
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
59
HỢP TÁC CỦA CÁC BÊN LIÊN QUAN DU LỊCH– NGHIÊN CỨU KHÁM PHÁ Ở ĐIỂM
ĐẾN ĐÀ NẴNG
TOURISM STAKEHOLDER COLLABORATION– EXPLORE RESEARCH IN DANANG
DESTINATION
TS. Nguyễn Thị Bích Thủy
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
thuyntb@due.edu.vn
ThS. Võ Lê Xuân Sang
Trường Đại học Tài chính Kế toán Quảng Ngãi
volexuansang@tckt.edu.vn
TÓM TẮT
Điểm đến được coi là một sản phẩm du lịch tổng thể, được cung cấp bởi nhiều bên liên quan nên cần thiết có sư liên kểt
hợp tác giữa các bên liên quan nhằm đưa lại giá trị cho sự trải nghiệm, thỏa mãn cao cho du khách và đảm bảo sự phát
triển bền vững của ngành du lịch. Bằng cách sử dụng nghiên cứu định tính với phỏng vấn chuyên sâu, bài viết này đã
khám phá nhận thức về sự cần thiết phải hợp tác của các bên liên quan du lịch trong hoạt động kinh doanh, quản lý và
tiếp thị điểm đến và bản chất sự hợp tác giữa chúng ở Đà Nẵng.
Từ khóa: Du lịch; các bên liên quan; hợp tác; nghiên cứu định tính; Đà Nẵng
ABSTRACT
Destination is an overall tourist product, offered by many stakeholders should be necessary to link cooperation between
stakeholders to provide value to the experience, highly satisfied guests and ensure the sustainable development of the
tourism industry. By using qualitative research with in-depth interviews, this article has explored awareness of the need
for cooperation among tourism stakeholders in business, destination management and marketing and nature that
partnership is between them in Danang.
Key Words: Tourism; stakeholders;collaboration; qualitative research;Danang
1. Giới thiệu
Du lịch ngày càng được thừa nhận là một lĩnh vực rất phức tạp bao gồm các bên liên quan và sự
kết nối giữa họ. Do đó, mỗi điểm đến đòi hỏi việc lập kế hoạch và thiết kế phát triển du lịch tốt hơn
(Gunn, 1994). Sự hợp tác tồn tại đồng thời với cạnh tranh giữa các tổ chức kinh doanh du lịch là yếu tố
tạo nên thành công va phat triên bên vưng của mô
t điểm đến du li
ch. Sự phát triển bền vững một điểm
đến du lịch còn liên quan rất quan trọng về sự tham gia hữu hiệu của các tổ chức quản lý thuộc chính
quyền Nhà nước trong việc quản lý và tiếp thị điểm đến (Presenza và Cipollina, 2008; Rodolfo Baggio,
2008). Hợp tác giữa các bên liên quan được xác định là có lợi cho tất cả các nhà cung cấp sản phẩm du
lịch để tạo ra những sáng kiến tiếp thị kinh doanh (Hwang va ctg, 2002), chia sẻ kiến thức, nguôn lưc
(Telfer 2001), phát triển sản phẩm mới, giảm chi phí xúc tiến, quảng bá, cũng như thúc đẩy và góp
phần phát triển các điểm đến du li
ch (Tinsley và Lynch, 2001). Nghiên cứu để hiểu rõ sự hợp tác trong
mạng lưới du lịch của một điểm đến là chủ đề ngày càng được quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và
các nhà quản lý thực tiễn trong lĩnh vực du lịch. Hợp tác giữa các bên liên quan của du lịch trong việc
quản lý điểm đến du lịch bền vững là thách thức và không dễ thực hiện vì sự phức tạp của sự tương tác
giữa họ. Do đó, những thách thức và phức tạp của sự hợp tác du lịch cần được xem xét trong lý thuyết
và thực hành.

HỘI THẢO KHOA HỌC QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH – COMB 2016
60
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội, du lịch Việt Nam nói
chung và Đà Nẵng nói riêng đang có những bước phát triển mạnh, ngày càng có những đóng góp lớn
hơn cho nền kinh tế. Sự phát triển du lịch góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam
thân thiện, mến khách,thay đổi diện mạo đô thị và nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm cho các tầng lớp
dân cư trong xã hội. Ở đâu phát triển du lịch, ở đó đời sống của cộng đồng dân cư được cải thiện, trình
độ dân trí được nâng cao, góp phần quan trọng vào xóa đói giảm nghèo, cải thiện cuộc sống của nhân
dânTrong những năm gần đây, Đà Nẵng liên tiếp được nhiều tổ chức du lịch quốc tế có uy tín bình
chọn là điểm đến hấp dẫn. Nhiều sản phẩm của thành phố đã đạt những giải thưởng lớn như Khu nghỉ
dưỡng 5 sao Inter Continental Danang Sun Peninsula Resort đã đạt giải khu nghỉ dưỡng sang trọng
nhất châu Á 2014 do Word Travel Awards trao giải thưởng. Tạp chí Smart travel Asia bình chọn Đà
Nẵng là top 10 điểm đến hấp dẫn của châu Á năm 2014. Và lọt top 10 điểm đến mới nổi trên thế giới
năm 2015 theo kết quả bình chọn trên trang thông tin điện tử du lịch uy tín TripAdvisor. Năm 2015
tiếp tục được đánh giá là năm thành công của du lịch Đà Nẵng. Trong bối cảnh nguồn khách bị chững
lại trên phạm vi toàn quốc thì Đà Nẵng vẫn có sự tăng trưởng mạnh, chứng tỏ sự hấp dẫn của điểm
đến, sự chung tay góp sức của các cơ quan quản lý Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp. Năm 2015,
tổng thu của toàn ngành du lịch ước đạt 12.700 tỷ đồng, tăng 28,7% so với năm 2014, ước bằng
107,6% kế hoạch (baodanang.vn, 2015).
Bên cạnh những thành công, ngành du lịch Đà Nẵng vẫn còn những khó khăn, tồn tại như tình
trạng cò mồi, ép khách sử dụng dịch vụ; thiếu các chương trình biểu diễn nghệ thuật quy mô lớn, đặc
sắc, định kỳ phục vụ khách du lịch; khả năng đầu tư, tôn tạo, di tích chưa đáp ứng nhu cầu thực tế; sản
phẩm du lịch đa dạng nhưng chưa có điểm nhấn, chưa thực sự hấp dẫn khách quốc tế; công tác quảng
bá xúc tiến du lịch Đà Nẵng ra thị trường quốc tế còn hạn chế; nguồn nhân lực du lịch chưa đáp ứng
kịp nhu cầu phát triển của ngành (baodanang.vn, 2015). Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến hạn chế
này là do ngành du lịch Đà Nẵng thiếu sự gắn kết giữa doanh nghiệp với nhau và giữa các doanh
nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước về du lịch (vietnamtourism.vn, 2015)
Mục tiêu chung của Đà Nẵng là đẩy mạnh phát triển du lịch trên cơ sở tiếp tục triển khai Đề án
Phát triển dịch vụ thành phố đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; triển khai Chương trình Phát triển
du lịch 2016-2020; xây dựng Đà Nẵng trở thành trung tâm đón tiếp và phân phối khách khu vực miền
Trung-Tây nguyên. Năm 2016 ngành du lịch phấn đấu tổng khách du lịch đến thành phố đạt 5.140.000
lượt, tăng 16% so với năm 2015, trong đó 1.320.000 lượt khách quốc tế, 3.820.000 lượt khách nội địa,
tổng thu du lịch đạt 14.000 tỷ đồng, tăng 16,5% so với năm 2015.
Để du lịch Đà Nẵng tiếp tục phát triển và phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của thành phố thì không thể là trách nhiệm của một vài cá nhân đơn lẻ mà đòi hỏi
phải có sự hợp tác tích cực, chịu trách nhiệm của nhiều bên liên quan, trước hết bên liên quan trong
lĩnh vực du lịch. Vì thế, mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích một số nội dung lý thuyết về hợp tác
giữa các bên liên quan du lịch trong quản lý và tiếp thị cho điểm đến và ứng dụng đối với trường hợp
điểm đến Đà Nẵng nhằm đưa ra các định hướng giải pháp nhằm tăng cường sự hợp tác để nâng cao
năng lực cạnh tranh cho điểm đến này trong tương lai, thúc đẩy mạng lưới du lịch hoạt động với hiệu
quả tối ưu, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, giá trị trải nghiệm cho du khách đến Đà Nẵng, xây
dựng Đa Năng thanh một điểm đến phát triển bền vững và thu hút ngày càng nhiều du khách trong và
ngoài nước. Cụ thể, nghiên cứu này sẽ tập trung vào trả lời các câu hỏi sau:
(1) Các bên liên quan nhận thức như thế nào về vai trò hợp tác trong quản lý và tiếp thị điểm đến
của họ cho sự phát triển bền vững du lịch?

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
61
(2) Bản chất sự hợp tác giữa các bên liên quan du lịch: cac loại hoa
t đô
ng quản lý và tiếp thị
điểm đến được thực hiện bởi sự hợp tác, ly do hơp tac, nhưng kho khăn gă
p phai trong qua trinh hơp
tac là như thế nào va khu vưc thương đươc ưa thich cho
n lưa hơn khi hơp tac?
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Các bên liên quan du li
ch của điêm đên
Sự tham gia của nhiều bên hữu quan trong điểm đến là thiết yếu cho sự phát triển du lịch (Sautter
& Leisen, 1999). Nhiều nhà nghiên cứu đã thảo luận về sự tham gia của các bên liên quan đó trong
mỗi giai đoạn phát triển của điểm đến. Aas, Ladkin & Fletcher (2005) định nghĩa các bên liên quan du
lịch là bất kỳ cá nhân hoặc nhóm tác động đến du lịch hoặc bị ảnh hưởng bởi du lịch, theo hướng tích
cực hay tiêu cực. Quan tâm đến tính phức tạp của ngành công nghiệp du lịch, Morrison (2004) cho
rằng nhiều tác nhân bị ảnh hưởng bởi các hoạt động du lịch trong một điểm đến và có rất nhiều trong
số họ tham gia vào sự phát triển của điểm đến. Do đó, các nhà quy hoạch du lịch phải nhận thấy được
các khía cạnh của tất cả các bên liên quan, những người có lợi ích trong việc lập kế hoạch và kết quả
của dịch vụ du lịch (Sautter & Leisen, 1999). Theo Buhalis (2000), các nhóm du lịch có liên quan được
phân loại như sau: khu vực nhà nước và chính phủ quản lý du lịch, doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực du lịch, khách du lịch và người dân. Gunn (1994) cho rằng tất cả các bên liên quan thuộc về một
trong ba lĩnh vực: kinh doanh du lịch (lữ hành, lưu trú, ăn uống, các điểm tham quan, các nhà khai thác
tour du lịch, đại lý du lịch), khu vực phi lợi nhuận (tình nguyện, điểm tham quan, y tế, nhà thờ), và khu
vực chính phủ (cơ sở hạ tầng, cung cấp nước, xử lý nước thải, cảnh sát, phòng cháy chữa cháy, đường
phố, chiếu sáng, thông tin liên lạc, xúc tiến, tiếp thị, các điểm tham quan của du khách). Ritchie & ctg
(2003) chia cho các bên liên quan ở sáu nhóm chính: khách du lịch, khu vực công cộng, người dân,
doanh nghiệp, tổ chức hỗ trợ, và các nhóm lợi ích khác (về môi trường, văn hóa, giáo dục, y tế và an
toàn). Theo Timur & Getz (2002), các bên liên quan hợp pháp cho phát triển du lịch là ngành kinh
doanh du lịch và chính quyền (ở cấp quốc gia, tỉnh, thành phố). Ngành công nghiệp du li
ch và chính
phủ được coi là các bên liên quan quan trọng nhất, la những người cần phai được tham gia thực hiện
các dự án phat triên du lịch bền vững. Vì thế nghiên cứu này xem xét các bên liên quan tiếp cận theo
quan điểm của Timur & Getz (2002) tức là tập trung vào các các doanh nghiệp của ngành du li
ch và
các cơ quan tổ chức nhà nước về quản lý du lịch của điểm đến.
2.1.2. Sự cần thiết các bên liên quan du lịch hợp tác trong quản lý và tiếp thị điểm đến
Ngành du lịch bao gồm các doanh nghiệp hoa
t đô
ng độc lập, phân tán về mặt địa lý nên việc tạo
ra một sản phẩm toàn diện phụ thuộc vào khả năng hợp tác cua cac bên liên quan (Scott và ctg, 2008).
Để cạnh tranh, hoa
t đô
ng tiếp thị của các điểm đến nên thưc hiê
n việc cộng tác vơi nhau. Nếu thực
hiện riêng rẽ ơ các bên liên quan khác nhau thi hình ảnh của điểm đến sẽ không được toàn diện và
điêm đên sẽ không có thể thành công trong thời gian dài (Wang và Xiang, 2007). Tiếp thị điểm cần
hướng vào hợp tác đê tác động tối đa hóa lợi ích cho các lĩnh vực ơ điêm đên (Buhalis, 2000). Hợp tác
trong trường hợp này được xác định là "một quá trình ra quyết định chia sẻ giữa các bên liên quan chủ
chốt đôi vơi một vấn đề tương lai của hinh anh điêm đên đó" (Wang, 2008). Trong ngành công nghiệp
du lịch điêu này có nghĩa là việc ra quyết định chung giữa các bên liên quan của điểm đến se anh
hương đến viê
c phát triển điêm đên và tiếp thị du lịch (Wang, 2008). Hơp tac trong tiêp thi
điêm đên
cũng được cho là giup kết hợp kiến thức, chuyên môn và nguồn lực vốn có để dẫn đến những cơ hội
mới, giải pháp sáng tạo và một mức độ hiệu quả lớn hơn, điêu đó sẽ không thể đạt được nêu các đối tác

HỘI THẢO KHOA HỌC QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH – COMB 2016
62
hành động một mình (Wang, 2008). Quản lý và tiếp thị du lịch cần phải đảm bảo cân đối, công bằng
trong viê
c sư
du ng cac nguôn lưc cho việc sản xuất và phân phối các sản phẩm du lịch, cũng như sự tái
sinh của các nguồn lực này va cũng cần cung cấp lợi nhuận hợp lý cho tất cả các bên liên quan tham
gia vào hệ thống du lịch. Do đó, tiếp thị cần được sử dụng như một cơ chế chiến lược phối hợp với quy
hoạch và quản lý chứ không phải là một công cụ bán hàng đê đa
t đươc muc tiêu chiên lươc phat triên
bên vưng điêm đên.
2.1.3. Lợi ích về sự hơp ta
c cua ca
c bên liên quan ở điểm đến du lịch
Nhìn từ những góc độ khác nhau, có rất nhiều lợi ích trong ngành công nghiệp du lịch khi các
bên liên quan khác nhau cố gắng hơp tac hành động trong cùng một vấn đề. Nhiêu tác giả khác nhau
đã nghiên cứu về lợi ích tiềm năng của sự hợp tác phát triển du lịch cho rằng sự tham gia của các bên
liên quan khác nhau từ các lĩnh vực khác nhau sẽ tạo cơ hội lớn hơn đối với tiếp cận tích hợp cac chiến
lược phát triển để thúc đẩy du lịch bền vững (Jamal & Getz, 1995). So với nhiều ngành kinh tế khác,
du lịch liên quan nhiều hơn đến phát triển các hợp tác chính thức và không chính thức mạng lưới và
các quan hệ đối tác (Bramwell và Lane, 2000; Copp và Ivy, 2001; Selin, 2000; Saxena, 2005; Tyler và
Dinan, 2001). Môi trường cạnh tranh du lịch trên toàn cầu thách thức các điêm du lịch buộc phải tìm
kiếm giải pháp để tồn tại và phat triên bền vững. Swarbrooke (1999) cho rằng các bên liên quan về du
lịch nên làm việc với nhau nếu họ muốn phát triển một hình thức bền vững hơn cho điểm đến du lịch.
Sự hợp tác bền vững giữa các bên liên quan khác nhau đã được chứng minh là để góp phần xây dựng
một thương hiệu điểm đến (Brooker & Burgess, 2008). Năng lực cạnh tranh của điểm đến dựa trên
những nỗ lực của tất cả các bên liên quan góp phần vào việc tạo ra trải nghiệm tổng thể của khách du
lịch. Hơn nữa, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các tô chư
c hoa
t đô
ng du li
ch, về doanh số bán hàng, nhà
cung cấp, thông tin, khả năng phát triển và tiếp cận với các công ty khác sẽ tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp du lịch quy mô vừa và nhỏ có cơ hội để giảm thiểu bất lợi do qui mô hạn chế của họ
(Bieger, 2004). Họ có thể giải quyết các vấn đề về tính kinh tế của quy mô và phạm vi, từ đó tích cực
tập trung vào việc tạo ra và duy trì khả năng cạnh tranh (Lemmetyinen và Go, 2009). Khi các nguồn
lực quan trọng đối với doanh nghiệp thường là tài sản vật chất va kiến thức chuyên môn (chính là tài
sản vô hình), thi viê
c tổ chức và tận dụng hiệu quả các mối quan hệ trong ma
ng lươi se tạo thêm giá trị
đáng kể cho các doanh nghiệp du lịch.
Mặt khác, Palmer (1996) tin rằng sự hợp tác giữa khu vực công và tư nhân có thể ta
o điêu kiê
n
trong việc đạt được các mục tiêu xã hội của cộng đồng, và thúc đẩy sư phat triên cua khu vực địa
phương. Khi nhiều bên liên quan tham gia sẽ thúc đẩy sự chấp nhận cac quy hoạch và chính sách xã
hội tại điểm đến (Bramwell & Lane, 2000). Những bên liên quan được tham gia vào các quyết định
chính sách đưa ra, thúc đẩy quá trình hợp tác một cách dân chủ. Hơn nữa, nó sẽ dẫn đến nâng cao cac
năng lực và kỹ năng mới, thuc đây thành tựu hơp tac giữa các thành viên và các bên đại diện cho họ
(Benveniste, 1989; Roberts & Bradley, 1991). Găn kêt hợp tác sẽ đưa ra các chính sách phat triên được
chấp nhận nhiều hơn trong các kết quả thưc hiê
n. Mizrahi (1999) tin rằng sự hợp tác se ta
o ra quyền
lực và nguồn lực lớn hơn đê tiếp cận với các bên liên quan khac. Hợp tác chặt chẽ trong quá trình phát
triển du lịch giữa các nhóm lợi ích khác nhau dê dẫn đến viê
c phân phối bình đẳng hơn những lợi ích
thu được và chi phí. Đồng thời, sự hợp tác có thể nâng cao lợi ích phi kinh tế, tài nguyên thiên nhiên,
xây dựng và con người có thể được duy trì cho các thế hệ hiện tại và tương lai. Cộng tác có thể giúp
giam chi phí dài hạn, tránh mâu thuẫn đối nghịch (Bramwell & Lane, 2000). Các mối quan hệ giưa cac
tổ chức có thể được thiết lập cho một số mục đích như xuc tiên hoặc các kiểm tra khu vực chung co sư
quan tâm hoặc thậm chí để phân xử tại các khu vực co tranh chấp (Lovelock, 2001). Cho đến gần đây,

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
63
các học giả kiểm tra các lợi thế cạnh tranh của các tô chư
c đã tập trung vào cac nguôn lưc bên trong.
Tuy nhiên, cac ly thuyêt mạng lươi dưa trên lợi thế cạnh tranh nhấn mạnh tầm quan trọng của nguồn
lực bên ngoài có sẵn cho các công ty thông qua các mối liên kêt của nó (McEvily & Marcus, 2005).
Quan điểm chiến lược mạng lươi khăng đi
nh rằng gắn kết của các doanh nghiệp trong mạng lưới co
các mối quan hệ bên ngoài với các tổ chức khác nắm giữ ý nghĩa quan trọng đối với hiệu suất hoa
t
đô
ng cua tô chư
c (Gulati, Nohria, & Zaheer, 2000).
2.1.4. Những kho khăn khi liên kêt hơp ta
c của các bên liên quan
Thách thức chính đối với các nhà quản lý du lịch hiện đại là làm thế nào để đồng bộ giữa: lợi
ích và yêu cầu tài nguyên về nguồn lực cạnh tranh của các nhóm liên quan khác nhau thông qua cơ cấu
quản lý hiệu quả các mối quan hệ liên tổ chức. Thành công của điểm đến chỉ đạt được khi các bên liên
quan như thế nào kết nối với nhau; cách họ hành động và tương tác với nhau như thế nào để đạt hiệu
quả cao nhất (Wilkinson, 2008). Mặc dầu sự hợp tác đưa lại lợi ích to lớn cho các bên liên quan và
tổng thể điểm đến du lịch nhưng thực tế vẫn còn tồn tại khá nhiều khó khăn gây nên cản trở và làm
giảm hiệu quả trong hợp tác.
Gray (1989) đã lưu ý một số nguyên nhân có thể dẫn đến việc hợp tác không thành công, đó là:
- Xung đột thường xuyên phát sinh trong quá trình hợp tác, thường bắt nguồn từ: sự khác biệt về
ý thức hệ; suy nghĩ nhận định của mỗi tổ chức, giữa lợi ích cá nhân so với lợi ích chung; xung đột
trong chiến lược quản lý.
- Một trong các bên liên quan có quyền lực, chiếm ưu thế vượt trội thực hiện các hành động đơn
phương mà không có sự đồng ý thỏa thuận giữa các bên liên quan khác.
- Những vấn đề về quy định, tính hợp pháp của các cam kết, hợp đồng không được tuân thủ
nghiêm ngặt trong quá trình hợp tác.
Ngoài ra, một số vấn đề phát sinh ảnh hưởng đến hợp tác trong quản lý và tiếp thị điểm đến: mâu
thuẫn giữa lợi ích ngắn hạn so với tầm nhìn dài hạn của các tổ chức; mâu thuẫn trong hợp tác và cạnh
tranh giữa các tổ chức là đối thủ cạnh tranh; xung đột trong vai trò, vị trí quản lý và sự phân chia
quyền lực tham gia quản trị trong các dự án hợp tác của các bên liên quan. Các bên liên quan có quyền
lực ít hơn có thể bi
loại trừ khỏi quá trình làm việc với nhau, hoặc có thể tham gia với tầm ảnh hưởng
quyền lực ít hơn trong quá trình hơp tac (Bramwell & Lane, 2000). Mặt khác, các đại biểu co quyên
lưc mạnh mẽ có thể tạo nhóm gồm tâ
p hơp những người co quyên lưc tương tự như họ (Bramwell,
2004), va sẽ bỏ qua những người khác ít sư
c ma
nh hơn.
Một vấn đề khác là sự công bằng trong việc phân chia lợi ích và kết quả hợp tác cho các đối tác
thường chưa được công bằng. Cần phải tiến hành xem xét các yếu tố như: đánh giá vai trò của người
tham gia, mức độ đóng góp, các nguồn lực, sự tham gia liên tục trong suốt quá trình hợp tác để phân
bổ lợi nhuận cho hợp lý giữa các bên tham gia. Sự tham gia và tỷ lệ đồng thuận thống nhất giữa tất cả
các đối tác phải được tăng cường, củng cố trong hợp tác. Sự bất bình đẳng, không công bằng giữa các
đối tác là một trong những lý do cho thất bại của quan hệ đối tác (Jamal và Getz, 1995).
Mặc dù ý tưởng rằng sự hợp tác du lịch đem lại một số lợi ích cho ngành du lịch điểm đến và các
thành viên của nó, tuy nhiên rất nhiều các nguyên nhân cũng đã nêu bật những rào cản để hợp tác hiệu
quả. Như hợp tác du lịch có thể không cần thiết để tổ chức hợp tác quản lý điểm đến vì nó đòi hỏi quá
nhiều đầu tư về thời gian, nguồn lực và tiền bạc để làm việc với nhau thông qua sự hợp tác, điều này
có thể không đúng trong mọi trường hợp (Selin, 2000). Khi vấn đề là đơn giản và tổ chức có thể tự giải
quyết đơn lẻ.