BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

TRẦN ĐÌNH HÙNG

YẾU TỐ SIÊU THỰC TRONG TRANH LÊ HUY TIẾP,

NGUYỄN TRUNG TÍN VÀ NGUYỄN ĐÌNH ĐĂNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ MĨ THUẬT

HÀ NỘI – 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

TRẦN ĐÌNH HÙNG

YẾU TỐ SIÊU THỰC TRONG TRANH LÊ HUY TIẾP,

NGUYỄN TRUNG TÍN VÀ NGUYỄN ĐÌNH ĐĂNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ MĨ THUẬT

Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)

Mã số: 60210102

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

PGS. TS. NGUYỄN NGHĨA PHƯƠNG

HÀ NỘI – 2017

Khóa: 18 (2015-2017)

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

GS : Giáo sư

H : Hình

KTS : Kiến trúc sư

NXB : Nhà xuất bản

PGS : Phó giáo sư

TLMT : Triển lãm Mĩ thuật

TS : Tiến sĩ

TSKH : Tiến sĩ khoa học

Tr : Trang

1

MỤC LỤC

Trang phủ bìa............................................................................................... Tr

Danh mục chữ cái viết tắt.............................................................................

Mục lục......................................................................................................... 1

MỞ ĐẦU...................................................................................................... 3

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI....................... 10

1.1. Khái niệm “yếu tố siêu thực trong tranh”............................................. 10

1.2. Khái lƣợc về hội họa siêu thực.............................................................. 12

1.3. Khái quát về sự nghiệp sáng tác của các họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn

Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng................................................................ 17

Tiểu kết……………………………………………………………………. 23

Chƣơng 2: NGHIÊN CỨU YẾU TỐ SIÊU THỰC TRONG TRANH LÊ

HUY TIẾP, NGUYỄN TRUNG TÍN VÀ NGUYỄN ĐÌNH ĐĂNG…….. 24

2.1. Yếu tố siêu thực biểu hiện trong tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung

Tín và Nguyễn Đình Đăng........................................................................... 24

2.1.1. Yếu tố siêu thực biểu hiện qua sự phi lí............................................. 24

2.1.2. Yếu tố siêu thực biểu hiện qua sự hƣ cấu hình thể............................. 30

2.1.3. Yếu tố siêu thực biểu hiện qua sự không tƣơng hợp giữa các vật thể 36

2.2. Sự tƣơng đồng và khác biệt về yếu tố siêu thực trong tranh Lê Huy

Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng......................................... 40

2.2.1. Sự tƣơng đồng về biểu hiện yếu tố siêu thực trong tranh giữa ba

họa sĩ........................................................................................................... 40

2.2.2. Sự khác biệt về biểu hiện yếu tố siêu thực trong tranh giữa ba họa

sĩ…………………………………………………………………………. 43

Tiểu kết......................................................................................................... 47

Chƣơng 3: NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.. 49

2

3.1. Thành công về biểu hiện yếu tố siêu thực trong tranh Lê Huy Tiếp,

Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng……………………………… 49

3.2. Đóng góp của yếu tố siêu thực trong tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn

Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng đối với hội họa Việt Nam……………. 54

Tiểu kết……………………………………………………………………. 57

KẾT LUẬN……………………………………………………………….. 59

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….... 61

PHỤ LỤC…………………………………………………………………. 63

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hội họa siêu thực bắt đầu từ Pari thủ đô của nƣớc Pháp rồi nhanh chóng

lan rộng ra Châu Âu và nhiều khu vực khác trên thế giới. Các họa sĩ siêu thực

đã tạo ra những tác phẩm nổi tiếng có giá trị nghệ thuật cao từ những năm đầu

của thế kỷ XX.

Khi Hội họa siêu thực lan tỏa đến Việt Nam, nhiều họa sĩ đã nắm bắt và

sử dụng các yếu tố siêu thực một cách sáng tạo. Các họa sĩ dùng ngôn ngữ

của hội họa Siêu thực làm giàu cho ngôn ngữ hội họa của mình, giải phóng

cái tôi vƣợt lên những quy luật logic. Từ đó có thêm nhiều lựa chọn hơn trong

việc truyền tải ý tƣởng sáng tạo của mình vào tác phẩm. Những họa sĩ Việt

Nam tiêu biểu đó phải kể đến là họa sĩ Lê Huy Tiếp, họa sĩ Nguyễn Trung Tín

và họa sĩ Nguyễn Đình Đăng. Họ là ba họa sĩ đã có nhiều tác phẩm nghệ thuật

gắn liền với tên tuổi của mình bằng hội họa siêu thực hoặc trong tác phẩm ít

nhiều có sự biểu hiện của yếu tố siêu thực.

Tuy môi trƣờng học tập và làm việc khác nhau, nhƣng cả Lê Huy Tiếp,

Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng đều là những họa sĩ Việt Nam sinh

ra trong thập niên năm mƣơi của thế kỉ XX, khi đất nƣớc vẫn còn chiến tranh

loạn lạc. Họ trƣởng thành thì đất nƣớc hòa bình, thống nhất rồi hội nhập. Từ

đó các phong trào văn hóa, nghệ thuật lớn trên thế giới dễ dàng du nhập vào

Việt Nam, trong đó có hội họa Siêu thực. Các họa sĩ cũng dễ dàng đi ra bên

ngoài để học tập, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân có nhiều cơ hội để tiếp cận,

tìm hiểu, nghiên cứu và nắm bắt những xu hƣớng, những trào lƣu và trƣờng

phái nghệ thuật của thời đại.

Ít nhiều có sự ảnh hƣởng từ hội họa siêu thực, các tác phẩm hội họa của

Lê Huy Tiếp, Nguễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng cùng có điểm chung,

đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp tả thực của hội họa hiện thực

4

với những yếu tố siêu thực trong tranh. Mặt khác họ đã khẳng định đƣợc cái

tôi riêng của mình bằng phong cách nghệ thuật riêng, cách tạo hình riêng, đối

tƣợng phản ánh riêng và ẩn ý trong việc sử dụng yếu tố siêu thực cũng riêng

biệt…

Cả Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng đều là những

họa sĩ đã gây đƣợc dấu ấn nhất định trong nghệ thuật hội họa Việt Nam, đƣợc

công chúng đón nhận một cách tích cực. Các nhà phê bình và lý luận lịch sử

mĩ thuật đã có ít nhiều những bài viết, những nghiên cứu về tranh của từng

họa sĩ. Tuy vậy nhƣng chƣa có nghiên cứu nào thực sự sâu sắc và đầy đủ về

yếu tố siêu thực trong tranh họ và càng chƣa có những nghiên cứu chung về

yếu tố siêu thực trong tranh của cả ba họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín

và Nguyễn Đình Đăng.

Vì những lí do trên mà tôi đã chọn đề tài Yếu tố siêu thực trong tranh Lê

Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng để nghiên cứu sự biểu

hiện của yếu tố siêu thực trong tranh của cả ba họa sĩ, góp phần nhỏ bé vào

việc nghiên cứu về hội họa có yếu tố siêu thực ở Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Các họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng là

những họa sĩ Việt Nam vẽ tranh Siêu thực hoặc có yếu tố Siêu thực. Những

sáng tác của họ đã tạo đƣợc dấu ấn nhất định nên ít nhiều đã gây đƣợc sự

quan tâm của các chuyên gia, các nhà phê bình Mĩ thuật.

Dƣới đây là những nghiên cứu có liên quan đến đề tài của luận văn.

Cuốn “Từ Điển Mỹ thuật” [11], của tác giả Lê Thanh Lộc, xuất bản năm

1998. Sách giải thích và cắt nghĩa khá đầy đủ những từ ngữ chuyên ngành rất

cụ thể, trong đó có dành khoảng hai trang giải thích về thuật ngữ siêu thực.

Nhƣng sách không nói đến thuật ngữ yếu tố siêu thực trong tranh.

Cuốn “Lịch sử Mĩ thuật thế giới” [3], của tác giả Phạm Thị Chỉnh, xuất

bản năm 2005. Đây là cuốn sách có mục đích nhƣ một giáo trình dành cho

5

giảng viên và sinh viên các trƣờng Cao đẳng hoặc đào tạo trình độ Cao đẳng.

Sách chủ yếu giới thiệu về các giai đoạn, các loại hình mĩ thuật với các xu

hƣớng, các trào lƣu và trƣờng phái nghệ thuật khác nhau. Ngoài ra sách cũng

có đi sâu vào giới thiệu một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu… Trong đó có đề

cập đến quá trình hình thành, sự ra đời và những quan niệm sáng tạo của nghệ

thuật siêu thực và một số họa sĩ Siêu thực tiêu biểu nhƣng sách cũng không

nói đến yếu tố siêu thực hay yếu tố siêu thực trong tranh.

Những cuốn sách: “Giáo trình lịch sử mỹ thuật thế giới” [20], của PGS

Nguyễn Trân biên sọan; hay cuốn “Các phong trào hội họa” [12], của P.

Fride-R Carrasat-I. Marcade’ Lê Thanh Lộc biên dịch. Mỗi cuốn đều dành

một phần nói về hội họa Siêu thực, giới thiệu một số bức tranh siêu thực

nhƣng không chỉ rõ thế nào là yếu tố Siêu thực trong tranh.

Cuốn “Những trào lưu lớn của nghệ thuật tạo hình hiện đại” [1], tác giả

Lê Năng An biên dịch xuất bản 1998, đi sâu hơn trong việc tìm hiểu về Chủ

nghĩa Siêu thực, nhƣng chủ yếu vẫn là tìm hiểu về sự hình thành và phát triển

từng giai đoạn của Chủ nghĩa siêu thực. Tác giả cũng dành nhiều trang phân

tích những các tác phẩm tiêu biểu của những họa sĩ nỗi tiếng khi hội họa siêu

thực mới ra đời. Tuy nhiên tác giả cũng không đề cập đến thế nào là yếu tố

siêu thực trong tranh.

Cuốn “Những khuynh hướng chủ yếu của Hội họa tư sản hiện đại”

[17], của tác giả Nguyễn Phúc, xuất bản năm 1978 viết về những khuynh

hƣớng chủ yếu của hội họa tƣ sản hiện đại, có dành một phần nói về nguyên

nhân sự ra đời và phát triển chủ nghĩa siêu thực. Trong đó tác giả đã trích dẫn

tuyên ngôn của Chủ nghĩa siêu thực và những quan điểm, định nghĩa về hội

họa Siêu thực. Tác giả cũng giới thiệu một số bức tranh siêu thực tiêu biểu và

phân tích về ý tƣởng, về đối tƣợng phản ánh và cách thức biểu đạt nhằm định

hƣớng cho ngƣời xem về tranh siêu thực. Nhƣng tác giả không đi sâu vào việc

nghiên cứu về yếu tố Siêu thực trong tranh.

6

Ngoài những tài liệu giới thiệu trên , ngƣời viết cũng tìm đọc thêm một

số tài liêu khác nhƣ cuốn “Lịch sử hội họa thế kỷ XX” [18], do tác giả Phạm

Minh Thảo và Nguyễn Kim Loan biên dịch, xuất bản năm 2001. Cuốn “ Mỹ

thuật và nghệ sĩ” [8], của tác giả Nguyễn Phi Hoanh…Nhƣng không nói

nhiều đến những vấn đề tƣơng tự nhƣ ngƣời viết đang nghiên cứu trong đề tài

này.

Khóa luận tốt nghiệp “Yếu tố siêu thực trong Mỹ thuật truyền thống Việt

Nam” [9], của Hoàng Mạnh Hùng, năm 2007. Đây là một cuốn khóa luận trực

tiếp nói đến yếu tố Siêu thực ở Việt Nam trong đó ngƣời viết có nêu đƣợc thế

nào là siêu Thực, chủ nghĩa siêu thực và yếu tố siêu thực, nhƣng cách viết

chƣa mang tính khoa học cao. Phần nội dung, ngƣời viết trực tiếp đi vào

nghiên cứu về Yếu tố siêu thực trong Mỹ thuật truyền thống Việt Nam nhƣ ở

trống đồng, ở chạm khắc đình làng và ở tranh dân gian. Cái hay của khóa luận

là sự phát hiện khá mới mẻ về yếu tố siêu thực có trong Mĩ thuật truyền thống

Việt Nam. Tuy nhiên nội dung đề tài không hề liên quan đến ba họa sĩ Lê Huy

Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng.

Cuốn “Mỹ thuật Bắc miền Trung” [5] của Hội Mĩ thuật Việt Nam, xuất

bản năm 2013 của NXB Mỹ thuật. Ở phần tác giả đƣợc tặng giải thƣởng nhà

nƣớc giới thiệu khá đầy đủ về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác cũng nhƣ những

đóng góp của họa sĩ Lê Huy Tiếp cho hội họa Việt Nam. Trong đó sách cũng

có nhắc đến yếu tố siêu thực trong tranh Lê Huy Tiếp vài dòng ngắn gọn.

Cuốn “Tiếp xúc với nghệ thuật” [21] của Thái Bá Vân, xuất bản năm

1997, NXB Viện Mỹ thuật Việt Nam. Tác giả dành một phần viết sơ qua về

con đƣờng nghệ thuật của Họa sĩ Lê Huy Tiếp, trong đó có những phân tích

đánh giá về tranh Lê Huy Tiếp qua một số tác phẩm tiêu biểu. Tuy nhiên tác

giả chủ yếu nói đến nội dung tranh và cách diễn tả mang tính cực thực chứ

chƣa đề cập đến yếu tố siêu thực của họa sĩ này.

7

Nguyễn Đình Đăng có bài viết về “Tân siêu thực ở Đông Nam Á: Cuộc

đời và tác phẩm của Nguyễn Đình Đăng” [23]. Giới thiệu khá đầy đủ về con

đƣờng nghệ thuật, phong cách sáng tác của Nguyễn Đình Đăng. Bài viết cũng

nghiên cứu khá sâu về nhiều tác phẩm hội họa của Nguyễn Đình Đăng kể cả

thời kì sống và làm việc ở Việt Nam cũng nhƣ khi sang Nhật Bản. Tuy Nhiên

tác giả cũng không đi sâu nghiên cứu riêng về yếu tố siêu thực trong tranh

Nguyễn Đình Đăng.

Nhƣ vậy chƣa tìm thấy một tài liệu nào đề cập đến yêu tố siêu thực trong

tranh cả ba họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng.

Cũng chƣa thấy bài viết nào chuyên sâu về yếu tố siêu thực trong tranh của

từng họa sĩ. Mà chỉ tìm thấy những Cuốn sách những bài nghiên cứu nói về

vấn đề hội họa siêu thực, nhƣ sự hình thành và phát triển của hội họa siêu

thực, hay sự giới thiệu và đi sâu phân tích những tác giả tác phẩm hội họa siêu

thực nổi tiếng thế giới…

Nhƣng những tài liệu nói trên đã giúp tôi có cái nhìn toàn diện hơn về

hội họa siêu thực, hiểu sâu sắc hơn những giá trị nghệ thuật của nó, từ đó giúp

tôi tìm ra những cơ sở lí thuyết, những dẫn chứng thuyết phục cho nghiên cứu

của mình.

3. Mục đích của luận văn

- Nghiên cứu nhằm chỉ ra sự biểu hiện các yếu tố siêu thực trong tranh

ba họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng.

- So sánh để tìm ra sự tƣơng đồng và khác biệt về yếu tố siêu thực trong

tranh giữa ba họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng.

- Chỉ ra những thành công về yếu tố siêu thực trong tranh Lê Huy Tiếp,

Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng.

- Đánh giá về những đóng góp của các họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn

Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng đối với hội họa Việt Nam.

8

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Yếu tố siêu thực trong tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn

Đình Đăng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Một số tác phẩm hội họa có yếu tố siêu thực của các họa sĩ Lê Huy Tiếp,

Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phƣơng pháp thu thập và xử lý thông tin: Luận văn tổng hợp các tài

liệu, các tác phẩm nghệ thuật thông qua sách, báo, internet, phỏng vấn... để

tìm kiếm thông tin từ đó xử lý, tổng hợp, hệ thống nhằm làm sáng tỏ các yếu

tố Siêu thực trong tranh của Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình

Đăng.

- Phƣơng pháp phân tích so sánh đƣợc áp dụng nhằm nghiên cứu về đặc

điểm của yếu tố Siêu thực trong tranh của Lê Huy Tiếp, Nguyễn Đình Đăng

và Nguyễn Trung Tín.

- Phƣơng pháp diễn dịch, tổng hợp đƣợc áp dụng để trình bày và làm rõ

các vấn đề nghiên cứu.

6. Đóng góp của luận văn

Nghiên cứu để góp phần làm rõ và chỉ ra yếu tố siêu thực biểu hiện trong

tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng.

Nghiên cứu về khả năng sáng tạo và phong cách sáng tác của mỗi tác giả

thông qua yếu tố siêu thực trong tranh.

Luận văn góp phần làm phong phú thêm kho giữ liệu cho bạn đọc, giúp

ích cho sinh viên có thêm cơ sở lý luận khi tìm hiểu về yếu tố siêu thực trong

hội họa.

9

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm (86 trang), phần mở đầu (9 trang), kết luận (02 trang),

phần nội dung gồm có ba chƣơng:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận để nghiên cứu đề tài (14 trang)

Chƣơng 2: Nghiên cứu yếu tố siêu thực trong tranh Lê Huy Tiếp,

Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng (25 trang)

Chƣơng 3: Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài (10 trang)

Ngoài ra luận văn còn có tài liệu tham khảo (02 trang), phụ lục và ảnh

minh họa (23 trang).

10

NỘI DUNG

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Khái niệm “yếu tố siêu thực trong tranh”

Khái niệm “yếu tố”

Theo từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin giải thích, yếu tố là

“1. bộ phận cấu thành một sự vật, sự việc, hiện tƣợng. 2. Nhƣ nhân tố”. [4]

Vậy, yếu tố có thể đƣợc hiểu là một mắt xích, một chi tiết, một đơn vị hay

một thành phần trong một tổng thể nhất định của một sự vật, sự việc, hiện

tƣợng nào đó. Nói ngƣợc lại thì mỗi sự vật, sự việc, hiện tƣợng đều đƣợc tạo

thành bởi các yếu tố. Ngoài ra yếu tố có khi đóng vai trò là nguyên nhân, là cơ

sở, là điều kiện cần có của một sự vật, sự việc hay hiện tƣợng, nên yếu tố

đƣợc xem nhƣ nhân tố tạo thành. Trong nghệ thuật hội họa, mỗi tác phẩm đều

đƣợc tạo bởi nhiều yếu tố khác nhau, nhƣ yếu tố về đƣờng nét, hình mảng,

màu sắc hay yếu tố về kỹ thuật, về phong cách, về bút pháp thể hiện…

Khái niệm “siêu thực”

Theo từ điển Tiếng Việt của trung tâm từ điển học thì “siêu thực thuộc

chủ nghĩa siêu thực, trƣờng phái siêu thực, tranh siêu thực” [22]. Nhƣ vậy, từ

siêu thực ở đây bao hàm cho tên gọi thuộc nghệ thuật siêu thực.

Từ siêu thực (Surrealism) đƣợc dùng nhƣ một thuật ngữ, lần đầu tiên

đƣợc nhà thơ Apollinaire dùng trong tác phẩm của mình vào năm 1917. Sau

tuyên ngôn Siêu thực năm 1924, thuật ngữ này đƣợc dùng rộng rãi trong văn

học và nghệ thuật, [8, tr.73].

Từ điển Mỹ thuật của Lê Thanh Lộc dịch “Hiến chƣơng Siêu thực”

năm 1924 của André Breton, nhà lý thuyết chính của phong trào Siêu thực là

“ giải quyết tình trạng mâu thuẫn có sẵn giữa mộng và thực, đƣa nó tới một

11

thực tế tuyệt đối, trạng thái siêu thực”. Đặc trƣng của phong trào Siêu thực là

sự say mê cái kỳ dị, cái phi lý, cái không tƣơng hợp. [11, tr.1047]. Vậy có thể

hiểu siêu thực là sự kết hợp giữa hai thế giới trái ngƣợc nhau, thế giới thực tại

thông thƣờng và thế giới thực tại của những giấc mơ để đƣa nó tới một thế

giới mới, thế giới siêu thực tại.

Breton định nghĩa siêu thực là “Tính tự động tâm thần thuần túy, qua

đó ngƣời ta nhằm biểu hiện, hoặc bằng lời nói , hoặc bằng chữ viết, hoặc bằng

bất cứ phƣơng tiện nào khác, sự vận hành thực sự của tƣ tƣởng”, “Đấy là sự

đọc của tƣ duy mà không có bất cứ sự kiềm chế nào của lí trí, đứng ngoài mọi

thiển kiến thẩm mĩ hay đạo lý” [17, tr.40].

Không nên hiểu nhầm siêu thực là “bộc lộ tiềm thức mà không bị rào

cản của lý trí”, mà siêu thực là chấp nhận các thông điệp từ vô thức chui vào

ý thức. Đó là trạng thái tâm lý thuần túy vô-ý-thức mà Breton gọi là

automatism. Các thông điệp của vô thức đƣợc truyền đạt bằng các hình tƣợng,

ký hiệu, ý niệm, trong khi các thông điệp của ý thức đƣợc truyền đạt bằng

ngôn ngữ. [24]

Vậy siêu thực là một thuật ngữ đƣợc sử dụng ở lĩnh vực nghệ thuật,

trong đó ngƣời nghệ sĩ bằng ngôn ngữ của mình thể hiện sự kết hợp giữa

trạng thái tâm lý thực tại và trạng thái tâm lý phi thực tại vào trong cùng một

tác phẩm nghệ thuật.

Khái niệm yếu tố siêu thực trong tranh

Yếu tố siêu thực là nhân tố quan trọng hàng đầu để cấu thành một tác

phẩm hội họa Siêu thực bên cạnh những yếu tố hội họa khác. Ngoài hội họa

siêu thực, nhiều họa sĩ cũng sử dụng yếu tố siêu thực nhƣ một phƣơng tiên

nghệ thuật nhằm truyền tải những ý tƣởng và thông điệp của mình trong

tranh.

Vậy yếu tố siêu thực trong tranh là một bộ phận cấu thành nên bức

tranh đó, được thể hiện bằng ngôn ngữ của nghệ thuật giá vẽ những đặc

12

trưng của siêu thực, như cái kỳ dị, sự phi lý, sự không tương hợp, không có

trật tự lôgic, có khi là sự hư cấu, sự cường điệu, làm biến dạng so với hiện

thực.

Nội dung khái niệm này đƣợc sử dụng làm cơ sở trong phạm vi nghiên

cứu về yếu tố siêu thực trong các tác phẩm hội họa của Lê Huy Tiếp, Nguyễn

Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng.

1.2. Khái lƣợc về hội họa siêu thực

Yếu tố siêu thực là một bộ phận, một thành phần rất quan trọng trong

hội họa siêu thực. Vì vậy để nghiên cứu đƣợc yếu tố siêu thực trong tranh Lê

Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyên Đình Đăng, ta phải tìm hiểu sơ lƣợc

về hội họa siêu thực.

Sơ lược về trường phái hội họa siêu thực

Pa-ri thủ đô của nƣớc Pháp là một trung tâm nghệ thuật hàng đầu thế

giới, đƣợc xem là kinh đô của nghệ thuật. Nơi đây, những thập niên đầu của

thế kỉ XX đã chứng kiến sự xuất hiện của nhiều phong trào nghệ thuật, trong

đó có sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của hội họa Siêu thực, một trong những

trƣờng phái hội họa lớn có sự ảnh hƣởng đến nhiều thế hệ họa sĩ ở nhiều nƣớc

trên thế giới.

Siêu thực là một khuynh hƣớng nghệ thuật lớn với nhiều loại hình nghệ

thuật khác nhau, bắt đầu từ thơ ca, hội họa rồi lan rộng sang các lĩnh vực nghệ

thuật khác nhƣ điện ảnh, tiểu thuyết. Sự ra đời của nghệ thuật siêu thực là sự

tiếp nối nghệ thuật Dada, có nguyên nhân từ sự biến động của xã hội, từ chiến

tranh, từ sự nhận thức về nỗi đau của cả thể xác lẫn tinh thần con ngƣời, và

đặc biệt là bắt nguồn từ học thuyết phân tâm học của Freud.

Học thuyết của Freud đã khai mở thế giới bí ẩn ấy trong con ngƣời, cái

phần bóng đen khuất sau ý thức. Hơn thế nữa, Simund Freud xác nhận vô

thức có một sức mạnh khó kiểm soát nổi, không ngừng xen ngang vào các

hoạt động có ý thức, biểu hiện qua chứng nói nhịu, chứng đãng trí vô cớ, mà

13

nhất là khi ý thức đã ngủ yên, vô thức hiển hiện dƣới hình thức những giấc

mơ [25]. Học thuyết của Freud đã góp phần rất quan trọng trong việc lý giải

và dẫn dắt các nhà siêu thực tìm ra một thế giới mới, thế giới của nghệ thuật

Siêu thực.

Trên quan điểm Phân tâm học của Simund Freud, Breton cho rằng ý

thức của con ngƣời chịu sự tác động của ngoại cảnh, của hệ thống, do đó

không phản ánh đúng bản chất của con ngƣời, thiếu đi tính “ngƣời”, và do đó,

nó không “thực”. Chủ nghĩa Siêu thực, khi muốn giải thoát con ngƣời ra khỏi

sự ràng buộc của lý trí, của “hệ thống”, cần phải chấp nhận và tìm đủ mọi

cách để đƣa các thông điệp từ vô thức chui vào ý thức. Đó là trạng thái tâm lý

thuần túy vô-ý-thức mà Breton gọi là automatism. [17]

Ngày 01/12/1924, tuyên ngôn Siêu thực, do Andre Breton soạn thảo,

lần đầu tiên đƣợc đăng trên tạp chí Larevolution Surrealiste. Kể từ thời điểm

này, ngọn cờ Siêu thực đã đƣợc dƣơng lên, tách khỏi tính chất tiền phong của

Dada để gia nhập hệ thống các chủ nghĩa hiện đại, các nhà Siêu thực tự viết

tuyên ngôn, minh định khái niệm Siêu thực, xác định các tiêu chí nghệ thuật

Siêu thực song song với qua trình sáng tác. Lý luận và sáng tác của Siêu thực

gắn bó với nhau, thể hiện cao độ ý chí tìm đƣờng, tự điều chỉnh và tác động

vào tầm đón đợi của công chúng. [25]

Chủ nghĩa Siêu thực đã đƣa các nghệ sĩ đi đến đỉnh điểm của tự do, họ

trút bỏ và tháo gỡ mọi vƣớng mắc của ý thức, tạo điều kiện cho vô thức trào

dâng. Các trạng thái mơ và thực, tâm giới và ngoại giới đan cài vào nhau,

tƣơng tác lẫn nhau thành một thế giới siêu thực vừa thấm đẫm những trải

nghiệm cá nhân, vừa mang dấu vết của cuộc đời thật. Từ sự đan cài tự nhiên

và lồng ghép phức tạp nhiều khi không để lại một chút dấu vết nào đã tạo ra

cái phi lí dƣới góc nhìn thông thƣờng đối với nghệ thuật Siêu thực.

Hội họa Siêu thực chú trọng khai thác những ý nghĩ bật ra từ tự do,

khai thác các trạng thái của những giấc mơ, khai thác những quyến rũ tự

14

nhiên, từ giới tính…họa sĩ xem đó là những nơi biểu hiện mạnh mẽ của vô

thức mà chƣa bị kiểm duyệt bởi lý trí, định kiến hay đạo đức, thẩm mỹ.

Hội họa Siêu thực có ba cách sáng tạo khác nhau. Các họa sĩ nhƣ Ernst,

Masson và Miró và một số họa sĩ khác thì thống nhất với nhau bằng các kĩ

thuật nhƣ chà xát, kì cọ để cố gắng loại trừ sự kiểm soát của ý thức. Họa sĩ

Dali, Magritte và rất nhiều họa sĩ nữa thì biểu hiện bằng cách vẽ chi tiết, tỉ mỉ,

nhằm đƣa những gì không hợp lý trở nên ảo mộng so với thực tế. Những

ngƣời còn lại sáng tạo bằng việc lắp ghép các đối tƣợng không liên quan cạnh

nhau, tạo ra một cảm giác không có thật nhƣng nó buộc ngƣời ta phải nhìn

nhận một thực tại ra ngoài phạm vi thế giới thƣờng nhật. Phƣơng pháp này

thoát khỏi những cấu trúc quen thuộc về văn hóa để tuân theo sự ngẫu nhiên

và vô thức.

Năm 1925 triển lãm tranh Siêu thực lần đầu tiên đƣợc tổ chức. Sự

thành công của triển lảm đã thôi thúc các họa sĩ càng tích cực sáng tác và chỉ

hai năm sau đó, năm 1927 triển lãm lần thứ hai lại mở ra. Đến năm 1936,

triển lãm tranh Siêu thực đƣợc tổ chức một cách quy mô ở London do Breton

đứng đầu, đây đƣợc xem là triển lãm quan trọng nhất của hội họa Siêu thực.

Những ngƣời đầu tiên đến với hội họa Siêu thực nhƣ: Andre Masson;

Hans Arp; Giorgio De Chirico; Paul Delvau, Salvador Dali… là những họa sĩ

tiêu biểu của trƣờng phái hội họa này. Trong đó Giorgio De Chirico đƣợc xem

là tiên phong nhất, bởi ông là ngƣời khởi xƣớng cho hội họa Siêu thực. Sự

phát triển của hội họa siêu thực là rất nhanh, chỉ trong một thời gian ngắn

nhiều nƣớc ở Châu Âu đã có các đại diện tiêu biểu cho cho trƣờng phái hội

họa này.

Tại pháp: Họa sĩ André Masson (1896 – 1987) là ngƣời vẽ theo phƣơng

pháp tự động đạt tới sự biểu hiện trữ tình. Ông vạch lên nền cát nhiều đƣờng

ngoằn nghèo khác nhau, mỗi đƣờng vạch là một màu sắc để gây hiệu ứng và

làm cho nền cát có một hình thể khác lạ.

15

Còn họa sĩ Hans Arp (1887 – 1966) lại có sự thể nghiệm cả ba trƣờng

phái nghệ thuật là Dada, Siêu thực và trừu tƣợng. Đặc biệt tranh ông có sự kết

hợp giữa hội họa siêu thực và hội họa trừu tƣợng trong nhiều tác phẩm.

Họa sĩ Max Ernst (1891-1976) là một họa sĩ Pháp gốc Đức. Từ kỹ

thuật chà xát, ông áp dụng với sơn và gọi là “kỹ thuật cào nạo”. Bằng cách thể

hiện đó ông đã đƣa những truyền thuyết hƣ ảo Đức thành những tác phẩm hội

họa siêu thực của mình đầy hoang tƣởng.

Ở Tây Ban Nha, Joan Miró (1893- 1983) là một trong những họa sĩ đầu

tiên của trƣờng phái hội họa Siêu thực. Ông tham gia trƣờng phái này từ

những năm 1924, tác phẩm của ông là sự thể hiện một thế giới tƣởng tƣợng

rất riêng với một bảng màu tƣơi sáng và bỏ qua đƣờng nét một cách tự động;

Với họa sĩ Salvador Dali (1904-1989), ông không thuộc nhóm những

họa sĩ đầu tiên tham gia trƣờng phái hội họa Siêu thực nhƣng mỗi khi nói đến

hội họa Siêu thực không thể không nhắc đến ông bởi sự nổi tiếng của mình.

Bắt đầu vẽ Siêu thực từ năm 1929 bằng bút pháp tỉ mỉ, chi tiết với kỹ thuật

chín chắn Dali đã cho ra đời nhiều tác phẩm, chủ yếu là đề tài tôn giáo. Ông

khẳng định tài năng của mình bằng các tác phẩm “Sự dai dẳng của kí ức”

(1931), tác phẩm “Đứa trẻ đang xem sự ra đời của con ngƣời” (1943) hay tác

phẩm “Sự bùng nổ của cái đầu” (1951)… đều là những tác phẩm nổi tiếng thế

giới, có giá trị nghệ thuật cao.

Ở Bỉ, Họa sĩ René Magritte (1898) là một nhân vật rất quan trọng, có

tầm ảnh hƣởng lớn đến trào lƣu Siêu thực ở nƣớc này. Ông thƣờng xuyên

tham gia các hoạt động nghệ thuật do André Breton khởi xƣớng. Tác phẩm

tranh Siêu thực của ông thƣờng tập trung nhấn mạnh vào tính chất phi thƣờng,

tƣơng ứng giữa quá trình tƣ duy và quá trình nhìn, nó đƣợc xem nhƣ những ví

dụ điển hình của triết lí tranh Siêu thực.

Không kém phần nổi tiếng so với René Magritte, họa sĩ Paul Delvaux

(1897) là tác giả của những bức tranh mang hơi thở của hội họa Siêu thực.

16

Ông vẽ những cô gái khỏa thân nhìn chăm chăm nhƣ bị thôi miên, cử chỉ bí

ẩn đi lang thang trong những tòa nhà cổ điển, có khi bên các cô gái là những

bộ xƣơng ngƣời nhƣ vẫn còn hoạt động.

Ngoài ra còn nhiều họa sĩ nữa đến từ những đất nƣớc khác nhƣ họa sĩ

ngƣời Mĩ gốc Pháp Yvex Tanguy đến với Siêu thực bằng cách gợi sự mơ hồ

cho hình thể với một không gian trống rỗng vô hình. Ở Tiệp Khắc cũng đóng

góp hai họa sĩ nổi bật cho hội họa Siêu thực đó là Adolf Hoffmeister và Josef

Sima. Đất nƣớc Nam Tƣ có họa sĩ Miodrag Djuric với những bức tranh quái

dị về những con ngƣời nhƣ bị lột da và nhuốm bởi màu lam huyền hoặc.

Hội họa Siêu thực là điểm nhấn quan trọng trong lịch sử hội họa nửa

đầu thế kỉ XX, một giai đoạn mà xuất hiện nhiều trào lƣu và trƣờng phái nghệ

thuật. Các họa sĩ siêu thực đã làm nên một cuộc cách mạng thực sự trong tƣ

duy hội họa, mở ra một thế giới hoàn toàn mới lạ, thế giới của vô thức của

những giấc mơ đƣợc tái hiện thông qua các tác phẩm nghệ thuật. Sự thay đổi

căn bản từ nội dung đến hình thức biểu đạt làm thay đổi nhận thức của công

chúng về thế giới, về nghệ thuật và hội họa, cuốn hút sự quan tâm của đông

đảo họa sĩ và những ngƣời yêu nghệ thuật. Các tác phẩm hội họa Siêu thực

đến nay vẫn nguyên giá trị, nhiều họa sĩ hiện nay vẫn tiếp tục tìm tòi, sáng tạo

trên tinh thần của hội họa siêu thực.

Hội họa có yếu tố siêu thực ở Việt Nam

Khi hội họa Siêu thực hình thành và phát triển ở Pháp rồi lan dần ra các

nƣớc Châu Âu và nhiều nƣớc trên thế giới, thì ở Viêt Nam sau đó một năm,

năm 1925 Trƣờng Cao Đẳng Mĩ Thuật Đông Dƣơng mới đƣợc thành lập. Các

họa sĩ Việt Nam mới bắt đầu đƣợc đào tạo một cách chính quy. Ra trƣờng

trong hoàn cảnh đất nƣớc trải qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm kéo

dài, nên những sáng tác của họ thời kì này chủ yếu đƣợc vẽ theo phong cách

hiện thực và hiện thực xã hội chủ nghĩa, đề tài thƣờng xoay quanh việc ca

17

ngợi anh bộ đội Cụ Hồ, ca ngợi tinh thần chiến đấu và lao động sản xuất của

quân và dân Việt Nam .

Đến năm 1975 khi đất nƣớc hết chiến tranh, hai miền thống nhất, mĩ

thuật Việt nam mới bắt đầu hội nhập quốc tế. Bằng nhiều con đƣờng khác

nhau, các họa sĩ không ngừng tìm tòi học tập từ bên ngoài. Các danh họa thế

giới là những tấm gƣơng có tầm ảnh hƣởng lớn đến các họa sĩ. Nhiều cách vẽ

khác nhau lấy cơ sở từ những học thuyết, những trƣờng phái hội họa lớn làm

cơ sở tạo hình dần dần xuất hiện ở các triển lãm. Trong đó hội họa Siêu thực

có sự ảnh hƣởng rất lớn đến nhiều họa sĩ. Bởi ở hội họa Siêu thực họ tìm thấy

một hƣớng mở về một thế giới mà trƣớc kia chỉ có trong tiềm thức, cũng ở hội

họa Siêu thực họ nhƣ có thêm phƣơng tiện để bộc lộ những suy tƣ, mơ mộng

của mình, điều mà các khuynh hƣớng hội họa khác khó thực hiện.

Ngoài ba họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình

Đăng đƣợc nghiên cứu trong đề tài này, ở Việt Nam, các họa sĩ: Lê Anh Vân;

Hà Trí Hiếu; Lê Huy Hòa; Đào quốc Huy; Trần Xuân Bình; Mai Duy Minh…

là những họa sĩ đã khẳng định đƣợc tên tuổi của mình ở Việt Nam mà trong

tranh họ thƣờng sử dụng các yếu tố siêu thực.

1.3. Khái quát về sự nghiệp sáng tác của các họa sĩ Lê Huy Tiếp,

Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng

Khái quát về sự nghiệp sáng tác của họa sỹ Lê Huy Tiếp

Họa sĩ Lê Huy Tiếp sinh ngày 17, tháng 4, năm1951, quê ở xã Nghi

Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Năm 1966, ông bắt đầu học tại trƣờng

Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội. Đến năm 1969, ông đƣợc cử sang Liên Xô

(cũ) đi du học và học tại Khoa Đồ họa trƣờng Đại học Mỹ thuật Công nghiệp

Matxcơva. Sau khi tốt nghiệp ông về làm giảng viên ở ngành đồ họa và hội

họa tranh tƣờng tại trƣờng Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội (1975-

2002). Ông từng giữ chức Ủy viên hội đồng nghệ thuật chuyên ngành hội họa

18

Hội Mĩ thuật Việt Nam khóa V (1999-2004) Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật

Hội Mỹ thuật Việt Nam khóa VI (2004-2009).

Năm 1976 họa sĩ Lê Huy Tiếp ra mắt công chúng tại triển lãm mỹ thuật

toàn quốc với tác phẩm tranh sơn dầu "Cô gái và con chó trắng", Tác phẩm

nhƣ dấu ấn khởi đầu cho những sáng tạo nghệ thuật hội họa tranh sơn dầu của

ông. Tuy có nhiều cách nhìn trái chiều nhau lúc bấy giờ, nhƣng bức tranh này

đã gây đƣợc tiếng vang lớn bởi kĩ thuật sơn dầu vững chắc và cách nhìn hoàn

toàn mới lạ ở Việt Nam vào thời điểm đó.

Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực lãng mạn pha lẫn

những yếu tố siêu thực trong tranh, Lê Huy Tiếp đã cho ra đời nhiều tác phẩm

tranh sơn dầu có giá trị: Sáng tác, 1978, sơn dầu; Miền Trung, 1980, sơn dầu;

Nghề Biển,1980, sơn dầu; Chiến tranh, 1986, sơn dầu; Hoà Bình, 1986, sơn

dầu; Cái bàn của người trực ca, 1987, sơn dầu; Quê hương1980, sơn dầu;

Đợi, 1977, sơn dầu; Chân dung nhà phê bình Mỹ thuật Thái Bá Vân, 1998,

sơn dầu; Trời và đất, 2003, sơn dầu; Trông ra biển, 2008, sơn dầu; Kỷ vật,

2009, sơn dầu... Trong đó có nhiều bức hiện đang đƣợc trƣng bày và lƣu giữ

tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Tranh Lê Huy Tiếp thể hiện những suy nghĩ về cuộc đời mà chủ yếu là

hình ảnh con ngƣời sống và chết, tình yêu và chiến tranh, con ngƣời với thiên

nhiên. Mỗi bức tranh đều là câu chuyện gắn bó với cuộc sống của ông.

Lê Huy Tiếp diễn tả con ngƣời và cảnh vật trong tranh với những bố

cục thoáng đạt, không gian rộng nhƣng vô cùng chặt chẽ. Không chỉ để ghi lại

chính xác cái đẹp của sự vật mà quan trọng hơn tác giả muốn gửi gắm những

tƣ tƣởng kín đáo bằng con mắt quan sát tinh tế, từ đó cuốn hút ngƣời xem,

đƣa họ tiếp cận với chủ đề tác phẩm.

Sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa hiện thực với chủ nghĩa tƣợng trƣng

siêu thực xuyên suốt các tác phẩm của họa sĩ. Tranh Lê Huy Tiếp đã vƣợt

khỏi hiện thực của thị giác, đánh thức những rung động sâu thẳm trong lòng

19

ngƣời xem. Vẻ đẹp của con ngƣời và cuộc sống đƣợc tôn lên nhờ ánh sáng và

bóng tối, nhờ ngày và đêm, quá khứ và hiện tại, cái thiện và cái ác, cũng nhƣ

những giá trị tƣ tƣởng đƣợc nhận ra giữa ranh giới chiến tranh và hòa bình.

Không chỉ thành công ở mảng tranh sơn dầu, họa sỹ Lê Huy Tiếp còn

thành công cả ở lĩnh vực đồ họa với dòng tranh in khắc, một trong những loại

hình nghệ thuật tồn tại lâu đời trên thế giới. Lê Huy Tiếp đƣợc xem là ngƣời

đầu tiên đƣa tranh độc bản vào Việt Nam, có nhiều đóng góp trong việc đào

tạo thế hệ họa sĩ đồ họa trẻ và vực dậy phong trào sáng tác tranh in khắc do

Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức. Điển hình là bộ tranh "Môi trƣờng biển" (In

độc bản - 2001), họa sĩ đã sử dụng phối hợp nhiều kỹ thuật và đƣa vào tranh

không ít vật phẩm có sẵn trong tự nhiên để tạo nên chiều sâu, sự phong phú

về không gian và màu sắc cho tác phẩm.

Thành công của họa sĩ Lê Huy Tiếp đã đƣợc ghi nhận qua nhiều giải

thƣởng: Giải nhì Triển lảm Mĩ thuật toàn quốc năm 1990; Giải ba Hội Mĩ

thuật Việt Nam năm 1997. Giải thƣởng triển mĩ thuật khu vực I (Hà Nội):

Giải A năm 2003; Giải B năm 2001 và Tặng thƣởng năm 2006. Năm 2012

họa sĩ Lê Huy Tiếp đƣợc Chủ tịch nƣớc Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt

Nam tặng Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học Nghệ thuật cho các tác phẩm:

Chiến tranh,1986, sơn dầu; Đợi, 1996, sơn dầu; Eva trở về, 1997, sơn dầu

và bộ 4 tranh in độc bản Môi trường biển 2001. Ngoài ra trong quá trình công

tác, ông còn đƣợc tặng Huy chƣơng vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam; Huy

chƣơng vì sự nghiệp văn hóa thông tin.

Họa sĩ Lê Huy Tiếp là ngƣời đã cần mẫn lao động, suốt đời tìm tòi sáng

tạo để cho ra nhiều tác phẩm nghệ thuật tạo hình độc đáo. Tên tuổi ông đã có

chỗ trong lòng ngƣời yêu mỹ thuật Việt Nam. Và lịch sử mỹ thuật hiện đại

nƣớc nhà đã dành cho ông những vị trí trang trọng trong Bảo tàng Mỹ thuật

Việt Nam với những tác phẩm mỹ thuật nổi tiếng thành công ở cả chất liệu

sơn dầu và đồ họa. [5, tr.315-319]

20

Khái quát về sự nghiệp sáng tác của họa sĩ Nguyễn Trung Tín

Họa sĩ Nguyễn Trung Tín sinh năm 1955 tại Hà nội, quê gốc ở tỉnh

Quảng Ngãi. Từ năm 1983 đến năm 2015 ông làm việc tại trƣờng Đại học Mĩ

thuật thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi nghỉ hƣu ông ở lại thành phố này sống

và tiếp tục công việc sáng tác nghệ thuật.

Tranh Nguyễn Trung Tín có sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn hài hòa

giữa các yếu tố hiện thực, siêu thực và đồng hiện. Một sự kết hợp khéo léo

giữa những cái thực tinh túy của cuộc sống với cái ảo của thị giác, cái mà

ngƣời ta thƣờng bắt gặp trong những giấc mơ. Bề mặt trong tranh thƣờng

đƣợc ông chia thành nhiều không gian, thời gian khác nhau mang tính đồng

hiện nhằm đạt hiệu quả cao nhất cho ý tƣởng. Trong tác phẩm ông dành sự

quan tâm đến hiện thực là nhiều nhất. Ông đi sâu vào diễn tả kĩ nhân vật, đặc

biệt là khuôn mặt và đôi bàn tay, nhằm muốn khắc họa một cách chân thực

nhất đặc điểm và sự biểu cảm của nhân vật.

Đời sống là mảng đề tài chính với Nguyễn Trung Tín. Trong sáng tác

ông luôn nắm bắt, gạn lọc để cho ra đời các tác phẩm có giá trị. Ông thƣờng

vẽ những gì thân quen nhất đó là những con ngƣời, những ban công, những ô

cửa, hay những ngõ phố thân thuộc, ngoài ra đề tài về cuộc sống của ngƣời

dân đồng bằng sông Cửu Long cũng đƣợc ông quan tâm khai thác.

Nguyễn Trung Tín thƣờng vẽ nhiều tranh khổ lớn, vẽ kĩ, vẽ chi tiết, có

thể thấy ở các bức “ Ban công và sen”, “Nữ họa sĩ”, “Ký ức đường phố”,

“Chân dung trong mưa”, “Bên một chiến tích”, “Buổi chiều”, “Hà Nôi

1972”…thể hiện một phong cách làm việc nghiêm túc và chuyên nghiệp. Ông

cũng thƣờng vẽ với mẫu thật để có sự rung cảm mạnh, làm cho bức tranh có

hồn, kỹ thuật sơn dầu dày dặn có sức nặng và chiều sâu không gian tinh tế.

Họa sĩ Nguyễn Trung Tín có sự thành công rất sớm. Năm mới mƣời

tám tuổi (năm 1974) ông đã có tác phẩm “Bên suối” đƣợc sƣu tập tại Bảo tàng

Mĩ thuật Việt Nam. Có lẽ đó là một tài năng bẩm sinh, tài năng đó khi đƣợc

21

lĩnh hội đầy đủ những kiến thức hội họa sâu rộng, kĩ thuật sơn dầu vững vàng,

cảm xúc tinh tế cùng những trãi nghiệm cuộc sống phong phú, Nguyễn Trung

Tín đã có những bƣớc tiến vững vàng trong nghề nghiệp, gặt hái nhiều thành

công đáng kể trong sự nghiệp. Những giải thƣởng Mĩ thuật của Hội Mỹ thuật

Việt Nam khá đều đặn, giải nhất năm 1995, giải nhì năm1997, giải ba năm

1999 cùng huy chƣơng bạc ở triển lãm toàn quốc năm 2000 với tác phẩm

Bên một chiến tích , huy chƣơng đồng năm 2010 với tác phẩm Buổi chiều.

Những thành công đạt đƣợc đã chứng minh Nguyễn Trung Tín là một

họa sĩ tài năng có nhiều đóng góp cho nền mĩ thuật Việt Nam, đƣợc công

chúng, những ngƣời yêu nghệ thuật đón nhận một cách tích cực. [4]

Khái quát về sự nghiệp sáng tác hội họa của họa sĩ Nguyễn Đình

Đăng

Họa sĩ Nguyễn Đình Đăng sinh năm 1958 tại Hà Nội, ông còn là một

nhà khoa học với hai bằng tiến sĩ về vật lí hạt nhân, nhƣng ông lại luôn có

một niềm đam mê cháy bỏng với Hội họa. Đặc biệt ông không học tại một

trƣờng mĩ thuật nào mà hoàn toàn tự học ở sách báo, tự mày mò từ các bậc

tiền bối và tự thể nghiệm. Ông vẽ trực tiếp từ tĩnh vật, thiên nhiên, chân dung

những ngƣời thân quen bên cạnh. Thời kỳ ở Mátxcơva, thủ đô của nƣớc Nga,

ông thƣờng hay tới xem và chép tranh tƣợng tại Bảo tàng Mỹ thuật Puskin để

học tập, nghiên cứu. Lúc này ông rất thích tranh các họa sĩ ấn tƣợng và ông đã

dành hàng chục năm theo đuổi phƣơng pháp vẽ này.

Về Việt Nam từ năm 1985, Nguyễn Đình Đăng tham gia sáng tác tại

Hà Nội, rồi đƣợc hai họa sĩ Mai Văn Hiến và Bùi Xuân Phái giới thiệu vào

Hội Nghệ sĩ Tạo Hình Việt nam (hiện là Hội Mỹ Thuật Việt Nam). Ông trở

thành hội viên Hội Mỹ thuật Việt Năm vào năm 1987. Sau đó ông gia nhập

Hội viên hội Mỹ thuật Hà Nội (năm 1990) và Hội viên hội Nghệ thuật quốc tế

(1997 – 1999).

22

Nguyễn Đình Đăng đƣợc công chúng ngƣỡng mộ bởi các tác phẩm

tranh siêu thực, thể hiện bằng kỹ thuật vẽ nhiều lớp, các nét vẽ tinh tế, trau

chuốt, gọn gàng, bay bổng mang những nét lãng mạn và ngẫu hứng của một

tâm hồn nghệ sĩ. Phong cách nghệ thuật có sự ảnh hƣởng của danh họa

Leonardo da vinci, Salvador Dali kết hợp với cách vẽ cực thực và đồng thời là

sự kết hợp giữa văn hóa Đông, Tây trong tác phẩm (văn hóa phƣơng Đông

chủ yếu là văn hóa Việt Nam và văn hóa Nhật Bản; Văn hóa phƣơng Tây, đặc

biệt là văn hóa Pháp) .

Các tác phẩm hội họa tiêu biểu trong thời gian sáng tác ở Việt Nam có

thể kể: “Khai bút” (1986); “Sự xuất hiện của hình tượng trên hoang mạc”

(1986); “Cái chết của hoạ sĩ” (1987); “Tiếng kèn thứ năm” (1990); “Giấc mơ

nghệ sĩ (Chân dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp)”.

Sau một thời giạn hoạt động Mĩ thuật tại Việt Nam, ông đã đạt đƣợc

những thành công nhất định trên con đƣờng nghệ thuật. Từ năm 1994, ông

đến Nhật Bản để tiếp tục sự nghiệp nghiện cứu khoa học vật lý hạt nhân và

khẳng định tài năng hội họa xuất sắc bằng nguồn năng lƣợng sáng tác dồi dào

ở một đất nƣớc có nên nghệ thuật rất phát triển.

Đến Nhật, phong cách hội họa của Nguyễn Đình Đăng thay đổi không

nhiều so với thời kỳ còn ở Việt Nam. Ông vẫn giữ cách vẽ sơn dầu nhiều lớp

trên canvas hình chữ nhật, cách phối màu mềm mại, mặt tranh nhẵn. Ông chủ

yếu thay đổi một số điểm nhƣ: từ gam màu vàng đất, nâu, sắc ấm thƣờng

dùng đƣợc chuyền dần sang hòa sắc lạnh, cách xử lý sáng tối đề cập nhiều

hơn và đặc biệt tại đây bút pháp diễn tả có sự ảnh hƣởng của hội họa cƣờng

thực, nội dung đề tài cũng có thay đổi do sự ảnh hƣởng của văn hóa Nhật

Bản.

Năm 2005 Nguyễn Đình Đăng trở thành hội viên hội Mỹ thuật Chủ

Thể của Nhật Bản. Từ năm 1978 tới nay ông đã có nhiều cuộc triển lãm tranh

lớn (triển lãm cá nhân, triển lãm nhóm và triển lãm có hội đồng duyệt) tại

23

nhiều nƣớc: Việt Nam, Nga, Nhật Bản và Ý... và đã giành đƣợc nhiều giải

thƣởng uy tín về nghệ thuật ở cả Nhật và Việt Nam. Đặc biệt năm 2003 ông

đƣợc tặng thƣởng Huy chƣơng Vì sự nghiệp mỹ thuật Việt Nam. Ông cũng

thƣờng đƣợc mời thuyết trình về Kỹ thuật vẽ sơn dầu tại Đại học Mĩ thuật

Việt Nam, Bảo tàng Mĩ thuật thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm cộng đồng

thành phố Wako, Nhật Bản; thuyết trình về tranh của mình tại Ý, Bồ Đào

Nha, Mỹ. [26]

Tiểu kết

Chƣơng một đã xác định đƣợc khái niệm yếu tố siêu thực trong tranh

thông qua tổng hợp các diễn giải về siêu thực và yếu tố siêu thực. Chƣơng này

cũng đã nêu khái lƣợc về hội họa Siêu thực, trong đó ngƣời viết chủ yếu nói

sơ lƣợc về sự ra đời và quan niệm sáng tác của hội họa Siêu thực, giới thiệu

ngắn gọn một số họa sĩ tiêu biểu của trƣờng phái hội họa Siêu thực cũng nhƣ

sơ qua về hội họa có yếu tố Siêu thực ở Việt Nam nhằm đƣa ra cơ sở lý thuyết

làm nền tảng cho việc nghiên cứu đề tài này. Ngoài ra ở phần này của luận

văn cũng nêu khái quát về sự nghiệp sáng tác của các họa sĩ Lê Huy Tiếp,

Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng để có cái nhìn tổng thể nhất về con

đƣờng nghệ thuật của từng họa sĩ, tạo cơ sở trực tiếp để nghiên cứu về yếu tố

siêu thực trong tranh của họ.

Những nội dung của chƣơng một đã xây dựng là cơ sở mang tính lý

thuyết để luận văn tiếp tục đi vào chƣơng hai nghiên cứu những biểu hiện của

yếu tố siêu thực trong tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín Và Nguyễn

Đình Đăng.

24

Chƣơng 2

NGHIÊN CỨU YẾU TỐ SIÊU THỰC TRONG TRANH LÊ HUY TIẾP,

NGUYỄN TRUNG TÍN VÀ NGUYỄN ĐÌNH ĐĂNG

2.1. Yếu tố siêu thực biểu hiện trong tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn

Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng

Nghiên cứu nhằm chỉ ra sự biểu hiện về yếu tố siêu thực trong các tác

phẩm hội họa của Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và nguyễn Đình Đăng

nhằm chỉ ra sự biểu hiện của yếu tố siêu thực thông qua những đặc điểm của

hội họa có yếu tố siêu thực. Đồng thời so sánh sự tƣơng đồng và khác biệt về

yếu tố siêu thực trong tranh giữa ba họa sĩ, để có cái nhìn vừa tổng quát, vừa

cụ thể về yếu tố siêu thực trong tranh mỗi họa sĩ.

2.1.1. Yếu tố siêu thực biểu hiện qua sự phi lí

Phi lý là không hợp với lẽ phải, không có cơ sở thực tại và trái với quy

luật tự nhiên. Trong Hội họa Siêu thực, phi lí luôn là một đặc trƣng, dù ngƣời

nghệ sĩ biểu hiện bằng cách tự động cào nạo hay cố gắng vẽ chi tiết, tỉ mỉ

những gì không hợp lí để tạo hiệu quả nghệ thuật, thì cuối cùng vẫn là tạo ra

sự phi lí mang tính siêu thực trong tác phẩm.

Xem các tác phẩm hội họa của Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và

Nguyễn Đình Đăng, yếu tố siêu thực đƣợc biểu hiện ở nhiều khía cạnh, nhiều

goc độ, với nhiều ý nghĩa khác nhau trong các tác phẩm của mỗi họa sĩ. Sự

phi lý nhƣ là dấu hiệu nhận biết những biểu hiện của yếu tố siêu thực trong

tranh họ, bởi sự phi lí trong tác phẩm hội họa thƣờng có biểu hiện trái ngƣợc

với các yếu tố hội họa khác.

Tác phẩm Cô gái và con chó trắng, sơn dầu, [Phụ lục 1.1 ] của họa sĩ

Lê Huy Tiếp, ra mắt lần đầu tiên vào năm 1976 tại Triển lãm Mĩ thuật toàn

quốc, làm ngƣời ta phải ngỡ ngàng, bàn tán bởi những triết lý của hội họa siêu

thực đã đƣợc đƣa vào thể hiện. Những thứ trái ngƣợc với quy luật tự nhiên đã

25

làm ngƣời xem không thể nào không đặt ra những câu hỏi về sự phi lí biểu

hiện trong bức tranh đó. Vì trong hoàn cảnh bấy giờ, khi đất nƣớc mới thống

nhất đa số công chúng và nhiều họa sĩ ít ai biết đến hội họa Siêu thực, nên

việc vẽ tranh có yếu tố siêu thực nhƣ Lê Huy Tiếp là rất mới lạ và thậm chí

còn khó chấp nhận với nhiều ngƣời, kể cả những ngƣời trong cuộc. Ở Việt

Nam lúc này, ngƣời ta hiếm khi tiếp cận các bức tranh mà trong đó có yếu tố

tạo thành lại vƣợt ra bên ngoài thế giới tự nhiên nhƣ vậy.

Thoạt nhìn, bức tranh đƣợc diễn tả khá kỹ lƣỡng. Hình ảnh chính là

một cô gái lộ rõ khuôn mặt đƣợm buồn với chiếc áo màu vàng có sọc óng

ánh, ngồi ngay sát bờ tƣờng, ở chính giữa bố cục. Phía dƣới là sàn gạch hoa

nâu - đỏ, còn bên ngoài có một chú chó trắng đang nằm bên cạnh luống hoa

màu phớt tím. Xa hơn là đôi trai gái mặc đồ bơi, nắm tay chạy đùa trên bãi

biển làm cho không gian tranh càng trở nên lãng mạn. Bầu trời xanh trong với

những đụn mây màu trắng lững lờ. Trong khoảng tối xẩm cạnh cô gái ngồi có

những cây xƣơng rồng là ẩn dụ về sự nguy hại. Những cánh bƣớm đen sẫm,

theo họa sĩ là sự ẩn ý về nỗi ám ảnh của cái chết luôn rình rập xung quanh.

Khi quan sát thật kĩ, mọi thứ sẽ trở nên thú vị hơn bởi có những đám mây

trắng bay lạc vào không gian một cách bất thƣờng và phi lí. Hầu nhƣ tất cả

mọi thứ trong tranh đều thực, không gian thực, con ngƣời thực, cảnh vật thực,

nhƣng trong cái thực đó đã xẩy ra một sự đảo lộn không gian bất thƣờng. Một

áng mây bay lơ lững lạc vào bên trong nhà ngay trên đầu cô gái. Những cây

xƣơng rồng, những con bƣơm bƣớm đen bay lƣợn làm cho không gian không

rõ trong – ngoài. Vị trí mọi vật thể nhƣ bị đảo lộn một cách phi lí. Có thể đó

là ý đồ của tác giả nhằm muốn gây hiệu quả tốt hơn trong việc thể hiện tâm

trạng của cô gái, nhân vật chính của bức tranh trong sự cô đơn, sự mỏng manh

của cuộc sống .

Đặt giả thuyết, nếu không có một áng mây phi lý mang biểu tƣợng của

hội họa siêu thực bay ngang vào không gian bên trong, thì cạnh của bức tƣờng

26

phía sau, trên đầu cô gái dễ bị cứng nhắc, bố cục dễ bị chia thành hai phần

trong ngoài rõ rệt, kém hấp dẫn, làm giảm đi rất nhiều vẽ đẹp của tạo hình

trong tổng thể bố cục. Sự xuất hiện của một áng mây phi lí, đã thay đổi hoàn

toàn không gian tranh, làm cho không gian bên ngoài và bên trong đƣợc kết

nối, tổng thể tranh đƣợc thống nhất, tạo đƣợc nhiều giá trị thẩm mỹ và quan

trọng hơn là góp phần làm rõ ý đồ của tác giả nhằm biểu đạt tâm trạng của

nhân vật chính trong tranh.

Hình ảnh một áng mây bay lạc vào không gian khác một cách phi lý,

hay đƣợc Lê Huy Tiếp tâm đắc ƣa dùng, vì vậy nó còn đƣợc lặp lại trong tác

phẩm Sáng tác, 1978, sơn dầu, [Phụ lục 1.2] của họa sĩ này.

Tác phẩm Hòa Bình, 1986, sơn dầu, [Phụ lục 1.4] Lê Huy Tiếp biểu

hiện rất rõ đặc trƣng của hội họa mang phong cách siêu thực. Bức tranh có bố

cục chính là một cô gái và quả địa cầu. Cô gái khỏa thân nằm nghiêng mình,

giáng uyển chuyển rất đẹp trên bãi cát rộng mênh mông của bờ biển, tay cầm

một chiếc bình bông. Đặc biệt trong tác phẩm đã xuất hiện một điều không

bao giờ có thực ở ngoài đời làm cho ngƣời xem phải nhìn nhận tác phẩm từ

nhiều chiều mới có thể cảm nhận đƣợc dụng ý của họa sĩ. Cụ thể trong cái

không gian tƣơng đối tĩnh lặng và lãng mạn đó, họa sĩ đã vẽ ra một quả địa

cầu nhỏ bay lơ lửng phía trên cô gái và một điều phi lí đã diễn ra. Một chi tiết

làm ngƣời ta phải suy ngẫm, phải đặt ra câu hỏi cho những biểu hiện trong

bức họa.

Biểu hiện của yếu tố siêu thực qua sự phi lý trong tranh Nguyễn Trung

Tín cũng đƣợc thể hiện một cách chủ động và sáng tạo. Tranh ông thƣờng

đƣợc vẽ về cuộc sống xung quanh, thƣờng nhật và gần gũi nhƣ những ô cửa

sổ, ban công, ngõ phố, những đứa trẻ ngây thơ, hay những thiếu nữ trẻ trung

luôn sẵn sàng làm mẫu mỗi khi họa sĩ cần, tất cả trở thành nguồn cảm hứng

bất tận để sáng tác. Tuy nhân vật và vật thể trong tranh thƣờng đƣợc vẽ từ

hiện thực cuộc sống, nhƣng họa sĩ không đơn thuần sử dụng phong cách hiện

27

thực để biểu đạt trong tranh mà kết hợp cả hiện thực, siêu thực và đồng hiện

trong nhiều tác phẩm tạo ra sự thú vị và hấp dẫn cho ngƣời xem.

Tác phẩm Nhảy dây, sơn dầu, [Phụ lục 2.6] đƣợc Nguyễn Trung Tín

thể hiện về những đứa trẻ chơi trò nhảy dây trong ngõ phố, một trò chơi dân

gian quen thuộc của trẻ em Việt Nam. Bằng phƣơng pháp đồng hiện ông đƣa

hai không gian hoàn toàn khác nhau tạo thành một bố cục cân đối giữa hai

bên. Và hai không gian tƣởng nhƣ tách biệt đó lại có một mối quan hệ gắn kết

với nhau bằng việc thể hiện những liên tƣởng của họa sĩ. Các em nhỏ ở hai

không gian khác nhau nhƣng lại chơi đƣợc với nhau cùng một trò chơi, sử

dụng cùng một sợi dây để nhảy nhót, đúng là một sự phi lí mang tính siêu

thực trong tác phẩm này. Sự kết nối các không gian, kết nối các em nhỏ ở

nhiều ngõ ngách của những góc phố khác nhau chỉ bằng một sợi dây của trò

chơi quen thuộc. Cách giải quyết của họa sĩ thể hiện sự tinh tế và khả năng

liên tƣởng, sáng tạo tuyệt vời.

Vẫn là cách thể hiện quen thuộc đã trở thành phong cách riêng của họa

sĩ bằng sự đan xen, lồng ghép giữa hiện thực, siêu thực và đồng hiện với nhau

một cách hài hòa, hợp lí. Trong tác phẩm Buổi chiều, sơn dầu, [Phụ lục 2.1],

ra mắt tại triển lãm Mĩ thuật toàn quốc 2010, Nguyễn Trung Tín thể hiện một

sự vững vàng trong kĩ thuật sơn dầu với khả năng diễn tả nhân vật rất tốt. Tác

phẩm đƣợc hội Đồng nghệ thuật và công chúng yêu mĩ thuật đánh giá rất cao

về tính nghệ thuật đƣợc thể hiện. Vì vậy họa sĩ đã đƣợc trao tặng huy chƣơng

đồng trong triển lãm lần này. Đó là một tác phẩm tràn đầy cảm xúc, có chiều

sâu cả về nội dung và cách thể hiện. Yếu tố siêu thực đƣợc họa sĩ đƣa vào một

cách tinh tế thông qua sự phi lý của ánh sáng, phi lí của không gian và phi lí

về tỉ lệ giữa hai nhân vật trong tác phẩm. Những sự phi lý cố tình và chủ động

làm cho bức tranh càng trở nên hấp dẫn, giúp tác giả gửi tới ngƣời xem một

thông điệp về cuộc sống và triết lí của quy luật. Những sự không hợp lý làm

cho ngƣời xem suy ngẫm sâu sắc hơn về buổi chiều của một ngày nắng sắp

28

tàn liên tƣởng với buổi chiều của tuổi tác, buổi chiều của thời gian, hay buổi

chiều của một đời ngƣời.

Trong hội họa Nguyễn Đình Đăng hầu nhƣ tác phẩm nào cũng có sự

phi lý, bởi những sáng tác của ông đều mang đậm giấu ấn của hội họa siêu

thực. Có khi là sự cƣờng điệu làm thay đổi kích thƣớc, không gian hình thể

một cách bất thƣờng, có khi là sự bóp méo làm biến dạng các sự vật, cũng có

khi là sự lắp ghép kì quặc bất hợp lý các vật thể trong tranh.

Sự phi lý trong tranh Nguyễn Đình Đăng thể hiện rất rõ ở nhiều tác

phẩm khác nhau. Trong đó tác phẩm Tam vị nhất thể, 1997, sơn dầu, [Phụ lục

3.2], là một một ví dụ. Đây là một tác phẩm hiếm hoi của ông về đề tài tôn

giáo trong giai đoạn 1994 đến 2000.

Tác phẩm “Tam vị nhất thể” (1997) có nội dung Cơ-đốc rõ rệt, trong

đó Nguyễn Đình Đăng vẽ mình nhƣ Chúa Jesus, bên cạnh Chúa Thánh Linh,

đƣợc tƣợng trƣng bởi con bồ câu, và Chúa Cha, xuất hiện trên trời, không có

mặt vì không phải là ngƣời. Miếng bánh mì ám chỉ cơ thể của Chúa Jesus”

[23].

Nội dung của tác phẩm là vậy, còn hình thức thể hiện có sự tƣơng đồng

với phong cách của hội họa Siêu thực do họa sĩ sử dụng nhiều yếu tố của

trƣờng phái hội họa này. Sự phi lí bộc lộ thông qua hình ảnh nhân vật chính

trong tranh, đó chính là Nguyễn Đình Đăng đang ngồi hai chân xếp chéo

nhau, hai tay giang rộng cao ngang bờ vài, bay lơ lửng trên không trung, tách

rời khỏi mặt đất. Phi lí hơn, ở đằng xa khuất phía sau, xuất hiện một hình ảnh

tƣơng tự nhƣ nhân vật ở phía trƣớc nhƣng to hơn và chỉ có phần thân, không

đầu, không chân, không mặt mũi in hình lên không trung nhƣ bị mây trời che

khuất nhiều bộ phận.

Ở Tác phẩm Truyền thuyết ngọc trai, 2000, sơn dầu, [Phụ lục 3.9] đƣợc

Nguyễn Đình Đăng lấy cảm hứng từ câu chuyện truyền thuyết về “Mỵ Châu,

Trọng Thủy”. Trong tác phẩm, các nhân vật đƣợc họa sĩ thể hiện nhƣ không

29

có trọng lƣợng, bay lơ lửng giữa không gian. Những kiến trúc đƣợc chạm

khắc đầu rồng thƣờng có ở đình, đền cũng bay lơ lửng cùng hai nhân vật gây

cảm giác huyền bí về một câu chuyện thực hƣ trong lịch sử. Sự kết hợp nhiều

yếu tố phi lý tạo nên một không gian vừa huyền hoặc thần thoại, vừa phi lí,

siêu thực trong bức tranh.

Còn tác phẩm Ảo giác sau lễ hội, 2013, sơn dầu, [Phụ lục 3.12] đƣợc

Nguyễn Đình Đăng thể hiên sự phi lý thông qua hình ảnh về một con ngựa có

ba chân đang bốc cháy, còn con rắn có đuôi là một đôi dép, khối hình chữ

nhật dƣới chân ngựa thì dài đến tận chân trời. Tất cả những sự biểu hiện đó

đều mang tính phi lí trong tác phẩm.

Sự phi lý trong tranh Nguyễn Đình Đăng biểu hiện khả năng tƣởng

tƣợng vô cùng của tác giả. Trong tác phẩm Phản ánh, 2012, sơn dầu, [Phụ lục

3.11] là một ví dụ điển hình. Bố cục tranh đƣợc họa sĩ thể hiện gồm có một

tấm gƣơng nằm gần sát mặt tranh phản chiếu cảnh đêm tối bằng hình ảnh của

một ngƣời phụ nữ đang cầm cây nến trên tay, tay kia che chắn gió. Màn đêm

trở nên tối tăm và huyền bí hơn khi xuất hiện một đàn dơi đang bay lƣợn trên

không. Phía dƣới là những mảnh kính vỡ và chiếc ô rách nát bên cạnh ngƣời

phụ nữ. Sự phi lý và huyền bí hơn khi họa sĩ diễn tả hình bóng phản chiếu

ngƣời phụ nữ của ánh đèn ở trong gƣơng trải dài trên bãi biển đến tận chân

trời và in hình lớn lên tận trời xa. Dù là ảnh trong gƣơng thì hình phản chiếu

đó cũng không thể có thật mà hoàn toàn phi lí, một sự biểu hiện của yếu tố

siêu thực.

Tác phẩm duy nhất thuần túy về thần thoại của họa sĩ Nguyễn Đình

Đăng là tác phẩm Nàng Âu Cơ mới, 1996, sơn dầu [Phụ lục 3.3]. Theo truyền

thuyết, Âu Cơ là một trong hai nhân vật chính trong câu chuyện Lạc Long

Quân. Đó là câu chuyện kể về sự ra đời của triều đại đầu tiên của Việt Nam,

triều đại các vua Hùng. Trong truyện, Âu Cơ là một nàng tiên, tƣợng trƣng

cho đất. Sự kết giao giữa nàng Âu Cơ và Lạc Long Quân đã sinh ra dân tộc

30

Việt Nam bắt đầu từ 100 ngƣời con, một nửa lên rừng sống với mẹ, nửa kia

theo cha xuống biển. Trong tranh, họa sĩ Nguyễn Đình Đăng đã vẽ cả hai

nhân vật, trong đó Lạc Long Quân đã hóa thân thành rồng, bay từ biển lên bao

quanh Âu Cơ. Một hình tƣợng mang tính thần thoại đƣợc thể hiện bằng ngôn

ngữ tạo hình, một sự biến hóa không có thực trong đời sống thực tại nên phi

lí. Còn nàng Âu Cơ đƣợc diễn tả rất tự nhiên nhƣ một thiếu nữ ở ngoài đời,

nàng bay lơ lửng, vẻ mặt điềm tĩnh, nàng cƣỡi trên mình rồng. Vị trí của nàng

ở giữa bố cục, chia bức tranh thành hai phần đối xứng. Phần trời và biển cũng

đƣợc phân chia tƣơng tự, trong khi các đám mây đƣợc tạo hình xoáy theo

đƣờng bay của rồng. Nếu câu chuyện thần thoại là phi lí là siêu thực thì tác

phẩm hội họa này của Nguyễn Đình Đăng cũng có sự phi lý và siêu thực

tƣơng ứng.

Qua những phân tích trên ta thấy, trong tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn

Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng đều có nhiều biểu hiện của các yếu tố siêu

thực thông qua sự phi lí. Mỗi họa sĩ có một phƣơng thức biểu đạt riêng mang

đậm dấu ấn cá nhân, nhằm gây hiệu quả thẩm mĩ và truyền đạt những ý tƣởng

nghệ thuật qua tác phẩm.

2.1.2. Yếu tố siêu thực biểu hiện qua sự hư cấu hình thể

Trong hội họa siêu thực cũng nhƣ hội họa có yếu tố siêu thực, họa sĩ

thƣờng thể hiện các vật thể không giống nhƣ ngoài đời, thể hiện những không

gian phi lí, hay những con ngƣời kì dị, nhƣng hầu nhƣ vẫn còn những dấu vết

của hiện thực. Hình thể đó, không gian đó không có cách nào khác ngoài sự

hƣ cấu hình thể trong tác phẩm.

Hƣ cấu là phƣơng thức xây dựng hình tƣợng điển hình qua việc sáng

tạo ra những giá trị mới, những yếu tố mới, cảnh vật, nhân vật trong một tác

phẩm theo sự tƣởng tƣợng của tác giả. Còn hình thể là toàn thể nói chung

những đƣờng nét bên ngoài của một vật thể. Hình thể là những yếu tố dễ nhận

thấy nhất trong một tác phẩm [1, Tr.426].

31

Vậy hƣ cấu hình thể là thể hiện trên mức sự thật toàn bộ hay một phần

không gian, kết cấu của sự vật hiện tƣợng. Hƣ cấu trong phạm vi một hình thể

là sự thay đổi chu vi, đƣờng nét bao quanh bên ngoài vật thể, làm cho hình thể

bị thay đổi về kích thƣớc, cấu trúc hay hình dáng so với nguyên bản.

Hƣ cấu trong hội họa là sản phẩm của trí tƣởng tƣợng, dựa trên cơ sở

có thật của một sự vật, một hình thể nào đó. Hƣ cấu hình thể là làm cho hình

thể bị biến dạng không còn nhƣ ban đầu. Có nhiều hình thức khác nhau khi hƣ

cấu hình thể. Trong hôi họa siêu thực, các họa sĩ thƣờng làm thay đổi trật tự

không gian vốn có của các vật thể. Cũng có khi hƣ cấu chỉ trong phạm vi kết

cấu của một hình thể bằng cách phóng đại hình thể, thu nhỏ hình thể, thay đổi

cấu trúc vốn có của hình thể hay sự cƣờng điệu về màu sắc, đƣờng nét, không

gian, làm cho hình thể biến dạng nhƣ trong trí tƣởng tƣợng phiêu lƣu và

phong phú của họa sĩ.

Hƣ cấu hình thể trong tranh Lê Huy Tiếp đƣợc thể hiện một cách đầy

lãng mạn qua tác phẩm Cơn bão đi qua, 2007, sơn dầu, [Phụ lục 1.7]. Đây là

một bức tranh đƣợc Lê Huy Tiếp mất chín năm để thể hiện. Bức tranh có

không gian rất chân thực, các vật thể nằm trong một bối cảnh nhƣ vốn có

ngoài đời, ở những vùng quê ven biển sau khi giông bão đi qua. Yếu tố siêu

thực trong tranh thể hiện tinh thần lạc quan của tác giả. Bút pháp diễn tả tinh

tế, tỉ mỉ nhƣ muốn ghi lại một cách thực tế nhất về cảnh tƣợng hoang tàn do

bão gây ra. Các vật thể trong tranh rất lộn xộn, ngổn ngang, đổ nát, có lẽ bởi

sự tàn phá dữ dội của một cơn bão phải lớn lắm vừa đi qua. Cái hay trong tác

phẩm là họa sĩ đã thể hiện một nhân vật duy nhất đang ngồi quay mặt ra biển

với dáng vẻ lạc quan, đối lập hoàn toàn với bối cảnh những ngổn ngang. Nhân

vật đó cũng chính là tác giả của bức tranh, họa sĩ Lê Huy Tiếp. Để thể hiện

tinh thần lạc quan, tác giả đã hƣ cấu lại hình thể, biến một đám mây màu

trắng phía bầu trời xa theo hƣớng mắt nhìn của nhân vật trong tranh thành

một thiếu nữ khỏa thân mềm mại đang uốn mình trong làn mây trắng với

32

những đƣờng cong đầy gợi cảm. Mây là ngƣời, ngƣời là mây, rất đẹp và tinh

tế. Một phút thả hồn, một sự liên tƣởng chợt thoáng qua trong tâm hồn ngƣời

họa sĩ đã đƣợc tái hiện lại trong không gian hiện thực của bức tranh, làm cho

không gian đang từ hiện thực trở nên siêu thực hơn. Ngôn ngữ siêu thực trở

nên đặc biệt hiệu quả để họa sĩ thể hiện những hình tƣợng có từ tiềm thức con

ngƣời. Chỉ có sự biểu hiện của yếu tố siêu thực mới bộc lộ đƣợc đời sống nội

tâm đầy lãng mạn của họa sĩ. Sự kết hợp giữa khả năng tƣởng tƣợng với kỹ

thuật, kỹ năng mô phỏng, diện tả bằng ngôn ngữ hội họa với chất liệu sơn

dầu, họa sĩ Lê Huy Tiếp mới vẽ lại hiện thực của nội tâm, một hiện thực bất

chợt bật ra từ tâm hồn, nhƣng khi đi vào trong tranh lại biểu hiện một cấu trúc

hình thể hoàn toàn mới lạ. Những đám mây dù đa hình, đa khối, đa dạng đến

đâu, dù mềm mại đến đâu cũng không bao giờ có hình hài nhƣ một thiếu nữ

khỏa thân nhƣ vậy. Hình ảnh đám mây biến thành thiếu nữ biểu hiện trên mây

trời, ở trong tác phẩm do tác giả tƣởng tƣợng ra. Đúng siêu thực là sự kết hợp

giữa hiện thực vốn có ngoài đời với thế giới hiện thực chỉ có trong sự bay

bổng của tâm hồn ngƣời nghệ sĩ và quy tụ trong tác phẩm bằng ngôn ngữ của

nghệ thuật.

Mỗi tác phẩm hội họa, Lê Huy Tiếp lại có một cách biểu hiện về yếu tố

siêu thực riêng. Thông thƣờng yếu tố siêu thực đƣợc biểu hiện bằng việc đảo

lộn trật tự các sự vật trong không gian. Nhƣng cũng có khi họa sĩ lại hƣ cấu

hình thể, làm thay đổi kích thƣớc chúng một cách bất thƣờng, không gian

tranh nhƣ bị đảo lộn hay phá vỡ, khác hẳn với thƣờng nhật, tạo nên một cảm

quan thẩm mỹ mới lạ và thú vị cho ngƣời xem. Trong tác phẩm Kỷ vật, 2009,

sơn dầu, [Phụ lục 1.8] đƣợc họa sĩ Lê Huy Tiếp vẽ về đôi dép cao su, một đôi

dép đã đồng hành với Bác Hồ trên những chặng đƣờng Ngƣời đã đi qua và

nay đã trở thành một kỉ vật đặt biệt. Trong tranh, họa sĩ đã phóng đại đôi dép

lên to gấp nhiều lần tạo ra sự phi lý, bất thƣờng, đôi dép trở nên khổng lồ và

không gian nhƣ bị thu hẹp lại. Nếu đôi dép không đƣợc đặt trong mối quan hệ

33

với không gian xung quanh thì khó có ai nhận ra nó đƣợc phóng đại lên nhiều

lần. Ở đây cả bãi biển mênh mông mà đôi dép gần nhƣ chiếm trọn diện tích.

Nhƣng ngƣời ta vẫn có thể đật câu hỏi rằng, đôi dép đƣợc hƣ cấu, cƣờng điệu

bằng cách phóng đại, hay không gian và mọi vật khác trong tác phẩm hội họa

này bị thu nhỏ. Giả sử chúng ta có thể đƣa đôi dép ra khỏi không gian đó thì

các sự vật khác và không gian đều trở nên hợp lí lẽ tự nhiên. Vậy chắc chắn là

đôi dép đã đƣợc phóng đại lên nhiều lần.

Cũng trong bức tranh Kỷ vật, ngoài biểu hiện của yếu tố siêu thực qua

sự phóng đại hình thể, tác giả còn cƣờng điệu về màu sắc trong không gian

tranh. Do tác động của khí hậu của thời tiết, hay sự tác động của ánh sáng mặt

trời những đám mây có thể chuyển đổi màu sắc, có khi có màu vàng, có khi

là màu trắng, màu da cam, và thậm chí có khi mây là màu đỏ. Nhƣng xét

tƣơng quan màu sắc trong cả bức tranh thì màu đỏ nhƣ huyết kia của những

đám mây là hoàn toàn phi lý, nhƣ một sự ám ảnh về những chặng đƣờng lịch

sử đầy máu và nƣớc mắt mà chủ nhân của đôi dép kỉ vật đã trải qua và chứng

kiến. Họa sĩ đã hƣ cấu bằng cách cƣờng điệu màu đỏ của đám mây trong

tranh lên, gây cảm giác bất thƣờng trong bối cảnh đó. Có thể do đôi dép ở đây

là một kỷ vật đã cùng chủ nhân đi vào lịch sử, nên nó còn có nhiều giá trị phi

vật thể khác nên tác giả đã sử dụng phƣơng pháp hƣ cấu hình thể và màu sắc

lên nhiều lần để gây ra một hiệu ứng về tâm lý cho ngƣời xem.

Hƣ cấu hình thể thƣờng đƣợc họa sĩ Nguyễn Trung Tín và Nguyễn

Đình Đăng sử dụng nhiều trong tranh. Theo đó, hƣ cấu hình thể là việc tạo ra

cái mới bằng trí tƣởng tƣợng, liên tƣởng, sáng tạo trong nghệ thuật. Hình thể

hƣ cấu không tồn tại ngoài đời, mà họa sĩ bằng khả năng của mình sẽ cảm

nhận, tƣởng tƣợng và suy diễn ra. Trong tranh có yếu tố siêu thực, họa sĩ

không phải chép lại thiên nhiên, chép lại con ngƣời nhƣ ngoài đời thực, mà

bằng liên tƣởng, sáng tạo rồi biến đổi nó thông qua cảm quan của ngƣời họa

sĩ, bằng sự cƣờng điệu thông qua hƣ cấu hình thể làm cho mọi thứ vừa giống

34

thực, vừa không giống thực, vừa vô hình, vừa hữu hình, có khi cụ thể nhƣng

lại mơ hồ, có khi là nó nhƣng không phải là nó, nhƣ ảo nhƣ mộng, nhƣ những

giấc mơ.

Nguyễn Trung Tín đặc biệt chú ý biểu hiện yếu tố siêu thực qua sự hƣ

cấu hình thể và coi việc hƣ cấu hình thể là một đặc trƣng trong tranh ông,

nhƣ các tác phẩm “Ban công và sen” , “Ban công 2” “ Sống ở côn đảo”, “Hà

Nội 1972”, “ Cửa sổ nhìn ra phố”…

Trong tác phẩm Ban công và sen, sơn dầu, [Phụ lục 2.7] Nguyễn Trung

Tín đã hƣ cấu hình thể một vài bộ phận trong tác phẩm, làm cho mọi thứ trở

nên vừa thực vừa hƣ. Bức tranh có sự xuất hiện của hai cô gái đƣợc hƣ cấu

trong một không gian siêu thực của ban công, của sen và những mảng tƣờng

nhà. Hai cô gái, một cô với trang phục truyền thống tay cầm cành sen bên

cạnh một cô gái bán khỏa thân bên ban công mang phong cách hiện đại. Biểu

hiện của yếu tố siêu thực qua sự hƣ cấu hình thể trong tác phẩm này là sự đan

xen giữa cô gái với ban công và những nhành lá sen xen kẻ vào nhau, làm cho

cấu trúc hình thể bị thay đổi. Cô gái, ban công và cả lá sen đƣợc đan cài vào

nhau, phá vỡ nhau rồi kết cấu với nhau tạo thành một hình thể mới, hình thể

vừa thực vừa hƣ, vừa giống ngoài đời vừa lại khác. Đó là hình thể của sự

cƣờng điệu, hình thể của sự hƣ cấu, hình thể đó chỉ có trong tác phẩm hội họa

có yếu tố siêu thực của Nguyễn Trung Tín.

Với cách thể hiện tƣơng tự, họa sĩ Nguyễn Trung Tín khá thành công ở

tác phẩm Ban công 2, sơn dầu, [Phụ lục 2.8] . Bức tranh đƣợc thể hiện một

cách rất tỉ mỉ, giàu yếu tố trang trí và đầy gợi cảm. Đối tƣợng vẫn là ban công

với kiến trúc cổ, Hai cô gái bán khỏa thân hiện ra đƣợc diễn tả giống nhau

nhƣ là một, chỉ khác nhau một chút về thế dáng, giữa đứng thẳng và nghiêng.

Toàn bộ bức tranh đƣợc hƣ cấu một cách chủ động giữa hai nhân vật và bối

cảnh ban công, hoa, cột bê tông, mọi thứ đan xen vào nhau đƣợc hƣ cấu nhƣ

vẫn thƣờng thấy trong tranh ông. Có những vị trí trong tranh giống nhƣ ảo

35

ảnh, do một phần thân hình của cô gái không phải là sự diễn tả chất da thịt

thông thƣờng mà thay vào đó họa sĩ đã diễn tả trong suốt nhƣ một tấm kính để

có thể nhìn xuyên qua thấy trời mây. Nếu nhƣ không có phần đƣờng viền

xung quanh phần cơ thể đó, có lẽ nó đã biến mất để lẩn trốn vào không gian.

Một sự tƣởng tƣợng và sáng tạo tuyệt vời thể hiện khả năng biểu hiện sự hƣ

cấu hình thể linh hoạt. Sự hƣ cấu tài tình của họa sĩ đã làm các vật thể và

không gian trong tranh thay đổi một cách bất thƣờng, nhƣ thực mà nhƣ ảo, tạo

nên hiệu quả thẩm mỹ về sự biểu hiện của yếu tố siêu thực trong tranh, thu

hút sự chú ý của ngƣời thƣởng thức.

Biểu hiện của yếu tố siêu thực qua sự hƣ cấu hình thể đƣợc thể hiện đa

dạng hơn trong tranh có yếu tố siêu thực của họa sĩ Nguyễn Đình Đăng. Sự

hƣ cấu có khi đƣợc diễn ra trong phạm vi một hình thể, có khi là sự hƣ cấu

làm thay đổi trật tự cả một không gian rộng lớn với nhiều vật thể khác nhau

trong một bức tranh.

Xem tác phẩm Phù Đổng Thiên Vương, 2002, sơn dầu, [Phụ lục 3.7]

đƣợc Nguyễn Đình Đăng hƣ cấu hình thể bằng cách phóng đại và thay đổi cấu

trúc, tỉ lệ các hình thể trong tranh dựa vào nội dung câu chuyện truyền thuyết

về Thánh Gióng. Chỉ trong một bức tranh, cả câu chuyện dƣờng nhƣ đã đƣợc

thuật lại đầy đủ qua nét vẽ của hoạ sĩ. Nội dung của câu chuyện đƣợc biểu

hiện bằng các hình ảnh ngƣời đàn bà ƣớm chân trần vào vết chân để lại trên

mặt đất, đến cậu bé Gióng to lớn, khoẻ mạnh oai hùng ngồi trên ngựa sắt.

Truyện mang tính thần thoại, siêu thực nên khi họa sĩ thể hiện nội dung đó lên

tranh thì yếu tố thần thoại, siêu thực cũng đƣợc biểu hiện. Sự khác nhau giữa

truyện và tranh là tính thần thoại, siêu thực ở câu chuyện đƣợc thể hiện bằng

ngôn từ, ngôn ngữ của văn chƣơng. Còn khi nội dung đó đi vào tranh thì đƣợc

thể hiện bằng ngôn ngữ của nghệ thuật tạo hình, cụ thể ở đây là ngôn ngữ của

hội họa, ngôn ngữ của hình, mảng, đƣờng nét và màu sắc. Một điểm khác nữa

là câu chuyện truyền thuyết này khi đi vào tranh đã đƣợc tác giả chủ thể hóa

36

đi phần nào, đó là sự hƣ cấu về thời gian khi xuất hiện hình ảnh một chiếc

máy bay của thời kì hiện đại trong không gian cổ tích thần thoại. Sự xuất hiện

của chiếc máy bay đó làm cho bức tranh không còn đơn thuần là sự minh họa

cho câu chuyện và ngƣời ta sẽ suy nghĩ về những tƣ tƣởng mới mẻ hơn mà tác

giả muốn gửi gắm.

Bằng cách phóng đại, nhân vật trong tranh, làm cho nhân vật có một

hình thể to khác thƣờng, trời đất trở nên không còn rộng lớn so với nhân vật.

Có lẽ Nguyễn Đình Đăng muốn thể hiện nhân vật là những con ngƣời vô

thƣờng, là ngƣời của trời đất nên thân hình đó sẽ có lý nhƣ trong truyền

thuyết. Để tƣơng xứng với hai nhân vật, hình tƣợng con ngựa trong bức tranh

này cũng đƣợc phóng đại lên gấp rất nhiều lần, làm cho hình thể nó không

còn nhỏ bé trong khoảng không gian của trời đất. Sự hƣ cấu đƣợc thể hiện

bằng cách phóng đại hình thể, tạo những đám mây bay cắt ngang che đi nhiều

bộ phận của thân hình con ngựa, làm cho ngƣời xem có cảm giác giữa phần

chân sau, chân trƣớc và cả phần đầu ngựa cách nhau một quảng trời bao la với

tầng tầng lớp lớp mây trời. Sự hƣ cấu về không gian biểu hiện trong tác phẩm

rất rõ ràng, chính là sự biểu hiện của các yếu tố siêu thực.

Sự hƣ cấu hình thể trong tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và

Nguyễn Đình Đăng, đã làm cho cấu trúc hình thể thể bị biến dạng, không gian

bị thay đổi mang tính siêu thực theo cảm quan của họa sĩ, giúp tạo hình trong

tranh các họa sĩ đa dạng hơn, nội dung truyền tải phong phú hơn.

2.1.3. Yếu tố siêu thực biểu hiện qua sự không tương hợp giữa các

vật thể

Việc bố trí các vật thể không liên quan cạnh nhau một cách không

tƣơng hợp đƣợc xem là một trong những cách biểu hiện của hội họa Siêu

thực. Từ điển mỹ thuật của Lê Thanh Lộc có đoạn viết:

37

“Nói khái quát thì có ba phƣơng pháp tƣơng phản. Có một số nghệ sĩ

nhƣ Ernst, Masson và Miró đã trao đổi đƣợc những kĩ thuật tự phát

khác nhau nhƣ chà xát (x. FROTTAGE) trong cố gắng loại trừ sự kiểm

soát của ý thức. Mặt khác, Dali, Magritte và nhiều ngƣời khác vẽ tỉ mỉ,

chi tiết, để cho những cảm quan không hợp lý có một cảm giác ảo về

thực tại. Cuối cùng các hình thức sáng tạo và lắp ghép (x.

ASSEMBLAGE), cũng nhƣ trong một số bức tranh, số bố trí cạnh nhau

một cách bất ngờ quái lạ của những vật không liên hệ gì với nhau, đã

đƣợc sử dụng để tạo ra một cảm giác không đến nỗi quái dị về một cái

gì không có thật nhƣng nó buộc ngƣời ta phải nhìn nhận một thực tại ra

ngoài phạm vi thế giới thƣờng nhật. nhà thơ Lautréamont (1846 – 70)

đƣợc các nghệ sĩ siêu thực coi nhƣ một trong những tiền bối của họ và

họ thƣờng trích câu sau đây để biện hộ cho việc tìm tòi sự phối hợp của

những cái không tƣơng hợp: “Đẹp như sự gặp gỡ tình cờ của chiếc máy

bay và chiếc dù trên một bàn mổ”.” [11, tr.1048]

“Để nói về phƣơng pháp siêu thực, Breton trích dẫn Pierre Reverdy:

Hình tƣợng (image) là sáng tạo thuần túy của tâm trí (mind). Nó không thể

sinh ra từ sự so sánh, mà sinh ra từ việc đặt cạnh nhau hai thực tại ít nhiều

cách biệt nhau. Mối liên hệ giữa hai thực tại này mà càng cách biệt và càng

thực thì hình tƣợng sẽ càng mạnh, thực tại thi vị và sức mạnh cảm xúc của nó

càng lớn.” [24]

Vậy việc sáng tạo bằng cách lắp ghép một cách bất ngờ các vật thể

không liên quan hoặc ít nhiều cách biệt cạnh nhau là một phƣơng pháp trong

sáng tác tranh siêu thực. Sự không tƣơng hợp ở đây đƣợc hiểu không chỉ ở

các vật thể với nhau mà nên hiểu rộng hơn, có thể giữa vật thể với không

gian, thời gian, hay sự không tƣơng hợp về hình thể, về cấu trúc không gian…

Phƣơng pháp này cũng thƣờng đƣợc các họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung

38

Tín và Nguyễn Đình Đăng áp dụng và thể hiện trong tranh có yếu tố siêu thực

của mình. Việc lắp ghép cạnh nhau những vật thể ít, hoặc không liên quan là

sự biểu hiện của yếu tố siêu thƣc trong tranh họ.

Một trong những sáng tác của Lê Huy Tiếp đƣợc Chủ tịch nƣớc Cộng

Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tặng Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học

Nghệ thuật năm 2012 là tác phẩm Chiến tranh,1986, sơn dầu, [Phụ lục 1.3]

biểu hiện sự không tƣơng hợp rất rõ. Bức tranh lấy cảm hứng từ tác phẩm hội

họa nổi tiếng về nàng Mona Lisa của danh họa Leonardo Da Vinci. Bằng sự

tƣởng tƣợng, khả năng sáng tạo cùng với nỗi ám ảnh về chiến tranh, họa sĩ đã

cho ra đời tác phẩm này. Tác phẩm có bố cục hiện đại, đơn giản, chính giữa là

bức tranh về nàng Mona Lisa đang bóc cháy và bay lơ lững, phía dƣới đất là

những đóng trò tàn trãi rộng trên mặt đất gây cảm giác chết chóc nhƣ những

nấm mồ đang bóc cháy, xa hơn chỉ có mặt nƣớc và bầu trời. Tuy đơn giản là

vậy nhƣng nội dụng lại có sự bao hàm rộng lớn mang tầm quốc tế. Một kiệt

tác hội họa nổi tiếng, đƣợc xem nhƣ biểu tƣợng của hội họa thời kì Phục

Hƣng đang bốc cháy, đang bị hủy hoại. Lê Huy Tiếp đã có lý trong tƣ duy

tƣởng tƣợng để vẽ ra một viễn cảnh lụy tàn nhƣ vậy. Bởi chiến tranh thì điều

gì cũng có thể diễn ra, các giá trị văn hóa của loài ngƣời cũng có thể bị tiêu

hủy. Nhƣng vô lý với thực tại cuộc sống. Bởi tác phẩm hội họa có một không

hai này lúc bấy giờ vẫn đang đƣợc lƣu giữ và trƣng bày trong bảo tàng Louvre

tại Paris, Pháp. Để biểu hiện nỗi ám ảnh của bom đạn tàn phá do chiến tranh,

sự mất mát về đời sống vật chất lẫn tinh thần của con ngƣời, họa sĩ đã dựng

lên một khung cảnh chỉ có trong tƣởng tƣợng. Ông sử dụng hình tƣợng một

tác phẩm hội họa có giá trị nghệ thuật và văn hóa hàng đầu thế giới, đặt vào

khung cảnh không tƣơng hợp của lửa khói chiến tranh nhƣ muốn biểu hiện

rằng chiến tranh có thể cƣớp đi tất cả dù đó là những giá trị tinh thần quý giá

nhất, mọi thứ có thể bị hủy hoại.

39

Trong tác phẩm Kỷ vật 2, 2015, sơn dầu, [Phụ lục 1.9] Lê Huy Tiếp

chọn các vật thể có thật đặt vào bối cảnh không vốn là của nó rồi diễn tả thật

kỹ lƣỡng từng chi tiết các sự vật, làm cho sự vật rất giống thật trong một bối

cảnh có không gian rộng mênh mông nhƣng giữa chúng rất ít mối liên hệ.

Sự không tƣơng hợp đƣợc biểu hiện ở các vật thể nhƣ giƣờng, chiếu,

chăn, gối. Các vật thể này thƣờng đƣợc để trong nhà, nhƣng trong tác phẩm,

tác giả lại đặt chúng ở giữa cánh đồng, nơi không vốn thuộc về nó. Hơn nữa

sự không tƣơng hợp càng cách biệt hơn khi những vật dụng đó vốn là những

kỉ vật của Bác Hồ lại xuất hiện ở giữa cánh đồng rộng mênh mông thẳng cánh

cò bay chứ không phải trong không gian nhà sàn của Bác, cũng không phải

đƣợc trƣng bày trong viện bảo tàng. Những kỉ vật đƣợc đặt cận cảnh, sát đáy

tranh và đƣợc diễn tả rất kỹ, ra chất của các sự vật nên ngƣời xem dễ dàng

nhận ra bởi chúng rất quen thuộc.

Việc các vật thể đặt cạnh nhau không tƣơng hợp đƣợc biểu hiện rất đa

dạng trong tranh Nguyễn Đình Đăng. Ở tác phẩm Tiếng kèn thứ năm, 1990,

[Phụ lục 3.1]. Bức họa lấy cảm hứng từ một câu chuyện từ Thiên Chúa Giáo

“Ngày tận thế của Thánh John”. Tuy nhiên chỉ trên một mặt tranh họa sĩ đã tái

hiện rất nhiều không gian và thời gian khác nhau với sự đan xen của nhiều

cảnh tƣợng mang tính siêu thực về cả những hiện thực mà ông chứng kiến với

những liên tƣởng về nỗi ám ảnh “Ngày tận thế của Thánh John”.

Sự không tƣơng hợp đƣợc thể hiện trong sự đan xen giữa ngày và đêm

với nhiều sự kiện khác nhau. “cuộc sống ban đêm là những sự kiện xảy ra

trong các tiếng kèn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, và thứ tƣ” với “Cảnh mai táng

xảy ra trong thời niên thiếu của hoạ sĩ, khi bà nội của ông qua đời trong thời

chiến tranh Việt Nam. Trong số những ngƣời hộ tang có bố mẹ, anh trai và

bản thân họa sĩ”. [23]

40

Phía trên của bức tranh lại diễn tả cảnh ban ngày với những con sóng

có màu đỏ au nhƣ máu, gây cảm giác nhƣ sự ám ảnh vể sự chết chóc, sự hủy

diệt, sự nguy hiểm đến với con ngƣời. Cũng trong không gian tranh lại có

nguyên cả bộ xƣơng ngƣời phía trƣớc, bên hình ảnh một cô gái khỏa thân

cƣởi trên xe máy Honda Nhật Bản. Sự không tƣơng hợp lại xuất hiện khi ngồi

sau cô gái là hình thù một con quỷ. Có lẽ đó là một ẩn dụ của sự hủy diệt, sau

này thƣờng thấy trong các tác phẩm của Nguyễn Đình Đăng. Cuối cùng là

cảnh đám cƣới, hơi khó giải thích bởi ý nghĩa mơ hồ của nó. Tất cả đƣợc diễn

tả rất kĩ nhƣng những yếu tố đặt cạnh nhau không mấy liên quan, đó là sự

không tƣơng hợp, một phƣơng thức biểu đạt của hội họa siêu thực đƣợc họa sĩ

sử dụng để thể hiện bức tranh này.

2.2. Sự tƣơng đồng và khác biệt về yếu tố siêu thực trong tranh Lê

Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng

Họa sĩ là những ngƣời tạo ra cái đẹp bằng ngôn ngữ của nghệ thuật giá

vẽ. Mỗi họa sĩ thƣờng có một hƣớng đi riêng trong sáng tác và tác phẩm của

họ khi ra đời thƣờng có những nét đặc trƣng mang đậm phong cách cá nhân.

Tuy nhiên nhiều họa sĩ do cùng ảnh hƣởng về một trƣờng phái nghệ thuật,

ảnh hƣởng cùng một nền văn hóa, hay có cùng một ý thức hệ mà sáng tác của

họ đôi khi có biểu hiện của nhiều nét tƣơng đồng. Nghiên cứu các tác phẩm

hội họa của Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng, ta nhận

thấy có cả sự tƣơng đồng và khác biệt về yếu tố siêu thực đƣợc biểu hiện.

2.2.1. Sự tương đồng về biểu hiện yếu tố siêu thực trong tranh giữa

ba họa sĩ

Trong hội họa nói chung, tƣơng đồng là sự giống nhau tƣơng đối trên

một khía cạnh nào đó về mặt nội dung hay hình thức tạo hình giữa các tác

phẩm. Cũng có khi sự tƣơng đồng biểu hiện ở cả nội dung và tạo hình trong

tranh giữa các họa sĩ.

41

Trong hội họa có yếu tố Siêu thực, tuy mỗi họa sĩ đều có những cách

thức riêng phù hợp với sở thích và sở trƣờng của mình để thể hiện tác phẩm,

trong đó có sử dụng các yếu tố siêu thực nhằm truyền tải tốt nhất những nội

dung mình muốn nói vào trong tranh. Đó là sự biểu hiện những hình thể nhƣ

thƣờng xuất hiện trong tiềm thức hay nhƣ trong những giấc mơ của mỗi ngƣời

bằng ngôn ngữ hội họa. Nhƣng dù thể hiện bằng cách thức nào thì yếu tố siêu

thực trong tranh các họa sĩ cũng biểu hiện một hay một số đặc trƣng chung

nhƣ tính phi lí, sự không tƣơng hợp, không có trật tự lôgic hay sự cƣờng điệu,

bóp méo sự vật làm cho sự vật bị thay đổi cấu trúc hình thể trong tranh. Bởi

vậy, khi so sánh yếu tố siêu thực trong tranh các họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn

Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng ta sẽ thấy những nét tƣơng đồng nhất định.

Sự tƣơng đồng dễ nhận thấy về yếu tố siêu thực trong tranh giữa ba họa

sĩ là sự thể hiện chi tiết rất tỉ mỉ về sự phi lí trong tranh. Dù đó là đồ vật bị

bóp méo, con ngƣời bị phóng đại, hay sự đảo lộn trật tự trong không gian thì

tất cả vẫn đƣợc các họa sĩ chú trọng diễn tả rất kĩ lƣỡng cả về hình thể, chất

và cấu trúc. Dù phi lí hóa nhƣng những vật thể đó vẫn giữ đƣợc những nét đặc

trƣng nhƣ vốn có của nó. Bởi phần lớn yếu tố siêu thực trong tranh cả ba họa

sĩ đều có nguồn gốc từ tự nhiên và cuộc sống nên khi cƣờng điệu để làm thay

đổi cấu trúc hay không gian thì nó giữ lại những nét đặc thù nhƣ vốn có. Vì

vậy mỗi họa sĩ đều sử dụng yếu tố siêu thực để nói về câu chuyện, tƣ tƣởng

của mình nhƣng vẫn có những nét tƣơng đồng nhƣ đã thể hiện.

Từ những phân tích ở chƣơng hai, nhìn một cách tổng thể, yếu tố siêu

thực trong tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng đều

có biểu hiện của sự phi lý, sự không tƣơng hợp và sự cƣờng điệu làm thay đổi

sự vật trong tranh so với thực tại khách quan.

Đi vào từng khía cạnh cụ thể ta sẽ thấy sự tƣơng đồng biểu hiện chi tiết

hơn. Đầu tiên là sự tƣơng đồng về yếu tố siêu thực qua sự phi lí trong cấu trúc

không gian tranh. Nhƣ đã nghiên cứu ở trên, phi lí là một đặc trƣng của hội

42

họa Siêu thực và hội họa có yếu tố siêu thực. Vì vậy trong tranh có yếu tố siêu

thực của Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng đƣơng nhiên

đều có sự phi lí. Trong không gian tranh giữa ba họa sĩ đều có sự biểu hiện

của yếu tố siêu thực, và sự biểu hiện đó cũng có những điểm chung đƣợc tìm

thấy.

Trong tranh Lê Huy Tiếp có sự đảo lộn làm thay đổi cấu trúc không

gian, các vật thể đôi khi bị đảo lộn khỏi những trật tự lôgic. Sự đảo lộn đó

biểu hiện sự phi lí trong một số tác phẩm, điều mà ta không thể nhìn thấy

ngoài đời mà chỉ có trong những giấc mơ hay những phút thả hồn nào đó mà

thiếu vắng sự kiểm soát của lí trí. Nhƣ trong nhà không thể có những tảng

mây bay trắng xóa…

Cũng vẽ về không gian, cũng biểu hiện sự phi lý trong cấu trúc không

gian. Ngyễn Trung Tín đã đảo lộn các trật tự vốn có thành những mảng không

gian riêng, và quy chúng về thành một hệ thống rồi tìm sự liên kết để các cấu

trúc không gian riêng biệt có thể đứng bên cạnh nhau một cách vô lí khi so

sánh với hiện thực và hợp lí trong sự cấu trúc của hình, của những mảng

miếng và ý tƣởng trong tranh.

Với Nguyễn Đình Đăng, sự phi lý trong cấu trúc không gian tranh cũng

đƣợc biểu hiện bằng cách đảo lộn những mảng không gian khác nhau và tái

tạo chúng trong không gian nghệ thuật của mình nhằm bày tỏ những câu

chuyện, những cảm nhận sâu sắc về cuộc sống về thế giới quan theo cảm

nhận của riêng mình.

Cả Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín, và Nguyễn Đình Đăng, trong

tranh đều có sự biểu hiện của yếu tố siêu thực thông qua việc đảo lộn trật tự

không gian vốn có để xây dựng lại không gian tranh theo kết cấu mà họ sáng

tạo ra nhằm tạo nên một không gian nghệ thuật mới trong tác phẩm một cách

sáng tạo và mới lạ.

43

Sự tƣơng đồng về yếu tố siêu thực trong tranh giữa ba họa sĩ cũng đƣợc

biểu hiện thông qua các hình thức cƣờng điệu. Cƣờng điệu về mặt hình thể

làm cho vật thể bị tàng hình, biến ảo vào không gian là một điểm chung về

yếu tố siêu thực của ba tác giả. Nếu trong tranh Lê Huy Tiếp, hình ảnh đám

mây đƣợc cƣờng điệu thành một thiếu nữ khỏa thân trên bầu trời lẫn vào

không gian nhƣ một ảo ảnh ở tác phẩm Cơn bão đi qua, 2007, sơn dầu [Phụ

lục 1.7]. Hay ở tác phẩm Cái áo của người họa sĩ, sơn dầu, [Phụ lục 1.6] Bức

tranh trong tranh đƣợc họa sị cƣờng điệu gây cảm giác nhƣ bị tàng hình và trở

nên biến ảo phi lí trong không gian.

Trong tranh Nguyễn Trung Tín, yếu tố siêu thực đôi khi cũng đƣợc tao

ra bằng cách cƣờng điệu hình thể tƣơng tự. Ở tác phẩm Ban công 2, sơn dầu,

[Phụ lục 2.8] hình ảnh một cánh tay của thiếu nữ cũng gần nhƣ tàng hình vào

không gian, biến ảo nhƣ mây khói để hòa lẫn vào không gian nhƣ đánh lừa ảo

giác. Còn tác phẩm Tiếng vọng của biển, sơn dầu, [Phụ lục 2.9] cũng của

Nguyễn Trung Tín, cái mặt bàn phía bên trái ở góc dƣới bức tranh lại tàng

hình đi một nửa vào không gian của bờ biển.

Sự biến hình lẫn vào không gian một cách hƣ ảo trong tranh Nguyễn

Đình Đăng là một yếu tố siêu thực quen thuộc của họa sĩ, đó là biểu hiện của

sự tƣơng đồng so với các tác phẩm hội họa của hai họa sĩ Lê Huy Tiếp và

Nguyễn Trung Tín. Điển hình trong tác phẩm Con voi tàng hình, sơn dầu

[Phụ lục 3.6], Nguyễn Đình Đăng đã đặt con voi ở chính giữa bố cục tranh,

phép biến hình làm cho con voi gần nhƣ biến mất hoàn toàn, chỉ còn lại chu vi

quanh nó. Nhìn bức tranh nhƣ đƣợc vẽ trên một tấm kính và cắt bỏ đi một

phần giống hình con voi để nhìn xuyên qua lớp kính thấy cả biển trời phía

sau. Có khi Nguyễn Đình Đăng cũng cƣờng điệu vật thể bằng cách dùng hình

thể những đám mây để tàng hình đi các sự vật trong tranh. Nhƣ ở bức tranh

“Phù Đổng Thiên Vƣơng”, họa sĩ đã cƣờng điệu bằng cách dùng các đám

44

mây chen ngang để gây ảo giác, khiến con ngựa và nhân vật nhƣ trở nên

khổng lồ.

Sự tƣơng đồng về yếu tố siêu thực biểu hiện trong tranh Lê Huy Tiếp,

Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng chính là những điểm chung trong

tranh tranh giữa ba họa sĩ đƣợc biểu hiện. Do cùng có sự ảnh hƣởng của hội

họa siêu thực nên các tác phẩm hội họa của họ tìm đƣơc những tiếng nói

chung trong hình thức biểu hiện.

2.2.2. Sự khác biệt về biểu hiện yếu tố siêu thực trong tranh giữa ba

họa sĩ

Những họa sĩ có tài thƣờng biết tạo ra cho mình những tác phẩm nghệ

thuật mới lạ có tính sáng tạo cao. Họ luôn đi tìm những ý tƣởng độc đáo và

lựa chọn cách tạo hình riêng biệt để xây dựng tác phẩm cho mình. Vì vậy

những họa sĩ đã thành danh, dù đi theo trƣờng phái hay xu hƣớng nghệ thuật

nào, tác phẩm của họ cũng có những đặc điểm riêng mang đậm dấu ấn cá

nhân.

Với các họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng,

mỗi họa sĩ đều có những thành công đáng kể trên con đƣờng hội họa của

mình. Tranh của họ, bên cạnh sự tƣơng đồng, còn có nhiều điểm khác biệt về

yếu tố siêu thực, góp phần tạo nên những phong cách nghệ thuật riêng.

Yếu tố siêu thực biểu hiện trong cấu trúc không gian tranh giữa ba họa

sĩ, biểu hiện nhiều sự khác biêt. Trong tranh Lê Huy Tiếp, không gian thƣờng

rất hiện thực, hiện thực từ phối cảnh, không gian, các vật thể đến màu sắc, đa

số rất giống với thực tế ngoài đời. Nếu không có sự đảo lộn trật tự trong

không gian nghệ thuật ấy thì tranh Lê Huy Tiếp sẽ là những bức tranh hiện

thực đơn thuần, bởi ông thƣờng vẽ không gian dựa theo phối cảnh luật xa gần,

ánh sáng màu sắc đều thể hiện tinh thần hiện thực. Trong cái rất hiện thực đó,

họa sĩ đã có những thay đổi ở vài vị trí trong không gian tranh, làm cho một

45

vài yếu tố trở nên phi lí, trái với quy luật tự nhiên tạo thành những yếu tố

manh tính siêu thực trong tác phẩm.

Khác hẳn với với Lê Huy Tiếp và Nguyễn Đình Đăng, họa sĩ Nguyễn

Trung Tín thƣờng không vẽ hiện thực nhƣ quy luật của sự nhìn, mà ông lại

tìm cách thay đổi hoàn toàn cấu trúc không gian vốn có, rồi xây dựng cho tác

phẩm của mình một cấu trúc không gian nghệ thuật mới. Một điểm rất khác

biệt mang yếu tố siêu thực, đó là việc họa sĩ đƣa nhiều không gian khác biệt

đặt cạnh nhau và tìm sự liên kết bằng nhịp điệu, bằng đƣờng nét , mảng miếng

và tìm cách liên kết chúng với nhau tạo thành sự phi lí cho tác phẩm. Trong

đó có sự hƣ cấu, một dạng biểu hiện của siêu thực, kết hợp với phƣơng pháp

đồng hiện và bút pháp tả thực để tạo nên tác phẩm.

So với hai họa sĩ Lê Huy Tiếp và Nguyễn Trung Tín, thì Nguyễn Đình

Đăng có sự thể hiện yếu tố siêu thực phong phú và đa dạng hơn qua cấu trúc

không gian trong tranh mình. Nguyễn Đình Đăng không vẽ không gian hiện

thực nhƣ ảnh của Lê Huy Tiếp, cũng ít khi thể hiện sự kết hợp nhiều không

gian vừa siêu thực vừa đồng hiện nhƣ Nguyễn Trung Tín. Không gian trong

tranh Nguyễn Đình Đăng có một cấu trúc khá phức tạp, tuy có đƣờng chân

trời, có điểm tụ nhƣng không gây cảm giác tái tạo lại hiện thực mà họa sĩ nhƣ

cố tình thể hiện sự mông lung, sự huyền hoặc nhƣ mộng ảo bởi màu sắc, ánh

sáng và hình thể tác động, nên ngƣời xem có một cảm giác nhƣ vậy. Ngoài ra

không gian trong tranh Nguyễn Đình Đăng có nhiều sự hƣ cấu, các vật thể

trong không gian đó hầu hết do họa sĩ tự dàn xếp, sắp đặt chúng cạnh nhau

theo những mục đích riêng của mỗi tác phẩm, theo sự liên tƣởng của họa sĩ về

nội dụng chứ không phải nhƣ cấu trúc không gian vốn có ngoài đời. Có một

điểm khác biệt dễ nhận thấy với hai họa sĩ Lê Huy Tiếp và Nguyễn Trung

Tín, đó là trong cấu trúc không gian tranh Nguyễn Đình Đăng, ông thƣờng có

sự thay đổi về tỉ lệ các hình thể, làm cho chúng khi quá to, khi lại quá nhỏ,

biểu hiện sự khác thƣờng mang tính siêu thực trong nhiều tác phẩm.

46

Xem tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng ta

thấy hình tƣợng con ngƣời luôn đƣợc họ quan tâm khai thác. Con ngƣời nhƣ

là trung tâm, nhƣ là đối tƣợng chính trong mỗi tác phẩm của họ. Con ngƣời

khi đi vào tranh có yếu tố siêu thực của ba họa sĩ, có khi rất hiện thực nhƣng

cũng có khi biểu hiện sự phi lí, kì lạ so với hiện thực. Mỗi họa sĩ có một cách

thể hiện yếu tố siêu thực qua hình tƣợng con ngƣời rất khác nhau.

Trong ba họa sĩ, Lê Huy Tiếp là họa sĩ thể hiện hình thể con ngƣời

trung thực nhất. Hầu nhƣ trong tranh họa sĩ này không có biểu hiện của các

yếu tố siêu thực qua hình thể các nhân vật của mình.

Con ngƣời trong tranh Nguyễn Trung Tín cũng rất thực vì ông thƣờng

vẽ theo ngƣời mẫu thực, diễn tả kĩ lƣỡng hình dáng cho đến chất da thịt và

trang phục của ngƣời mẫu. Nhƣng trong quá trình thể hiện, nhiều khi họa sĩ

đã siêu thực hóa một vài bộ phận trên hình thể ngƣời để đƣa vào trong tranh.

Không phải là sự thay đổi cấu trúc hình thể ngƣời, cũng không phải là sự

phóng đại hay thu nhỏ hình thể mà yếu tố siêu thực biểu hiện qua hình thể

ngƣời trong tranh Nguyễn Trung Tín chỉ là sự ảo ảnh hóa một vài bộ phận

làm cho hình thể ngƣời có những bộ phận nhƣ kết dính hay hòa nhập vào các

vật thể xung quanh, cũng có khi nhƣ biến ảo trong không gian nghệ thuật của

tác phẩm.

Tác phẩm của Nguyễn Đình Đăng có sự biểu hiện yếu tố siêu thực rất

rõ nét thông qua hình thể con ngƣời. Họa sĩ thƣờng sử dụng phƣơng pháp

cƣờng điệu nhằm phóng to hay thu nhỏ một cách phi lí các nhân vật trong

tranh mình. Ngoài ra nhân vật trong tranh Nguyễn Đình Đăng có khi không

còn ở trên mặt đất mà còn xuất hiện trên không trung hay xa tít tận chân trời

mà tỉ lệ thậm chí còn rất to so với thực tế. Đó là những đặc điểm riêng biệt

của Nguyễn Đình Đăng so với Nguyễn Trung Tín và Lê Huy Tiếp.

Sự khác biệt về yếu tố siêu thực còn đƣợc biểu hiện ở sự hƣ cấu hình

thể trong tranh giữa ba họa sĩ. Trong hội họa, hƣ cấu là một phƣơng pháp tạo

47

hình giúp họa sĩ có thể phóng đại hình thể, thay đổi không gian hay tạo ra sự

bất đồng trong tƣơng quan ngôn ngữ. Các họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung

Tín và Nguyễn Đình Đăng dùng phƣơng pháp hƣ cấu để thay đổi không gian,

thay đổi hình thể theo cảm quan thẩm mỹ của mình, làm cho thế giới trong

tranh trở nên phong phú, biến ảo. Tuy nhiên mỗi họa sĩ lại có những cách thức

riêng trong việc hƣ cấu trong tranh mình.

Họa sĩ Lê Huy Tiếp rất hạn chế trong việc sử dụng phƣơng pháp phóng

đại hình thể để cƣờng điệu hay hƣ cấu các vật thể. Tác phẩm Kỉ vật, 2009,

sơn dầu, [Phụ lục 1.8] là một bức tranh hiếm hoi đƣợc họa sĩ phóng đại hình

thể lên gấp nhiều lần so với bối cảnh xung quanh. Còn họa sĩ Nguyễn Trung

Tín hầu nhƣ không sử dụng phƣơng pháp phóng đại hình thể để tạo ra yếu tố

siêu thực trong tranh mình. Trong khi Nguyễn Đình Đăng xem sự phóng đại

hình thể nhƣ là một phƣơng pháp ƣa thích để hƣ cấu hóa hình thể, không gian

nhằm đạt mục đích truyền tải ý tƣởng của mình. Sự phóng đại đƣợc biểu hiện

có khi là ở con ngƣời hay các vật thể khác, cũng có khi những con vật trong

tranh cũng đƣợc phóng đại làm cho chúng trở nên phi lí, lạ mắt và gây sự tò

mò, chú ý cho ngƣời xem.

Với Lê Huy Tiếp, các hình thể đƣợc hƣ cấu trong tranh thƣờng rất nhẹ

nhàng chỉ thƣờng là sự đảo lộn một vài vị trí nhỏ trong tranh, ít khi ông lắp

ghép các vật thể xa lạ bên cạnh nhau. Còn Nguyễn Đình Đăng, sự hƣ cấu

trong tranh biểu hiện rất phong phú ở các yếu tố siêu thực. Họa sĩ thƣờng có

sự lắp ghép các yếu tố, các vật thể hoàn toàn xa lạ vào cùng một không gian

tạo ra sự bất hợp lí so với thực tại nhƣng lại rất mới lạ và độc đáo.

Đi giữa Lê Huy Tiếp và Nguyễn Đình Đăng, Nguyễn Trung Tín không

đặt cạnh nhau những cái xa lạ, trái nghịch. Cũng không dừng lại ở việc thay

đổi một vài vị trí trong tranh hay giữ gần nhƣ nguyên vẹn kết cấu không gian

hiện thực. Mà ông chọn các đối tƣợng gần gũi quen thuộc xung quanh mình

rồi thay đổi bằng cách cƣờng điệu, hƣ cấu hóa lại trật tự cấu trúc, cắt ghép

48

chúng theo cấu trúc của mình để đƣa nó về một trật tự mới trong tác phẩm

nghệ thuật, tạo cho các sự vật nhịp điệu mới, bố cục mới và không gian mới,

rất hiện thực nhƣng cũng rất phi lí, rất quen thuộc nhƣng cũng rất lạ lùng.

Ngôn ngữ của hội họa siêu thực đƣợc Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín

và Nguyễn Đình Đăng sử dụng trong tranh rất phong phú, đa dạng. Mỗi họa sĩ

có một cách tiếp cận riêng nhằm tạo ra sự mới lạ và thể hiện cái tôi trong mỗi

tác phẩm. Đó cũng là đặc điểm, sự khác biệt về yếu tố siêu thực trong tranh

giữa ba họa sĩ.

Tiểu kết

Nội dung chƣơng hai đã chỉ ra những biểu hiện của yếu tố Siêu thực

trong tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng qua sự

phi lý, sự không tƣơng hợp và sự cƣờng điệu hình thể .

Chƣơng hai cũng đã đi vào so sánh để tìm ra sự tƣơng đồng và khác

biệt của yếu tố siêu thực biểu hiện trong các tác phẩm giữa ba họa sĩ. Từ đó

có cái nhìn vừa tổng quát vừa cụ thể và sâu sắc hơn về sự biểu hiện yếu tố

Siêu thực trong tranh của từng họa sĩ. Ở mỗi tác giả đều có những phát hiện,

những tìm tòi riêng và thể hiện yếu tố Siêu thực một cách chủ động, sáng tạo

nhằm truyền tải những thông điệp của riêng mình trong các tác phẩm.

Nhƣ vậy chƣơng hai đã làm sáng tỏ về những biểu hiện của yếu tố Siêu

thực trong tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng.

Trong đó bên cạnh sự tƣơng đồng mỗi tác giả lại có cách biểu hiện yếu tố siêu

thực riêng, kết hợp giữa yếu tố siêu thực và các yếu tố hội họa khác, tạo thành

những thông điệp gửi đến công chúng. Nội dung chƣơng hai cũng là cơ sở sở

để tiếp tục nghiên cứu chƣơng ba.

49

Chƣơng 3

NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

3.1. Thành công về biểu hiện yếu tố siêu thực trong tranh Lê Huy

Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng

Thành công nói chung là đạt đƣợc kêt quả nhƣ dự kiến, là hoàn thành

mục đích đã đặt ra trong quá trình lao động, học tâp, hay sáng tạo... Dù ở lĩnh

vực nào, thành công cũng có nhiều mức độ khác nhau, phù hợp với mục đích

từng đối tƣợng cụ thể. Trong hội họa sự thành công đƣợc biểu hiện ở các tác

phẩm của họa sĩ. Tác phẩm có giá trị nghệ thuật càng cao thì sự thành công

càng lớn. Để có sự thành công, thông thƣờng họa sĩ phải trải qua cả một quá

trình học tập lao động sáng tác miệt mài cùng với tài năng vốn có của mình

mới có thể đạt đƣợc. Sự thành công cũng đƣợc xem xét trên nhiều mức độ và

khía cạnh khác nhau đối với từng trƣờng hợp cụ thể.

Thành công về yếu tố siêu thực trong tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn

Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng đã đạt đƣợc là những giá trị nghệ thuật họ

tạo ra trong quá trình sáng tác. Trong tranh mỗi họa sĩ, yếu tố siêu thực là một

bộ phận cấu thành không thể thiếu, khi kết hợp với các yếu tố nghệ thuật

khác, cùng với cách thức tạo hình riêng và cái tôi của ngƣời nghệ sĩ đã tạo

nên ba phong cách nghệ thuật khác nhau mang đậm dấu ấn cá nhân của mỗi

họa sĩ, bên cạnh một vài yếu tố siêu thực có sự tƣơng đồng.

Yếu tố siêu thực đƣợc các họa Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và

Nguyễn Đình Đăng sử dụng một cách hiệu quả, biểu hiện ở sự phi lí, sự

không tƣơng hợp và sự hƣ cấu hình thể, nhằm đem lại những giá trị nghệ

thuật mang tính thẩm mỹ, giúp họa sĩ dễ dàng biểu hiện những tâm trạng của

đời sống nội tâm bên trong tâm hồn ngƣời nghệ sĩ thông qua tác phẩm hội

họa. Hơn nữa, yếu tố siêu thực giúp họ mở rộng ngôn ngữ hội họa của mình,

vƣợt qua những ràng buộc về cách tạo hình truyền thống quen thuộc, để đạt

50

đến sự tự do hơn trong việc sắp xếp các vật thể trong bố cục mà không bị

vƣớng mắc bởi rào cản nào, không cần quan tâm đến sự vô lí, hợp lí so với

hiện thực. Bởi hội họa có yếu tố siêu thực cho phép họa sĩ đảo lộn mọi không

gian và thời gian, đảo lộn mọi trật tự của vật chất và tinh thần, miễn là tác

phẩm nghệ thuật đó mang lại những hiệu quả, những giá trị mà họa sĩ hƣớng

đến.

Hội họa có yếu tố siêu thực trong tranh họ không chỉ diễn đạt thế giới

khách quan hiện hữu mà còn đi vào sâu thẳm bên trong tâm hồn của mỗi họa

sĩ nhằm khai thác đời sống nội tâm, tìm về những giá trị cốt lõi của tiềm thức,

khai thác những điều bất chợt nhƣ ảo, nhƣ thực, nhƣ những giấc mơ hay sự

ám ảnh hiện về trong sâu thẳm tâm hồn.

Sử dụng yếu tố siêu thực trong tranh là việc các họa sĩ dùng phƣơng

pháp biểu hiện của hội họa siêu thực, áp dụng chúng trong quá trình sáng tác

hội họa của mình, nhằm truyền đạt những nội dung, tƣ tƣởng, cảm xúc muốn

biểu đạt. Những cái hay cái đẹp của nghệ thuật tạo hình siêu thực đƣợc các

họa sĩ chắt lọc đƣa vào tranh mình, phục vụ cho nhu cầu sáng tác, và truyền

tải ý tƣởng trong tác phẩm đã đem lại những giá trị nghệ thuật cho tác phẩm

của họ. Đó chính là những thành công rất lớn về yếu tố siêu thực trong tranh

Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng.

Ngoài những thành công chung về yếu tố siêu thực trong tranh của cả

ba họa sĩ, mỗi họa sĩ cũng có những thành công riêng mang đậm phong cách

cá nhân.

Trong hội họa có yếu tố siêu thực ở Việt Nam, họa sĩ Lê Huy Tiếp nổi

lên nhƣ một nhân vật điển hình. Những tác phẩm hội họa của ông tuy nghiêng

nhiều về hiện thực, nhƣng yếu tố siêu thực lại đóng một vai trò không thể

thiếu trong các tác phẩm, nó giúp ông phản ánh đời sống nội tâm một cách

hiệu quả và sâu sắc hơn. Theo họa sĩ, xuyên suốt trong các tác phẩm của ông

là sự biểu hiện của sự sống và cái chết, sự cô đơn và những nỗi ám ảnh về

51

cuộc sống về thiên nhiên và những số phận con ngƣời. Lê Huy Tiếp đã làm

đƣợc điều mình muốn và ông đã thành công trong việc sử dụng các yếu tố

siêu thực một cách hiệu quả để đạt đƣợc những mục đích nghệ thuật trong

mỗi bức tranh.

Với kỹ thuật sơn dầu vững chắc, bút pháp tả thực điêu luyện, ông có

thể diễn tả đƣợc bất cứ thứ gì theo ý muốn. Tuy vậy để tạo thành phong cách

hội họa Lê Huy Tiếp thì không thể thiếu yếu tố siêu thực trong đó. Chính yếu

tố siêu thực giúp ông thay đổi không gian, thay đổi bố cục và thay đổi cách

nhìn trong tác phẩm. Cũng chính yếu tố siêu thực đã góp phần không nhỏ

trong các tác phẩm nhằm truyền tải những thông điệp, những suy tƣ và những

giá trị cốt lỏi của cuộc sống thông qua các tác phẩm nghệ thuật.

Lê Huy Tiếp là một họa sĩ đã để lại nhiều thành công trên con đƣờng

hội họa. Những giải thƣởng cao quý mà hội đồng nghệ thuật trao tặng là minh

chứng rõ nét cho điều đó. Chỉ xét riêng trong hội họa, ông đã dành đƣợc

sự ghi nhận qua nhiều giải thƣởng. Đáng chú ý hơn, hầu nhƣ các tác phẩm hội

họa đƣợc giải thƣởng đều có sự biểu hiện ít nhiều của yếu tố siêu thực.

Giải nhì Triển lãm Mĩ thuật toàn quốc năm 1990; Giải ba Hội Mĩ thuật

Việt Nam năm 1997. Giải thƣởng triển lãm mĩ thuật khu vực I (Hà Nội): Giải

A năm 2003; Giải B năm 2001 và giải Tặng thƣởng năm 2006. Năm 2012 họa

sĩ Lê Huy Tiếp đƣợc Chủ tịch nƣớc Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

tặng Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học Nghệ thuật cho các tác phẩm: Chiến

tranh,1986, sơn dầu; Đợi, 1996, sơn dầu; Eva trở về, 1997, sơn dầu. [5, 319]

Lê Huy Tiếp là một tài năng thực sự của hội họa Việt Nam. Những tác

phẩm của ông thể hiện một phong cách nghệ thuật xuyên suốt trong suốt quá

trình dài miệt mài sáng tác. Đó là sự kết hợp giữa hiện thực siêu thực và đôi

khi có sự biểu hiện của yếu tố cực thực trong tranh. Trong đó yếu tố siêu thực

là một nhân tố rất quan trọng trong nhiều tác phẩm, giúp ông thành công hơn

52

trên con đƣờng hội họa để trở thành một danh họa trong Lịch sử Mĩ thuật Việt

Nam.

Ngoài những thành công chung về yếu tố siêu thực nhƣ hai họa sĩ Lê

Huy Tiếp và Nguyễn Đình Đăng, họa sĩ Nguyễn Trung Tín cũng có những

thành công lớn trên con đƣờng nghệ thuật. Tác phẩm của ông đã đem lại cho

ngƣời xem nhiều cảm xúc bởi yếu tố tạo hình phong phú. Cách xây dựng bố

cục chủ động, sáng tạo, màu sắc đậm đà, đằm thắm, cùng với lối vẽ sơn dầu

dày dặn đã tạo đƣợc những hiệu quả hấp dẫn. Đối tƣợng trong tranh Nguyễn

Trung Tín vốn rất đỗi thân quen, gần gũi với cuộc sống thƣờng ngày, nhƣ ban

công, ngõ phố, hay những góc cảnh quen thuộc xung quanh mình. Nhân vật

thể hiện trong tranh thƣờng đƣợc ông vẽ trực tiếp từ mẫu nên rất rung động và

giàu cảm xúc. Đối tƣợng là hiện thực nhƣng cách thể hiện lại không theo hiện

thực hoàn toàn. Bởi ông thƣờng phá vỡ những không gian vốn có của hiện

thực, chỉ giữ lại các vật thể, con ngƣời hay những gì điển hình nhất mà ông

tâm đắc, rồi đƣa vào không gian của đồng hiện, kết hợp với các yếu tố siêu

thực, nhằm tạo thành phong cách nghệ thuật của mình và ông đã thành công ở

nhiều tác phẩm. Trong đó yếu tố siêu thực nhƣ một nhân tố vô cùng quan

trọng, góp phần giúp họa sĩ thành công hơn trong nhiều tác phẩm hội họa của

mình.

Sự thành công về yếu tố siêu thực góp phần không nhỏ vào thành công

chung của họa sĩ Nguyễn Trung Tín qua nhiều tác phẩm đã đƣợc hội đồng

nghệ thuật đánh giá cao và trao những giải thƣởng lớn ở nhiều triển lãm mĩ

thuật mang tầm cở quốc gia. Tác phẩm của ông đã đƣợc những ngƣời trong

giới nể phục, đƣợc công chúng yêu hội họa rất quan tâm . Những giải thƣởng

Mĩ thuật của Hội Mỹ thuật Việt Nam khá đều đặn, giải nhất năm 1995, giải

nhì năm1997, giải ba năm 1999 cùng huy chƣơng bạc ở triển lãm toàn quốc

năm 2005 với tác phẩm Bên một chiến tích , huy chƣơng đồng năm 2010 với

tác phẩm Buổi chiều.

53

Nguyễn Trung Tín là một họa sĩ tài năng thực sự, bởi điều đó đã đƣợc

chứng minh qua nhiều tác phẩm mà ông sáng tác. Hội họa của ông là sự kết

hợp chặt chẽ, hài hòa và thống nhất giữa các yếu tố hiện thực, đồng hiện và

siêu thực. Trong đó yếu tố siêu thực đóng góp một phần không nhỏ vào sự

thành công trong nhiều tác phẩm. Yếu tố siêu thực không chỉ là một phƣơng

tiện nghệ thuật để truyền tải những ý tƣởng qua tác phẩm, mà yếu tố siêu thực

còn góp phần tạo nên sự mới lạ, tính hiện đại trong tranh ông. Tất cả đã tạo

thành một phong cách Nguyễn Trung Tín với nhiều thành công đã đạt đƣợc

thật đáng ngƣỡng mộ và nể phục.

Với Nguyễn Đình Đăng, yếu tố siêu thực nhƣ là huyết mạch xuyên suốt

những chặng đƣờng sáng tác hội họa của ông. Hầu nhƣ ở bất cứ tác phẩm nào

của họa sĩ, yếu tố siêu thực cũng biểu hiện một cách rõ nét, chiếm lĩnh gần

nhƣ toàn bộ bức tranh theo cả ngĩa đen và nghĩa bóng. Cho nên sự thành công

của họa sĩ Nguyễn Đình Đăng về lĩnh vực hội họa cũng là sự thành công về

yếu tố siêu thực trong tranh ông.

Trong hội họa siêu thực, các họa sĩ thƣờng tôn thờ những giấc mơ,

những hoạt động thuần túy của vô thức hay những nỗi ám ảnh nào đó trong

tiềm thức. Bởi những nơi đó họa sĩ đƣợc tự do sáng tạo mà không bị bó buộc

bởi sợi dây vô hình của ý thức. Họa sĩ Nguyễn Đình Đăng đang bƣớc tiếp con

đƣờng mà các danh họa siêu thực đã đi qua, thừa hƣởng những tinh hoa của

hội họa siêu thực rồi chắt lọc những điều cốt lỏi nhất phù hợp với định hƣớng

sáng tác của mình để xây dựng một hƣớng đi mới, lấy ngôn ngữ của hội họa

siêu thực để truyền tải những tƣ tƣởng, những trăn trở và triết lí hội họa của

mình trong mối quan hệ với hiện thực cuộc sống. Nguyễn Đình đăng đã thành

công bởi ông đã làm đƣợc điều đó trong rất nhiều tác phẩm của mình.

Hội họa siêu thực nay không còn mới lạ nữa với công chúng. Nhƣng

với tài năng vốn có và khả năng sáng tạo phong phú của mình, Nguyễn Đình

Đăng đã thổi vào các tác phẩm hội họa có yếu tố siêu thực của mình một làn

54

gió mới. Ông đã tạo nên những tác phẩm hội họa vừa đẹp về tạo hình, vừa

mang tính thời đại bởi nội dung và rất giàu về giá trị văn hóa, nên rất đƣợc

đông đảo công chúng quan tâm và đón nhận. Thành công của họa sĩ không chỉ

đƣợc biết đến ở Việt Nam, mà ở Nhật Bản ngƣời ta cũng rất nể phục bởi tài

năng và sức làm việc phi thƣờng thể hiện trong tác phẩm. Yếu tố siêu thực

trong tranh là cốt lõi để dẫn đến những thành đã đạt đƣợc.

Họa sĩ Nguyễn Đình Đăng đƣợc công chúng ngƣỡng mộ bởi các tác

phẩm tranh siêu thực, thể hiện bằng kỹ thuật vẽ nhiều lớp, các nét vẽ tinh tế,

trau chuốt, gọn gàng, bay bổng mang những nét lãng mạn và ngẫu hứng của

một tâm hồn nghệ sĩ lớn.

Nhƣ vậy cả ba họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung tín và Nguyễn Đình

Đăng, đều đã gặt hái đƣợc những thành công lớn thông qua hội họa có yếu tố

siêu thực. Qua những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao đƣợc hội đồng nghệ

thuật xác nhận bằng các giải thƣởng và sự đón nhận của công chúng mỗi khi

tác phẩm của họ ra đời đã chứng mình sự thành công tuyệt vời đó.

3.2. Đóng góp của yếu tố siêu thực trong tranh Lê Huy Tiếp,

Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng đối với hội họa Việt Nam

Đóng góp của một họa sĩ cho nền hội họa Việt Nam chính là góp phần

tạo nên sự phong phú và đa dạng của các tác phẩm nghệ thuật có giá trị vào

một giai đoạn nào đó trong lịch sử hội họa nƣớc nhà. Sự đóng góp của những

họa sĩ có phong cách tạo hình mới lạ, có nhiều tìm tòi, sáng tạo luôn đƣợc

quan tâm và đánh giá rất cao. Ngoài ra để có sự đóng góp cho nền hội họa của

nƣớc nhà, đòi hỏi ngƣời họa sĩ phải đạt đƣợc những thành công đáng kể trong

sáng tác, tạo đƣợc uy tín bởi những tác phẩm nghệ thuật của mình, đƣợc giới

chuyên môn và công chúng ghi nhận.

Nhƣ đã phân tích và đánh giá sự thành công về biểu hiện của yếu tố

siêu thực trong tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng

ở những phần trên, chứng tỏ họ là những ngƣời đã tạo dựng đƣợc tên tuổi của

55

mình một cách vững vàng trƣớc công chúng với nhiều tác phẩm đã đƣợc hội

đồng nghệ thuật đánh giá cao về chất lƣợng nghệ thuật. Trong đó yếu tố siêu

thực là một nhân tố mang tính quyết định cho sự thành công với nhiều tác

phẩm. Họ xứng đáng đƣợc ghi danh về những đóng góp quý báu cho nền hội

họa Việt Nam.

Đóng góp của các họa sĩ đƣợc thể hiện rất rõ ở tính mới. Nếu đặt những

tác phẩm hội họa của Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng

vào tiến trình lịch sử mĩ thuật nƣớc nhà, rồi xét từng giai đoạn cụ thể ta sẽ

thấy rất rõ tính mới trong tranh họ biểu hiện qua yếu tố siêu thực.

Kể từ năm 1925, khi Trƣờng Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dƣơng đƣợc

thành lập, hội họa Việt Nam bắt đầu hình thành, nhiều thế hệ họa sĩ đã trƣởng

thành và không ít trong số đó sớm để lại tên tuổi lẩy lừng trong lịch sử. Giai

đoạn đầu, từ 1925 đến 1945 hội họa Việt Nam chủ yếu đi theo chủ nghĩa hiện

thực và hiện thực lãng mạn, tác phẩm thƣờng ca ngợi vẽ đẹp của thiên nhiên,

vẽ đẹp con ngƣời mà chủ yếu tà vẽ đẹp ngƣời phụ nữ chốn đô thành. Đây là

giai đoạn hội họa siêu thực hình thành ở và phát triển mạnh nhất ở Pháp và

lan rộng ra các nƣớc Châu Âu, nhƣng ở Việt Nam trƣờng phái hội họa này

chƣa thấy có sự ảnh hƣởng.

Trong thời kì đất nƣớc trải qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm,

từ 1945 đến 1975. Các họa sĩ chủ yếu đi vào khai thác các đề tài nhằm ca

ngợi, động viên tinh thần học tập, lao động và chiến đấu với mục đích giải

phóng dân tộc, thống nhất và xây dựng đất nƣớc. Vì vậy khuynh hƣớng hội

họa thời kỳ này chủ yếu đi theo phong cách hiện thực và hiện thực Xã hội chủ

nghĩa, một phong cách nghệ thuật trái ngƣợc hoàn toàn chủ nghĩa siêu thực về

triết lý. Nên hầu nhƣ không có họa sĩ nổi tiếng nào vẽ tranh có yếu tố siêu

thực một cách chủ động.

Triển lảm Mĩ thuật toàn quốc năm 1976 khi tác phẩm Cô gái và con

chó trắng của họa sĩ Lê Huy Tiếp xuất hiện, công chúng và giới mĩ thuật

56

trong nƣớc còn thấy sự xa lạ về tƣ tƣởng sáng tác và yếu tố siêu thực trong

bức họa phẩm này. Chỉ vài ngày sau khi khai mạc, bức tranh bị hạ xuống.

Chứng tỏ tranh có yếu tố siêu thực còn quá mới , quá xa lạ để đƣợc chấp nhận

vì nó chƣa có trong quan niệm thẩm mĩ của nhiều ngƣời. Về sau lịch sử đã gỡ

lại danh dự cho họa sĩ và chứng minh đó là một tác phẩm hội họa có giá trị

nghệ thuật cao và đƣợc giới thiệu rộng rãi trƣớc công chúng, đƣợc in sách,

báo để nhiều ngƣời có cơ hội đƣợc thƣởng thức. Đó là một bức họa hiếm hoi

đánh dấu cho sự bắt đầu của những phong cách nghệ thuật mà trong đó có sử

dụng yếu tố siêu thực lòng ghép vào những yếu tố hội họa khác.

Nhƣ vậy Lê Huy Tiếp đƣợc xem là họa sĩ đầu tiên của Việt Nam đƣa

các yếu tố siêu thực vào trong tranh một cách chủ động và ông đã thành công

trong nhiều tác phẩm hội họa. Sau đó không lâu các họa sĩ Nguyễn Trung Tín

và Nguyễn Đình Đăng cũng xem yếu tố siêu thực nhƣ một phần quan trọng

trong tranh họ để đi đến sự thành công. Cả Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín

và Nguyễn Đình Đăng xứng đáng đƣợc tôn vinh là những ngƣời đầu tiên đƣa

yếu tố siêu thực vào trong tranh, bổ sung sự phong phú về ngôn ngữ biểu đạt

của hội họa, một sự đống góp mang tính mới cho hội họa Việt Nam lúc ấy.

Nhiều sáng tác của các họa sĩ đã đƣợc lƣu giữ và trƣng bày ở các bảo

tàng trong và ngoài nƣớc. Yếu tố siêu thực biểu hiện trong tranh họ là những

nét riêng của hội họa Việt Nam mà mọi ngƣời đều có thể đƣợc chiêm ngƣỡng.

Hơn thế nữa, hình ảnh của hội họa Việt Nam vƣợt ra ngoài biên giới theo họa

sĩ, hay theo các nhà sƣu tập tranh quốc tế là sự quảng bá cho hội họa Việt

Nam ra thế giới.

Trong ba họa sĩ thì Nguyễn Đình Đăng là ngƣời có điều kiện hơn cả để

đƣa hội họa có yếu tố siêu thực của Việt Nam ra nƣớc ngoài giới thiệu. Vì

ông có điều kiện làm việc và sáng tác ở Nhật Bản lâu dài, một đất nƣớc có

nền nghệ thuật phát triển cao. Hơn cả mong đợi, họa sĩ đã sớm chứng minh tài

năng của mình thông qua hội họa có yếu tố siêu thực tại nƣớc bạn. Ông cũng

57

là ngƣời Việt Nam và là ngƣời nƣớc ngoài đầu tiên trở thành hội viên Hội chủ

thể Nhật Bản, đƣợc công chúng mến mộ, đƣợc hội đồng nghệ thuật tin tƣởng

trao tặng những giải thƣởng quý giá. Sự thành công của họa sĩ Nguyễn Đình

Đăng tại Nhật Bản với hội họa có nhiều yếu tố siêu thực, là một điểm sáng

của hội họa Việt Nam ở nƣớc ngoài.

Trong nghệ thuật nói chung và trong hội họa nói riêng, ngƣời nghệ sĩ

luôn luôn tìm kiếm, sáng tạo ra những hình thức tạo hình mới không ngoài

mục đích thỏa mãn mình trong việc thể hiện những cảm xúc nghệ thuật, nhằm

đem lại cho công chúng những tác phẩm nghệ thuật ngày càng hoàn mĩ và

truyền đạt tốt nhất những thông điệp của mình qua đó. Việc đƣa hội họa có

yếu tố siêu sực vào trong tranh và thành công trong nhiều tác phẩm, các họa sĩ

Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng đã gợi ra một hƣớng

mở để các thế hệ sau có thể tham khảo. Bởi thế giới của hội họa có yếu tố siêu

thực là rất rộng lớn, bao gồm cả hiện thực, siêu thực, thậm chí có thể kết hợp

nhiều khuynh hƣớng và trƣờng phái nghệ thuật khác nhau trong một tác

phẩm, miễn sao có thể làm thỏa mãn những cảm xúc của ngƣời sáng tác và

đạt đƣợc mục đích nghệ thuật.

Tiểu kết

Nội dung chƣơng ba là những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài, đó

là đã chỉ ra sự thành công về yếu tố siêu thực biểu hiện trọng tranh Lê Huy

Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng và những đóng góp tích cực

của họ về yếu tố siêu thực cho nền hội họa Việt Nam.

Việc đƣa vào hội họa của mình các yếu tố Siêu thực, cả ba họa sĩ Lê

Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng đã gặt hái đƣợc những

thành công nhất định về nghệ thuật trong nhiều tác phẩm hội họa cả về mặt

tạo hình cũng nhƣ nội dung truyền tải. Gía trị của yếu tố siêu thực trong tranh

họ là kết quả của sự tìm tòi, sáng tạo trong mỗi tác phẩm, góp phần làm

58

phong phú thêm cho hội họa Việt Nam và mở ra những gợi ý cho thế hệ tiếp

theo về các hƣớng tìm tòi mới.

Tóm lại nội dung chƣơng ba là những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề

tài, chỉ ra sự thành công và những đóng góp về biểu hiện của yếu tố siêu thực

trong tranh cho hội họa Viêt Nam của các họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung

Tín và Nguyễn Đình Đăng thông qua các tác phẩm hội họa.

59

KẾT LUẬN

Để đi đến kết luận, luận văn đã đi qua ba chƣơng chính và giải quyết

từng phần dựa trên cơ sở các tài liệu tham khảo có uy tín để làm căn cứ khoa

học, nhằm chỉ ra sự biểu hiện của yếu tố siêu thực trong tranh Lê Huy Tiếp,

Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng. Luận văn cũng đã đi vào so sánh

với mục đích tìm ra sự tƣơng đồng và khác biệt về yếu tố siêu thực trong

tranh giữa ba họa sĩ. Cuối cùng là việc chỉ ra sự thành công và những đóng

góp về yếu tố siêu thực trong tranh giữa ba tác giả cho hội họa Việt Nam.

Nội dung chính của luận văn đã đi vào nghiên cứu biểu hiện của yếu tố

siêu thực trong tranh Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng,

qua sự phi lý, sự không tƣơng hợp và sự hƣ cấu hình thể. Yếu tố siêu thực

trong tranh họ là những vật thể của thế giới thực tại đƣợc nghệ thuật siêu thực

hóa thành những ẩn dụ. Đó là sự kết hợp giữa tâm hồn ngƣời nghệ sĩ, bao

gồm cả tiềm thức với thực tại cuộc sống bên ngoài. Tất cả thống nhất với

nhau trong một chỉnh thể có bố cục hoàn thiện, đƣợc xây dựng theo ý đồ của

tác giả nhằm mục đích truyền tải những thông điệp của họa sĩ.

Với Lê Huy Tiếp, tranh ông thƣờng thể hiện một không gian rất thực,

với các vật thể đƣợc diễn tả kỹ càng, tỉ mỉ, đôi khi đạt đến độ cực thực. Trong

cái hiện thực đó, thỉnh thoảng họa sĩ lại thay đổi cấu trúc không gian một vài

vật thể, làm cho chúng trở nên siêu thực bởi sự phi lí, sự không tƣơng hợp

trong tranh. Hội họa có yếu tố siêu thực của Lê Huy Tiếp là sự biểu hiện

những cảm nhận về nỗi ám ảnh của sự sống và cái chết, sự cô đơn, sự uẩn

khúc trong cuộc sống, hay sự nhỏ bé, đơn độc của con ngƣời trong thế giới

bao la.

Còn Nguyễn Trung Tín, ông là một họa sĩ say sƣa thể hiện cái đẹp của

con ngƣời, cái đẹp của cuộc sống xung quanh vào tác phẩm. Nhƣng ông

không vẽ chúng nhƣ vốn có, mà thiết lập lại trong một cấu trúc không gian

60

nghệ thuật mới, giàu tính trang trí và thẩm mĩ hơn. Yếu tố siêu thực đƣợc biểu

hiện qua sự sắp xếp đan xen giữa con ngƣời, vật thể và những mảng không

gian khác nhau, nhiều khi gây ra sự phi lí, sự không tƣơng hợp trong nhiều tác

phẩm.

Yếu tố siêu thực biểu hiện trong tranh Nguyễn Đình Đăng đƣợc thể

hiện theo sự mô phỏng những liên tƣởng phong phú của họa sĩ. Nhiều thủ

pháp nghệ thuật của hội họa siêu thực đƣợc ông khai thác để phóng to, thu

nhỏ các vật thể, hay thay đổi cấu trúc hình thể trong không gian một cách phi

lí, tao ra sự kỳ dị, sự không tƣởng, hay sự đối lập giữa các vật thể trong tranh.

Với cách tạo hình đó Nguyễn Đình Đăng đã cho ra đời nhiều tác phẩm hội

họa mang hình thù giống nhƣ hội họa siêu thực nhƣng ẩn chứa nhiều tƣ tƣởng

đƣợc họa sĩ đƣa vào.

Cả Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng đã gặt hái

đƣợc những thành công lớn bằng hội họa có yếu tố siêu thực với nhiều tác

phẩm xuất sắc, góp phần làm phong phú thêm cho hội họa Việt Nam.

Các họa sĩ Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng, đã

thừa hƣởng một phần những thành tựu của hội họa siêu thực để phát triển

nghề nghiệp và họ đã thành công. Đó là một bài học vô cùng quý giá cho

ngƣời viết về sự kế thừa và phát triển trong sáng tác nghệ thuật. Việc đƣa yếu

tố siêu thực vào trong tranh là một gợi ý rất bổ ích trong việc mở rộng ngôn

ngữ tạo hình. Nó giúp họa sĩ có thể đạt tới sự tự do cả về tƣ tƣởng thẩm mĩ

lẫn hình thức sáng tác, góp phần làm phong phú hơn về ngôn ngữ hội họa

trong tác phẩm.

Cả Lê Huy Tiếp, Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Đình Đăng, vẫn đang

bƣớc tiếp trên con đƣờng nghệ thuật. Họ vẫn đang miệt mài sáng tác và

truyền đạt lại nhiều kinh nghiệm quý giá cho những thế hệ đi sau. Chúng ta

hãy đón chờ những thành công tiếp theo của họ.

61

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt

1. Lê Năng An, (1998), Những trào lưu lớn của nghệ thuật tạo hình hiện

đại, (Biên dịch). NXB Văn hóa thông tin.

2. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, (2010), Triển lãm Mỹ thuật Toàn

quốc 2006 – 2010, Cục xuất bản bộ Thông tin và Truyền thông.

3. Pham Thị Chỉnh, (2005), Lịch sử Mĩ thuật thế giới. NXB Đại học sƣ

phạm.

4. Trần Khánh Chƣơng (chủ biên), (2013), Hôi Mỹ thuật Việt Nam, Mĩ

thuật Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh. NXB Mỹ Thuật.

5. Trần Khánh Chƣơng (chủ biên), (2013), Hôi Mỹ thuật Việt Nam, Mĩ

thuật Bắc miền Trung. NXB Mỹ Thuật.

6. Nguyễn Thị Bích Hằng, (2012), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa

thông tin.

7. Hoàng Thu Hằng, (2016), Hình tượng người trong tranh Siêu thực của

Salvador Daly, René Magritte và Paul Delvaux. Luận văn thạc sĩ Mỹ

thuật, Trƣờng Đại học Mĩ thuật Việt Nam.

8. Nguyễn Phi Hoanh, (1997), Mĩ thuật và nghệ sĩ, NXB TP Hồ Chí Minh

9. Hoàng Mạnh Hùng, (2007), Yếu tố Siêu thực trong Mỹ thuật truyền

thống Việt Nam. Khóa luận tốt nghiệp. Trƣờng Đại học Mĩ thuật Việt

Nam.

10. Sister Wendy Becket, Phạm Khải (dịnh), (2013), Câu chuyên nghệ

thuật, NXB Mĩ thuật

11. Lê Thanh Lộc, (1998), Từ Điển Mỹ thuật. NXB Văn hóa thông tin

12. Lê Thanh Lộc, (2009), Các phong trào hội họa. NXB Thông tin.

13. Michael Levey, (2008), Lịch sử nghệ thuật Phương Tây. NXB Mỹ

Thuât.

62

14. Mỹ thuật Nghệ An thế kỉ XX . NXB Nghệ An

15. Đặng Thị Bích Ngân, (2012), Từ điển Mỹ thuật phổ thông . NXB Mỹ

thuật.

16. Văn Ngọc (2004), Đi trong thế giới hội họa, NXB Trẻ

17. Nguyễn Phúc, (1978), Những khuynh hướng chủ yếu của Hội họa Tư

sản hiện đại. NXB văn hóa Hà Nội.

18. Phạm Minh Thảo và Nguyễn Kim Loan (2001), Lịch sử hội họa thế kỉ

XX, NXB Văn hóa thông tin.

19. Chu Phƣơng Thảo, (2012), Hội họa Siêu thực từ góc nhìn phân tâm

học của Freud. Khóa luận tốt nghiệp, Trƣờng Đại học Mĩ thuật Việt

Nam

20. Nguyễn Trân (1993), Giáo trình lịch sử Mỹ thuật Thế giới. NXB Mỹ

thuật Hà Nội.

21. Thái Bá Vân, (1997), Tiếp xúc với nghệ thuật. NXB Viện Mỹ thuật

Việt Nam.

22. Vietlex, trung tâm từ điển học, Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng.

Tài liệu Internet

23. https://nguyendinhdang.wordpress.com/2016/01/23/tan-sieu-thuc-o-

nam-a-cuoc-doi-va-tac-pham-cua-nguyen-dinh-dang-ii/comment-page-

1/#comment-9382

24. https://nguyendinhdang.wordpress.com/2013/01/06/hieu-hoi-hoa-sieu-

thuc-the-nao-cho-dung/

25. André Breton (2 và 3/11/2004) “ Tuyên ngôn thứ nhất của Chủ nghĩa

Siêu thực” Phùng Kiên dịch, Phƣơng ngọc hiệu dịch, Nguồn:

http://www.even.com.vn/News/phebinh/lyluan/2014/11/3B9AD460/

26. http://tailieu.vn/doc/hoa-si-nguyen-dinh-dang-257446.html

27. https://vi.wikipedia.org/wiki/Chủ_nghĩa_siêu_thực

28. http://thoavan4.blogspot.com/2010/09/hoa-si-nguyen-trung-tin.html

63

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

TRẦN ĐÌNH HÙNG

YẾU TỐ SIÊU THỰC TRONG TRANH LÊ HUY TIẾP,

NGUYỄN TRUNG TÍN VÀ NGUYỄN ĐÌNH ĐĂNG

PHỤ LỤC ẢNH MINH HỌA

Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (hội họa)

Mã số: 60210102

GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN

PGS. TS. NGUYỄN NGHĨA PHƢƠNG

HÀ NỘI – 2017

Khóa: 18 (2015 – 2017)

64

PHỤ LỤC ẢNH MINH HỌA

Phụ lục 1. Yếu tố siêu thực biểu hiện trong tranh Lê Huy Tiếp……………65

Phụ lục 2. Yếu tố siêu thực biểu hiện trong tranh Nguyễn Trung Tín…….72

Phụ lục 3. Yếu tố siêu thực biểu hiện trong tranh Nguyễn Đình Đăng……79

65

PHỤ LỤC 1

1.1. Lê Huy Tiếp, Cô gái Và con chó trắng, 1975, Sơn dầu.

Nguồn: Lê Huy Tiếp

YẾU TỐ SIÊU THỰC TRONG TRANH LÊ HUY TIẾP

66

1.2. Huy Huy Tiếp, Sáng tác, 1978, Sơn dầu.

Nguồn: Lê Huy Tiếp

67

1.3. Lê Huy Tiếp, Chiến tranh,1986, sơn dầu.

Nguồn: Lê Huy Tiếp

1.4. Lê Huy Tiếp, Hòa bình, 1986, sơn dầu.

Nguồn: Lê Huy Tiếp

68

1.5. Lê Huy Tiếp, Cái bàn của người trực ca, 1987, sơn dầu.

Nguồn: Lê Huy Tiếp

69

1.6. Lê Huy Tiếp, Cái áo của người họa sĩ, sơn dầu. Nguồn: Lê Huy Tiếp

1.7. Lê Huy Tiếp, Cơn bão đi qua, 2007, sơn dầu. Nguồn: Lê Huy Tiếp

70

1.8. Lê Huy Tiếp, Kỷ vật, 2009, sơn dầu. Nguồn: Lê Huy Tiếp

1.9. Lê Huy Tiếp, Kỷ vật 2, 2015, sơn dầu. Nguồn: Lê Huy Tiếp

71

1.10. Lê Huy Tiếp, Tàu lớn Bản giao hưởng pha lê 6, 2013, sơn dầu. Nguồn: Lê Huy Tiếp

72

PHỤ LỤC 2

2.1. Nguyễn Trung Tín, Buổi chiều, sơn dầu. Nguồn: Tập vựng TLMT Toàn quốc 2010.

YẾU TỐ SIÊU THỰC TRONG TRANH NGUYỄN TRUNG TÍN

73

2.2. Nguyễn Trung Tín, Hà Nội 1972, sơn dầu. Nguồn: Tập vựng TLMT Mở cửa 2016.

2.3. Nguyễn Trung Tín, Sống ở côn đảo, sơn dầu. Nguồn: [28]

74

2.4 Nguyễn Trung Tín, Bên một chiến tích, sơn dầu. Nguồn: Tập vựng TLMT Toàn quốc 2000

75

2.5. Nguyễn Trung Tín, Môt cửa sổ nhìn ra phố cổ. Nguồn: [28]

76

2.6. Nguyễn Trung Tín, Nhảy dây, sơn dầu. Nguồn: [4]

2.7. Nguyễn Trung Tín, Ban công và sen, sơn dầu. Nguồn: [28]

77

2.8. Nguyễn Trung Tín, Ban công 2, sơn dầu. Nguồn: [28]

78

2.9. Nguyễn Trung Tín, Tiếng vọng của biển, sơn dầu. Nguồn: Tập vựng TLMT Việt Nam 2015

2.10. Nguyễn Trung Tín, Chân dung trong mưa, sơn dầu. Nguồn: [28]

79

PHỤ LỤC 3

3.1. Nguyễn Đình Đăng, Tiếng kèn thứ 5, 1990, sơn dầu. Nguồn: [23]

YẾU TỐ SIÊU THỰC TRONG TRANH NGUYỄN ĐÌNH ĐĂNG

80

3.2. Nguyễn Đình Đăng, Tam vị nhất thể, 1996, sơn dầu. Nguồn: [23]

81

3.3. Nguyên Đình Đăng. Nàng Âu cơ mới, 1996, sơn dầu. Nguồn: [23]

82

3.4. Nguyễn Đình Đăng, Kỵ sĩ đen, 1997, sơn dầu. Nguồn: [23]

3.5. Nguyễn Đình Đăng, Những hồi chuông thủy tinh, 1996, sơn dầu. Nguồn: [23]

83

3.6. Nguyễn Đình Đăng, Con voi tàng hình, 1999, sơn dầu. Nguồn: [23]

3.7. Nguyễn Đình Đăng, Phù Đổng Thiên Vương, 2002, sơn dầu. Nguồn: [23]

84

3.8. Nguyễn Đình Đăng, Lối ra, 2007, sơn dầu. Nguồn: [23]

3.9. Nguyễn Đình Đăng, Truyền thuyết ngọc trai, 2000, Sơn dầu. Nguồn: [23]

85

3.10. Nguyễn Đình Đăng, Những con châu chấu khổng lồ bị lảng quên, 2010, sơn dầu. Nguồn: [23]

3.11. Nguyễn Đình Đăng, Phản ánh, 2012. Nguồn: [23]

86

3.12. Nguyễn Đình Đăng, Ảo giác sau lễ hội 2013, sơn dầu. Nguồn: [23]

87