Quỳnh Giang bộc lộ ra thế giới riêng tư

của mình, nó cô đơn và nhiều thương tổn. Bên cạnh sự cô độc trong cuộc đời

mình, Lý Trần Quỳnh Giang mong muốn, khát khao một thế giới tự do tràn

đầy hạnh phúc cho những người phụ nữ trong xã hội. Sở trường nghệ thuật

chủ yếu của Lý Trần Quỳnh Giang là tạo hình bằng cách đục, khắc lên những

bản gỗ, hình thể con người khi bị cào xước, khi bị đục khoét, những vết khắc

sâu hay nông giúp chị tạo hiệu ứng về hình khối và những hình tượng trong

60

tranh hầu như chiếm đoạt hết cả diện tích bề mặt tấm gỗ hay tấm toan. Những

con người có khuôn mặt hốc hác, mắt trũng sâu, bàn tay nghều ngào, đôi chân

gân guốc, khô khốc… là những hình ảnh mang đầy dấu hiệu biểu cảm. Họa sĩ

Đinh Ý Nhi thì bộc lộ ra những vấn đề thuộc về nội tâm bên trong con người

chị, con người nói chung, chị thể hiện ra sự tồn tại của cá nhân con người

trong xã hội, nhưng sự tồn tại đó lại nằm trong mối liên hệ đầy sự ngờ vực,

toan tính. Chị tạo hình con người không như vẻ bề ngoài chúng ta thấy trong

đời sống thực, nó là những hình dạng khái quát, khái niệm về số phận, cuộc

đời con người. Đinh Thị Thắm Poong thì thổi vào tranh sự hòa hợp của con

người với tự nhiên và qua đó biểu hiện bản sắc dân tộc hài hòa mềm mại

nhưng cũng rất quyết liệt.

61

CHƯƠNG 3

NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU YẾU TỐ BIỂU

HIỆN TRONG TRANH

3.1. Sự tương đồng và khác biệt về yếu tố biểu hiện trong tranh của

ba nữ họa sĩ

Để thấy được sự tương đồng và khác biệt về yếu tố biểu hiện trong tranh

của ba họa sĩ, điều cần thiết là phải so sánh về cách tạo hình nhân vật, cách

biểu cảm về màu sắc, chất liệu và cách lựa chọn đề tài giữa ba họa sĩ.

3.1.1. Sự tương đồng về yếu tố biểu hiện

*Sự tương đồng về cách chọn nội dung đề tài

Có thê nói, sự tương đồng của ba họa sĩ đều chọn nội dung đề tài đều là

vẽ về cuộc sống của con người, về nội tâm và thái độ sống của con người.Cụ

thể là ba họa sĩ chọn đối tượng là người phụ nữ trong cuộc sống hiện đại. Với

trường hợp của ba họa sĩ Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong và Lý Trần

Quỳnh Giang, có hai họa sĩ thuần phong cách biểu hiện là họa sĩ Đinh Ý Nhi

và Lý Trần Quỳnh Giang. Còn họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong là họa sĩ học hỏi,

kết hợp cả biểu hiện và siêu thực trong sáng tác của mình. Mỗi họa sĩ đại diện

cho giới họa sĩ nữ ở Việt Nam sau thời kỳ Đổi mới, họa sĩ Đinh Ý Nhi có thể

coi như là người đại diện thế hệ đầu cho họa sĩ nữ ở Việt Nam sau Đổi mới,

có những quan niệm mới về hội họa, đó là hội họa ngoài chức năng thẩm mỹ

còn phải có chức năng đánh thức nhân sinh quan. Qua việc ứng xử nghệ thuật

với thái độ nghệ thuật khác lạ, Đinh Ý Nhi nghĩ rằng việc vẽ về những cái

mới hay cái lạ hoặc về hiện thực cuộc sống đến thời điểm này cũng không

quan trọng nữa, hội họa biểu hiện phải biểu hiện ra được tầm nhìn xã hội

rộng hơn, sâu hơn. Tiếp đến là sự góp mặt của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong

và gần đây nhất là họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang.

* Sự tương đồng về biến dạng hình thể con người

62

Về mặt tạo hình nhân vật, bởi cả ba họa sĩ là phụ nữ, nên những vấn đề

về phụ nữ trong xã hội mà họ đang sống dễ được các họa sĩ đồng cảm, các

họa sĩ đã lấy đối tượng trong tranh của mình trước hết là bản thân, sau đó là

những người phụ nữ trong xã hội. Cách tạo hình nhân vật, phụ nữ ở trong

tranh của ba họa sĩ đa phần làm xấu đi vẻ ngoài của người phụ nữ, họ không

muốn nói về cái đẹp của người phụ nữ mà họ muốn nói về hiện thực ẩn chứa

bên trong con người, đặc biệt là phụ nữ. Điều này phù hợp với quan niệm

trong sáng tác của khuynh hướng hội họa Biểu hiện: đó là phải xuất phát từ

bản thân mình, đi vào diễn tả thế giới nội tâm của mình.

*Sự tương đồng về cách sử dụng màu sắc

Họa sĩ Đinh Ý Nhi và họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang đều có cách thể hiện

màu sắc đều là rất ít màu. Sự tương đồng về màu này chủ yếu từ nhu cầu nội

tại trong sáng tác của họa sĩ. ĐinhÝ Nhi chỉ sử dụng sắc độ đen trắng ở những

năm 1995 – 2000 và từ sau năm 2000, màu sắc của chị có sự chuyển biến từ

hai sắc độ đen trắng sang những màu đỏ, chút ánh cam, chút màu hồng da,

màu kem và cũng rất ít màu xanh blue. Bảng màu của Đinh Ý Nhi có sự thay

đổi từ gay gắt chuyển sang dịu nhẹ rồi lại gay gắt và khô khốc… Còn họa sĩ

Lý Trần Quỳnh Giang với những tác phẩm khắc gỗ, tự bản thân tấm gỗ đã có

màu nâu nhạt cho đến đậm, màu tự nhiên và màu đen là màu hóa học được

kết hợp với nhau, khi chuyển sang sơn dầu, họa sĩ cũng chỉ sử dụng rất ít

màu, là những màu xanh gam trầm, hay những gam màu lạnh buốt, hay màu

vàng bủng beo. Còn họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong chọn đề tài vẽ về cuộc sống

của con người với những hoa văn từ văn hóa thêu thùa của đồng bào dân tộc,

chị sử dụng mới nhìn thoáng qua thì có vẻ rất nhiều màu, nhưng về cơ bản

vẫn là những màu nguyên gốc trong bản sắc văn hóa của người dân tộc, là

những sắc độ khác nhau của những màu ấy.

* Sự tương đồng về cách thể hiện chủ đề

63

Nếu như họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang để lại những dấu hiệu về về bản

thể con người mình cùng những cung bậc cảm xúc khá nhau trên tranh của

mình, đa phần những tình cảm ấy được bộc lộ ra là lo lắng, buồn, cảm thấy cô

đơn trong đời sống của mình. Họa sĩ Đinh Ý Nhi bộc lộ ra những lo lắng về

thân phận con người, những dấu hiệu biểu lộ về trạng thái tâm linh bên trong

mình cũng như những cảm nhận về đời sống nội tâm của những con người

trong xã hội. Họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong với niềm yêu thích vẽ về những

con người miền núi và tình cảm bên trong của chị dành cho những con người

nơi quê hương của chị nhưng khi nhận thấy cuộc sống có những vấn đề phức

tạp gây hậu quả nghiêm trọng cho cuộc sống thì chị tỏ ra lo lắng là nhiều hơn.

Vậy qua phân tích kỹ về cách thể hiện đời sống của con người , nhìn bề ngoài

thì họ có vẻ khác nhau về phong cách thể hiện nhưng thực ra vấn đề bản chất

mà ba họa sĩ này có cùng một điểm tương đồng, đó là cả ba họa sĩ đều hướng

đến tâm linh con người, tức những tình cảm trong nội tâm của mình của con

người nói chung, các họa sĩ đều biểu hiện ra sự lo lắng về cuộc sống của con

người mà đây cũng là một khía cạnh của yếu tố biểu hiện, biểu hiện sự lo lắng

của cá nhân họa sĩ với cuộc sống của con người nói chung.

* Sự tương đồng về bày tỏ thông điệp với xã hội

Sự tương đồng này về cách nhìn nhận của xã hội về số phận con người

và mong muốn được thay đổi cách nhìn nhận cũng như tư duy của xã hội đối

với giới nữ trong xã hội hiện đại. Ví dụ trong tranh của họa sĩ Đinh Thị Thắm

Poong, chị thể hiện ngoài những con người dân tộc miền núi và cuộc sống của

họ trong bản sắc dân tộc ra thì điều mà họa sĩ muốn gửi thông điệp đến xã hội

đó là mong muốn có sự bình đẳng giới giữa những con người trong xã hội

hiện đại, đồng thời chị nói lên thông điệp về sự tồn tại của con người. Họa sĩ

Đinh Ý Nhi truyền tải thông điệp về thái độ sống của con người đang cần phải

lưu tâm, nhất là khi xã hội phát triển thì cũng kéo theo sự bàng quan, vô tâm

của nhiều con người. Họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang biểu hiện thông điệp về

64

đòi hỏi sự tự do cá nhân con người về mọi mặt từ cách sống cho đến đời sống

riêng tư, thông điệp đó đòi hỏi xã hội phát triển thì cũng cần phải thay đổi thái

độ về cách nhìn nhận con người, mong muốn xã hội có những cái nhìn cởi mở

hơn.

3.1.2. Sự khác biệt về yếu tố biểu hiện của ba họa sĩ

* Sự khác biệt về tạo hình nhân vật

Mỗi họa sĩ là một cá thể con người có cá tính khác nhau, môi trường

sống khác nhau và chịu ảnh hưởng của giáo dục khác nhau nên lối tạo hình

trong sáng tác của các họa sĩ này đều mang cái riêng. Họa sĩ Đinh Ý Nhi

thường diễn tả nội tâm bên trong mình cũng như bên trong người phụ nữ của

xã hội, với thái độ nghệ thuật của mình, chị không đi vào diễn tả những vẻ

đẹp quen thuộc của cuộc sống, mà cái đẹp là ở chỗ bản chất của sự vật, khi

vào tranh, nó thể hiện qua sự no đủ của màu. Cho nên chị bóp méo và làm

biến dạng hình người, để cho những hình người ấy khỏa thân để nói cụ thể

hơn về vấn đề tồn tại của con người trong xã hội. Ở phần lớn tranh của chị,

thái độ tình cảm với xã hội là sự lo lắng, không đồng ý với việc đối xử chưa

công bằng với người phụ nữ trong xã hội. Tuy nhiên, điều này chưa phải là lý

do chị tạo hình với lối vẽ biến dạng thân thể con người hay phong cách thể

hiện một cách hoang dại có mục đích. Cách tạo hình biến dạng thân thể con

người đó của chị xuất phát từ sự cảm nhận bản thân mình. Đặc thù tạo hình

trong tranh của Đinh Ý Nhi là chị không vẽ nhiều thứ khác làm phân tán sự

chú ý vào hình thể chính trong tranh. Chị dồn toàn bộ ép buộc người xem phải

được thu hút về vấn đề chị đặt ra trong tranh. Bên cạnh việc biến dạng hình

thể, phép châm biếm, đả kích, phúng dụ cũng xuất hiện trong tranh. Ví dụ

như loạt tranh Câu chuyện Châu Á, chị vừa bóp hình, vừa làm tư thế của con

người có tính giễu cợt, những con người ngồi khỏa thân, thân thể chảy nhão,

lại còn ngồi dạng tè he ra như để trêu ngươi người làm cho cô ta bị tổn

thương. Cũng là làm biến dạng hình người hoặc hư cấu hình ảnh, sự dụng sự

65

ẩn dụ về con người mình nhưng họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang lại tạo hình

nhân vật trong tranh của mình có tâm hồn già nua, xấu xí, điên dại giống như

những linh hồn méo mó lệch lạc, bệnh hoạn, ma quái. Nó được thể hiện ở

những nét khắc đanh sắc, sần sùi, thô nhám và còn bị cào xước điên cuồng…

Những tạo hình đó biểu hiện về bản thể con người họa sĩ, nó có ý nghĩa cá

nhân cao hơn việc tạo ra vẻ đẹp, quan niệm thẩm mỹ vốn được coi là chuẩn

mực trong hội họa truyền thống. Khác với Đinh Ý Nhi và Lý Trần Quỳnh

Giang, họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong có phong cách tạo hình nhân vật là lấy

hình tả ý và tạo hình nhân vật có chức năng kể chuyện. Những hình này đôi

khi không cần phải vẽ hết đầy đủ các chi tiết, những hình này được chắt lọc,

chỉ lấy cái dáng để nói lên tâm trạng của con người. Thêm vào đó, chị kết hợp

yếu tố trang trí và yếu tố siêu thực, kỹ thuật chồng hình nhiều lớp để biểu hiện

sự tồn tại của nhiều không gian, thời gian, thể hiện ý nói về những khoảnh

khắc thời gian được chồng lên nhau theo đã phát triển của cuộc sống.

* Sự khác biệt về cách sử dụng về màu sắc và thể hiện chất liệu khi bộc

lộ ý tưởng

Do việc mỗi họa sĩ là một cá nhân có cá tính riêng, sở trường riêng nên

việc sử dụng màu sắc và cách thể hiện chất liệu cũng khác nhau. Họa sĩ Đinh

Ý Nhi với sở trường là sơn dầu, họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang với chuyên môn

là khắc gỗ, còn Đinh Thị Thắm Poong lại yêu thích sử dụng màu nước trên

giấy Dó. Màu sắc tự bản thân nó không có ý nghĩa gì, nhưng khi ở trong

những trường hợp cụ thể hay cách nó được kết hợp thì nó mang lại giá trị liên

tưởng và biểu cảm cho tác phẩm hội họa. Màu sắc trong tranh Đinh Ý Nhi

không có nhiều, rất kiệm màu. Chỉ có hai sắc độ đen và trắng trong thời kỳ

đen – trắng. Rồi khi chuyển sang vẽ sơn dầu, màu của chị cũng rất khiêm tốn.

Màu của chị không mang vẻ trong trẻo, ngọt ngào, ấn tượng như những

khuynh hướng khác, nó chỉ là những mảng màu đùng đục, vội vã, khô khốc,

đắng ngắt. Màu đỏ thì bầm tím, màu trắng thì cũ nát hoặc màu trắng sắc hồng,

66

trắng sắc xanh chỉ đủ để nhận ra cảm giác ấm áp hay lạnh lẽo. Còn màu trong

tranh của Lý Trần Quỳnh Giang là màu của tấm gỗ cộng với những sắc độ

đen trắng trong những tranh khắc mộc bản hoặc chỉ là những gam màu nâu

trầm, xanh rêu, vàng bệnh hoạn và những mảng trắng cũ kỹ, nhàu nát trong

các tranh sơn dầu. Giữa hai họa sĩ này có một điểm chung về màu sắc trong

diễn tả là không tạo ra những sắc độ tinh tế, tạo độ sâu trong tranh như họa

phái Cổ điển hay Ấn tượng. Sức mạnh biểu cảm tập trung vào độ đậm nhạt

của màu, gợi lên ánh sáng trong chính hình thể như trong tranh trang trí, lối sử

dụng kiệm màu này gợi lên tinh thần nguyên bản của hội họa Biểu hiện. Họa

sĩ Đinh Thị Thắm Poong với niềm yêu thích văn hóa thêu thùa cùng với sự ưa

thích sắc mầu của người dân tộc thiểu số, chị đã thể hiện những màu sắc dịu

nhẹ nhưng cũng có phần yêu đời, yêu cuộc sống. Nhìn tổng thể thì màu sắc

của chị sử dụng trong tranh không giống với những mầu sắc mà hai họa sĩ

Đinh Ý Nhi và Lý Trần Quỳnh Giang đã thể hiện, nhưng xét về bản chất, họa

sĩ Đinh Thị Thắm Poong cũng lợi dụng yếu tố màu để thay lời muốn nói trong

tranh của mình giống như hai họa sĩ kia.

* Sự khác nhau về cách lựa chọn đề tài giữa ba họa sĩ

Ở cả ba họa sĩ việc chọn chủ đề là nói về cảm xúc bên trong của bản thân

mình, về tình cảm bên trong của người phụ nữ, tuy nhiên, mỗi họa sĩ đều chọn

cho mình những đề tài khác nhau. Họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong chọn đề tài

về cuộc sống, sinh hoạt của người dân tộc thiểu số, những đề tài ấy được lan

tỏa ra ở nhiều tác phẩm màu nước trên giấy Dó một cách riêng biệt. Sự lựa

chọn đề tài về cuộc sống, thái độ sống của người dân tộc thiểu số cũng như

bản sắc văn hóa để họa sĩ bộc lộ thái độ tình cảm một cách sâu hơn, rộng

hơn. họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang lựa chọn đề tài về những khía cạnh về đời

sống của bản thân, họa sĩ Đinh Ý Nhi biểu đạt đề tài về tâm hồn, cảm xúc của

mình, của người phụ nữ trước những sự kiện trong cuộc sống và vấn đề về sự

tồn tại của con người trong xã hội hiện đại.

67

3.2. Giá trị của yếu tố biểu hiện trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh

Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong

Một bức tranh gây được cảm xúc cho người xem là một bức tranh có giá

trị nghệ thuật, giá trị nghệ thuật đó nằm ở chỗ kết hợp các yếu tố tạo hình

nghệ thuật một cách hài hòa và “biểu hiện ra được chính họa sĩ, biểu hiện

những gì họa sĩ cho là quan trọng, có ý nghĩa nhất, phản ánh các khía cạnh

khác nhau trong cuộc sống của chính họa sĩ” [37]

Giá trị nghệ thuật của một tác phẩm nghệ thuật hội họa còn là tổng hòa

các giá trị như:

Thứ nhất: tác phẩm có giá trị lịch sử tức vấn đề thời gian, khoảnh khắc

mà sự việc đó diễn ra duy nhất một lần, không có lần thứ hai.

Thứ hai : tác phẩm đó có giá trị về mặt thẩm mỹ.

Thứ ba : tác phẩm đó có giá trị văn hóa.

Với vấn đề đặt ra ở phần này là giá trị nghệ thuật của yếu tố biểu hiện

trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Thị Thắm Poong và Đinh Ý Nhi.Yếu

tố biểu hiện được coi như là một trong những nhân tố làm nên giá trị nghệ

thuật của tác phẩm, nó cũng phải thể hiện ra được những khía cạnh giá trị như

trên đã nêu. Trong những tác phẩm của họa sĩ Đinh Ý Nhi, yếu tố biểu hiện

nói lên được thời mà sự kiện ấy đã diễn ra, nó mang tính lịch sử, thời gian. Ví

dụ tranh Trẻ em trong chiến tranh, tranh thể hiện được khoảnh khắc Việt Nam

một thời đã diễn ra trong chiến tranh, khoảnh khắc mà Đinh Ý Nhi nắm bắt

được cả không khí đau thương bao trùm trên quê hương mình. Về mặt thẩm

mỹ, lối tạo hình không chú trọng vào tả như thật mà tả cái thần thái, không

khí của sự kiện. Cái đẹp trong tác phẩm này là cái đẹp của sự chân thực, đẹp ở

sự điều tiết hình thể cũng như tương quan sắc độ đen trắng, đem lại tương

quan cân bằng về thị giác. Ở tranh Lý Trần Quỳnh Giang, yếu tố biểu hiện là

sự bộc lộ tâm trạng người họa sĩ, đời sống nội tâm của chị. Những dấu hiệu

bộc lộ trạng thái tình cảm, đời sống cá nhân và suy nghĩ của chị về quyền tự

68

do cá nhân mang lại cho tác phẩm những giá trị nghệ thuật riêng, giá trị của

những điều thầm kín nằm sâu bên trong bản thể con người, nó vừa mang dấu

ấn cá nhân vừa để nói lên cái tồn tại chung trong xã hội, mà đó cũng là bản

sắc riêng của họa sĩ.

Trong tranh của họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong, người thưởng thức nhận

ra giá trị nghệ thuật ở tác phẩm là bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa riêng của

con người dân tộc miền núi. Giá trị nghệ thuật này lại được xây dựng nên từ

những hình thể, chất liệu, kỹ thuật thể hiện, màu sắc, không gian… Những

dấu hiệu thể hiện tâm trạng của con người trong tranh, sự sắp đặt hình mảng,

màu sắc và cách chồng hình trong tranh của chị giúp cho người xem hiểu rõ

hơn nội dung mà họa sĩ muốn truyền đạt, cảm nhận được tình yêu cuộc sống

của cá nhân họa sĩ cũng như của cộng đồng người dân tộc thiểu số, hiểu hơn

về giá trị lịch sử , thẩm mỹ, văn hóa mà tác phẩm truyền tải tới người xem.

3.3.Vai trò của giới tính trong việc bộc lộ ý tưởng ở tranh của Lý Trần

Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong

Giới tính có vai trò cũng tương đối quan trọng trong sáng tác của họa sĩ,

tùy vào mỗi cá nhân họa sĩ có môi trường sống, quan điểm sống như thế nào

thì giới tính và tính cách cũng có dấu ấn trên tác phẩm của họ. Có họa sĩ là

nữ giới nhưng với cá tính mạnh mẽ như họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang thì cái

mạnh mẽ ấy vẫn toát lên giới tính nữ trong tranh của chị, hay như họa sĩ Đinh

Ý Nhi là phụ nữ, nếu đã gặp được chị ở ngoài đời thực, không ai nghĩ một

người phụ nữ có nét giản dị, nhẹ nhàng như chị mà chị lại sáng tác những

bức tranh phản ánh phê phán xã hội mạnh mẽ như vậy. Giới tính và cá tính

của họa sĩ là hai khía cạnh khác nhau trong bản thể mỗi con người, nó gần

như không giống nhau, tuy nhiên với mỗi người họa sĩ dưới góc nhìn giới tính

của mình thì những sự việc liên quan đến giới tính của mình dễ được họa sĩ ở

giới đó chú ý và đưa những trải nghiệm ấy lên tác phẩm. Như vậy rõ ràng với

giới tính khác nhau thì tạo hình nghệ thuật ở mỗi giới là khác nhau. Sự khác

69

biệt này ở chỗ là các họa sĩ Đinh Ý Nhi, Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Thị

Thắm Poong là phụ nữ nên họ rất hiểu được tình cảm ẩn chứa bên trong đời

sống của người phụ nữ. Có ý tưởng về cuộc sống, tâm tư tình cảm của người

phụ nữ, nên tranh của họ đầy chất nữ tính. Những đức tính của người phụ nữ

hiện đại vẫn hiện lên trong tạo hình về người phụ nữ, nó thể hiện sự dịu dàng,

duyên dáng, đức hy sinh, vị tha, tính khiêm tốn, giàu tình cảm và yêu thương.

Xuất phát từ lòng yêu thương con người, đặc biệt là thân phận của những

người phụ nữ, các họa sĩ cảm thấy xót xa, lo lắng cho cuộc sống của họ khi

những người phụ nữ chưa được đánh giá đúng mực vai trò hay sự thiếu bình

đẳng trong đối xử. Ngược lại, những họa sĩ nam như họa sĩ Lê Quảng Hà, họa

sĩ Vũ Thăng, họa sĩ Nguyễn Xuân Tiệp, Doãn Hoàng Lâm cảm thấy lo lắng

cho cuộc sống của con người trong xã hội hiện đại ở phạm vi rộng hơn và

dưới góc nhìn của họa sĩ nam. Họa sĩ Lê Quảng Hà thì bộc lộ sự lo lắng của

mình về xã hội đầy chiến tranh, bạo lực, sự thú tính của con người nên việc sử

dụng nhân tố biểu hiện để bộc lộ ý tưởng biến tranh của mình như là một tấm

gương, để tất cả mọi người soi xét lại bản thể con người mình. Cách tạo hình

nghệ thuật trong tranh của họa sĩ Lê Quảng Hà thể hiện khí chất của nam giới

ở chỗ là họa sĩ vẽ những hình khối góc cạnh, sắc nét, tính hay nóng giận, khó

kiềm chế cảm xúc, dễ bùng nổ của người đàn ông cũng được đưa vào tranh.

Những hình thể gợi ý về con người trong tranh của họa sĩ Lê Quảng Hà

thường xuyên ở trạng thái trợn ngược con mắt, những con mắt ấy có thể nổ

bất cứ lúc nào. Sự mạnh mẽ, hay nóng giận của nam giới còn được thể hiện ở

màu sắc làn da, khi con người nóng giận thì đỏ mặt tía tai, đôi khi là thâm tím

cả mặt. Ví dụ tranh Liên minh (H.36, Tr.103) Họa sĩ Vũ Thăng có hiểu biết

sâu sắc về cuộc sống của người dân tộc thiểu số ở vùng Sa Pa, họa sĩ đưa

những biểu tượng trong văn hóa của người dân tộc thiểu số hoặc những hình

ảnh mang tính nguyên thủy, cổ xưa vào tranh của mình. Qua những tác phẩm,

tác giả biểu hiện khí chất người nam giới mạnh mẽ, người đàn ông, nam giới

70

trong tranh của họa sĩ là người chăm lo, bảo đảm sự an toàn cho cả cộng

đồng. Tính cách người nam giới trong tranh của họa sĩ Vũ Thăng được thể

hiện qua những nét vẽ dứt khoát nhưng cũng rất lãng mạn. Màu sắc của họa sĩ

thiên về những màu gợi lên khí chất anh hùng của dân tộc. Họa sĩ Nguyễn

Xuân Tiệp sử dụng yếu tố biểu hiện để bộc lộ ý tưởng về sự khát khao sống

trong một thế giới an nhiên tự tại, cuộc đời con người ở thế giới này chỉ là cõi

tạm. Sự biểu hiện đầy chất nam tính được thể hiện trong các tác phẩm của họa

sĩ, đó là khí chất của người trí nhân, quân tử, thể hiện thái độ điềm đạm hòa

nhã với cuộc sống để tự mình đi đến con đường đạt “Đạo”, “Thân Thần hợp

nhất”. (H.40, Tr.105). Như vậy, mỗi họa sĩ là một con người có cá tính riêng,

nhân cách riêng, thông qua việc sử dụng những nhân tố biểu hiện mang chất

giới tính riêng nên việc bộc lộ ra những ý tưởng nghệ thuật trong tranh của

các họa sĩ cùng là khác nhau. Điều đó chỉ ra yếu tố về giới tính cũng quan

trọng trong hội họa biểu hiện và giúp cho họa sĩ một cơ sở nền tảng trong việc

bộc lộ ý tưởng.

3.4. Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài

Qua quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi đã có một số hiểu biết nhất định

về mặt lý luận và mặt thực tiễn. Về mặt lý luận, đó là những hiểu biết về quan

niệm tạo hình của chủ nghĩa biểu hiện, các đặc trưng riêng, trên cơ sở nghiên

cứu yếu tố biểu hiện của ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và

Đinh Thị Thắm Poong, tôi đã nhìn nhận được sự phát triển của hội họa biểu

hiện sang hướng mới hơn so với truyền thống của hội họa biểu hiện đã có.

Phần tư tưởng nghệ thuật cốt lõi của hội họa biểu hiện là thể hiện về tình cảm,

trạng thái cảm xúc của tác giả, mọi vấn đề bên trong của con người, đó là

những vấn đề về tâm linh, nội tâm của họa sĩ, những trạng thái cảm xúc bên

trong của họa sĩ phong phú và đa dạng, nó thể hiện phần nào đời sống của họa

sĩ. Những cung bậc cảm xúc qua tranh của họa phái biểu hiện trở nên rõ ràng,

cụ thể, đưa người xem đi đến cảm nhận được trực tiếp cảm xúc của họa sĩ một

71

cách nhanh chóng. Với quan niệm là vẽ về thái độ, tình cảm bên trong của

con người mà không quan tâm tới hiện thực bên ngoài nên việc vẽ cho giống

hình ảnh thực tế là không có giá trị, giá trị nghệ thuật của tác phẩm hội họa

biểu hiện là nó thể hiện được đúng thật trạng thái tâm linh một cách đơn giản

nhất nhưng mang lại nhiều cảm xúc nhất, trực tiếp và nhanh nhất. Do đó hội

họa biểu hiện phải chắt lọc hết những gì không có giá trị biểu cảm ra khỏi

ngoài tranh mà tập trung vào những yếu tố gây được sự biểu cảm mạnh nhất.

Yếu tố gây ra sự biểu cảm mạnh nhất ấy được gọi là yếu tố biểu hiện, là một

yếu tố quan trọng nhất để tạo ra giá trị cảm xúc của tác phẩm. Đương nhiên,

để nhận ra được những yếu tố biểu cảm có trên tranh, thì người xem phải tìm

thấy những dấu hiệu dẫn dắt cảm xúc ấy. Đó là sự kết hợp ngôn ngữ của hội

họa gợi ra sự liên tưởng, kỹ thuật thể hiện, phương pháp trình bày nội dung và

ý tưởng. Yếu tố biểu hiện trong tranh có thể được coi như là cầu nối giữa họa

sĩ và người thưởng thức, người họa sĩ sử dụng các phương tiện nghệ thuật để

truyền đạt cảm xúc của mình về những trải nghiệm mà họa sĩ đã gặp tới người

xem tranh, người xem tranh dựa vào những dấu hiệu thể hiện cảm xúc ấy để

biết được ý tưởng cũng như nội dung sáng tạo của họa sĩ. Tuy nhiên, với

người xem là người được giáo dục nghệ thuật và có những kiến thức nhất

định thì việc nhận ra được ý tưởng trong bức tranh có yếu tố biểu hiện khá là

dễ dàng, còn người chưa được hoặc ít được giáo dục mỹ thuật nếu họ muốn

hiểu được ý tưởng thì họ chỉ hoàn toàn vào trực giác cũng như vốn sống của

họ. Điểm mới lạ, độc đáo về giá trị nghệ thuật hội họa của ba họa sĩ Lý Trần

Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong ở chỗ là các họa sĩ này

đã tạo ra được ra giá trị đại chúng, bình dân, tinh thần đương đại trong tác

phẩm của mình. Các tác phẩm của ba họa sĩ này vừa để bộc lộ cảm xúc nội

tâm cá nhân, vừa biểu hiện thông điệp cá nhân đối với xã hội, đồng thời tạo ra

được giá trị bình dân, phù hợp với mọi tầng lớp xã hội, đây chính là tinh thần

Đương đại trong thời đai ngày nay.

72

Tiểu kết

Thông qua tác phẩm của ba nữ họa sĩ Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm

Poong và Lý Trần Quỳnh Giang, có thể thấy điểm tương đồng và khác biệt về

cách sử dụng yếu tố biểu hiện trong tranh, sự tương đồng ở chỗ là đều vẽ ra

hình ảnh thật bên trong tâm hồn của người phụ nữ, hình ảnh này nói lên trái

tim của người phụ nữ bao giờ cũng yếu đuối, dễ bị tổn thương. Điểm khác

biệt là các họa sĩ này có cá tính riêng, quan niệm về cuộc sống riêng và có

cách nhìn nhận cuộc sống không giống nhau nên họ tạo ra sự khác biệt về

cách thể hiện yếu tố biểu hiện trong tác phẩm. Chính những sự khác nhau này

đem lại vẻ độc đáo, và giá trị nghệ thuật trong tranh của các họa sĩ có tính độc

nhất, riêng nhất và thật nhất với đời sống riêng của từng họa sĩ. Yếu tố giới

tính cũng góp phần tạo ý tưởng và thể hiện ý tưởng trong tranh của các họa sĩ

này. Yếu tố giới tính, được coi như nền tảng để họa sĩ xây dựng ý tưởng và

thể hiện ra trên tác phẩm. Từ góc nhìn của phụ nữ đối với xã hội, các họa sĩ

này đã thay mặt cho phụ nữ để cất tiếng nói, tỏ thái độ với xã hội, đòi hỏi xã

hội phải có sự thay đổi về cách nhìn nhận giá trị của người phụ nữ và phải

thay đổi cả những quan niệm về quyền tự do con người, trong đó có quyền tự

do của người phụ nữ hoặc quyền tự do cho những người thuộc giới tính thứ

ba.

73

KẾT LUẬN

Yếu tố biểu hiện là một yếu tố làm chỉ rõ ra thái độ tình cảm của con

người, trong khuynh hướng hội họa biểu hiện, những yếu tố này giúp cho

người xem cảm nhận được về thái độ tình cảm bên trong nội tâm của họa sĩ.

Những dấu hiệu chỉ ra những cung bậc trạng thái tình cảm, tâm trạng của họa

sĩ hay của con người ở trong tranh gọi là yếu tố biểu hiện. Nếu như xu hướng

hội họa biểu hiện trên thế giới là họa sĩ tỏ thái độ với xã hội hiện đại và

những vấn đề còn tồn tại trong nó thì những họa sĩ vẽ theo xu hướng Biểu

hiện hoặc bán Biểu hiện ở Việt Nam cũng vậy, các họa sĩ nhìn thấy vấn đề

con người đang là vấn đề lớn trong xã hội hậu hiện đại và muốn bày tỏ thái độ

lo lắng, không bằng lòng của mình, nói lên tiếng nói cá nhân để mong có sự

thay đổi trong tư duy và cách nhìn nhận vấn đề. Khi đối diện và cảm nhận

thấy những đau khổ hay hạnh phúc của con người trong xã hội, các họa sĩ

biểu hiện Việt Nam đã truyền cảm xúc ấy lên những tác phẩm của mình. Nhờ

vào những yếu tố biểu hiện này mà người thưởng thức nhận ra được thế giới

trong tâm hồn người nghệ sĩ, nhận ra được thái độ tình cảm của họa sĩ với bên

ngoài và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Hội họa biểu hiện ở Việt Nam tuy

chưa phát triển mạnh thành trào lưu nhưng đã có những họa sĩ đã xây dựng

được cho mình một tiếng nói riêng. Đối với ba nữ họa sĩ Lý Trần Quỳnh

Giang, Đinh Thị Thắm Poong và Đinh Ý Nhi, trước hết, chủ đề xuyên suốt

trong sáng tác của các chị là phụ nữ và cuộc sống của họ. Cả ba người đều là

những họa sĩ vẽ theo khuynh hướng biểu hiện hoặc có yếu tố Biểu hiện như

họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong. Mỗi họa sĩ là một cá nhân con người khác

nhau, Đinh Ý Nhi thể hiện mối quan tâm về vấn đề sự tồn tại của con người

trong xã hội hiện đại. Lý Trần Quỳnh Giang vẽ về cái tôi bản thể và sự cô đơn

trong cuộc sống. Đinh Thị Thắm Poong thể hiện tình yêu cuộc sống của con

người và bản sắc văn hóa dân tộc. Nhờ vào cách sử dụng ngôn ngữ hội họa

74

mà các họa sĩ đã biểu hiện được những thái độ, tình cảm của mình cũng như

bộc lộ thế giới nội tâm, điều đó chứng tỏ cho giá trị nghệ thuật của yếu tố biểu

hiện và cũng là cách mà các họa sĩ tạo được dấu ấn riêng trong nền mỹ thuật

Đương đại Việt Nam. Nghệ thuật biểu hiện đã giúp cho các họa sĩ biểu hiện ra

được vấn đề mà mình quan tâm và biểu hiện ra những mong muốn có sự thay

đổi về cái nhìn của xã hội về vấn đề con người khi xã hội phát triển, hiện đại

thì những vấn đề con người lại bỏ qua và giá trị nhân sinh quan không còn.

75

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu sách tiếng Việt

1. Nguyễn Lương Tiểu Bạch (chủ biên) (2005), Mỹ thuật Việt Nam hiện đại,

Viện Mỹ thuật – Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

2. Cồ Thanh Đam (2008), Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Mỹ

thuật.

3. Nguyễn Văn Đính, Đặng Thái Hoàng, (2006), Giáo trình lịch sử nghệ

thuật, Nxb Xây dựng.

4. Trần Độ(1988), Đổi mới và chính sách xã hội văn hóa, Nxb TP Hồ Chí

Minh.

5. Bùi Như Hương, Phạm Trung (2003), Nghệ thuật đương đại Việt Nam

1990 – 2000, Nxb Tri Thức.

6. Nguyễn Văn Linh(1989), Đổi mới để tiến lên, Nxb sự thật

7. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ

thông, Nxb Giáo dục.

8. Hoàng Phê(2006) Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học.

9. Nguyễn Quân (1982), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại, Nxb Văn

hóa.

10. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1996), Họa sĩ trẻ Việt Nam, Nxb Mỹ

thuật.

11. Nguyễn Quân(2010), Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, Nxb Mỹ thuật.

12. Trần Văn Tâm (2007), Giáo trình lịch sử nghệ thuật, Nxb Đà Nẵng.

13. Trần Đình Thọ, Phước Sanh, Triệu Thúc Đan (1985), Một số vấn đề mỹ

thuật, Nxb Văn Hóa.

14. Đào Mai Trang (biên soạn) (2010), 12 Nghệ sĩ mỹ thuật đương đại Việt

Nam, Nxb Thế giới.

15. Nguyễn Trân (1995), Nghệ thuật đồ họa, Nxb Mỹ thuật.

76

16. Nguyễn Trân (2005), Các thể loại và loại hình mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật,

Hà Nội.

17. Nguyễn Quang Uẩn (1998), Tâm lý học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

18. Viện Mỹ Thuật - Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam ( 2008), Nghệ thuật

Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

Tài liệu sách nước ngoài

19. Dida Jaki (biên dịch : Minh Chi) (2007), Từ nội tâm hướng ra bên ngoài,

Nxb Văn hóa Sài Gòn.

20. E.H. Gombrich ( biên dịch Lê Sỹ Tuấn ), Câu truyện nghệ thuật, Nxb văn

nghệ Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 1998.

21. Kandinsky (biên dịch: Phạm Long) (2014 ), Về cái tinh thần trong nghệ

thuật & đặc biệt trong hội họa, Nxb Mỹ thuật.

22. Vương Hoằng Lực (2014) (biên dịch Võ Mai Lý), Nguyên lý của hội họa

đen trắng, Nxb Mỹ thuật.

23. Nobert Wolf (2014), Expressionism, Nxb Tachen.

24. ORCVIRK – STINSON – WIGG – BONE – CAYTON (biên dịch: Lê

Thành) (2006), Những nền tảng của Mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật.

Tài liệu tạp chí, khóa luận, luận văn và website:

25. Nguyễn Việt Hà( 2015), Đinh Ý Nhi và những khoảng tĩnh lặng,

www.antgct.com.vn

26. Trang Thanh Hiền (2009), Tranh Đinh Ý Nhi và câu chuyện hậu hiện đại,

Tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật – số 299.

27. Bùi Thị Hương (2007), Đinh Thị Thắm Poong - người con của núi rừng,

Báo nhân dân, ngày 22 - 8 – 2007.

28. Bùi Như Hương (2009), Lý Trần Quỳnh Giang độc thoại cùng thời gian,

Tạp chí Văn hóa nghệ thuật sô 299, tháng 5/2009.

29. Đỗ Tường Linh(2010), lặng lẽ với thiên nhiên, http://thethaovanhoa.vn.

77

30. Trần Thị Hương Ly (2013), Khóa luận: Cá tính qua sáng tác hội họa của

ba nữ họa sĩ Việt Nam: Đinh Thị Thắm Poong, Đinh Ý Nhi, Lý Trần

Quỳnh Giang, Trường Đại học Mỹ Thuật Việt Nam.

31. Đặng Đình Nguyên (2012), Luận văn: Tính biểu hiện của hình thể trong

hội họa, Trường Đại học Mỹ Thuật Việt Nam.

32. Lê Văn Sửu(2014) Yếu tố trang trí trong tranh 3/9/2014, trang 4

33. ĐàoVân(2010) Cảm nỗi buồn của Lý Trần Quỳnh Giang, \\http\www hanoimoi.com.vn

Tài liệu website:

34. https://nguyendinhdang.wordpress.com/

35. http://www.theartstory.org/

36. http://vhnt.org.vn

37. https://www.wikiart.org

78

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN XUÂN NGỌC

YẾU TỐ BIỂU HIỆN TRONG TRANH CỦA LÝ TRẦN QUỲNH

GIANG, ĐINH Ý NHI VÀ ĐINH THỊ THẮM POONG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)

Mã số: 60210102

Khóa: 18 (2015 - 2017)

PHẦN PHỤ LỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRANG THANH HIỀN

Hà Nội – 2017

79

PHẦN PHỤ LỤC ẢNH

Phụ lục Chương 1: …………………………………………….….….….....80

Phụ lục Chương 2: .........................................................................................84

Phụ lục Chương 3:.........................................................................................103

80

PHỤ LỤC 1

MỘT SỐ TÁC PHẨM HỘI HỌA TRÊN THẾ GIỚI THỂ HIỆN

YẾU TỐ BIỂU HIỆN

Hình 1: Edward Munch, The Scream - Tiếng thét (1983), Tempera và phấn

màu (91x 73,5cm). Nguồn ảnh: http://www.theartstory.org

81

Hình 2: Ernst Ludwig Kirchner, The Sodier Potrait – Chân dung tự họa của

người lính (1915), Sơn dầu trên toan (69x 61cm).

Nguồn ảnh: http: www.theartstory.org

82

Hình 3: Wassily Kadinsky, Blue Mountain (1910), Sơn dầu (82x 66cm).

Nguồn ảnh: https://www.wikiart.org

Hình 4: Ernst Ludwig Kirchner, The Young artist – nghệ sĩ trẻ (1910),

Sơn dầu trên toan (69 x 61cm). Nguồn ảnh: https://www.wikiart.org

83

Hình 5: Willem de Kooning, Phụ nữ (1949/50), Màu men và phấn trên toan

(59.8 x 41.4cm). Nguồn ảnh: https://www.wikiart.org

84

PHỤ LỤC 2

MỘT SỐ TÁC PHẨM THỂ HIỆN YẾU TỐ BIỂU HIỆN

TRONG TRANH CỦA BA NỮ HỌA SÍ VIỆT NAM:

ĐINH Ý NHI, LÝ TRẦN QUỲNH GIANG, ĐINH THỊ THẮM POONG.

Một số tác phẩm của họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang

Hình 6: Lý Trần Quỳnh Giang, Tôi (2004), Khắc gỗ (100x 100cm).

Nguồn ảnh: http://tiasang.com.vn/-van-hoa/phe-binh-van-hoc-nu-quyen-2707

85

Hình 7: Lý Trần Quỳnh Giang, Bà ta (2007), Khắc gỗ.

Nguồn ảnh: www.Soi.com.vn

86

.

Hình 8: Lý Trần Quỳnh Giang, Những cành mệt mỏi (2007), Khắc gỗ.

Nguồn ảnh: www.Soi.com.vn

Hình 9: Lý Trần Quỳnh Giang, In the room I – Trong căn phòng (2007),

Sơn dầu trên toan (70cm x 90cm).

Nguồn ảnh: www.artvietnamgallery.com.vn

87

Hình 10: Lý Trần Quỳnh Giang, Đồ chơi (2009), Khắc gỗ bản (103x 78cm).

Nguồn ảnh: [6, Tr.92]

Hình 11: Lý Trần Quỳnh Giang, Bản tin (2010),

Sơn dầu trên toan (120x 150cm). Nguồn ảnh: [6, T.r 94]

88

Hình12: Lý Trần Quỳnh Giang, Ốm (2007), Khắc gỗ (84x 80cm).

Nguồn ảnh: [23, Tr.187]

Hình 13: Lý Trần Quỳnh Giang, Tiểu đường (2007), Khắc mộc bản.

Nguồn ảnh: www.Soi.com.vn

89

Hình 14: Lý Trần Quỳnh Giang, Tiểu đường (2007)

Nguồn ảnh: www.Cucgalery.com.vn

Hình 15: Lý Trần Quỳnh Giang, Chiều (2007), Khắc gỗ.

Nguồn ảnh: www.Soi.com.vn

90

Hình 16: Lý Trần Quỳnh Giang, Solitary World – dưới lớp da (2009),

Khắc gỗ bản (99x 75cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.91]

Hình 17: Lý Trần Quỳnh Giang, Sleeping season 1 – Mùa ngủ (2009),

Khắc gỗ (98x 72cm). Nguồn ảnh: www.Soi.com.vn

91

Hình 18: Lý Trần Quỳnh Giang, Mẹ bơi trong nước (2007),

Khắc gỗ bản (30x 100cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.89]

92

Hình 19: Lý Trần Quỳnh Giang, Người người ngộm ngợm (2010),

Sơn dầu. Nguồn ảnh: [6, Tr.94]

93

Một số tác phẩm của họa sĩ Đinh Ý Nhi

Hình 20: Đinh Ý Nhi, Fate 1 - Số phận 1,(1990) bột màu trên giấy,

Nguồn ảnh: http://thptchuyenlamson.vn

Hình 21: Đinh Ý Nhi, Thế giới nội tâm Đinh Ý Nhi VI (2002),

Sơn dầu (164x 123cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.151]

94

Hình 22: Đinh Ý Nhi, Bảo vệ 3 (2008), Sơn dầu (140x 87cm).

Nguồn ảnh: [6, Tr.152]

95

Hình 23: Đinh Ý Nhi, Bảo vệ 13 (2008), Sơn dầu (140x 87cm).

Nguồn ảnh: [6, Tr. 152]

Hình 24: Đinh Ý Nhi, Security 11- Bảo vệ 11 (2009), Sơn dầu (96x 80cm).

Nguồn ảnh [6, Tr.152]

96

Hình 25: Đinh Ý Nhi, Những niềm vô hạn bị bỏ quên (2011),

Sơn dầu (170x 120cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.154]

97

Hình 26: Đinh Ý Nhi, Chân dung người Châu Á (2008),

Bột màu trên giấy (50x 37cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.152]

98

Một số tác phẩm của họa sĩ Định Thị Thắm Poong.

Hình 27: Đinh Thị Thắm Poong, Hóa thành hoa (2006),

Mầu nước trên giấy dó (60x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.167]

Hình 28: Đinh Thị Thắm Poong, Dấu chân (2007),

Mầu nước trên giấy dó (110x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.168]

99

Hình 29: Đinh Thị Thắm Poong, Dòng suối (2007),

Mầu nước trên giấy dó (110x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.168]

Hình 30: Đinh Thị Thắm Poong, Hai nửa (2007),

Mầu nước trên giấy dó (110x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.169]

100

Hình 31: Đinh Thị Thắm Poong, Khuôn khổ gia đình (2010),

Mầu nước trên giấy dó (110x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.169]

Hình 32: Đinh Thị Thắm Poong, Cây đu đủ (2010),

Mầu nước trên giấy dó (60x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.166]

101

Hình 33: Đinh Thị Thắm Poong, Cuộc sống sung túc (Rich Hues of life II)

(2012), Màu tự nhiên trên giấy dó (80x 60cm).

Nguồn ảnh: www. artvietnamgallery.com

Hình 34: Đinh Thị Thắm Poong, Cuộc sống đẹp mãi vững bền (2010),

Mầu nước trên giấy dó (110x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.170]

102

Hình 35: Đinh Thị Thắm Poong, Sự nỗ lực (2010),

Mầu nước trên giấy dó (110x 80cm). Nguồn ảnh: [6, Tr.170]

103

PHỤ LỤC 3

Hình 36: Lê Quảng Hà, Liên minh (2008), Sơn mài (100x 240cm).

Nguồn ảnh: [6, Tr.104]

Hình 37: Lê Quảng Hà, Người máy (2007), Sơn mài (100x 80cm).

Nguồn ảnh: [6, Tr.103]

104

Hình 38: Vũ Thăng.

Nguồn ảnh: http://mythuathaiphong.blogspot.com

Hình 39: Vũ Thăng, Người ngồi, Sơn mài (70x 70cm).

Nguồn ảnh: http://mythuathaiphong.blogspot.com

105

Hình 40: Nguyễn Xuân Tiệp. Nguồn ảnh: www.vietnamfineart.com

Hình 41: Nguyễn Xuân Tiệp. Nguồn ảnh: www.vietnamfineart.com

106

Hình 42: Nguyễn Xuân Tiệp. Nguồn ảnh: www.vietnamfineart.com